Phân tích tác động của nguồn vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách nhà nước tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn 1991 - 2003

Đặt vấn đề Ngày nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy đường lối phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định sự thành bại trong quá trình phát triển kinh tế của một đất nước. Thực tế cho thấy, Chính phủ các nước NICs Châu á, sau gần một thập kỷ thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu, đã nhận ra được những mặt hạn chế của nó, và ngay đầu thập kỷ 60 đã có sự chuyển hướng chiến lược. Với khoảng thời gian 25 - 30 năm họ đã đưa đất nước trở thành “ Những con rồng Châu á”. Đối

doc78 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1253 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích tác động của nguồn vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách nhà nước tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn 1991 - 2003, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
với Việt Nam, một đất nước với xuất phát điểm có vị thế thấp trên trường quốc tế, trải qua và gánh chịu nhiều cuộc chiến tranh, nhưng với tất cả những nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, chúng ta đã từng bước đi lên, phù hợp với tình hình thực tế khách quan trong nước và nước ngoài, đặc biệt những năm gần đây, GDP tăng bình quân hàng năm từ 7% - 8% và các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét chung là chúng ta đã có những bước khởi đầu tốt đẹp trong giai đoạn phát triển mới. Nhưng để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và liên tục trong thời gian tới còn rất nhiều khó khăn. Vấn đề đặt ra là cần có sự lựa chọn thích hợp cho đường lối phát triển của mình, nhằm đạt được những mục tiêu đề ra. Có rất nhiều hoạt động tác động tới tăng trưởng kinh tế, trong đó có đầu tư, đây là yếu tố có tính chất quyết định, không thể thiếu trong tất cả các hoạt động sản xuất, kinh doanh ở các cấp độ, cơ sở khác nhau, có ảnh hưởng trực tiếp tới tiềm lực kinh tế, tiềm lực sản xuất, kinh doanh, tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi thành viên trong xã hội… Trong các hoạt động đầu tư có đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước, đó là một công cụ tài chính của Nhà nước, góp phần ổn định, tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội của một quốc gia, tạo tiền đề cho quốc gia phát triển bền vững. Đứng trước tầm quan trọng đó thì việc nghiên cứu những tác động, ảnh hưởng của nó tới tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới là một việc làm rất có ý nghĩa. Hiểu được các chính sách tài khoá của Chính phủ hoạt động như thế nào sẽ phần nào giúp người làm kinh tế có thể dễ dàng tham gia vào các hoạt động quản lý kinh tế hơn và có thể nắm bắt được các quy luật vận động của nền kinh tế. Với sự giúp đỡ và chỉ bảo tận tình của TS: CAO XUÂN HòA, giảng viên: HoàNG BíCH PHƯƠNG, cùng các thầy cô trong khoa Toán kinh tế - Đại học kinh tế Quốc dân, em đã lựa chọn đề tài: Phân tích tác động của nguồn vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước tới tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam trong giai đoạn 1991 - 2003 Nội dung luận văn tốt nghiệp này gồm 3 chương: Chương I: Tổng quan về nguồn vốn đầu tư Chương II: Thực trạng tình hình sử dụng nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 1991 - 2003 Chương III: Mô hình phân tích tác động của nguồn vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước tới tăng trưởng kinh tế trong giai đoạn 1991 - 2003 Kèm theo bảng số liệu, phụ lục và danh sách các tài liệu tham khảo. Do sự hiểu biết còn hạn chế, cùng với những khó khăn trong việc thu thập và xử lý số liệu, nên chắc hẳn báo cáo này còn nhiều sai sót. Em rất mong nhận được sự góp ý và chỉ bảo tận tình của các thầy cô cùng toàn thể bạn đọc để đề tài này được hoàn chỉnh hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn và chỉ bảo tận tình của TS: CAO XUÂN HOà, giảng viên: HOàNG BíCH PHƯƠNG, Khoa Toán kinh tế - Đại học kinh tế Quốc dân. Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến TS: Nguyễn Ngọc Tuyến, cùng các cán bộ của Vụ chính sách thuế - Bộ tài chính, đã luôn luôn giúp đỡ em, không chỉ về mặt nguồn số liệu mà còn cả những kiến thức khác trong quá trình hoàn thành bản báo cáo của mình. Em xin chân thành cảm ơn! Chương I: Tổng quan về nguồn vốn đầu tư I. Các khái niệm cơ bản 1. Khái niệm về đầu tư: Đầu tư theo nghĩa rộng, nói chung là sự hy sinh các nguồn lực ở hiện tại để tiến hành các hoạt động nào đó, nhằm thu về cho người đầu tư các kết quả nhất định trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã bỏ ra để đạt được các kết quả đó. Nguồn lực đó có thể là tiền, là tài nguyên thiên nhiên, là sức lao động và trí tuệ. Theo nghĩa hẹp thì đầu tư chỉ bao gồm những hoạt động sử dụng các nguồn lực hiện tại, nhằm đem lại cho nền kinh tế - xã hội những kết quả trong tương lai lớn hơn các nguồn lực đã sử dụng để đạt được các kết quả đó. Các kết quả thu được có thể là sự tăng thêm các tài sản tài chính (tiền vốn), tài sản vật chất (nhà máy, đường xá…), tài sản trí tuệ (trình độ văn hoá chuyên môn, khoa học, kỹ thuật…) và các nguồn nhân lực có đủ điều kiện để làm việc có năng suất trong nền sản xuất xã hội. Những kết quả đạt được từ sự hy sinh các nguồn lực có vai trò rất quan trọng trong mọi lúc, mọi nơi, không chỉ đối với người bỏ vốn đầu tư mà còn đối với cả toàn bộ nền kinh tế. 2. Phân loại đầu tư: Xuất phát từ bản chất và phạm vi lợi ích do đầu tư đem lại, chúng ta có thể phân biệt các loại đầu tư sau đây: a. Đầu tư tài chính (Đầu tư tài sản tài chính): Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu Chính phủ) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty phát hành (mua cổ phiếu, trái phiếu công ty). Đầu tư tài sản tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này), mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức, cá nhân đầu tư (đánh bạc nhằm mục đích thu lời cũng là một loại đầu tư tài chính nhưng bị cấm do gây nhiều tệ nạn xã hội. Công ty mở sòng bạc để phục vụ nhu cầu giải trí của người đến chơi nhằm thu lại lợi nhuận về cho công ty thì đây lại là đầu tư phát triển nếu được Nhà nước cho phép và tuân theo đầy đủ các quy chế hoạt động do Nhà nước quy định để không gây ra các tệ nạn xã hội). Với sự hoạt động của hình thức đầu tư tài chính, vốn bỏ ra đầu tư được lưu chuyển dễ dàng, khi cần có thể rút ra một cách nhanh chóng (rút tiết kiệm, chuyển nhượng trái phiếu, cổ phiếu cho người khác). Điều đó khuyến khích người có tiền bỏ ra để đầu tư. Để giảm độ rủi ro, họ có thể đầu tư vào nhiều nơi, mỗi nơi một ít tiền. Đây là một nguồn cung cấp vốn quan trọng cho đầu tư phát triển. b. Đầu tư thương mại: Là loại đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn, nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư này cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương), mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư trong quá trình mua đi bán lại, chuyển giao quyền sở hữu hàng hoá giữa người bán với người đầu tư và người đầu tư với khách hàng của họ. Tuy nhiên, đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất do đầu tư phát triển tạo ra, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu Ngân sách, tăng tích lũy vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. (Chúng ta cần lưu ý là đầu cơ trong kinh doanh cũng thuộc đầu tư thương mại xét về bản chất, nhưng bị pháp luật cấm vì gây ra tình trạng thừa thiếu hàng hóa một cách giả tạo, gây khó khăn cho việc quản lý lưu thông phân phối, gây mất ổn định cho sản xuất, làm tăng chi phí cho người tiêu dùng). c. Đầu tư tài sản vật chất và sức lao động: Là loại đầu tư mà người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất, kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm, nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị, lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng, đào tạo nguồn nhân lực, thực hiện các chi phí thường xuyên, gắn liền với sự hoạt động của các tài sản này, nhằm duy trì tiềm lực mới cho nền kinh tế, xã hội. Loại đầu tư này được gọi chung là đầu tư phát triển. Trên giác độ tài chính thì đầu tư phát triển là quá trình chi tiêu để duy trì sự phát huy tác dụng của vốn cơ bản hiện có và bổ sung vốn cơ bản mới cho nền kinh tế, tạo nền tảng cho sự tăng trưởng và phát triển kinh tế xã hội trong dài hạn. 3. Đầu tư của Chính phủ từ Ngân sách Nhà nước: Đây chính là nguồn chi của Ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế, xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. Trong những năm gần đây, quy mô tổng thu của Ngân sách Nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc Nhà nước quản lý…). Đi cùng với sự mở rộng quy mô Ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước cũng gia tăng đáng kể, tăng từ mức 2.3% GDP năm 1991 lên 6.1% GDP năm 1996. II. Các nguồn huy động vốn đầu tư: Do đặc điểm của việc sử dụng tài sản là thời gian hoạt động kéo dài và bị hao mòn dần, đồng thời do nhu cầu ngày càng tăng về tài sản, cho nên cần phải tiến hành thường xuyên việc bù đắp cho sự hao mòn tài sản ấy và tăng thêm khối lượng tài sản mới. Quá trình này được tiến hành bằng vốn đầu tư, thông qua hoạt động đầu tư. Vốn đầu tư được hình thành từ tiết kiệm của Chính phủ, dân cư và doanh nghiệp. Ngoài ra, vốn đầu tư cũng được huy động từ các khoản viện trợ, các khoản đầu tư trực tiếp nước ngoài. Như vậy, nguồn hình thành vốn đầu tư bao gồm: 1. Nguồn vốn đầu tư trong nước: a. Nguồn vốn Nhà nước: Nguồn vốn đầu tư Nhà nước bao gồm nguồn vốn của Ngân sách Nhà nước, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước và nguồn vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp Nhà nước. - Đối với nguồn vốn Ngân sách Nhà nước: Đây chính là nguồn chi của Ngân sách Nhà nước cho đầu tư. Đó là một nguồn vốn đầu tư quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội của mỗi quốc gia. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế – xã hội, quốc phòng, an ninh, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước, chi cho công tác lập và thực hiện các dự án quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế – xã hội vùng, lãnh thổ, quy hoạch xây dựng đô thị và nông thôn. Trong những năm gần đây, quy mô tổng thu của Ngân sách Nhà nước không ngừng gia tăng nhờ mở rộng nhiều nguồn thu khác nhau (huy động qua thuế, phí, bán tài nguyên, bán hay cho thuê tài sản thuộc nhà nước quản lý…). Thu của Ngân sách chủ yếu là thuế và một phần là các khoản lệ phí. Ở Việt Nam hiện nay có 10 loại thuế, đó là: Thuế môn bài, thuế xuất nhập khẩu, thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi tức, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế tài nguyên, thuế nhà đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất và thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao. Năm 1995 các khoản thu từ thuế chiếm 90% tổng thu cho Ngân sách Nhà nước. Đi cùng với sự mở rộng quy mô Ngân sách, mức chi cho đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước cũng gia tăng đáng kể, tăng từ mức 2.3% GDP năm 1991 lên 6.1% GDP năm 1996. - Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước: Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước ngày càng đóng vai trò đáng kể trong chiến lược phát triển kinh tế – xã hội. Nếu như trước năm 1990, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước chưa được sử dụng như một công cụ quản lý và điều tiết nền kinh tế thì trong giai đoạn 1991 – 2000, nguồn vốn này đã có mức tăng trưởng đáng kể và bắt đầu có vị trí quan trọng trong chính sách đầu tư của Chính phủ. Giai đoạn 1991 – 1995, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước mới chỉ chiếm 5.6% tổng vốn đầu tư toàn xã hội thì giai đoạn 1996 – 1999 đã chiếm 14.5% và riêng năm 2000, nguồn vốn này đã đạt đến 17% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay. Chủ đầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quả đầu tư, sử dụng vốn tiết kiệm hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quá độ chuyển từ phương thức cấp phát Ngân sách sang phương thức tín dụng đối với các dự án có khả năng thu hồi vốn trực tiếp. Bên cạnh đó, vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước còn phục vụ công tác quản lý và điều tiết kinh tế vĩ mô. Thông qua nguồn tín dụng đầu tư, Nhà nước thực hiện việc khuyến khích phát triển kinh tế – xã hội của ngành, vùng, lĩnh vực theo định hướng chiến lược của mình. Đứng ở khía cạnh là công cụ điều tiết vĩ mô, nguồn vốn này không chỉ thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn thực hiện cả mục tiêu phát triển xã hội. Việc phân bổ và sử dụng vốn tín dụng đầu tư còn khuyến khích phát triển những vùng kinh tế khó khăn, giải quyết các vấn đề xã hội như xóa đói giảm nghèo. Và trên hết, nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tính đến thời điểm năm 2001 thì nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước đầu tư vào ngành công nghiệp trên 60% tổng vốn đầu tư (gần 55% số dự án) đã góp phần quan trọng vào việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư và cơ cấu kinh tế. - Nguồn vốn đầu tư từ doanh nghiệp Nhà nước: Được xác định là phần giữ vai