Phân tích lợi nhuận & Một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận trong Sản xuất kinh doanh tại Tổng Công ty Thép Việt Nam

Lời nói đầu Lợi nhuận là mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp, nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Với những điều kiện cụ thể khác nhau, cơ chế vận hành hoạt động kinh doanh khác nhau thì kết quả lợi nhuận cũng khác nhau. Trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các doanh nghiệp Nhà nước được Nhà nước cấp phát vốn, cung ứng vật tư, nguyên vật liệu và bao tiêu sản phẩm, lãi nộp Nhà nước, lỗ Nhà nước chịu. Lợi nhuận đó chưa phản ánh đầy đủ các chi phí sản xuất và yêu cầu thực tế

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1263 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích lợi nhuận & Một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận trong Sản xuất kinh doanh tại Tổng Công ty Thép Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiêm khắc của thị trường, chưa kích thích được tính chủ động sáng tạo của người quản lý và công nhân trực tiếp sản xuất. Do đó có tình trạng lãi giả, lỗ thật. Nhiều doanh nghiệp Nhà nước làm ăn thua lỗ kéo dài trở thành gánh nặng cho nền kinh tế, gây lãng phí nguồn lực. Thực hiện đường lối đổi mới, nền kinh tế được vận hành theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước ban hành các chế độ chính sách, sắp xếp lại các doanh nghiệp, tạo điều kiện để các doanh nghiệp chủ động sáng tạo, tự chịu trách nhiệm lãi lỗ về các hoạt động của mình. Từ khi có quyết định 90/TTg và 91/TTg ngày 07/03/1994 của Thủ tướng Chính phủ, các doanh nghiệp được sắp xếp lại theo mô hình Tổng công ty 90 và Tổng công ty 91, hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp được cải thiện. Nhiều doanh nghiệp bắt đầu làm ăn có lãi tạo điều kiện mở rộng và phát triển sản xuất, tăng thu nhập cho người lao động. Tổng công ty Thép Việt Nam được thành lập theo mô hình Tổng công ty 91. Nhiệm vụ chính yếu của Tổng công ty là sản xuất thép, lưu thông sản phẩm thép trên thị trường trong cả nước, nhập khẩu một số sản phẩm thép trong nước chưa sản xuất được, cân đối cung và cầu các mặt hàng sản phẩm thép cho nền kinh tế. Từ khi được sắp xếp lại, nhiệm vụ sản xuất và tiêu thụ sản phẩm tập trung vào một đầu mối quản lý, mở rộng liên doanh liên kết với các đối tác nước ngoài và trong nước, Tổng công ty đã từng bước ổn định sản xuất, đảm bảo cung cấp ổn định các sản phẩm thép cho nền kinh tế, làm ăn có lãi. Trong thời gian thực tập tốt nghiệp tại Tổng công ty Thép Việt Nam, vận dụng những kiến thức đã học vào thực tế hoạt động kinh doanh của Tổng công ty, em nghiên cứu vấn đề lợi nhuận của Tổng công ty và hoàn thành Luận văn tốt nghiệp với đề tài “Phân tích lợi nhuận và một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận trong sản xuất kinh doanh tại Tổng công ty Thép Việt Nam”. Ngoài lời nói đầu và kết luận, Luận văn tốt nghiệp gồm ba chương: Chương I: Tổng quan về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Chương II: Thực trạng lợi nhuận của Tổng công ty Thép Việt Nam. Chương III: Một số giải pháp nhằm nâng cao lợi nhuận của Tổng công ty Thép Việt Nam. Trên cơ sở thực trạng kinh doanh của Tổng công ty trong những năm qua, trên cơ sở định hướng của Tổng công ty, Luận văn tốt nghiệp đã mạnh dạn đưa ra các giải pháp, kiến nghị với Nhà nước và với Tổng công ty Thép Việt Nam nhằm nâng cao lợi nhuận của Tổng công ty trong năm 2000 và những năm tiếp theo. Để thực hiện Luận văn tốt nghiệp, em sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, so sánh, và diễn dịch để hệ thống lại số liệu, các chỉ tiêu đánh giá của Tổng công ty nhằm làm sáng tỏ các nội dung nghiên cứu, đề cập trong Luận văn tốt nghiệp. Hà Nội, ngày 30 tháng 5 năm 2001 Phạm Thị Hải Chương I Tổng quan về lợi nhuận của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Lợi nhuận và ý nghĩa của lợi nhuận đối với hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp Hoạt động của doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường Doanh nghiệp Nền kinh tế nước ta được vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhà nước đang tiếp tục đổi mới cơ chế chính sách để tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động mang lại hiệu quả kinh doanh và lợi nhuận cao. Doanh nghiệp là tổ chức kinh tế có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh nhằm mục đích tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu doanh nghiệp, tối đa hoá lợi nhuận và phát triển. ở nước ta hiện nay có nhiều loại hình doanh nghiệp hoạt động. Có thể phân loại doanh nghiệp căn cứ vào ngành nghề, hình thức sở hữu. Dựa vào hình thức sở hữu, các doanh nghiệp được chia thành: Doanh nghiệp Nhà nước Công ty cổ phần, Công ty trách nhiệm hữu hạn Doanh nghiệp tư nhân Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp Nhà nước: Theo Điều 1 Luật Doanh nghiệp Nhà nước “Doanh nghiệp Nhà nước là tổ chức kinh tế do Nhà nước đầu tư vốn, thành lập và tổ chức quản lý, hoạt động kinh doanh hoặc hoạt động công ích, nhằm thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội do Nhà nước giao cho. Doanh nghiệp Nhà nước có tư cách pháp nhân, có các quyền và nghĩa vụ dân sự, tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động, kinh doanh trong phạm vi số vốn do doanh nghiệp quản lý”. Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh là Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động chủ yếu nhằm mục tiêu lợi nhuận. Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động công ích là Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động sản xuất, cung ứng dịch vụ công cộng theo các chính sách của Nhà nước hoặc trực tiếp thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh. Công ty (Công ty Trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần): là doanh nghiệp trong đó các thành viên cùng góp vốn, cùng chia lợi nhuận, cùng chịu lỗ tương ứng với phần vốn góp của mình và chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty trong phạm vi phần góp của mình. Doanh nghiệp tư nhân: là doanh nghiệp do một cá nhân làm chủ và tự chịu trách nhiệm bằng toàn bộ tài sản của mình về mọi hoạt động của doanh nghiệp. Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài: gồm doanh nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài. Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp do hai bên hoặc nhiều bên hợp tác thành lập tại Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh hoặc hiệp định ký giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ nước ngoài hoặc là doanh nghiệp do doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam hoặc do doanh nghiệp liên doanh hợp tác với nhà đầu tư nước ngoài trên cơ sở hợp đồng liên doanh. Doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài đầu tư 100% vốn tại Việt Nam. b - Hoạt động của doanh nghiệp Hoạt động kinh doanh là một hoạt động đặc thù của doanh nghiệp. Doanh nghiệp kinh doanh những hàng hoá, dịch vụ mà thị trường có nhu cầu, trong khả năng nguồn lực hiện có của doanh nghiệp nhằm thu lợi nhuận cao nhất, nâng cao thu nhập của người lao động, tích luỹ để đẩy mạnh quá trình tái sản xuất mở rộng, góp phần tăng thu nhập quốc dân và thúc đẩy nền kinh tế đất nước phát triển. Để sản xuất hàng hoá và cung cấp dịch vụ, doanh nghiệp phải mua nguyên nhiên liệu, các bộ phận, linh kiện rời hay bán thành phẩm của các doanh nghiệp khác ở trong và ngoài nước. Như vậy, các doanh nghiệp muốn tồn tại phải có mối quan hệ tương hỗ với các thành viên khác trong nền kinh tế. Hoạt động tài chính là một trong những nội dung cơ bản trong hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Chủ yếu giải quyết các vấn đề ssau đây: Chiến lược đầu tư: Nguồn vốn đầu tư cho kinh doanh; Sử dụng lợi nhuận của doanh nghiệp; Phân tích, đánh giá, kiểm tra các hoạt động tài chính để đảm bảo trạng