Phân tích hoạt động tài chính Công ty xây dựng xuân hoà (46tr)

Phần I: tìm hiểu cơ sở thực tập đặc điểm tình hình của công ty gốm xây dựng Xuân Hoà 1 - Khái quát quá trình hình thành và phát triển của công ty Tháng10- 1978 theo quyết định số 98/BXĐICLĐ ngay 12-01-1978 ba nhà máy gạch bá hiến, nhà máy gạch Xuân Hoà, nhà máy gạch cầu ty gốm xây dựng Xuân Hoà. tháng 3-1993 theo quyết định thành lập doanh nghiệp Nhà nước số 085A-BXD/TCLĐ của bộ trưởng xây dựng nhà máy gạch Xuân Hoà trở thành thành viên thực thuộc liên hiệp các xí nghiệp thuỷ tinh và gốm xâ

doc54 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1282 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích hoạt động tài chính Công ty xây dựng xuân hoà (46tr), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y dựng Tháng 8-1994 theo quyết định số 481-BXĐ/TCLĐ nhà máy đã đổi tên thành công ty gốm xây dựng Xuân Hoà. Công ty gốm xây dựng Xuân Hoà đã được thành lập lại voà ngày 20/11/1995 theo quyết định số 911-BXĐ/TCLĐ và là thành viên của công ty thuỷ tinh và gốm xây dựng. Trụ sở của công ty nằm trên địa bàn xã Minh Trí, huyện Sóc Sơn, Hà Nội. Năm 1998 do thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước là đẩy mạnh quá trình cổ phần hoá ở các doanh nghiệp nhà nước, phân xưởng cầu xây B trực thuộc công ty đã tách ra thành lập công ty cổ phần cầu xây theo quyết định 197.QD/BXD do bộ trưởng xây dựng ký ngày 29/4/98. Năm 2003 công ty gốm xây dựng Xuân Hoà đã mở thêm nhà máy gạch “COTTO” Bình Dương. hiện nay nhà máy đang trong quá trình đầu tư và xây dựng phát triển . * Các giai đoạn phát triển của công ty Thời kỳ từ năm 1978 đến 1986: sau khi sát nhập được 3 xí nghiệp gạch Xuân Hoà, Bá Hiến, cầu xây nhà máy gạch hoật động trong cơ chế bao cấp, hàng hoá sản xuất và tiêu thụ hàng năm là do bộ xây dựng và liên hiệp các xí nghiệp gạch gói sành sứ xây dựng theo kế hoạch của Nhà nước, riêng đất là loại nguyên vật liệu sẵn có tại công ty và được Nhà nước gioa cho vùng nguyên vật liệu để sản xuất. Trong thời kỳ bao cấp sản phẩm sản xuất thì chue yếu là gạch đặc 220´105´60, ngói 22 viên/m2 và gạch men lát nền 220 ´ 220 ´ 15. Tại phân xưởng Xuân Hoà và phân xưởng cầu xây (A+B) sản phẩm được sản xuất của RUMANI lớn tới công xuất 7 triệu viên /năm tất cả được đốt trên lò đứng thủ công. Nhìn chung toàn bộ các thiết bịvà công nghệ đều rời rạc và lạc hậu, sản phẩm làm ra có chất lượng không tốt. Thời kỳ từ năm 1968 đến 1992: đây là thời kỳ chuyển đổi từ cơ chế bao cấp sang cơ chế thị trường được đánh dấu bằng nghị định 217 của HĐBT về việc giao quyền tự chủ cho giám đốc trước sự phá sản cũng như nguy cơ phá sản hàng loạt doanh nghiệp do sản xuất sản phảm sản xuất ra không có thị trường tiêu thụ. Thật vậy, thấy được sự quan tâm của chỉ đạo kịp thời của Bộ xây dựng, nhà máy gạch Xuân Hoà lúc đó kịp thời đổi mới trong công tác quản lý sản xuất và làm ra những mặt hàng mã xã hội cần, đem lại lợi ích cho nhà máy. Trước muôn vàn khó khăn thử thách nếp nghĩ cách làm của một thời gian dài bao cấp đã ăn sâu vào tư tưởng của cán bộ công nhân viên, lãnh đạo nhà máy lúc đó đã bình tĩnh tháo gỡ dần khó khăn, bước đầu ổn định sản xuất và chiếm lĩnh thị trường. Nhà máy đã chuyển từ sản xuất gạch đặc sang gạch rỗng hai lỗ đã tiết kiệm được rất nhiều chi phí cụ thể như đất đã giảm 15% đơn giá công nhân sản xuất trực tiếp giảm hơn nữa do trọng lượng nhẹ hơn nên khi đem tiêu thụ, cước phí vận chuyển giảm rất nhiều vậy lên sản xuất đến đâu thì tiêu thụ hết đến đó, hơn hẳn gạch đặc rất nhiều. Thời kỳ từ năm 1992 đến nay : Đứng trước sự cạnh tranh gay gắt của thị trường, trước yêu cầu phát triển của đất nước và đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá để đưa nền kinh tế đất nước phát triển nhanh, theo kịp với sự tăng trưởng của nền kinh tế khu vực và kinh tế thế giới. Tháng 3-1992 nhà máy đã đầu tư tại xưởng Xuân Hoà một lò nung tuynel liên