trò chủ đạo trong nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước vẫn nắm giữ một khối lượng vốn Nhà nước khá lớn. Theo báo cáo tổng kết công tác kiểm kê tài sản và xác định lại giá trị tài sản doanh nghiệp Nhà nước tại thời điểm 0h ngày 1 tháng 1 năm 2000, tổng nguồn vốn chủ sở hữu tại các doanh nghiệp Nhà nước là 173.857 tỷ đồng. Mặc dù vẫn còn một số hạn chế nhưng đánh giá một cách công bằng thì khu vực kinh tế Nhà nước với sự tham gia của các doanh nghiệp Nhà nước vẫn đóng vai trò chủ đạo trong nền kinh tế nhiều thành phần. Trong giai đoạn 1991 – 1995, tốc độ tăng trưởng bình quân của doanh nghiệp Nhà nước là 11.7% gấp 1.5 lần tốc độ tăng trưởng bình quân của nền kinh tế. Từ năm 1998 đến năm 2001 thì tốc độ tăng trưởng của doanh nghiệp Nhà nước chậm lại nhưng vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong GDP của toàn bộ nền kinh tế, nộp Ngân sách chiếm 40% tổng thu của Ngân sách Nhà nước, tạo việc làm cho trên 1.9% triệu người. Một số sản phẩm của doanh nghiệp Nhà nước có đóng góp chủ yếu vào cân đối hàng hóa của nền kinh tế như: Xi măng, dầu khí, bưu chính viễn thông… Với chủ trương tiếp tục đổi mới doanh nghiệp Nhà nước, hiệu quả hoạt động của khu vực kinh tế này ngày càng được khẳng định, tích lũy của các doanh nghiệp Nhà nước ngày càng gia tăng và đóng góp đáng kể vào tổng quy mô vốn đầu tư của toàn xã hội. b. Tiết kiệm của các công ty (Sc): Được xác định trên cơ sở doanh thu của công ty và các khoản chi phí trong hoạt động sản xuất, kinh doanh. - Doanh thu của công ty là các khoản thu nhập của công ty do tiêu thụ hàng hoá hoặc các dịch vụ sau khi đã trừ đi các chi phí trung gian trong quá trình sản xuất. Tổng doanh thu ký hiệu là: TR - Tổng chi phí (TC) bao gồm các khoản: Trả tiền công, trả tiền thuê đất đai, trả lãi suất tiền vay và thuế kinh doanh. Khoản chênh lệch giữa tổng doanh thu và tổng chi phí được gọi là lợi nhuận của công ty trước thuế: TR - TC = Pr trước thuế Lợi nhuận trước thuế sau khi đóng thuế lợi tức sẽ còn lại lợi nhuận của công ty sau thuế Pr trước thuế - Tde = Pr sau thuế Đối với các công ty cổ phần thì Pr sau thuế còn phải chia cho các cổ đông: Pr sau thuế - Pr cổ đông = Pr để lại công ty (Pr không chia) Lợi nhuận để lại công ty (hay còn gọi là Pr không chia) chính là tiết kiệm của công ty. Nhưng vốn đầu tư của công ty còn sử dụng cả quỹ khấu hao: Ic = Dp + Pr không chia Với: Ic : Là vốn đầu tư của công ty Dp: Là quỹ khấu hao c. Tiết kiệm của dân cư ( Sh): Nó phụ thuộc vào thu nhập và chi tiêu của các hộ gia đình. Thu nhập của hộ gia đình bao gồm thu nhập có thể sử dụng (DI) và các khoản thu nhập khác. DI = NI - Td + Sn Trong đó: DI: Thu nhập có thể sử dụng NI: Thu nhập quốc dân sản xuất Td: Thuế thu nhập, gồm cả thuế thu nhập của công ty và thuế thu nhập của dân cư (Td = Tde + Tdh) Sn: Các khoản trợ cấp của Chính Phủ. Các khoản thu nhập khác có thể từ rất nhiều nguồn như được viện trợ, thừa kế, bán tài sản, trúng vé số… Các khoản chi tiêu của hộ gia đình bao gồm: - Các khoản chi mua hàng hóa và dịch vụ: + Chi mua hàng hóa đó là chi về lương thực, thực phẩm, quần áo, phương tiện đi lại + Chi cho hoạt động dịch vụ: Chi tiêu cho du lịch, đi xem các hoạt động văn nghệ, thể thao - Chi trả lãi suất các khoản tiền vay: Mối quan hệ giữa các khoản thu nhập và chi tiêu của hộ gia đình có thể được mô tả qua hàm chi tiêu có dạng như sau: C = a + b.DI Với: a: Là khoản chi tiêu không phụ thuộc vào thu nhập b: Là độ dốc của hàm chi tiêu và là khoản chi tiêu phụ thuộc vào thu nhập (b = = MPC: Xu hướng tiêu dùng cận biên). C S1 O A1 a D1 D0 D2 DI c = a + b . DI - Tại D1: Mức thu nhập có thể sử dụng nhỏ hơn mức chi tiêu (DI <C), tại đó để có đủ tiền chi tiêu thì dân cư phải sử dụng các khoản thu nhập khác. - Tại D0: Mức thu nhập có thể sử dụng vừa bằng mức chi tiêu (DI =C); Điểm 0 được gọi là điểm vừa đủ. - Tại D2: Mức thu nhập có thể sử dụng lớn hơn mức chi tiêu (DI >C), tại đây thì dân cư có tiết kiệm. Như vậy, qua sơ đồ có thể thấy rằng: Khi thu nhập gia tăng, tỷ lệ tiết kiệm sẽ tăng dần, có nghĩa là trong một nước, những gia đình có thu nhập cao hơn sẽ có tỷ lệ tiết kiệm để đầu tư cao hơn và những nước giàu thì có tỷ lệ tiết kiệm để đầu tư là cao hơn so với những nước có thu nhập thấp. Cũng có thể chứng minh điều này qua xu thế tiêu dùng trung bình (APC) và xu thế tiết kiệm trung bình (APS): APC = + b Với: a, b là các hằng số (a>0) thì: Khi DI tăng -> (a/DI) giảm ->APC giảm ->APS tăng Vậy: Khi thu nhập tăng lên, sẽ làm cho xu hướng tiết kiệm trung bình tăng theo. 2. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài : a. Viện trợ phát triển chính thức (ODA): ODA ra đời sau chiến tranh thế giới II cùng với kế hoạch Marshall để giúp các nước Châu âu phục hồi các ngành công nghiệp bị chiến tranh tàn phá. Để tiếp nhận viện trợ của kế hoạch Marshall các nước Châu Âu thành lập tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế (OECD). Ngày nay, tổ chức này bao gồm 30 nước và không chỉ có các nước Châu âu, tham gia tổ chức này còn có Mỹ, Nhật, Hàn Quốc. ODA được coi là nguồn tài chính do các cơ quan chính thức (chính quyền Nhà nước hay địa phương) của một nước hay một tổ chức quốc tế viện trợ cho các nước đang phát triển, nhằm thúc đẩy sự phát triển kinh tế và phúc lợi xã hội của các nước này. Ngày nay, nguồn ODA không chỉ từ các nước DAC, mặc dù các nước này vẫn chiếm đại bộ phận (85%), ngoài ra còn từ Nga và các nước Đông âu (10%) và các nước Ả Rập có dầu mỏ (5%). ODA được thực hiện trên cơ sở song phương hoặc đa phương. Viện trợ đa phương thông qua các tổ chức quốc tế, ví dụ như: Các tổ chức Liên hợp quốc (UNDP, UNICEF…), IMF, WB… Viện trợ đa phương thường chiếm 20% trong tổng nguồn ODA (viện trợ song phương là 80%). Nội dung viện trợ ODA bao gồm: - Viện trợ không hoàn lại: Chiếm 25% tổng vốn ODA - Hợp tác kỹ thuật - Cho vay ưu đãi Theo quy định của Liên hợp quốc (1970) thì các nước công nghiệp phát triển phải giành 0.7% GNP để viện trợ ODA cho các nước đang phát triển. Nhưng thực tế hiện nay chỉ có rất ít nước thực hiện được chỉ tiêu nay. Những quy định mới đây của tổ chức OECD nhấn mạnh về nguồn viện trợ ODA cho đầu tư công cộng ở các nước đang phát triển: các dự án cho giáo dục, y tế, giao thông…. b. Viện trợ của các tổ chức phi Chính Phủ (NGO): Viện trợ NGO là các viện trợ không hoàn lại, trước đây viện trợ này chủ yếu là vật chất, đáp ứng những nhu cầu nhân đạo: cung cấp thuốc men cho các trung tâm y tế, chỗ ở và lương thực cho các nạn nhân thiên tai. Hiện nay, loại viện trợ này được thực hiện nhiều hơn bằng các chương trình phát triển dài hạn, có sự hỗ trợ của các chuyên gia thường trú về tiền mặt như huấn luyện những người làm công tác bảo vệ sức khoẻ, thiết lập các dự án tín dụng, cung cấp nước sạch ở nông thôn… c. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI): Đây là nguồn vốn đầu tư của tư nhân nước ngoài đối với các nước đang phát triển, là nguồn vốn lớn có ý nghĩa quan trọng với phát triển kinh tế. FDI không chỉ cung cấp nguồn vốn, mà nó còn thực hiện quá trình chuyển giao công nghệ, đào tạo cán bộ kỹ thuật và tìm thị trường tiêu thụ ổn định. Mặt khác, vốn FDI còn gắn với trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn. Do đó, thu hút được nguồn vốn này sẽ giảm được gánh nợ nước ngoài đối với các nước đang phát triển. III. Điều kiện huy động có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư 1. Tạo lập và duy trỡ năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế: Đặt trong bối cảnh tổng quát và dài hạn, năng lực tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố quan trọng xác định triển vọng huy động các nguồnvốn đầu tư một cách có hiệu quả. Vấn đề tăng trưởng ở đây được nhìn nhận như một yếu tố tạo sức hấp dẫn ngày càng lớn đối với vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài. Vấn đề này liên quan đến một nguyên tắc mang tính chủ đạo trong việc thu hút vốn đầu tư. Vốn đầu tư được sử dụng càng hiệu quả thì khả năng thu hút nó càng lớn. Thực chất của mối quan hệ này nằm trong mối quan hệ nhân quả của các sự vật. Thứ nhất, với năng lực tăng trưởng được đảm bảo, năng lực tích luỹ của nền kinh tế sẽ có khả năng gia tăng, khi đó quy mô các nguồn vốn trong nước có thể huy động sẽ được cải thiện. Thứ hai, triển vọng tăng trưởng và phát triển càng cao cũng sẽ là tín hiệu tốt thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Thực tiễn Việt Nam trong những năm qua, ở chừng mực nhất định đã chứng minh cho mối quan hệ này. Từ khi thực hiện chính sách đổi mới, mở cửa, bên cạnh việc thoát khỏi khủng hoảng, nền kinh tế Việt Nam còn đạt được nhiều thành tích tăng trưởng cao liên tục (bình quân GDP hàng năm trong giai đoạn 1991 – 1997 là trên 8%, có những giai đoạn tăng cá biệt 2 năm liên tục trên 9% mỗi năm). Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt khoảng trên 20%/năm. Điều đó làm cho khả năng huy động, khai thác và sử dụng các nguồn vốn đầu tư được mở rộng hơn. Tốc độ gia tăng quy mô vốn đầu tư phát triển là rất đáng kể (giai đoạn 1991 – 1995 đạt mức 29.1%/năm). Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển so với GDP cũng có xu hướng gia tăng mạnh mẽ (năm 1991 là 17.6% thì đến năm 1997 là 30.9% GDP). Trong đó, cả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài đều có sự chuyển biến về quy mô và tốc độ tăng trưởng. Để tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng của nền kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế, trong thời gian tới Việt Nam cần: - Tăng cường phát triển sản xuất, kinh doanh và thực hành tiết kiệm cả trong sản xuất và tiêu dùng của toàn xã hội - Đối với tất cả các nguồn vốn đầu tư, phải xây dựng yếu tố hiệu quả kinh tế là yêu cầu về mặt chất lượng của việc huy động vốn trong lâu dài - Các dự án sử dụng vốn vay phải có phương án trả nợ vững chắc, xác định rõ trách nhiệm trả nợ, không được gây thêm gánh nặng nợ nần không trả được - Để tăng cường tính hiệu quả của nền kinh tế, cần phải tạo môi trường hoạt động bình đẳng cho tất cả các nguồn vốn đầu tư: đầu tư trong nước, đầu tư nước ngoài, đầu tư của Nhà nước và đầu tư của khu vực tư nhân. 2. Đảm bảo ổn định mụi trường kinh tế vĩ mụ: Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô luôn được coi là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư. Về nguyên tắc, để thu hút được các nguồn vốn đầu tư nhằm ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu phát triển của đất nước, phải đảm bảo được nền kinh tế đó trước hết là nơi an toàn cho sự vận động của nó và sau nữa là nơi có năng lực sinh lợi cao. Sự an toàn của vốn đòi hỏi môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, không gặp những rủi ro do các yếu tố chính trị xã hội hay môi trường kinh doanh gây ra. Đối với vốn nước ngoài, nó có yêu cầu năng lực trả nợ tối thiểu của nước nhận đầu tư. Một tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tối thiểu đủ để chủ nợ thu hồi lại vốn. Tuy nhiên, sự ổn định kinh tế vĩ mô ở đây phải thoả mãn yêu cầu gắn liền với năng lực tăng trưởng của nền kinh tế, hay ổn định trong tăng trưởng. Tức là, nền kinh tế có thể chủ động kiểm soát được quá trình tăng trưởng, chủ động tái lập được trạng thái cân bằng mới và đó cũng đồng thời là việc tạo ra cơ sở cho sự ổn định lâu dài và vững chắc. Về lâu dài, cần phải thực hiện tốt chức năng hoạch định chiến lược phát triển kinh tế, xã hội của Nhà nước trong mối quan hệ mật thiết với lĩnh vực thu hút các nguồn đầu tư. Cần phải nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể, có chính sách huy động đồng bộ các nguồn vốn, phù hợp với quy hoạch ngành, lãnh thổ và lĩnh vực ưu tiên. Nhanh chóng cải thiện và đồng nhất môi trường đầu tư, để tạo điều kiện cho việc khai thác các nguồn vốn đầu tư phát triển trong các thành phần kinh tế. Coi trọng các hoạt động kế toán, kiểm toán, tư pháp hỗ trợ và đảm bảo kinh doanh lành mạnh, chống tham nhũng, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện khung pháp luật phù hợp, nhất quán, minh bạch… 3. Xây dựng cỏc chớnh sỏch huy động cỏc nguồn vốn cú hiệu quả: Bên cạnh tiềm năng tăng trưởng và sự ổn định kinh tế vĩ mô, để có thể huy động có hiệu quả các nguồn vốn cho đầu tư, cần phải có các chính sách và giải pháp hợp lý, đồng bộ. Các chính sách và giải pháp này phải đáp ứng được các yêu cầu có tính nguyên tắc sau: - Các chính sách và giải pháp huy động vốn cho đầu tư phải gắn liền với chiến lược phát triển kinh tế, xã hội trong từng giai đoạn và phải thực hiện được các nhiệm vụ của chính sách tài chính quốc gia. Việc thực hiện các chính sách và giải pháp khai thác, huy động vốn phải có sự tính toán tổng hợp về khả năng cung ứng vốn, khả năng tăng trưởng các nguồn vốn trên cơ sở giải quyết hợp lý các mối quan hệ giữ tích lũy và tiêu dùng. - Phải đảm bảo mối tương quan hợp lý giữa nguồn vốn đầu tư trong nước và nguồn vốn đầu tư nước ngoài. Cần quán triệt nguyên tắc: vốn trong nước là quyết định và vốn nước ngoài là quan trọng. Tuy nhiên, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa thì nguồn vốn nước ngoài vẫn có tầm quan trọng trong tương quan cơ cấu cụ thể. Còn trong dài hạn, việc huy động vốn nước ngoài là nhằm để tận dụng tối đa các lợi thế so sánh của đất nước, nhanh chóng tạo năng lực tích lũy nội địa cao để đảm bảo vai