thái cân bằng tài chính. Quản lý hoạt động tài chính ngắn hạn để đưa ra các quyết định thu chi cho phù hợp. Các hoạt động trên nhằm đạt tới mục tiêu lợi nhuận cao nhất, sản xuất kinh doanh không ngừng tăng trưởng và phát triển. c- Thực trạng doanh nghiệp Nhà nước hiện nay Trong thời kỳ nền kinh tế nước ta được vận hành theo cơ chế kế hoạch hoá tập trung, các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước chiếm địa vị thống trị trên hầu hết các lĩnh vực kinh doanh và dịch vụ. Các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong điều kiện được bao cấp của Nhà nước như: Mua vật tư theo giá hạ; Được cấp vốn, trang bị máy móc thiết bị và vay vốn theo lãi suất thấp; Được trả lương không đầy đủ cho người lao động, phần còn lại được Nhà nước bao cấp ngoài lương; Được bao tiêu sản phẩm… Do vậy, trên sổ sách lợi nhuận và kết quả kinh doanh của doanh nghiệp Nhà nước có thể có hoặc có thể rất lớn. Nhưng nếu tính đủ chi phí như tính đủ nguyên giá tài sản cố định và khấu hao tài sản đủ tỷ lệ quy định; Tính đủ giá nguyên vật liệu, động lực, ngoại tệ nhập khẩu; Tính đủ tiền lương không bao cấp bằng hiện vật bằng bù lỗ bên ngoài của Ngân sách Nhà nước thì thực chất đó là lãi giả, lỗ thật. Ngược lại, cũng có trường hợp đơn vị được Nhà nước bù lỗ, song trên thực tế thì có lãi vì việc bù lỗ không căn cứ vào hoạt động xác thực của doanh nghiệp mà căn cứ vào định mức được duyệt. Thực hiện đường lối cải cách kinh tế, Đảng và Nhà nước đổi mới cơ chế, chính sách, tổ chức sắp xếp lại các doanh nghiệp Nhà nước tạo điều kiện để các doanh nghiệp Nhà nước hoạt động có hiệu qủa. Doanh nghiệp Nhà nước là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế Nhà nước, phải giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. Đó là chủ trương nhất quán của Đảng và Nhà nước trong sự nghiệp đổi mới kinh tế đất nước theo quy định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ cuối năm 1994 Nhà nước tiếp tục đổi mới khu vực kinh tế Nhà nước, các doanh nghiệp Nhà nước đã tổ chức, sắp xếp lại theo quy mô lớn trên cơ sở tập trung để tạo tiền đề tích tụ trong hoạt động kinh doanh. Thủ tướng Chính phủ đã thành lập 17 Tổng công ty Nhà nước hoạt động theo mô hình tập đoàn kinh doanh lớn theo Quyết định 91/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là Tổng công ty 91) và uỷ quyền cho các Bộ, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương quyết định thành lập 76 Tổng công ty Nhà nước hoạt động theo mô hình Quyết định 90/TTg ngày 7/3/1994 của Thủ tướng Chính phủ (gọi tắt là Tổng công ty 90). Các Tổng công ty 91 và Tổng công ty 90 được thành lập đã nắm trọn các ngành kinh tế kỹ thuật trọng yếu của quốc gia như: hàng không, hàng hải, bưu chính viễn thông, xi măng, sắt thép, xăng dầu, than, điện…Sau khi được sắp xếp lại, hiệu quả hoạt động của Doanh nghiệp Nhà nước đã từng bước được nâng lên rõ rệt. Tuy nhiên đối với những Doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, Nhà nước xét thấy thực sự không cần phải giữ lại thì thực hiện cổ phần hoá, bán đấu giá, khoán, cho thuê hoặc giải thể. Lợi nhuận và nguồn hình thành lợi nhuận Lợi nhuận Các quan điểm về lợi nhuận : Từ trước tới nay, có rất nhiều các quan điểm khác nhau về lợi nhuận. Ta có thể thấy được điều này qua các quan điểm về lợi nhuận sau : + Lợi nhuận của doanh nghiệp: là khoản chênh lệch giữa thu nhập về tiêu thụ hàng hoá và dịch vụ với chi phí đã bỏ ra để đạt được thu nhập đó. Việc tính toán thu nhập hay chi phí đã chi ra là theo giá cả của thị trường mà giá cả thị trường do quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ quyết định. + Lợi nhuận: là kết quả tài chính cuối cùng của các hoạt động SXKD, là chỉ tiêu chất lượng tổng hợp đánh giá hiệu qủa kinh tế các hoạt động SXKD của doanh nghiệp. + Thu nhập của doanh nghiệp hay chính là doanh thu bán hàng hoá và dịch vụ trừ đi toàn bộ chi phí sản xuất (chi phí về tiền thuê lao động, tiền lương, tiền thuê nhà cửa, tiền mua vật tư ... ) thuế hàng hoá và các thứ thuế khác hầu như còn lại được gọi là lợi nhuận. Có thể biểu diễn qua biểu sau : Biểu 1 : Mối quan hệ giữa doanh thu, chi phí, thuế và lợi nhuận. Doanh thu bán hàng và dịch vụ Lãi gộp Chi phí biến đổi Chi phí cố định Lợi nhuận trước thuế Tổng chi phí sản xuất Thuế Lợi nhuận thuần túy b- Các loại lợi nhuận của doanh nghiệp : Trong doanh nghiệp, có nhiều loại hình lợi nhuận khác nhau, ta có thể khái quát thành các loại lợi nhuận sau : + Lợi nhuận trước thuế. + Lợi nhuận sau thuế. 1.1.2.2- Các nguồn hình thành lợi nhuận của doanh nghiệp : Nội dung hoạt động sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp rất phong phú và đa dạng, do đó lợi nhuận đạt được từ các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp cũng hình thành từ nhiều nguồn khác nhau. Thứ nhất: Lợi nhuận của các hoạt động sản xuất kinh doanh chính và phụ là khoản chênh lệch giữa doanh thu về tiêu thụ và chi phí của khối lượng sản phẩm hàng hoá lao vụ thuộc các hoạt động sản xuất kinh doanh chính phụ của doanh nghiệp. Thứ hai: Lợi nhuận của các hoạt động liên doanh liên kết là số chênh lệch giữa thu nhập phân chia từ kết qủa hoạt động liên doanh liên kết với chi phí của doanh nghiệp đã chi ra để tham gia liên doanh. Thứ ba: Lợi nhuận thu được từ các nghiệp vụ tài chính là chênh lệch giữa các khoản thu chi thuộc các nghiệp vụ tài chính trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thứ tư: Lợi nhuận do các hoạt động sản xuất kinh doanh khác mang lại là lợi nhuận thu được do kết quả của hoạt động kinh tế khác ngoài các hoạt động kinh tế trên. Lợi nhuận giữ vị trí quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của bất kỳ một doanh nghiệp nào. Vì trong điều kiện hạch toán kinh doanh theo cơ chế thị trường doanh nghiệp có tồn tại và phát triển hay không thì điều quyết định là doanh nghiệp đó phải tạo ra lợi nhuận. Vì thế lợi nhuận được coi là một trong những đòn bẩy kinh tế quan trọng, đồng thời là một chỉ tiêu cơ bản để đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận tác động đến tất cả các mặt hoạt động của doanh nghiệp. Việc thực hiện các chỉ tiêu lợi nhuận là điều kiện quan trọng đảm bảo cho tình hình tài chính của doanh nghiệp được vững chắc. Lợi nhuận của quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp là chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh toàn bộ kết quả và hiệu qủa của qúa trình kinh doanh, của tất cả các mặt hoạt động trong quá trình kinh doanh ấy, nó phản ánh cả về mặt lượng và mặt chất của quá trình kinh doanh, của hoạt động kinh doanh. Công việc kinh doanh tốt sẽ đem lại lợi nhuận nhiều từ đó lợi nhuận có khả năng tiếp tục quá trình kinh doanh có chất lượng và hiệu quả hơn. Trong trường hợp ngược lại doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả dẫn đến thua lỗ nếu kéo dài có thể dẫn đến phá sản. 1.2- Phương pháp xác định lợi nhuận và phân phối lợi nhuận của doanh nghiệp 1.2.1- Các phương pháp xác định lợi nhuận của Doanh nghiệp Như ta đã biết lợi nhuận là chỉ tiêu phản ánh số lượng và chất lượng của các mặt hoạt động sản xuất kinh doanh. Chỉ tiêu này phụ thuộc vào tổng mức tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và chi phí đã chi ra để đạt được kết quả đó. Ta có thể xác định được lợi nhuận theo công thức sau: Tổng lợi nhuận trước thuế = Tổng doanh thu - Tổng chi phí sản xuất kinh doanh Hay : Tổng lợi nhuận trước thuế = Tổng doanh thu - Chi phí cố định + Chi phí biến đổi - Tổng doanh thu: là tổng số tiền thu được về bán hàng hoá và dịch vụ. - Chi phí cố định: là những khoản chi phí không thay đổi theo khối lượng công việc hoàn thành, không thay đổi khi sản lượng thay đổi như khấu hao tài sản cố định, tiền thuê đất, máy móc thiết bị, phương tiện kinh doanh, tiền lương, bảo hiểm xã hội của cán bộ công nhân viên (lao động gián tiếp trong doanh nghiệp ). - Chi phí biến đổi: là những chi phí tăng hoặc