hiệp có công suất 25 triệu viên /năm. ngoài ra công ty còn mua sắm một hệ máy chế biến tạo hình của Italia có công suất là 50 triệu viên/năm, đầu tư sân phơi gạch bằng bê tông, nhà cung kính với tổng số tiền đầu tư cho giai đoạn đầu là 8 tỷ đồng việt nam. Với công suất lớn như vậy sang giai đoạn 2 bộ xây dựng đã phê duyệt luận chính kinh tế kỹ thuật đầu tư mở rộng một lò nung sấy tuynel liên hiệp để tận dụng công suất máy. Biến tạo hình của Italia đầu tư mở rộng hơn 1000m2 sân bê tông và nhà cảng kính phải gạch với tổng số tiền đầu tư cho giai đoạn 2 là 4,5 tỷ VNĐ. Cùng với sự khắc phục khó khăn với phân xưởng bá hiến mặc dù về vị trí giao thông không thuận lợi nhưng có nguồn nguyên vật liệu chất lượng là thành phần của đất rất phù hợp với sản phẩm sản xuất. Đặc biệt là công ty được sự đầu tư cho nên có một lò nung sấy rất tốt có công xuất 25 tr/năm gạch xây QTC, có độ rộng lớnlàm tăng lợi nhuận và giảm giá thành. Không những thế cùng với đilên của sự phát triển, tại xưởng cầu xây do có vị trí thuận lợi, giao thông đi lại dễ dàng hơn kéo theo công ty đẫ đầu tư một lò nung tuynel liên hiệp với bộ máy chế biến tạo hình, lắp đặt, đầu tư nhà sân phải gạch bê tông nhà cảng kính che gạch. Tại đây chủ yếu là sản xuất các loại sản phẩm mỏng có giá trị kinh tế cao như men tách 220ì220ì15, gạch Blốc 200´200´90. Với những điều chỉnh trên, chỉ sau một năm hoạt động công ty đẫ khẳng định được vị trí chính mình trên thị trường. Sản phẩm của công ty hầu hết có mặt trên các thành phố trong cả nước, đảm bảo số lượng, chủng loại, chất lượng giao hàng đúng hạn đầy đủ theo hợp đồng đã ký kết. Các mặt hàng chủ yếu công ty đang sản xuất và cung cấp trên thị trường có thể kể như là : gạch R60: 200 x100 x 60, R22: 220 x 220 x 105, R150: 150 x 200 x 150 các sản phẩm mỏng có giá trị kinh tế cao.Gạch rỗng 4 lỗ: 220 x 220 x 50 gạch lát nền 200 x 200 x 15 gạch lát dừa 200 x 200 x 50 ngói lợp 22 viên /m2. * Đặc điểm tổ chứcc sản xuất kinh doanh và quy trình công nghệ của công ty Do sát nhập 3 nhà máy gạch Xuân Hoà, Bá Hiến, Cầu Xây, cho nên khi hình thành công ty, nhà máy này trở thành các xí nghiệp sản xuất chính của công ty. Những năm 1998 nhà máy gạch cầu xây đã tách ra thành công ty cổ phần cầu xây. Năm 2002, công ty đẫ mở thêm một nhà máy gạch COTTO Bình Dương nhằm mở rộng sang các tỉnh phía nam. Như vậy hiệ nay năm 2003 phân xưởng sản xuất chính, đó là phân xưởng: - Phân xưởng Xuân Hoà. - Phân xưởng Bá Hiền. - Phân xưởng COTTO Bình Dương. Phân xưởng Xuân Hoà : nằm trên thị trấn Xuân Hoà, huyện Mê Linh tỉnh vĩnh phúc. Đây là xưởng có năng lực sản xuất lớn nhất của công ty được trang bị 2 lò nung sấy tuynel. Phân xưởng có nhiệm vụ sản xuát các sản phẩm như gạhc nát nền 200x200x5, 300x300x15, 250x250x15, gạch Blốc có đọ rộng lớn 200x200x90 gạch xây hai lỗ, gạch 6 lỗ, gạch men rỗng. Phân xưởng Bá Hiến: nằm trên địa bàn xã Bá Hiến , huyện Bình Xuyên tỉnh Vĩnh Phúc. Tại đây công xuất 250 triệu viên gạch xây/năm, 1 nhà máy chế tạo hình UCRAINA, đầu tư mở rộng hơn 3000m2 sân bê tông và 3000m2 nhà máy Cảng Bnh với tổng mức đầu tư là 9,5 tỷ Việt Nam đồng. Phân xưởng COTTO Bình Dương (thuộc khu sản xuất Tân Đông Hiệp, huyện Dĩ An, tỉnh Bình Dương ) công suất hoạt động 1triệu m2/năm chuyên sản xuất các loại ốp lát đều được bán chạy trên thị trường. Quy trình công nghệ tất cả các sản phẩm được sản xuất từ đất sét có khuôn mẫu khác nhau. mô hình quản lý công ty giám đốc phó giám đốc pt sản xuất kinh doanh phó giám đốc pt kỹ thuật phòng kt XDCB vật tư phòng hành chính phòng kế hoạch đàu tư phòng tổ chức lao động phòng tài chính kế toán phòng kinh doanh tiêu thụ CáC NHà MáY Nhà máy gạch BH Nhà máy gạch XH Nhà máy gạch COTTO bình dương PHần II: tài chính doanh nghiệp tìm hiểu về bộ máy quản trị doanh nghiệp và hoạt động tài chính doanh nghiệp 1. Bộ máy quản trị tài chính doanh nghiệp công ty xây dựng Xuân Hoà a. Giám đốc Giám đốc là một