trò quyết định của vốn đầu tư trong nước đối với tăng trưởng kinh tế. - Cần phải đa dạng hoá và hiện đại hoá các hình thức và phương tiện huy động vốn, tiếp tục mở rộng các hình thức huy động tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước từ khu vực dân cư qua hình thức phát hành trái phiếu với lãi suất và thời hạn hấp dẫn. Thành lập và phát triển hệ thống quỹ đầu tư và quỹ hỗ trợ phát triển. Từng bước tiến tới gia nhập thị trường vốn trong và ngoài nước để huy động vốn cho đầu tư phát triển. - Các chính sách huy động vốn phải được tiến hành đồng bộ cả về nguồn vốn và biện pháp thực hiện. Đảm bảo sự bình đẳng, gắn bó và tạo điều kiện lẫn nhau cùng phát triển giữa các nguồn vốn. Cần tiếp tục đổi mới các chính sách động viên các nguồn tài chính cho Ngân sách, nhằm đảm bảo tăng cường huy động vốn một cách vững chắc, ổn định và bền vững nhưng vẫn khuyến khích các doanh nghiệp và dân cư bỏ vốn ra đầu tư. Cần quán triệt quan điểm chiến lược là thu nhưng không làm suy yếu các nguồn thu quan trọng mà phải bồi dưỡng, phát triển và mở rộng các nguồn thu một cách vững chắc, lâu bền. IV. Tác động của đầu tư tới tăng trưởng kinh tế thông qua một số mô hình: 1. Mô hình hàm sản xuất Cobb - Douglas: Hai nhà kinh tế người Mỹ vào năm 1924 đã đưa ra hàm sản xuất có dạng: Y = K0.75. L0.25 Cho tới ngày nay thì hàm này có dạng: Y = f (K, L, R, T) Hàm này nêu lên mối quan hệ giữa đầu ra với các yếu tố đầu vào: vốn, lao động, tài nguyên và khoa học công nghệ. Trong đó: Y: Đầu ra (Ví dụ GDP) K: Vốn sản xuất L: Số lượng lao động R: Nguồn tài nguyên thiên nhiên T: Khoa học công nghệ Một dạng của kiểu phân tích này là hàm Cobb - Douglas, hàm này có dạng: Y = T.Kα.Lβ.Rγ Ở đây: α, β, γ là các số luỹ thừa, phản ánh hệ số co giãn của các yếu tố đầu vào (α + β +γ = 1) Sau khi biến đổi hàm Cobb - Douglas ta thiết lập được mối quan hệ theo tốc độ tăng trưởng của các biến số: g = t + αk + βl + γr Trong đó: g: Là tốc độ tăng trưởng của GDP k, l, r: Là tốc độ tăng trưởng của các yếu tố đầu vào t: Là phần dư còn lại, phản ánh tác động của khoa học, công nghệ Như vậy: Hàm sản xuất Cobb - Douglas cho biết bốn yếu tố cơ bản tác động tới tăng trưởng kinh tế và cách thức tác động của bốn yếu tố này là khác nhau giữa các yếu tố K, L, với yếu tố T. 2. Mô hình Harrod - Domar: Vào những năm 40 với sự nghiên cứu một cách độc lập, hai nhà kinh tế học là Roy Harrod ở Anh và Evsay Domar ở Mỹ đã cùng đưa ra mô hình giải thích mối quan hệ giữa tăng trưởng và thất nghiệp ở các nước phát triển. Mô hình này cũng được sử dụng rộng rãi ở các nước đang phát triển để xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng và các nhu cầu về vốn. Mô hình này coi đầu ra của bất kỳ một đơn vị kinh tế dù là công ty, một ngành công nghiệp hay toàn bộ nền kinh tế phụ thuộc vào tổng số vốn đầu tư cho nó. Gọi: Y: Là đầu ra g: Là tỷ lệ tăng trưởng của đầu ra s: Là tỷ lệ tích luỹ trong GDP S: Là mức tích luỹ Thì ta sẽ có: g = s = Vì tiết kiệm là nguồn gốc của đầu tư, nên về lý thuyết thì đầu tư luôn bằng tiết kiệm (St = It). Hay: s = Đầu tư chính là cơ sở tạo ra vốn sản xuất, do đó: It = Nếu gọi: Tỷ số gia tăng vốn - đầu ra là: k thì ta sẽ có: k = hay: k = Vì: = . = : Do đó: g = Ở đây: k được gọi là hệ số ICOR (hệ số gia tăng vốn - đầu ra). Hệ số này nói lên rằng: Vốn được tạo ra bằng đầu tư là yếu tố cơ bản của tăng trưởng, tiết kiệm của nhân dân và các công ty là nguồn gốc của đầu tư. Hệ số này cũng phản ánh trình độ kỹ thuật của sản xuất và là số đo năng lực sản xuất của đầu tư. Như vậy, mô hình Harrod - Domar chỉ ra sự tăng trưởng là do kết qủa tương tác giữa tiết kiệm với đầu tư và đầu tư là động lực cơ bản của sự phát triển kinh tế. Theo Harrod - Domar thì chính đầu tư phát sinh ra lợi nhuận và gia tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. 3. Mô hình thu nhập quốc dân: Xuất phát của mô hình là tư tưởng trọng cầu của Keynes với mục đích là nêu lên mối quan hệ giữa tiêu dùng của dân cư, đầu tư, chi tiêu của Chính phủ và xuất nhập khẩu với tăng trưởng kinh tế theo hàm số sau (gọi là mô hình thu nhập quốc dân): Yt = f (Ct, It, Gt, Xt, Mt) Trong đó: Y: Là giá trị tổng sản phẩm quốc n._.