giảm cùng với sự tăng hoặc giảm của sản lượng như tiền mua nguyên vật liệu, tiền lương công nhân trực tiếp sản xuất. Chi phí biến đổi nói chung tỷ lệ với khối lượng hàng hoá sản xuất hay mua vào để bán. Tổng lợi nhuận sau thuế = Tổng doanh thu - Tổng chi phí sản xuất kinh doanh + Chi phí biến đổi Các khoản thuế phải nộp bao gồm : - Thuế doanh thu = Tổng doanh thu x tỷ lệ thuế doanh thu phải nộp - Thuế tài nguyên (nếu có) = Giá thành khối lượng sản phẩm x Tỷ lệ thuế tài nguyên phải nộp - Thuế xuất nhập khẩu (nếu có) = Doanh thu xuất nhập khẩu x Tỷ lệ thuế xuất nhập khẩu - Thuế vốn = Vốn sản xuất do ngân sách nhà nước cấp x Tỷ lệ thuế vốn phải nộp Ngoài ra doanh nghiệp có thể thu được lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh khác không mang tính chất tiêu thụ hàng hoá. Lợi nhuận từ các hoạt động kinh doanh khác = Tổng thu nhập - Tổng chi phí bỏ ra Như vậy ta có thể xác định tổng lợi nhuận của doanh nghiệp như sau : Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp = Tổng lợi nhuận từ sản xuất kinh doanh + Lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh khác Khi đã tính toán được tổng số lợi nhuận của doanh nghiệp ta còn phải xác định số thuế lợi tức doanh nghiệp phải nộp. Thuế lợi tức phải nộp = Tổng số lợi nhuận x Tỷ lệ thuế lợi tức phải nộp Số lợi nhuận còn lại sau khi đã trừ đi thuế lợi tức được gọi là lợi nhuận thuần túy của doanh nghiệp. Như chúng ta đã biết: Toàn bộ doanh thu, giá thành toàn bộ và thuế đều được xác định dựa trên cơ sở khối lượng sản phẩm tiêu thụ, giá bán đơn vị, giá thành đơn vị và mức thuế đơn vị sản phẩm tiêu thụ. Do đó tổng lợi nhuận tiêu thụ còn có thể được tính theo công thức sau : n m m i=l i=l i=l ồln = [ ồ (Qi x Gi ) - ( ồ Zi + ồTi )] ồln : Tổng lợi nhuận của doanh nghiệp Qi : Sản lượng hàng hoá tiêu thụ Gi : Giá bán hàng hoá loại i Zi : Giá thành hàng hoá loại i Ti : Thuế hàng hoá loại i tiêu thụ n : Số loại hàng hoá m : Số loại thuế Qua công thức xác định lợi nhuận trên ta có thể thấy rõ được sự ảnh hưởng của từng nhân tố sản lượng tiêu thụ, cơ cấu mặt hàng, giá thành sản phẩm và các loại thuế đến tổng số lợi nhuận đạt được của doanh nghiệp. Ta có thể xét sự ảnh hưởng của các nhân tố trên qua việc phân tích dưới đây: a- Nhân tố sản lượng sản phẩm tiêu thụ: Trong trường hợp các nhân tố khác không biến động (nhân tố về giá cả, giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá dịch vụ tiêu thụ, thuế ...) thì sản lượng tiêu thụ tăng giảm bao nhiêu lần tổng số lợi nhuận tiêu thụ cũng tăng giảm bấy nhiêu. Nhân tố này được coi là nhân tố chủ quan của doanh nghiệp trong công tác quản lý kinh doan nói chung và quản lý tiêu thụ nói riêng. Việc tăng sản lượng tiêu thụ phản ánh kết quả tích cực của doanh nghiệp từ khâu sản xuất đến khâu chuẩn bị tiêu thụ và tiêu thụ sản phẩm. b- Nhân tố kết cấu mặt hàng tiêu thụ: Việc thay đổi tỷ trọng mặt hàng tiêu thụ có liên quan đến việc xác định chính sách sản phẩm, cơ cấu mặt hàng của doanh nghiệp. Mỗi loại mặt hàng có tỷ trọng mức lãi lỗ khác nhau do đó nếu tăng tỷ trọng những mặt hàng có mức lãi cao, giảm tỷ trọng tiêu thụ những mặt hàng có mức lãi thấp thì mặc dù tổng sản lượng tiêu thụ có thể không đổi nhưng tổng số lợi nhuận có thể vẫn tăng. Việc thay đổi tỷ trọng mặt hàng tiêu thụ lại chịu ảnh hưởng của nhu cầu thị trường. Về ý muốn chủ quan thì doanh nghiệp nào cũng muốn tiêu thụ nhiều những mặt hàng mang lại lợi nhuạan cao song ý muốn đó phải đặt trong mối quan hệ cung cầu trên thị trường và những nhân tố khách quan tác động. c- Nhân tố giá bán sản phẩm: Trong điều kiện bình thường đối với các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh bình thường, giá bán sản phẩm do doanh nghiệp xác định. Trong trường hợp này giá bán sản phẩm thay đổi thường do chất lượng sản phẩm thay đổi. Do việc thay đổi này mang tính chất chủ quan, tức là phản ánh kết quả chủ quan của doanh nghiệp trong quản lý sản xuất kinh doanh nói chung và quản lý chất lượng nói riêng. Khi giá bán sản phẩm tăng sẽ làm tổng số lợi nhuận tiêu thụ. Từ phân tích trên có thể suy ra rằng việc cải tiến nâng cao chất lượng sản phẩm là biện pháp cơ bản để tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Mặt khác việc thay đổi giá bán cũng do tác động của quan hệ cung cầu, của cạnh tranh ... đây là tác động của yếu tố khách quan. d- Nhân tố giá thành toàn bộ sản phẩm tiêu thụ: Giá thành toàn bộ sản phẩm là tập hợp toàn bộ các khoản mục chi phí mà doanh nghiệp đã chi ra trong quá trình sản xuất kinh doanh. Giá thành sản phẩm cao hay thấp phản ánh kết quả của việc quản lý, sử dụng lao động, vật tư kỹ thuật, tiền vốn trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nếu như sản lượng sản xuất, giá cả, mức thuế không thay đổi thì việc giảm giá thành sẽ là nhân tố tích cực ảnh hưởng đến việc tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. e- Nhân tố thuế nộp ngân sách: ảnh hưởng của thuế đối với lợi nhuận là không theo cùng một tỷ lệ. Việc tăng giảm thuế là do yếu tố khách quan quyết định (chính sách, luật định của nhà nước). Với mức thuế càng cao thì lợi nhuận của doanh nghiệp càng giảm nhưng doanh nghiệp vẫn phải có nghĩa vụ đóng thuế đầy đủ cho nhà nước. 1.2.2- Chế độ phân phối lợi nhuận trong doanh nghiệp : Lợi nhuận tạo ra sau một chu kỳ sản xuất kinh doanh một phần được trích nộp vào ngân sách nhà nước, một phần để lại doanh nghiệp. Phần trích nộp vào ngân sách nhà nước biểu hiện ở hình thức nộp thuế lợi tức đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào (tỷ lệ nộp thuế lợi tức đối với các doanh nghiệp sản xuất thường là 25% và 45% đối với các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ). Phần để lại doanh nghiệp được trích vào 3 qũy đó là qũy khuyến khích phát triển sản xuất, qũy phúc lợi và qũy khen thưởng theo các tỷ lệ sau: - Qũy khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh > 35%. - Qũy phúc lợi và khen thưởng < 65%. Việc trích lợi nhuận vào qũy khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh giúp cho doanh nghiệp có tích lũy tạo khả năng tái sản xuất mở rộng nhằm phát triển quy mô sản xuất kinh doanh cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp sẽ có khả năng đầu tư đổi mới máy móc thiết bị, cải tiến chất lượng sản phẩm, nâng cao khả năng cạnh tranh ... từ đó có điều kiện tiêu thụ được nhiều sản phẩm hơn, đạt lợi nhuận cao hơn. Còn phần trích vào qũy phúc lợi và qũy khen thưởng nhằm mục tiêu tạo ra công cụ khuyến khích người lao động không ngừng nâng cao tay nghề và trình độ, tăng năng suất lao động, cải thiện điều kiện làm việc, nâng cao đời sống của người lao động, là động lực giúp cho người lao động gắn bó với doanh nghiệp hơn. 1.3- Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận và các biện pháp tăng lợi nhuận 1.3.1- Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận a- ý nghĩa của các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận: Khi tính toán hiệu qủa của hoạt động sản xuất kinh doanh chúng ta không thể coi lợi nhuận là chỉ tiêu duy nhất để đánh giá chất lượng của hoạt động sản xuất kinh doanh và cũng không chỉ dùng chỉ tiêu này để so sánh chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp khác nhau. Trước hết lợi nhuận là kết quả tài chính cuối cùng nó chịu ảnh hưởng bởi nhiều nhân tố khách quan và chủ quan, đồng thời các nhân tố này lại tác động lẫn nhau. Như do điều kiện sản xuất kinh doanh, điều kiện vận chuyển hàng hoá, điều kiện thị trường tiêu thụ, thời điểm tiêu thụ có khác nhau cũng làm cho lợi nhuận của các doanh nghiệp khác nhau. Hơn nữa quy mô của các doanh nghiệp sản xuất cùng loại sản phẩm hàng hoá và dịch vụ khác nhau thì lợi nhuận thu được cũng sẽ khác nhau. ở những doanh nghiệp lớn có thể công tác quản lý kém nhưng số lợi nhuận thu được vẫn lớn hơn những doanh nghiệp có quy mô nhỏ nhưng công tác quản lý lại rất tốt. Do vậy để đánh giá một cách đầy đủ hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì phải sử dụng các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận. Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận chính là các chỉ tiêu sinh lời kinh doanh biểu hiện mối quan hệ giữa lợi nhuận và chi phí sản xuất thực tế hoặc với nguồn lực tài chính để tạo ra lợi nhuận. Đồng thời cũng thể hiện trình độ năng lực kinh doanh của nhà kinh doanh trong việc sử dụng các yếu tố đó. Như vậy ngoài chỉ tiêu lợi nhuận tuyệt đối còn phải dùng các chỉ tiêu tương đối là tỷ suất lợi nhuận. b- Các chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận: * Tỷ suất lợi nhuận của vốn: Đây là quan hệ tỷ lệ giữa số lợi nhuận đạt được với số vốn đã chi ra bao gồm các vốn cố định và vốn lưu động. Công thức: Tỷ suất lợi nhuận của vốn = Tổng số lợi nhuận Tổng vốn sản xuất kinh doanh Tổng số vốn sản xuất kinh doanh bao gồm vốn cố định và vốn lưu động đã chi ra (trong đó vốn cố định là nguyên giá tài sản cố định trừ đi số đã khấu hao và vốn lưu động là vốn dự trữ sản xuất, vốn thành phẩm dở dang, vốn thành phẩm). Chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận của vốn cho thấy hiệu quả sử dụng một đồng vốn sản xuất tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Để nâng cao chỉ tiêu này đòi hỏi doanh nghiệp phải quản lý chặt chẽ, sử dụng tiết kiệm vốn trong các khâu của quá trình sản xuất kinh doanh. * Tỷ suất lợi nhuận của giá thành : Là quan hệ tỷ lệ giữa lợi nhuận tiêu thụ so với giá thành toàn bộ của sản phẩm hàng hoá và dịch vụ tiêu thụ. Công thức: Tỷ suất lợi nhuận của giá thành = Tổng số lợi nhuận Giá thành toàn bộ sản phẩm hàng hoá & dịch vụ tiêu thụ Chỉ tiêu này cho thấy hiệu quả của một đồng chi phí sử dụng trong việc tạo ra lợi nhuận. Điều này cho phép doanh nghiệp tìm biện pháp hạ giá thành để nâng cao hiệu quả kinh doanh. * Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu bán hàng: Là một chỉ số phản ánh kết qủa hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, biểu hiện quan hệ giữa tỷ lệ lợi nhuận tiêu thụ và doanh thu bán hàng. Công thức: Tỷ suất doanh lợi = Tổng số lợi nhuận Tổng doanh thu tiêu thụ hàng hoá & dịch vụ Qua công thức cho thấy hiệu quả của một đồng doanh thu thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. * Tỷ suất lợi nhuận theo lao động : Là so sánh giữa tổng lợi nhuận với số lượng lao động tham gia vào quá trình sản xuất kinh doanh hoặc với tổng chi phí về tiền lương (tiền công) sử dụng trong quá trình sản xuất kinh doanh. Điều này có tác dụng khuyến khích các doanh nghiệp quản lý và sử dụng tốt lao động trong doanh nghiệp theo các hợp đồng lao động. Công thức : Tỷ suất lợi nhuận theo lao động = Tổng số lợi nhuận Tổng lao động sử dụng trong kỳ 1.3.2- Các biện pháp nhằm tăng lợi nhuận trong doanh nghiệp Qua việc phân tích các yếu tố ảnh hưởng đến việc tăng lợi nhuận ở phần trên ta có thể đưa ra một số biện pháp chính nhằm tăng lợi nhuận trong các doanh nghiệp như sau: a- Tăng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo nhu cầu trong nước và quốc tế trên cơ sở phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ: Nhu cầu và thị hiếu của người tiêu dùng hay của thị trường rất đa dạng và phong phú, dễ biến động. Trong điều kiện các nhân tố khác ổn định thì việc tăng lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo nhu cầu thị trường sẽ làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Muốn tăng được khối lượng sản phẩm tiêu thụ cần chuẩn bị tốt các yếu tố và điều kiện cần thiết cho quá trình sản xuất kinh doanh được tiến hành thuận lợi, tổ chức tốt quá trình sản xuất kinh doanh một cách cân đối nhịp nhàng và liên tục, khuyến khích người lao động tăng nhanh năng suất lao động. Phấn đấu nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ: Nhu cầu thị trường đòi hỏi ngày càng cao về chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, phấn đấu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng mẫu mã sản phẩm tiêu thụ là điều kiện để tăng nhanh khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp từ đó giúp tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Đối với những sản phẩm có hàm lượng chất xám cao cho ta khả năng nâng cao giá trị và giá trị sử dụng nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. Nhưng để nâng cao được chất lượng sản phẩm đòi hỏi bản thân doanh nghiệp phải nỗ lực cố gắng. b- Tăng cường tiêu thụ những sản phẩm có tỷ trọng lợi nhuận cao: Mỗi doanh nghiệp thu được những nguồn lợi nhuận khác nhau từ những mặt hàng tiêu thụ khác nhau. Đối với những mặt hàng tiêu thụ có tỷ trọng lợi nhuận lớn doanh nghiệp phải phấn đấu tăng lượng tiêu thụ và chú trọng vào sản xuất mặt hàng đó nhiều hơn. Trong điều kiện cơ chế thị trường đòi hỏi các doanh nghiệp phải sản xuất kinh doanh theo kiểu tổng hợp do vậy mà cơ cấu mặt hàng rất đa dạng và phong phú. Có thể có mặt hàng không có lãi hay lãi thấp, có mặt hàng có lãi cao vậy để tăng lợi nhuận doanh nghiệp nên chú trọng việc tăng mặt hàng thu được lợi nhuận cao. c- Phấn đấu hạ giá thành sản phẩm và các chi phí khác nhằm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp: Đây là nhân tố quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào, giá thành là tổng hợp của nhiều nhân tố chi phí tạo nên trong đó bao gồm các chi phí chính như: Chi phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, năng lượng thứ nữa là các chi phí tiền lương, tiền công và cuối cùng là chi phí cố định (thể hiện qua việc khấu hao tài sản cố định hàng năm được tính vào giá thành) do vậy để hạ giá thành sản phẩm cần phải giảm các nhân tố chi phí trên: - Biện pháp tiết kiệm nguyên vật liệu, năng lượng: Cần phải cải tiến định mức tiêu hao, cải tiến phương pháp công nghệ, sử dụng tổng hợp nguyên liệu, vật liệu thay thế, giảm tỷ lệ phế phẩm, giảm chi phí mua sắm, vận chuyển, bảo quản và tiết kiệm nguyên vật liệu. ảnh hưởng của biện pháp này đến việc hạ giá thành sản phẩm được tính theo công thức: Chỉ số hạ giá thành do giảm chi phí NVL = Chỉ số định mức NVL x Chỉ số giá cả -1 x Chỉ số tỷ trọng NVL trong giá thành sản phẩm - Biện pháp giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm: Muốn giảm chi phí tiền lương và tiền công trong giá thành sản phẩm cần tăng nhanh năng suất lao động bằng cách cải tiến công tác tổ chức sản xuất, tổ chức lao động, áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghiệp, nâng cao trình độ người lao động, có chế độ khuyến khích người lao động thích hợp bằng cách áp dụng hình thức lương hưởng đúng mức. Năng suất lao động tăng nhanh hơn chi phí về tiền lương bình quân sẽ cho phép giảm chi phí trong giá thành sản phẩm. Do đó khoản mục chi phí và tiền công trong giá thành sản phẩm sẽ giảm theo tỷ lệ với tỷ trọng tiền lương trong giá thành sản phẩm. ảnh hưởng của việc giảm chi phí tiền lương sẽ được tính toán theo công thức: Chỉ số hạ giá thành sản phẩm do tăng năng suất lao động = Chỉ số tiền lương bình quân -1 x Chỉ số chi phí tiền lương trong giá thành sản phẩm Chỉ số tăng năng suất lao động - Biện pháp giảm chi phí cố định trong giá thành sản phẩm: Giảm chi phí cố định ở đây không có nghĩa là phải đầu tư những công nghệ rẻ tiền, cũ kỹ mà phải sử dụng những công nghệ tiên tiến nhằm tăng lượng sản phẩm sản xuất ra. Tốc độ tăng sản phẩm hàng hoá sẽ làm cho chi phí cố định trong giá thành sản phẩm giảm vì tốc độ tăng chi phí nhỏ hơn tốc độ tăng sản phẩm. Như vậy để tăng lượng sản phẩm sản xuất, phải mở rộng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động. ảnh hưởng của biện pháp này được xác định theo công thức : Chỉ số giảm giá thành do giảm chi phí cố định = Chỉ số chi phí cố định -1 x Chỉ số chi phí cố định trong giá thành sản phẩm Chỉ số sản lượng Trên cơ sở tính toán được ảnh hưởng của các nhân tố trong giá thành sản phẩm ta phải kết hợp các nhân tố để làm sao giảm được các chi phí ở mức tối ưu (không nhất thiết là giảm càng nhiều càng tốt như vậy sẽ ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm). d- Tổ chức tốt khâu tiêu thụ sản phẩm hàng hóa và dịch vụ nhằm giảm chi phí tiêu thụ: Để thấy được hiệu quả rõ rệt của sản xuất kinh doanh thì nhất thiết phải làm tốt khâu tiêu thụ sản phẩm. Dù cho sản phẩm có chất lượng tốt như thế nào, công tác sản xuất có hiệu quả đến mấy mà sản phẩm không tiêu thụ được thì sẽ không._. có lợi nhuận. Để thực hiện tốt công tác này cần có những biện pháp xúc tiến bán hàng như quảng cao, khuyến mãi... các kênh tiêu thụ phân phối hợp lý, làm tốt công tác dịch vụ sau bán hàng. 1.4- Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận và tính tất yếu của việc nâng cao lợi nhuận trong doanh nghiệp 1.4.1- Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp Lợi nhuận của doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp và tổng hợp của tất cả các mặt hàng sản xuất kinh doanh. Dưới đây ta đi sâu vào xem xét cụ thể từng nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận. a- Quan hệ cung cầu hàng hoá và dịch vụ trên thị trường: Do tham gia hoạt động tìm kiếm lợi nhuận theo nguồn cơ chế thị trường nên doanh nghiệp chịu ảnh hưởng trực tiếp của nhân tố quan hệ cung - cầu hàng hoá dịch vụ. Sự biến động này có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự ứng xử thích hợp để thu được lợi nhuận. Nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ lớn trên thị trường sẽ cho phép các doanh nghiệp mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh để đảm bảo cung lớn. Điều đó tạo khả năng lợi nhuận của từng đơn vị sản phẩm hàng hoá, nhưng đặc biệt quan trọng là tăng tổng số lợi nhuận. Cung thấp hơn cầu sẽ có khả năng định giá bán hàng hoá và dịch vụ, ngược lại cung cao hơn cầu thì giá cả hàng hoá và dịch vụ sẽ thấp điều này ảnh hưởng đến lợi nhuận của từng sản phẩm hàng hóa hay tổng số lợi nhuận thu được. Trong kinh doanh các doanh nghiệp coi trọng khối lượng sản phẩm hàng hoá tiêu thụ, còn giá cả có thể chấp nhận ở mức hợp lý để có lãi cho cả doanh nghiệp công nghiệp và doanh nghiệp thương mại, khuyến khích khách hàng có thể mua với khối lượng lớn nhất để có tổng mức lợi nhuận cao nhất. Muốn vậy các doanh nghiệp phải tìm các biện pháp kích thích cầu hàng hoá và dịch vụ của mình, nhất là cầu có khả năng thanh toán bằng cách nâng cao chất lượng hàng hoá và dịch vụ, cải tiến phương thức bán hàng... b- Chất lượng công tác chuẩn bị cho quá trình kinh doanh: Để cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp đạt tới lợi nhuận nhiều và hiệu quả kinh tế cao, các doanh nghiệp cần phải chuẩn bị tốt các điều kiện, các yếu tố chi phí thấp nhất. Các đầu vào được lựa chọn tối ưu sẽ tạo khả năng tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm giảm. Do đó cơ sở để tăng lợi nhuận cho các doanh nghiệp công nghiệp là chuẩn bị các đầu vào hợp lý, tiết kiệm tạo khả năng tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp. Nội dung của công tác chuẩn bị cho quá trình sản xuất kinh doanh phụ thuộc vào nhiệm vụ, tính chất sản xuất kinh doanh của mỗi doanh nghiệp. Trước hết đó là chuẩn bị tốt về khâu thiết kế sản phẩm và công nghệ sản xuất. Thiết kế sản phẩm và công nghệ chế tạo hợp lý sẽ tạo điều kiện giảm thời gian chế tạo, hạ giá thành, tạo lợi nhuận cho quá trình tiêu thụ. Tiếp đó là chuẩn bị tốt các yếu tố vật chất cần thiết cho quá trình sản xuất như lao động ( số lượng, chất lượng, cơ cấu ) máy móc thiết bị, dụng cụ sản xuất được thuận lợi, nhịp nhàng và liên tục giúp nâng cao hiệu quả kinh doanh. Cuối cùng là doanh nghiệp phải có phương án hợp lý về tổ chức điều hành quá trình sản xuất (tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý). c- Nhân tố về trình độ tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm: Tổ chức quá trình sản xuất sản phẩm hàng hoá và dịch vụ là quá trình thực hiện sự kết hợp chặt chẽ các yếu tố đầu vào như lao động, vật tư, kỹ thuật...để chế tạo ra sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Qúa trình này tiến hành tốt hay xấu ảnh hưởng trực tiếp đến việc tạo ra số lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, chất lượng sản phẩm hàng hoá dịch vụ, chi phí sử dụng các yếu tố để sản xuất ra sản phẩm hàng hoá dịch vụ đó. Điều đó chứng tỏ rằng muốn tạo ra lợi nhuận cao cần phải có trình độ tổ chức sản xuất sao cho tiết kiệm được chi phí ở mức tối đa mà không ảnh hưởng đến chất lượng của sản phẩm tiêu thụ. d- Nhân tố trình độ tổ chức tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ : Sau khi doanh nghiệp đã sản xuất được sản phẩm hàng hoá và dịch vụ theo quyết định tối ưu về sản xuất thì khâu tiếp theo sẽ là phải tổ chức bán nhanh, bán hết, bán với giá cao những hàng hoá và dịch vụ đó để thu được tiền về cho quá trình tái sản xuất mở rộng tiếp theo. Lợi nhuận của quá trình sản xuất kinh doanh chỉ có thể thu được sau khi thực hiện tốt công tác tiêu thụ sản phẩm hàng hoá và dịch vụ. Do đó tổ chức tiêu thụ khối lượng lớn hàng hoá và dịch vụ tiết kiệm chi phí tiêu thụ sẽ cho ta khả năng lợi nhuận. Để thực hiện tốt công tác này doanh nghiệp phải nâng cao chất lượng các mặt hàng hoạt động về tổ chức mạng lưới kênh tiêu thụ sản phẩm, công tác quảng cáo marketing, các phương thức bán và dịch vụ sau bán hàng. e- Trình độ tổ chức và quản lý quá trình kinh doanh của doanh nghiệp: Tổ chức quản lý quá trình kinh doanh của các doanh nghiệp công nghiệp là một nhân tố quan trọng, có ảnh hưởng lớn đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Quá trình quản lý kinh doanh của doanh nghiệp công nghiệp bao gồm các khâu cơ bản như định hướng chiến lược phát triển của doanh nghiệp, xây dựng kế hoạch kinh doanh, xây dựng các phương án kinh doanh, kiểm tra đánh giá và điều chỉnh các hoạt động kinh doanh. Các khâu quản lý quá trình hoạt động kinh doanh tốt sẽ tăng sản lượng, nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành sản phẩm, giảm chi chí quản lý. Đó là điều kiện quan trọng để tăng lợi nhuận. Các nhân tố ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp qua phân tích ở trên phải chính do doanh nghiệp khắc phục bằng chính ý chí chủ quan muốn đạt được lợi nhuận cao của mình. Ngoài ra còn có những nhân tố ảnh hưởng khách quan từ phía bên ngoài môi trường kinh doanh đó là nhân tố chính sách kinh tế vĩ mô của Nhà nước. f- Chính sách kinh tế vĩ mô của nhà nước: Doanh nghiệp là một tế bào của hệ thống Kinh tế quốc dân, hoạt động của nó ngoài việc bị chi phối bởi các quy luật của thị trường nó còn bị chi phối bởi những chính sách kinh tế của Nhà nước (chính sách tài khóa, chính sách tiền tệ, chính sách tỷ giá hối đoái ... ) Trong điều kiện kinh tế thị trường có sự quản lý của nhà nước cần nghiên cứu kỹ các nhân tố này. Vì như Chính sách tài khoá thay đổi tức là mức thuế thay đổi sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận của doanh nghiệp, hoặc khi chính sách tiền tệ thay đổi có thể là mức lãi giảm đi hay tăng lên có ảnh hưởng trực tiếp đến việc vay vốn của doanh nghiệp. Trên đây là những nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp công nghiệp. Các nhân tố này được tiếp cận theo quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, chúng có quan hệ rất chặt chẽ với nhau. Việc nghiên cứu các nhân tố này cho phép xác định các yêu tố chủ quan và khách quan ảnh hưởng đến lợi nhuận của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó xác định các biện pháp nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp trong điều kiện cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. 