người đứng đầu công ty có trách nhiệm quản lý vi mô và có quyền đưa ra quyết định chỉ đạo chung để tiến hành toàn bộ máy quản lý của công ty hoạt động một cách thống nhất. b. Phó giám đốc Bao gồm 2 phó giám đốc có trách nhiệm tham mưu cho Giám Đốc về công tác quản lý điều hành sản xuất kinh doanh trên các lĩnh vực sản xuất, kỹ thuật, tiêu thụ. c. Phòng kinh doanh tiêu thụ Bao gồm có 8 nhân viên, thứ nhất là có trách nhiệm chào hàng, tiếp thị và tìm phương án tiêu thụ sản phẩm, tìm hiểu nghin cứu các chiến lược về các mặt hàng kinh doanh, giúp Giám Đốc có định hướng sản xuất vào các mặt hàng có nhu cầu tiêu thụ trên thị trường d. Phòng tài chính Bao gồm có 4 nhân viên, đảm nhiệm mọi công việc liên quan đến các công tác hành chính trực tiếp, tiếp khách tiếp nhân viên và chuyển công văn đi đến nội bộ công ty và ngoài công ty. e. Phòng tài chính kế toán Bao gồm có 7 nhân viên có chức năng thu thập, xử lý và cung cấp thông tin về tình hình tài chính và kết quả kinh doanh của từng xí nghiệp nhà máy cũng như toàn công ty. f. Phòng kỹ thuật xây dựng cơ bản – vật tư Bao gồm 11 nhân viên, có nhiệm vụ nghin cứu ứng dụng trên bộ khoa học kỹ thuật, cải tiến kỹ thuật trong sản xuất, chịu trách nhiệm về chất lượng nguyên liệu, thiết bị máy móc thiết bị lập dự trù, dữ trữ vật tư và tiếp nhận vật tư. g. Phòng kế hoạch đầu tư Đối với phòng kế hoạch đầu tư có trách nhiệm lập kế hoạch sản xuất kinh doanh năm, quý, tháng. nghiên cứu lập dự án khả thi, tham mưu cho giám đốc ra quyết định sản xuất kinh doanh. h. Phòng tổ chức lao động Bao gồm có 4 nhân viên đó là phòng tham mưu cho giám đốc trong công tác quản lý tuyển dụng điều động nhân lực phục vụ cho sản xuất lập và thực hiện kế hoạch nhân lực hàng năm, quý, tháng , tham mưu cho giám đốc trong việc điều hành nhân lực. 2. Nhiệm vụ quản trị tài chính doanh nghiệp Với đà phát triển mạnh mẽ của công ty gốm xây dựng Xuân Hoà thì bên trong đó là có một bộ máy tổ chức và quản trị thật toót, thật vững chắc từ giám đốc các phòng ban và cho đến các nhân viên mỗi người một công việc trách nhiệm ăn khớp với nhau và cùng nhau đưa công ty gốm xây dựng Xuân Hoà ngày mộtphát triển , ngày một có chỗ đứng vững trong thị trường từ khâu sản xuất đến khâu tiêu thụ. bên ngoài đã có nhiều công ty đã sản xuất đã có cạnh tranh, nhưng với chất lượng với quy trình công nghệ sản xuất thì công ty gốm xây dựng Xuân Hoà đã hơn hẳn và những mặt hàng đã có mặt hầu hết trong thành phố. không những là công ty gốm xây dựng Xuân Hoà mà chi nhánh của nó còn có phân xưởng bá hiến, phân xưởng COTTO bình dương tất cả đang cùng nhau phát triển và dduwa sản phẩm bán trên thị trường và giúp cho mọi người dân có nhiều căn nhà cao sạch sẽ và khang trang. để có được điều đó trên thị trường thì công ty gốm xây dựng Xuân Hoà có một mô hình quản trị thật độc đáo, mỗi người có một nhiệm vụ riêng. Vậy để hểu được nhiệm vụ của quản trị tài chính doanh nghiệp thì chúng ta phải nên hiểu được nhà quản trị họ làm gì, nhiệm vụ của họ như thế nào? Thứ nhất, trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doang nghiệp, kế toán góp phần quan trọng trong công tac quản lý hoạt động kinh tế tài chính việc thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về tình hình thu nhập, chi phí, so sánh thu nhập, xử lý cung cấp thông tin về tình hình thu nhập chi phí, so sánh thu nhập với chi phí để xác định két quả là một trong những yêu cầu của kế toán tài chính. song với công ty gốm xây dựng Xuân Hoà là một công ty sản xuất nhiều mặt hàng kinh doanh, nhiều hàng hoá, dịch vụ khác nhau, muốn biết được chi phí, thu nhập kết quả của nhiều loại sản phẩm, hàng hoá dịch vụ nhằm tổng hợp lại một cơ cấu hệ thống kế toán phục vụ cho yêu cầu quản trị doanh nghiệp thì kế toán tài chính không đáp ứng đủ điều đó. do đó các doanh nghjiệp phải có hệ thống quản trị trước hết nhằm xây dựng các dự toán chi phí, dự toán thu nhập kết quả của từng loại sản phẩm, cụ thể nhưi gạch lát nền 200x200x5, 300x300x15, 250x250x5 và gạch BLốc có động lớn 200x200x90, gạch hai lỗ, gạch 6 lỗ, gạch men rỗng. Với như phân xưởng Bá Hiến đang đầu tư và xây dựng hàng tỷ đồng việt nam. Thứ hai là phân xưởng COTTO bình dương thuộc khu sản xuất miền trong với công xuất các loại ốp lát điều đó là cho chúng ta hiểu được rằng nhiệm vụ của nhà quản trị về tài chính là quan trọng, không chỉ trong sản xuất mà trong cả mua bán hàng hoá, dịch vụ, tính toán giá thành sản phẩm, giá vốn hàng mua, mua bán hàng hoá, doanh thu và kết quả của từng loại sản phẩm . Đều đáp ứng yêu cầu quản lý của doang nghiệp. Xuất phát điểm của kế toán là quản trị là kế toán của chi phí, nghiên cứu chủ yếu về quá trình tính toán giá tri phí sản phẩm như giá chi phí của vật liệu, giá chi phí sản xuất, nhằm đề ra quyết định cho phù hợp, xác định giá trị hàng tồn kho và kết quả kinh doanh theo từng hoạt động. dần dần cùng với sự phát triển của khoa học quản lý nói chung, khoa học kế toán cũng có những bước phát triển mạnh mẽ , đặc biệt với công ty gốm xây dựng Xuân Hoà là từ năm 2002 đến năm 2003 trỏ lại naydo sự liên kết đầu tư của nhiều quốc gia trên thế giới đã cho nhiều loại sản phẩm sản xuất nhiều loại trên thị trường phát triển mạnh. thực sự công ty gốm xây dựng Xuân Hoà đã đi sâu vào tầm ngăn của các nước trên thế giới như Nhật, Thái lan, Hàn quốc, Hoa kỳ với những giáo sư tiến sỹ đã đi sâu vào nghiên cứu, áp dụng và sử dụng những thông tin kế toán phục vụ cho nhu cầu quản lý, sự phát triển mạnh mẽ của kế toán đã đặt ra hướng công nghiệp hoá, công cụ kiểm soát và lập kế hoạch, thu nhập và sử lý thông tin phục vụ cho việc ra quyết định quản trị gọilà kế toán tài chính quản trị. Công ty gốm Xuân Hoà trên đà phát triển thì quản trị la một khoa học thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về hoạt động sản xuất, kinh doanh một cách cụ thể phục vụ kế hoạch quản lý hoạt động kinh tế, tài chính trong việc nội bộ của doanh nghiệp. Dựa trên quan điểm lý luận về bản chất của tài chính và sự phát triển của hệ thống công cụ quản lý kinh tế. Công cụ quản lý có hiệu lực nhất là ké toán. kế toán tài chính và kế toán quản trị đều phục vụ đắc lực công cụ quan trọng trong quản lý. Tuy nhiên mỗi loại của lế toán tài chính đều mang một đặc thù riêng biệt, cùng xuất phát từ những số liệu sau, song mỗi loại kế toán xử lý cung cấp thông tin ở dạng khác nhau: Tổng quát và chi tiết. vì vậy phải xxác định rõ phạm vi, ranh giới công việc thu nhận xử lý và cung cấp thông tin giữa hai loại kế toán tài chính và quannnnr trị tài chính. Việc vận dụng hệ thống kế toán chung và xây dựng hệ thống kế toán quản trị phải được kết hợp hài hoà tránh những mâu thuẫn xảy ra sai lệch thông tin mà mỗi loại kế toán cung cấp thông tin đưa vào tài chính, phải tạo đièu kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, kiểm toán nội bbọ tổ chức hợp lý tài chính trong doanh nghiệp. Để xây dựng được một hệ thống quản trị phải phù hợp đặc điểm tổ chức sản xuất, kinh doanh, tổ chức yêu cầu quản lý của doanh nghiệp. Mục đích chính của các nhà doanh nghiệp trong điều hành và quản lý kinh doanh là sử dụng những thông tin phù hợp để đề ra những quyết định đúng đắn nhất cho hoạt động của doanh nghiệp, để có được hiệu quả cao như cùng chi tiết đã nêu trên phải đạt được mục tiêu xây dựng. Lập dự toán chặt chẽ sản suất kinh doanh có một ý nghĩa rất quan trọng trong hệ thống quản trị doanhnghiệp, nó lạ một khâu chu kì định hoạch, kiểm soát và quyết định của nhà quản trị doanhnghiệp. Đó là một quá trình định hoạch rất phức tạp, bởi lẽ đó là mối quan hệ định mức chi phí, là sự liên kết các mục tiêu từng khâu từ sản xuất đến tiêu dùng trong kinh doanh: từ dự án tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá dịch vụ, cung cấp vật tư hàng hoá ... các khâu chi phí như bán hàng, chi phí quản lý , đến dự toán tiền ... Tất