1.4.2- Tính tất yếu của việc nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp: a- Vai trò của nâng cao lợi nhuận với sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp: Bất kỳ một doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường điều đầu tiên mà họ quan tâm đó là lợi nhuận. Đây là một chỉ tiêu kinh tế tổng hợp phản ánh hiệu quả của quá trình kinh doanh, đồng thời đó còn là yếu tố sống còn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp chỉ tồn tại và hoạt động khi nó tạo ra lợi nhuận, nếu doanh nghiệp hoạt động không có hiệu qủa, thu không đủ bù đắp chi phí đã bỏ ra thì doanh nghiệp đó đi đến chỗ phá sản. Từ trước đến nay nước ra có hàng loạt các Xí nghiệp, Doanh nghiệp phá sản hoặc giải thể do làm ăn không có hiệu quả, trong đó có cả Xí nghiệp nhà nước, tư nhân ... Đặc biệt trong điều kiện hiện nay, cạnh tranh diễn ra ngày càng gay gắt và khốc liệt vì vậy lợi nhuận là yếu tố cực kỳ quan trọng và có vai trò quan trọng đối với doanh nghiệp: - Tạo ra khả năng để tiếp tục kinh doanh có chất lượng và hiệu quả cao hơn. - Đảm bảo tái sản xuất mở rộng. - Việc không ngừng nâng cao lợi nhuận là đảm bảo hiệu quả kinh doanh thể hiện năng lực, trình độ quản lý sản xuất và sự năng động của đội ngũ cán bộ quản lý sản xuất kinh doanh trong doanh nghiệp. Trong điều kiện kinh doanh theo cơ chế thị trường, một doanh nghiệp tạo được lợi nhuận chứng tỏ là đã thích nghi với cơ chế thị trường. - Lợi nhuận càng cao thể hiện sức mạnh về tài chính của doanh nghiệp càng vững chắc, tạo điều kiện mở rộng sản xuất kinh doanh, thực hiện đầu tư chiều sâu và đổi mới công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hoá và dịch vụ, tăng khả năng cạnh trạnh ... từ đây là tạo đà nâng cao lợi nhuận của doanh nghiệp. - Sản xuất kinh doanh có hiệu qủa và đạt lợi nhuận cao sẽ có điều kiện nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người lao động. Ngoài phần tiền công mà mỗi lao động nhận được theo nguyên tắc phân phối theo lao động, lợi nhuận của doanh nghiệp còn góp phần nâng cao thu nhập của người lao động thông qua phần phối phối vào qũy phúc lợi và qũy khen thưởng. Chính yếu tố kinh tế đó sẽ tạo nên sự gắn bó của cán bộ công nhân với doanh nghiệp. - Lợi nhuận là điều kiện tài chính để doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ, trách nhiệm với xã hội. Thông qua việc nộp ngân sách đầy đủ sẽ giúp cho Nhà nước thực hiện công tác phúc lợi đối với xã hội, đất nước ... tạo điều kiện cho đất nước phát triển, thực hiện tốt chủ trương công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước. Vì mỗi doanh nghiệp là một tế bào của nền kinh tế quốc dân nên bản thân doanh nghiệp hoạt động hiệu quả thì nền kinh tế trong nước mới phát triển. b- Đối với nhà nước: Khi doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu qủa đạt được lợi nhuận cao thì Nhà nước cũng có lợi: - Tăng nhiều sản phẩm cho xã hội. - Chất lượng tăng, giá bán hạ làm ổn định nền kinh tế. - Tăng nguồn thu cho ngân sách. - Tạo điều kiện cải thiện và nâng cao mức sống cho người dân. - Đảm bảo tăng trưởng kinh tế ... Chương II thực trạng về hoạt động kinh doanh và lợi nhuận của Tổng công ty thép Việt nam 2.1. Khái quát chung về Tổng công ty thép Việt Nam 2.1.1- Quá trình hình thành và phát triển Công nghiệp sản xuất thép là ngành công nghiệp quan trọng đối với sự phát triển của mỗi quốc gia, bởi thép là vật liệu chủ yếu cho nhiều ngành công nghiệp, có ý nghĩa quyết định đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. ở Việt Nam trong những năm 80, nguồn cung cấp các sản phẩm thép cho thị trường nội địa chủ yếu là từ Công ty gang thép Thái Nguyên và Công ty thép Miền Nam. Nói chung, sản lượng, chủng loại và chất lượng thép không đáp ứng đủ nhu cầu xã hội, công nghệ sản xuất lạc hậu, cơ sở vật chất kỹ thuật nhỏ bé và phân tán, tính cạnh tranh kém, hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả không cao. Để khắc phục tình trạng nói trên, ngày 04 tháng 7 năm 1994, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 344/TTg hợp nhất Tổng công ty Thép và Tổng công ty Kim khí, đưa chức năng sản xuất và kinh doanh mặt hàng sản phẩm thép vào trong sự quản lý tập trung, thống nhất của Tổng công ty Thép Việt Nam. Thực hiện chủ trương về thí điểm thành lập các Tập đoàn kinh doanh, ngày 29 tháng 4 năm 1995 Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định số 225/TTg thành lập lại Tổng công ty Thép Việt Nam theo mô hình Tổng công ty Nhà nước. Tổng công ty Thép Việt Nam có tên giao dịch quốc tế: Vietnam steel copporation (VSC) Địa chỉ: Số 91, Phố Láng Hạ, Quận Đống Đa, Cầu Giấy, Thành phố Hà Nội 2.1.2- Chức năng, nhiệm vụ của Tổng công ty Thép Việt Nam Tổng công ty Thép Việt Nam là một trong 17 Tổng công ty Nhà nước được Thủ tướng Chính phủ thành lập và hoạt động theo mô hình Tổng công ty 91- mô hình Tập đoàn kinh doanh lớn của Nhà nước. Tổng công ty Thép Việt Nam là doanh nghiệp Nhà nước được Thủ tướng Chính phủ xếp hạng đặc biệt. Chức năng, nhiệm vụ của Tổng công ty đã được quy định rõ trong quyết định thành lập của Thủ tướng Chính phủ như sau: Tổng công ty có nhiệm vụ kinh doanh thép, một số kim loại khác và các loại khoáng sản có liên quan theo chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và chính sách của Nhà nước về phát triển các kim loại này; bao gồm xây dựng kế hoạch phát triển, đầu tư, tạo nguồn vốn đầu tư, xây dựng, sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu, tiêu thụ sản phẩm và cung ứng vật tư, thiết bị liên quan đến ngành thép; tiến hành các hoạt động kinh doanh khác phù hợp với pháp luật, chính sách Nhà nước. Căn cứ vào quyết định trên, Tổng công ty Thép Việt Nam hoạt động kinh doanh mặt hàng sản phẩm thép trên thị trường trong cả nước bao gồm các khâu từ khai thác nguyên liệu, sản xuất thép và các sản phẩm thép cho đến phân phối và tiêu thụ sản phẩm. Các lĩnh vực hoạt động kinh doanh chủ yếu của Tổng công ty như sau: - Khai thác quặng sắt, than mỡ, nguyên liệu trợ dung phục vụ cho sản xuất luyện kim. - Sản xuất gang, thép, sản phẩm thép sau cán, fero hợp kim, vật liệu chịu lửa... - Kinh doanh xuất nhập khẩu thép, vật tư thiết bị và các dịch vụ liên quan đến sản xuất thép, xây dựng, cơ khí sửa chữa, chế tạo máy... - Thiết kế, chế tạo, thi công xây lắp trang thiết bị phục vụ sản xuất thép và các ngành liên quan khác. - Kinh doanh khách sạn và các dịch vụ khác. - Đào tạo, nghiên cứu khoa học kỹ thuật phục vụ sản xuất thép và sản xuất vật liệu kim loại. - Đầu tư, liên doanh, liên kết kinh tế với các đối tác trong nước và nước ngoài. - Xuất khẩu lao động. Tổng công ty Thép Việt Nam còn được Nhà nước giao nhiệm vụ cân đối số lượng sản phẩm thép sản xuất trong nước với nhu cầu tiêu dùng của nền kinh tế và xã hội kết hợp nhập khẩu các mặt hàng thép trong nước chưa sản xuất được để bình ổn giá cả thị trường thép trong nước, bảo toàn và phát triển vốn Nhà nước giao, tăng nguồn thu cho ngân sách Nhà nước, tạo việc làm và đảm bảo đời sống cho người lao động trong Tổng công ty. 2.1.3- Cơ cấu tổ chức, quản lý và điều hành của Tổng công ty Cơ cấu tổ chức, quản lý và điều hành Tổng công ty được thực hiện theo Luật Doanh nghiệp Nhà nước và Nghị định số 03/CP, ngày 25/01/1996 của Chính phủ phê chuẩn Điều lệ Tổng công ty. Về cơ cấu tổ chức, Tổng công ty có bộ máy quản lý và điều hành của Tổng công ty, 14 đơn vị thành viên và 7 doanh nghiệp liên doanh với nước ngoài, 1 doanh nghiệp liên doanh trong nước Cơ cấu tổ chức quản lý doanh nghiệp của Tổng công ty Thép Việt Nam đang được áp dụng là cơ cấu quản trị phổ biến hiện nay (trực tuyến chức năng). Theo cơ cấu này, người lãnh đạo doanh nghiệp được sự giúp sức của tập thể lãnh đạo chuẩn bị các quyết định đối với cấp dưới. Người lãnh đạo doanh nghiệp chịu trách nhiệm về mọi lĩnh vực hoạt động và toàn quyền quyết định trong phạm vi doanh nghiệp. Việc truyền lệnh, ra các quyết định, chỉ thị vẫn theo tuyến đã quy định, người lãnh đạo ở các bộ phận chức năng (Phòng, Ban chuyên môn) Tổng công ty không ra lệnh trực tiếp, chỉ thị cho đơn vị thành viên cấp dưới. Các bộ phận chức năng có nhiệm vụ nghiên cứu, chuẩn bị quyết định cho lãnh đạo Tổng công ty (Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc) quản lý, điều hành các đơn vị thành viên Tổng công ty. Đồng thời các bộ phận chức năng có nhiệm vụ theo dõi, giám sát, đôn đốc hoặc hướng dẫn các đơn vị thành viên Tổng công ty trong việc thi hành các mệnh lệnh, quyết định của lãnh đạo Tổng công ty. Bên cạnh mô hình cơ cấu trực tuyến chức năng, để linh hoạt, chủ động trong điều hành công việc và phát huy được trí tuệ, năng lực của đội ngũ chuyên gia, Tổng công ty còn vận dụng cơ cấu tổ chức quản lý doanh nghiệp theo dạng ma trận, tập hợp đội ngũ chuyên gia của nhiều bộ phận chức năng nhằm nghiên cứu, xây dựng dự án, phương án, chiến lược hay chương trình cho từng lĩnh vực cụ thể. (Hình 1). 