cả những vấn đề đó đều có mối khăng khít lẫn nhau có một nhiệm vụ chính đó là tạo lên một tổng thể kế hoạch sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với việc dự toán sản xuất kinh doanh đúng hay không, có liên kết phù hợp và sát với khả năng và điều kiện của công ty hay không, nó sẽ chi phối rất nhiều đến các quyết định mục tiêu chung của doanh nghiệp là một điều hết sức quan trọng. Quản trị tài chính trong doanh nghiệp không chỉ theo một lề nối nhất định mà còn có sự tăng trưởng, thua lỗ cho nên nó còn thẻ hiện qua từng thời kỳ, từng giai đoạn khác nhau. Việc chính của nhà quản trị là phải sắp xếp theo hệ thống, hợp lý theo thời kỳ thay đổi của doanh nghiệp. ở đây nó thẻ hiện rất rõ như là ở thời kỳ quản lý kinh tế theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp thì tập trung hầu hết như các chỉ tiêu kế hoạch sản xuất đều được hoạch định tổng thể được giao từ trên xuống dưới thêo mô hình của doanh nghiệp. Căn cứ theo mục đích được giao, căn cứ theo định mức kinh tế kỹ thuật , dịnh mức chi phí chung của nghành, của Nhà nước doanh nghiệp sản xuất theo đó. Tất nhiên như vậy sẽ giảm tính linh hoạt năng động và tích cực trong cạnh tranh hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp ngày càng cao. Đề xuất chặt được mô hình nhiệm vụ quản trị của doanh nghiệp có rất nhiều vấn đề nổi cơm lên mà nhiệm vụ quản trị của doanh nghiệp co rất nhiều vấn đề nổi cộm lên mà nhiệm vụ quản trị tài chính doang nghiệp phải quan tâm và sắp sếp thứ nhất là thời gian, nhu cầu sản xuất, quản lý công nhân đầu tư... chi tiêu, thu phù hợp với từng thời gian theo nguyên tắc và trình tự từ cấp cơ sở trở lên. Theo nguyên tắc đó mà công ty gốm xây dựng Xuân Hoà đã áp dụng và xây dựng một mô hình thật hợp lý, từ quản đốc công ty, phó giám đốc xuống các phòng ban đều có hệ thống quản lý chặt chẽ với vấn đề tài chính trong doang nghiệp. Vậy tuỳ theo điều kiện tổ chức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng như cấp quản lý tài chính đều tiến hành một cách nhanh chóng tự lập. phù hợp với nhu cầu sản xuất thực tiễn của công ty. Đã cho công ty một nền móng phát triển hiện đại theo quy trình công nghệ sản xuất. 3. Mối quan hệ tài chính doanh nghiệp Công ty gốm xây dựng Xuân Hoà là một trong những ông ty thuộc sở đầu tư của Nhà nước. được nhà nước đầu tư từ vốn thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động sản xuất gồm gốm gạch nhằm mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao. Tài chính doanh nghiệp là một trong những quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thức giá trị phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ nhằm phục vụ cho quá trìng tái sản xuất trong doanh nghiệp và góp phần tích luỹ vốn cho Nhà nước. Những quan hệ tài chính kinh tế thuộc phạm vi tài chính DN gồm: a. Quan hệ tài chính giữa doanh nghiệp với Nhà nước Hiện nay sông song với quá trình sản xuất và tái sản xuất, một phần vừa sản xuất vừa phải thực hiện các nghiã vụ tài chính đối với nhà nước, đó là nộp thuế cho ngân sách nhà nước. Ngân sách Nhà nước cấp vốn cho công ty gốm xây dựng Xuân Hoà để duy trì sự tồn tại và phát triển của công ty. Đó là quan hệ hai chiều giữa doanh nghiệp và công ty. Trong những năm gần đây thì công ty gốm xây dựng Xuân Hoà đã hoàn thành nghĩa vụ ngân sách Nhà nước đó là đã nộp thuế đầy đủ trong sản xuất kinh doanh đó là trong năm 2002 nộp 2.345 triệu đồng và với 4.596 triệu đồng. Điều đó chứng tỏ giữa công ty gốm xây dựng Xuân Hoà và nhà nước có mối quan hệ rất tốt đẹp, khăng khít lẫn nhau với nguồn tăng thêm nguồn thu nhập thì nhà nước đã mở rộng lối đi lớn cho công ty ngày một lớn mạnh càng làm giàu cho đất nước. Không những thế công ty gốm xây dựng Xuân Hoà ngoài việc dóng góp các khoản vào ngân sách nhà nước làm tăng thêm sức mạnh và đặc biệt dó là tạo công ăn việc làm cho hàng nghìn công nhân lao động tỉnh lẻ ở các địa phương, càng đi vào nhìn thấy được đó là tạo cho cuộc sống ấm no hạnh phúc. b. Quan hệ tài chính giưũa doanh nghiệp với thị trường Với quan hệ tốt đẹp có thể khẳng định một câu chắc chắn rằng hiện nay, ở hầu hết thị trường trên cấp các thành phố thì sản phẩm của gốm xây dựng Xuân Hoà đã có mặt hầu hết. từ trong nam cho đến ra cả ngoài bắc đâu đâu cũng có mặt vải những phân xưởng kế cận đã có mặt cung cấp ngay trên thị trường. Cho dù trên thị trường đã có mặt cạnh tranh. Nhưng với khâu sản xuất nhanh tạo dựng đẹp đã hất cẳng ngay đối thủ cạnh tranh để đạt được điều đó, công ty gốm xây dựng Xuân Hoà và phân xưởng bá hiến, phân xưởng COTTO Bình Dương phải có một đội ngũ thật hùng mạnh từ giám đốc cho tới các phòng ban. Để cập nhập trên thị trường đòi hỏi phải có một tập đoàn chào hàng, và giới thiệu sản phẩm, môi giới ban hàng thật hấp dẫn. Để đảm bảo sự hùng mạnh từ sự đa dạng hoá hình thức sở hữu trong nền kinh tế thị trường đã tạo ra mối quan hệ giưũa công ty gốm xây dựng Xuân Hoà đã có uy tín rất lớn đối với nhiều bạn hàng, với đối tác làm ăn công ty gốm xây dựng Xuân Hoà ngày càng phát triển rộng lớn đã có mặt hàng cạnh tranh với thị trường thế giới với lòng mong mỏi và sự nhiệt tình gốm và gạch đã đưa đến tận tay người tiêu dùng, phân phối ở khắp mọi nơi đáp ứng đúng, đủ mọi nhu cầu trên thị trường cũng như mọi người dân. Hiện nay trên thị trường của các thnàh phố không chỉ có quan hệ tốt với các bạn hàng, đối tác làm ăn mà còn có uy tín, có quan hệ thân thiết với các ngân hàng trong địa bàn của đất nước Việt Nam ta. Cụ thể như là năm 2002 đối với ngân hàng đầu tư và phát triển là 40.000.000 VNĐ, với ngân hàng công thương Mê Linh 89.000.000 VNĐ tiền gửi vào ngân hàng Ngoại thương Cầu giấy Hà Nội. Với sức mạnh đầu tư ngày càng mạnh điều đó làm cho công ty gốm xây dựng Xuân Hoà ngày càng có uy tín hơn đối với các bạn hàng, sản phẩm bán ra thị trường ngày càng được ưa chuộng và phân bổ rộng khắp nơi, bên cạnh đó còn có quan hệ tốt như trong nọi bộ của doanh nghiệp. Như vậy cho ta thấy rằng trên điều kiện nền kinh tế thị trường công ty gốm xây dựng Xuân Hoà đã có chiến lược nâu dài thì coong ty đã có chiến lược kinh doanh tổng thể. Đặc biệt là dự toán cho từng thời kỳ, nắm bắt thị trường một cách nhanh chóng, để đảm bảo cho sản xuất kinh doanh trong dự toán có liên kết phù hợp với nhau, móc nối từng mặt hàng. Mối quan hệ giữa tài chính với thị trường của công ty không chỉ trong kinh doanh mà còn nằm trong việc bán sản phẩm và có nguồn tài chợ. Ngoài ra doanh nghiệp còn phát hành trái phiếu công ty, đó là hình thức huy động vốn trung hạn và dài hạn . c. Mối quan hệ trong nội bộ của doanh nghiệp Nói đến nội bộ của doanh nghiệp là việc phân chia tài chính trong nội bộ của doanh nghiệp. Đặc biệt là mối quan hệ giữa các nhà kinh tế với nhau, giữa doanh nghiệp với các phòng ban cụ thể đó là giữa giám đốc các phòng ban trong bộ máy quản trị của doanh nghiệp rất tốt. Dưới sự điều hành và quản lý của giám đốc hiện nay công ty đã tạo công ăn việc làm đối với rất nhiều người dân, không những thế mà đối với rất nhiều chế độ ưu đãi đối với công nhân, với người lao động dưới hình thức tiền lương, tiền thưởng. II. Phân tích hoạt động tài chính của Doanh nghiệp Hoạt động tài chính trong doanh nghiệp là một bộ phận chính trong hoạt động sản xuất kinh doanh và có mối quan hệ trực tiếp với hoạt động sản xuất kinh doanh. Tất cả các hoạt động sản xuất kinh doanh đều ảnh hưởng tới tình hình tài chính của doanh nghiệp ... Ngược lại tình hình tài chính tốt hay sấu đều có tác động thúc đẩy hoặc kìm hãm đối với quá trình sản xuất kinh doanh. Do đó để phục vụ cho công tác quản lý nhà quản trị cần phải có nghiên cứu báo coá tài chính được soạn thoả theo định kỳ, phản ánh một cách tổng hợp về tình hình tài sản hay nguồn vốn của doanh nghiệp giữa công nợ và kết quả kinh doanh đã và đang đạt được ... song bằng các chỉ tiêu giá trị, nhằm xây