2.1.3.1- Hội đồng quản trị Tổng công ty Hội đồng quản trị Tổng công ty thực hiện chức năng quản lý hoạt động của Tổng công ty theo quy định của Điều lệ Tổng công ty, Luật Doanh nghiệp Nhà nước và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ, trước pháp luật về hoạt động và phát triển của Tổng công ty theo chức năng, nhiệm vụ được Nhà nước giao. Hội đồng quản trị Tổng công ty có 5 thành viên do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm. Hội đồng quản trị gồm: Chủ tịch Hội đồng quản trị và 4 thành viên, trong đó 1 thành viên kiêm Tổng giám đốc công ty, 1 thành viên kiêm Trưởng ban kiểm soát công ty, 2 thành viên phụ trách các lĩnh vực tài chính, đầu tư, kinh doanh, nghiên cứu khoa học công nghệ và đào tạo nhân lực. 2.1.3.2- Ban kiểm soát Tổng công ty. Ban kiểm soát có 4 thành viên, gồm Trưởng ban là ủy viên Hội đồng quản trị và 4 thành viên giúp việc. Thành viên Ban kiểm soát do Chủ tịch Hội đồng quản trị bổ nhiệm. 2.1.3.3- Tổng giám đốc Tổng công ty Tổng giám đốc Tổng công ty là ủy viên Hội đồng quản trị do Thủ tướng Chính phủ bổ nhiệm. Tổng giám đốc là đại diện pháp nhân của Tổng công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị, trước Thủ tướng chính phủ và trước pháp luật về điều hành hoạt động của Tổng công ty. Tổng công ty có 2 Phó tổng giám đốc do Bộ trưởng Bộ công nghiệp bổ nhiệm. Kế toán trưởng Tổng công ty: do Bộ trưởng Bộ Công nghiệp bổ nhiệm. Kế toán trưởng phụ trách phòng kế toán tài chính Tổng công ty, giúp Tổng giám đốc chỉ đạo tổ chức công tác kế toán, tài chính, kiểm toán nội bộ và thống kê của Tổng công ty và chịu trách nhiệm trước Tổng giám đốc và Hội đồng quản trị và trước pháp luật về nhiệm vụ của mình. 2.1.3.4- Bộ máy giúp việc Tổng công ty Tổng công ty có 6 phòng chuyên môn, nghiệp vụ, đó là các phòng: Tổ chức Lao động, Kế toán Tài chính, Kinh doanh xuất nhập khẩu, Kế hoạch và đầu tư, Kỹ thuật, Văn phòng và 1 Trung tâm hợp tác lao động nước ngoài do Tổng giám đốc Tổng công ty thành lập. Các phòng, Trung tâm thực hiện chức năng tham mưu, giúp việc Hội đồng quản trị, Tổng giám đốc trong điều hành hoạt động của Tổng công ty. 2.1.3.5- Các đơn vị thành viên của Tổng công ty Tổng công ty có 14 đơn vị thành viên, có tư cách pháp nhân, hạch toán kinh tế độc lập, bao gồm 4 Công ty sản xuất thép và vật liệu xây dựng, 8 Công ty thương mại, 1 Viện nghiên cứu công nghệ và 1 Trường đào tạo công nhân kỹ thuật, thực hiện các chức năng, nhiệm vụ theo phân cấp của Tổng công ty và chịu sự quản lý, điều hành của Tổng công ty theo Điều lệ Tổng công ty. Ngoài ra Tổng công ty còn có 6 đơn vị Liên doanh với nước ngoài, nhằm nâng cao chất lượng của sản phẩm thép đáp ứng được nhu cầu thép của thị trường. 2.1.4- Đặc điểm tổ chức công tác kế toán của Tổng công ty Thép Việt Nam Việc tổ chức bộ máy kế toán Tổng công ty đảm bảo nguyên tắc gọn nhẹ, đơn giản, hoạt động có hiệu quả, kết hợp sự chỉ đạo sâu sát của Kế toán trưởng nhằm nâng cao trình độ nghiệp vụ, chuyên môn hoá từng phần việc, đồng thời có thể đảm nhận phần việc khác. (Hình 2) Phòng kế toán Tổng công ty: gồm có 1 Kế toán trưởng, 2 phó phòng, 1 Tổ trưởng tổ tổng hợp toàn ngành, 9 kế toán viên, mỗi người có nhiệm vụ và chức năng riêng bao gồm: + Kế toán tổng hợp toàn ngành (Lập Báo cáo tài chính, Thuế nộp NSNN) + Kế toán phụ trách văn phòng (Kế toán Ngân hàng, Bảo hiểm, Xuất nhập khẩu, thuế, Tiền mặt, Thủ quỹ) + Kế toán phụ trách tổ đầu tư XDCB (Thẩm định các quyết toán công trình DTXDCB…) - Hình thức ghi chép kế toán: ở Tổng công ty Thép Việt Nam, đối với các đơn vị thành viên việc ghi chép kế toán theo cả 3 hình thức, nhưng chủ yếu là ghi chép theo hình thức Nhật ký - Chứng từ, Hàng tồn kho được hạch toán theo phương pháp kê khai thường xuyên.(Hình 3) 2.2- tình hình hoạt động kinh doanh của tổng công ty thép việt nam 2.2.1- Tình hình sử dụng tài sản, nguồn vốn của Tổng công ty Thép Việt Nam Vốn là một phạm trù kinh tế trong lĩnh vực tài chính gắn liền với sản xuất hàng hoá. Vốn là tiền trong lĩnh vực kinh doanh góp phần đem lại giá trị thặng dư. Do vậy, quản lý sử dụng vốn và tài sản trở thành một trong những nội dung quan trọng của quản trị tài chính. Dựa vào bảng 1, ta thấy, vốn kinh doanh của Tổng công ty được hình thành từ nguồn do ngân sách Nhà nước cấp, tự bổ sung, vốn góp liên doanh. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản có được từ nguồn do ngân sách Nhà nước cấp và các nguồn khác. Trong giai đoạn 1998-2000, vốn của Tổng công ty tăng khá nhanh. Năm 1998, vốn kinh doanh đạt 1.352.521 triệu đồng. Mặc dù trong năm 1999 cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ tiếp tục ảnh hưởng đến nước ta song Nhà nước đã hỗ trợ bằng nhiều cơ chế nên Tổng công ty đã từng bước khắc phục được khó khăn, vốn kinh doanh tăng 43.834 triệu đạt 1396.355 triệu vào cuối năm 1999. Điều đáng nói ở đây là tuy vốn kinh doanh tăng song vốn do ngân sách Nhà nước cấp lại giảm, (giảm 35,116 triệu đồng). Kết quả đó chứng tỏ Tổng công ty ngày càng tự chủ hơn. Tuy vậy, vốn tự bổ sung của Tổng công ty lại giảm (giảm 7.556 triệu đồng) do Tổng công ty hoạt động hiệu quả không cao, không tích lũy được. Năm 1999, vốn kinh doanh của Tổng công ty tăng chủ yếu do tăng vốn liên doanh 86.506 triệu đồng. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản cũng tăng 3.393 triệu đồng song tăng chủ yếu do ngân sách Nhà nước cấp bổ sung 6.021 triệu đồng. Năm 2000 là năm Tổng công ty hoạt động hiệu quả nhất trong giai đoạn 1998-2000, vốn kinh doanh tăng 14.038 triệu đồng đạt 1.410.393 triệu đồng vào 31/12/2000. Vốn kinh doanh tăng chủ yếu do tăng phần tự bổ sung 9.304 triệu đồng và vốn liên doanh 9.084 triệu đồng trong khi vốn ngân sách Nhà nước cấp tiếp tục giảm (giảm 4.350 triệu đồng). Điều này cho thấy trong năm 2000, Tổng công ty làm ăn hiệu qủa, có lợi nhuận, tự tích luỹ bổ sung được cho vốn kinh doanh của mình và ngày càng trở nên tự chủ hơn. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản tăng 3.008 triệu đồng do ngân sách Nhà nước cấp. Dựa vào số liệu Bảng 2 ta thấy, tài sản lưu động của Tổng công ty khá lớn 2.709.265 triệu đồng, chiếm 70,4% trong tổng tài sản. Điều này phản ánh vốn của Tổng công ty trước đây phần lớn sử dụng vào hoạt động kinh doanh thương mại (vốn này được hình thành từ Tổng công ty Kim khí trên 1.100 tỷ đồng). Năm 1998, thị trường tiêu thụ thép gặp khó khăn nên Tổng công ty không tiêu thụ được nhiều hàng, hàng tồn kho lớn 1.254.866 triệu đồng chiếm 46,3% tài sản lưu động. Để đẩy nhanh tốc độ tiêu thụ, Tổng công ty cho khách hàng thanh toán chậm trả nên khoản phải thu lớn, khoảng 1.226.194 triệu đồng, chiếm 45% tài sản lưu động. Vì một số công ty liên doanh sản xuất thép kết thúc giai đoạn xây dựng đi vào hoạt động và Tổng công ty đã đầu tư chứng khoán dài hạn nên các khoản đầu tư dài hạn lớn, chiếm 51,2% tài sản cố định và đầu tư dài hạn. Năm 1999, Tổng công ty đã đẩy mạnh tiêu thụ được hàng tồn đọng trong khối lưu thông làm hàng tồn kho giảm 33%, khoản phải thu giảm được 13,9%. Tỷ trọng nợ phải trả của Tổng công ty cũng giảm 25% và nợ ngắn hạn giảm 24% phản ánh độ tự chủ về tài chính của Tổng công ty tăng lên đáng kể. Về cơ cấu tài sản, nguồn vốn của Tổng công ty dựa vào bảng 2, biểu 1, ta có: Về khả năng thanh toán, tỷ suất thanh toán hiện hành của Tổng công ty luôn luôn lớn hơn 1 và nhỏ hơn 2, điều này chứng tỏ Tổng công ty hoàn toàn có khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn hiện tại cũng như dự kiến trong tương lai, khả năng tài chính của khối lưu thông tốt hơn khối sản xuất (riêng tình hình tài chính của Công ty gang thép Thái Nguyên còn chưa ổn định cần có biện pháp xử lý kịp thời và thanh toán hợp lý các khoản nợ ngắn hạn). Hệ số nợ trên tổng tài sản có xu hướng giảm: năm 1998 là 0,64, năm 1999 là 0,57, năm 2000 là 0,52 song vẫn còn cao (>0,5) điều đó chứng tỏ còn mất cân đối trong cơ cấu tổng tài sản. Hệ số cơ cấu vốn có xu hướng tăng: năm 1998 là 0,35, năm 1999 là 0,42 năm 2000 là 0,47 song như vậy vẫn còn thấp (<0,5) do vay ngắn hạn, huy động vốn, nợ chiếm dụng tăng điều này một mặt phản ánh Tổng công ty tích cực tìm các nguồn vốn bên ngoài song cũng dễ dẫn đến tình trạng mất tự chủ trong kinh doanh. 