dựng và tiếp cận nhanh các mục đích thông tin về kết quả và tình hình tài chính của doanh nghiệp cho người lãnh đạo và bộ phận tài chính của đơn vị mình đang có lãi, lỗ hay phải có thêm nguồn tảitợ để chuẩn bị cho căn cứ đưa ra quyết định và đưa ra hoặch toán cho kỳ tương lai. Nhưng để thấy được tất cả các số liệu mà kỳ thực hiện ta để phân tích hay kinh doanh thì phải căn cứ thực chất vào những số liệu đạt được ở kỳ kế hoặch có tính chất là lịch sử, và có thể chưa thể hiện hết được ở trong nội dung kế hoặch mà ta đã báo cáo, đó là kế hoặch đưa ra có thể sát với sổ gốc nhưng còn có thể chênh lệch nhau, đưa ra con số chưa đúng mà chúng ta cần chỉnh sửa mà nọi dung đó hết lòng phải quan tâm, hết sức dòi hỏi. Vì vậy, người ta phải áp dụng kỹ thuật để phân tích, để thuyết minh các quan hệ chủ yếu, giúp cho các nhà quản trị dự toán tương lai và đưa ra các quyết định tài chính tương lai, một cách sát thực bằng cách so sánh hay đánh giá xem xét đó, qua từng thời kỳ cụ thể. Để thấy được điều đó, điều trước tiên ta phải quan sát đó là phải tìm hiểu nắm bắt và khái quát được tình hình hoạt động của công ty. Đó chính là điểm tựa thứ nhất, cụ thể là dựa vào hệ thông báo cáo tài chính, một cách sát thực trọng yếu đó là dựa vào bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả của hoạt động sản xuất cân đối kế toán và báo cáo kết quả của hoạt động sản xuất kinh doanh được soạn thảo cuối của mội kỳ thực hiện. Đánh giá khái quát tình hình tài chính qua bảng cân đối kế toán . Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính tổng hợp. Vậy để phản ánh một cách tổng quát toàn bộ tài sản hiện có của doanh nghiệp theo 2 cách đánh giá. Đó là nguồn tài sản và hình thành tài sản tại thời điểm lập báo cáo. Bảng cân đối kế toán có các chỉ tiêu phân theo dưới hình thức giá trị của nó. Và bảng cân đối kế toán được chia làm hai phần: đó là phần tài sản và phần nguồn vốn và theo nguyên tắc cân đối thì hai phần này có tổng là bằng nhau. a. Cân đối tài sản thì nó phản ánh cái giá trị tài sản của nó, tài sản tại thời điểm lập báo cáo cho nên Khi xét về mặt kinh tế thì các chỉ tiêu thuộc thuộc phần tài sản phản ánh quy mô kết cấu các loại tài sản dưới hình thức vật chất như tài sản bằng tiền, tài sản tồn kho, các khoản phải thu , tài sản cố định.... mà doanh nghiệp hiện có. Còn xét về mặt pháp lý thì tức là phản ánh cái số liệu ở phần tài sản mà phần tài sản đó thuộc quyền quản lý , sử dụng và sở hữu của doanh nghiệp. b. Phần nguồn vốn Bên cạnh lúc ta xem xét về phần tài sản thf phần nguồn vốn cũng có hai mặt của nó. Đó là: - Về mặt kinh tế: thì các chỉ tiêu ở phần nguồn vốn phản ánh quy mô két cấu thực vào sản xuất trong kinh doanh. - Về mặt pháp lý: thì phần nguồn vốn cũng thực hiện các chỉ tiêu thực hiện, trách nhiệm pháp lý về mặt vật chất của doanh nghiệp, đối với các đối tượng cấp vốn cho doanh nghiệp cỡ đông, ngân hàng, Nhà nước, nhà cung ứng cung cấp nguyên vật liệu... Qua đó ta thấy rằng bảng cân đối kế toán là sự tóm tắt một cách gắn gọn súc tích nhanh, dễ hiểu về tình hình tài sản doanh nghiệp và nguồn tài trợ những nguồn tài sản đó tại một thời điểm cụ thể báo cáo hàng năm của một doanh nghiệp trình bày sự cân đối tài sản tại một thời điểm kết thúc năm tài chính thường ngày 31/12 hàng năm. Để chứng minh cho điều đó qua một tuần tôi thực tập công ty gốm xây dựng Xuân Hoà có bảng cân đối kế toán như sau: Công ty gốm xây dựng Xuân Hoà bảng cân đối kế toán Ngày 31 tháng 12 năm 2004 ( Đơn vị: 1triệu VNĐ) Tài sản Mã số Số đầu năm Số cuối năm I. TSLĐ - ĐTNH …. II. …………………. Tổng tài sản 55204161258 173843657250 Nguồn vốn Mã số Số cuối năm I. Nợ phải trả … II. NVCSH … 173.843.857.250 Tổng nguồn vốn Người lập biểu (ký, họ tên) Kế toán trưỏng (ký, họ tên) Ngày tháng năm Giám đốc (ký, họ tên, đóng dấu) ở đây phần tài sản được trình bày trước sau đó mới đến phần nguồn vốn, hình thành tài sản. Trong phần tài sản thì những loại tài sản có tính thanh toán cao như tài sản lưu động có nó đầu tư thì chúng ta trình bày ở đầu bảng và giảm dần khi chuyển xuôngs dưới. Bởi vậy tài sản lưu động và đầu tư gắn hạn được xếp phía trên, tài sản cố định và đầu tư dài hạn xếp xuống dưới. Như vậy qua bảng cân đối tính từ ngày 31/12/2003 công ty gốm xây dựng Xuân Hoà đang quản lý và sử dụng 173.843.657.250 VNĐ tài sản trong đố tài sản lưu động và đầu tư gắn hạn 164.118726628 VNĐ chiếm 0,94405 tài sản cố định và đầu tư dài hạn 9.724.930.622 VNĐ (chiếm 0,055) so với cùng kỳ năm ngoái tổng tài sanr giảm 55.204.161.258 VNĐ tức giảm 0,6022 như vậy cuối năm so với đầu năm thì cuối năm cao hơn vì trong công ty được sự đầu tư mạnh cho nên sản phẩm được tung bán ra thị trường nhiều, thu được lãi về cho công ty nhiều. Điều đó lại cấp cho công ty nhiều vốn lại như thế theo vòng quay lại tái sản xuất sản phẩm nhiều hơn. Trong tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn thì vốn bằng tiền và đầu tư tài chính ngắn hạn (loại tài sản có khả năng thanh toán cao lại giảm xuống còn 1.688.695.500 VNĐ (chiếm 13%) điều đó có nghĩa trong năm với sự đầu tư mạnh mẽ của các bạn hàng và đặc biệt là được sự quan tâm của Nhà nước công ty gốm xây dựng Xuân Hoà từ nguồn nguyên vật liệu sẵn có được sản xuất hết và không có hàng tồn kho nhiều so với đầu năm. Hơn nữa được sự quan tâm giúp đỡ cho nên công nghệ máy móc có hiện đại hơn, đặc biệt là các khoản phải thu lại tăng lên cuối năm 1.548.957.175.059 VNĐ. Điều đó cho ta biết công ty gốm xây dựng Xuân Hoà cần quan tâm hơn nữa. Không thể nhìn thấy công ty sản xuất phát triển mà đem phần lãng quên, đó là cần phải quan tâm đến hơn nữa tới công tác hàng dự trữ và công tác thanh toán hồi nợ. Cũng trong năm 2003 công ty gốm xây dựng Xuân Hoà đã hoàn thành công tác đầu tư tài sản cố định với thiét bị máy móc hiện đại sau khi đã trừ khấu hao cuối năm công ty đã đầu tư 5.295.889.525 VNĐ và đầu năm 17.638.597.228 VNĐ và làm giảm chi phí xây dựng cơ bản dở dang 291.137.048 (2.146.738.431 VNĐ - 1.855.601.383 VNĐ) bên cạnh đó thu hồi các khoản thu tài chính dài hạn đầu năm có cao hơn cuối năm. đầu năm thu hồi được 1.569.263.449 VNĐ còn cuối năm thu hồi cao hơn 2.069.263.449 VNĐ điều đó có nghĩa cuối năm của công ty gốm xây dựng Xuân Hoà có tăng thêm phần thu nhập hơn. Bên cạnh phàn tài sản song phần nguồn vốn của công ty gốm xây dựng Xuân Hoà đã phản ánh được như sau. Đó là cũng liệt kê ra được theo thứ tự từ yêu cầu về thanh toán lần lượt các khoản nợ ngắn hạn, dài hạn và cuối cùng là vốn chủ sở hữu của công ty. Với sự phát triển mạnh mẽ của việc sản xuất hơn nữa là được sự quan tâm của nhà nước và được sự quan tâm giúp đỡ của bạn hàng, công ty gốm xây dựng Xuân Hoà có uy tín trên thị trường về mặt sản xuất các gạch, ngói, gốm. Điều đó có nghĩa là công ty cũng có những nguồn vốn khá lớn cho phù hợp với sức sản xuất. Qua bảng cân đối kế toán ngày 31/12/2003 của công ty gốm xây dựng Xuân Hoà so với cùng kỳ năm ngoái tổng số nợ có tăng lên 121.389.343.931 VNĐ (162.583.114.085 - 41.193.770.154) VNĐ tức là tăng 94%>5% trong đó nợ ngắn hạn chỉ tăng 23.588.554.637 (56.236.224.268 – 32.647.669.631) tức là tăng 32%>5% còn nợ dài hạn lại tăng lên 32.616.746.232 tỷ 106.303.440.417 - 73.686.694.185) VNĐ hay tăng 61%>5%. Việc tăng nợ dài hạn rõ ràng có liên quan đến việc tăng tài sản cố định ở phần tài sản. Riêng phần nguồn vốn chủ sở hữu giảm từ 11.260.543.165 VNĐ so với 14.010.391.104 VNĐ. Vì nguồn vốn ở, quỹ giảm 1.010.642.972 so với 12.501.287.070 VNĐ. Cùng với nguồn vốn kinh doanh cũng giảm từ 6.731.593.504 so với 9.213.730.489 VNĐ bên cạnh đó quỹ dự phong tài chính cũng không tăng là bao nhiêu 341.112.363 (825.516.713 – 484.404.350). Công TY GốM XÂY DựNG XUÂN HOà BOá CáO KếT QUả HOạT Đẫng kinh doanh Từ ngày 01/01/2002 đến ngày 31/02/2002._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKT863.DOC
Tài liệu liên quan