2.2.2- Tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm Từ khi Tổng công ty Thép Việt Nam được thành lập và hoạt động theo mô hình Tổng công ty Nhà nước trên cơ sở hợp nhất giữa Tổng công ty Thép và Tổng công ty Kim khí, sản xuất đã gắn với tiêu thụ, lượng thép sản xuất ra đáp ứng được nhu cầu số lượng và chất lượng của thép xây dựng trên thị trường. Sản lượng thép cán tăng dần qua mỗi năm từ 190.000 tấn/năm vào năm 1992 đến đạt 442.744 tấn/năm vào năm 1998 tăng 2,33 lần ( Xem bảng 3). Tuy vậy vào giữa quý II năm 1998, do thay đổi chính sách của Nhà nước về các yếu tố đầu vào nên giá thành sản xuất cao mà giá bán thép trong nước hầu như không thay đổi. Do đó các chỉ tiêu chỉ đạt xấp xỉ kế hoạch. Bảng 3: Tình hình sản xuất và tiêu thụ thép cán Đơn vị: Tấn Chỉ tiêu Năm 1998 Năm 1999 Năm 1999/1998 Năm 2000 năm 2000/1999 - Sản lượng -Tiêu thụ -Tồn kho 442.744 451.261 29.184 464.269 452.158 40.979 104,96 100,2 140,42 464.38 459.92 946.82 101,01 101,72 114,21 (Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Tổng công ty Thép Việt Nam) Sang năm 1999, tuy tốc độ tăng trưởng kinh tế bị chững lại, các công trình đầu tư và vốn đầu tư giảm sút song nhờ có các biện pháp điều hành của Chính phủ như Quyết định 37/TTg của Thủ tướng Chính phủ về quản lý ngoại tệ làm giá phôi giảm mạnh tạo cơ sở hạ giá thành nên tốc độ tăng sản lượng của Tổng công ty được phục hồi đạt 464.296 tấn vượt 4,96% so với năm 1998, khối lượng tiêu thụ tăng 2%. Năm 2000, đầu tư nước ngoài giảm sút, đầu tư trong nước gặp khó khăn, tuy vậy Nhà nước có nhiều giải pháp hỗ trợ sản xuất trong nước, đẩy mạnh các biện pháp kích cầu, tạo điều kiện cho ngành thép ổn định và phát triển sản xuất. Sản lượng thép cán gần như giữ nguyên so với năm trước, sản lượng tiêu thụ tăng 1,72%. Bên cạnh tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm thì tình hình tồn kho của Tổng công ty ngày càng tăng (năm 1999 tăng 40,42% so với năm 1998, năm 2000 tăng 14,21% so với năm 1999). Do công nghệ sản xuất còn lạc hậu dẫn đến chất lượng thấp hơn so với các loại thép trên thị trường quốc tế. Hơn nữa, Tổng công ty chỉ sản xuất được các loại sản phẩm dài chủ yếu là thép thanh tròn trơn, thanh vằn, cuộn. Các loại thép góc, thép hình chữ I, hình chữ U còn hạn chế và chưa sản xuất được các sản phẩm thép dẹt như thép tấm, thép lá .. Cơ cấu chủng loại mặt hàng còn đơn điệu chỉ đáp ứng được 75% nhu cầu thép trong nước. 2.2.3- Tình hình kinh doanh xuất nhập khẩu Trong những năm gần đây, nhu cầu đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng, xây dựng công nghiệp, xây dựng dân dụng ngày càng tăng nên nhu cầu của thị trường về thép xây dựng tăng cả về mặt số lượng lẫn chất lượng. Tuy vậy, tình hình sản xuất thép trong nước chưa đáp ứng được nhu cầu này. Trước thực trạng đó, Tổng công ty Thép Việt Nam một mặt đầu tư nâng cấp cho các công ty sản xuất nhằm nâng cao năng suất chất lượng sản phẩm, mặt khác phát triển hệ thống thương mại kinh doanh rộng khắp cả nước, chiếm thị phần đáng kể ở thị trường Việt Nam. Năm 1998, khối thương mại của Tổng công ty Thép Việt Nam tiêu thụ được 758.889 tấn thép trong đó có mặt hàng mà trong nước chưa sản xuất được. Tuy vậy lượng tồn kho cũng còn khá lớn (khoảng 127.581 tấn) (xem bảng 4). Năm 1999, Tổng công ty áp dụng chính sách cho vay với lãi suất thấp, bảo lãnh chậm trả, chỉ đạo các đơn vị sản xuất, liên doanh lưu thông phối hợp với nhau về sản xuất và tiêu thụ nên các đơn vị lưu thông đã thiết lập mối liên hệ trực tiếp thường xuyên với khối sản xuất và liên doanh. Do vậy, khối lưu thông tiêu thụ được 311.650 tấn thép sản xuất trong nước, chiếm 28% tổng lượng thép bán ra của các đơn vị sản xuất và liên doanh, chiếm 41% tổng lượng hàng kinh doanh, cung cấp 134.400 tấn phôi thép cho các đơn vị sản xuất. Lượng bán ra của Tổng công ty tăng 25% so với năm 1998. Về xử lý hàng tồn đọng, đến 31/12/1999 đã tiêu thụ được trên 66.000 tấn góp phần giảm hàng tồn kho từ 127.581 tấn (01/01/1999) xuống 51.152 tấn trong đó có một số công ty giảm mạnh như: Công ty kinh doanh thép và vật tư Hà Nội, Công ty kim khí Hải Phòng .. Năm 2000, tình hình thị trường thép đã bắt đầu ổn định, nhu cầu đầu tư xây dựng được phục hồi trở lại. Tổng khối lượng mua vào của khối thương mại đạt 1.149.007 tấn trong đó có 334.420 tấn thép nội chiếm 30% tổng lượng thép do đơn vị sản xuất, liên doanh bán ra trong năm. Một số đơn vị tiêu thụ tạo được mối liên hệ trực tiếp với khách hàng, với cơ sở xây dựng nên hiệu quả cao. Song vẫn còn nhiều đơn vị bán chậm trả cho các Công ty trách nhiệm hữu hạn với khối lượng lớn, nợ kéo dài, vốn bị chiếm dụng cao. Đối với hoạt động xuất nhập khẩu: nhìn chung Tổng công ty xuất khẩu ít hơn nhập khẩu. Chủ yếu xuất khẩu một số sản phẩm từ gang, thép cuộn như bệ nắp cống. Song kim ngạch xuất khẩu có chiều hướng giảm nên Tổng công ty cần quan tâm đổi mới công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm. Về hàng nhập khẩu, chủ trương chung của Tổng công ty là hạn chế hàng nhập, đẩy mạnh tiêu thụ thép trong nước nên kim ngạch nhập khẩu có xu hướng giảm nhẹ. Tổng công ty nhập phôi thép để tạo nguyên liệu cho khối sản xuất và một số mặt hàng khác. Song trong giai đoạn 1998-2000, do tỷ giá thay đổi nên giá nhập khẩu tăng trong khi giá bán ít thay đổi nên nhiều hàng nhập về như thép tấm, thép lá trong tình trạng dư thừa, tồn kho lớn. 2.2.4- Kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh Trong giai đoạn 1998 - 2000, với hệ thống cơ chế hỗ trợ của Nhà nước và cơ chế quản lý toàn diện của Tổng công ty cùng với sự cố gắng nỗ lực của các đơn vị thành viên, các chỉ tiêu kinh tế tài chính của Tổng công ty đều khả quan. Tình hình kết quả sản xuất kinh doanh của Tổng công ty được thể hiện ở bảng 5. Trong bảng 5, giá trị sản xuất công nghiệp là tổng giá trị các sản phẩm do các nhà máy trong khối sản xuất tạo ra. Qua số liệu, ta thấy giá trị sản xuất công nghiệp và doanh thu của Tổng công ty trong từng khối đều có xu hướng tăng. Năm 1999, giá trị sản xuất công nghiệp tăng 4% đạt 1.875.182 triệu so với năm 1998. Năm 2000 giá trị sản xuất công nghiệp tăng ít hơn chỉ có 1,42% đạt 1.901.736 triệu. Do thị trường thép tồn đọng nhiều nên Tổng công ty cắt giảm sản lượng. Doanh thu của Tổng công ty cũng tăng song doanh thu của khối thương mại tăng nhiều hơn doanh thu của khối sản xuất. Tình hình thực hiện nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước: trong những năm qua còn nhiều hạn chế. Số nộp ngân sách của Tổng công ty chủ yếu là thuế tiêu thụ, thuế doanh thu, thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt, còn thuế thu nhập doanh nghiệp chỉ chiếm một phần nhỏ. Vì Tổng công ty phải đối mặt với những khó khăn của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ và thép cũng là mặt hàng xây dựng cần vốn lớn và qua._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0218.doc
Tài liệu liên quan