ội (GDP) C: Là tiêu dùng của dân cư I: Là tổng đầu tư xã hội G: Là chi tiêu của Chính Phủ X, M: Là xuất khẩu, nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ. Theo lý thuyết trên thì tổng sản phẩm quốc nội sẽ phụ thuộc vào từng yếu tố có mặt trong mô hình theo mức độ khác nhau, các yếu tố này không những có tác động trực tiếp tới GDP mà bản thân chúng cũng luôn có những mối quan hệ qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Vì vậy, để mô tả một cách chính xác ảnh hưởng của các yếu tố chúng ta phải sử dụng mô hình nhiều phương trình để phân tích. 4. Đầu tư và mô hình nhân tử: Nếu ký hiệu: dR: Là mức tăng của thu nhập dI: Là mức tăng của đầu tư dS: Là mức tăng của tiết kiệm dC: Là mức tăng của tiêu dùng k: Là số nhân Thì mô hình số nhân của Keynes có dạng như sau: k = Như vậy: Mô hình số nhân cho biết quan hệ giữa gia tăng thu nhập với gia tăng đầu tư. Theo Keynes mỗi sự gia tăng của đầu tư đều kéo theo sự gia tăng nhu cầu bổ sung công nhân, nâng cao cầu về tư liệu sản xuất, do vậy sẽ làm tăng cầu tiêu dùng, tăng giá hàng, làm tăng việc làm cho công nhân. Tất cả điều đó làm tăng thu nhập, đến lượt mình thì thu nhập lại là tiền đề cho sự gia tăng đầu tư mới, tăng đầu tư mới lại làm tăng thu nhập mới. Cứ như vậy, đầu tư quyết định thu nhập và thu nhập lại tạo tiền đề để gia tăng đầu tư. 5. Mô hình AD - AS: Đầu tư là bộ phận lớn và hay thay đổi trong chi tiêu. Do đó, những thay đổi trong đầu tư có thể tác động lớn đối với tổng cầu và do đó tác động tới sản lượng và công ăn việc làm. Khi đầu tư tăng lên có nghĩa là nhu cầu về chi tiêu để mua sắm máy móc, thiết bị, phương tiện vận tải, vật liệu xây dựng… cũng tăng lên. Sự thay đổi này làm cho đường tổng cầu dịch chuyển (từ AD0 -> AD1). Do đó, làm cho mức sản lượng tăng từ Y0 -> Y1 và mức giá cũng biến động từ P0 -> P1 (hình1). P AS P1 P0 AD1 ADo Yo Y1 GDP Hình 1: Tác động của đầu tư đến tăng trưởng kinh tế Sở dĩ có lý do trên vì chúng ta đều biết rằng: Tổng cầu thì phụ thuộc vào 5 yếu tố là: Chi tiêu của hộ gia đình (C), Đầu tư (I), Chi tiêu của Chính Phủ (G), Xuất khẩu (X), Nhập khẩu (M) hàng hoá và dịch vụ nên: AD = C + I + G + X + M Khi I tăng -> AD tăng -> Y tăng. Mặt khác, chúng ta đều biết: Đầu tư sẽ dẫn đến tăng vốn sản xuất, nghĩa là có thêm các nhà máy, thiết bị, phương tiện vận tải mới được đưa vào sản xuất, làm tăng khả năng sản xuất của nền kinh tế. Sự thay đổi này tác động đến tổng cung. Khi vốn sản xuất tăng, sẽ làm cho đường tổng cung dịch chuyển từ AS0 -> AS1, làm cho mức sản lượng tăng từ Y0 -> Y1 và mức giá giảm từ P0 -> P1 (hình 2). P AS0 AS1 P0 P1 Y0 Y1 GDP AD Hình 2: Tác động của đầu tư đến tăng trưởng kinh tế Điều cần lưu ý là sự tác động của vốn đầu tư và vốn sản xuất tới tăng trưởng kinh tế không phải là quá trình riêng rẽ mà nó là sự kết hợp, đan xen lẫn nhau, tác động liên tục vào nền kinh tế. Ngày nay, vốn đầu tư và vốn sản xuất được coi là yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Vốn đầu tư không chỉ là cơ sở để tạo ra vốn sản xuất, tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp và của nền kinh tế, mà nó còn là điều kiện để nâng cao trình độ khoa hoc, công nghệ, góp phần đáng kể vào việc đầu tư theo chiều sâu, hiện đại hoá quá trình sản xuất. Việc tăng vốn đầu tư cũng góp phần giải quyết công ăn việc làm cho người lao động khi mở ra các công trình xây dựng và mở rộng quy mô sản xuất. ở Việt Nam, những năm qua việc sử dụng vốn đầu tư đã góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng gia tăng tỷ trọng các ngành công nghiệp. Đặc biệt, với sự tham gia vốn và công nghệ của nước ngoài, thì một số ngành kinh tế quan trọng như thông tin, viễn thông, thăm dò, khai thác dầu khí, công nghiệp xi măng, sắt thép, điện tử, lắp ráp ô tô, xe máy đã có bước phát triển hết sức đáng kể. V. Vai trò của nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước đối với tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam: 1. Trong lĩnh vực nông nghiệp và phát triển nông thôn: Sau bao nhiêu năm đấu tranh chống Pháp rồi chống Mỹ, cho tới khi giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, về cơ bản nền kinh tế của Việt Nam vẫn là một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, sản xuất nhỏ, manh múm, đời sống nhân dân vô cùng khó khăn, thu nhập bình quân đầu người vào loại thấp nhất thế giới. Việt Nam đang rất cần nhiều thứ cho việc khôi phục và phát triển kinh tế, cải thiện đời sống của người lao động. Trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới, nền kinh tế nước ta vẫn là một nền kinh tế với chủ yếu là nông nghiệp. Khi đó, nếu cứ chạy theo mãi con đường là chỉ tập trung đầu tư vào các ngành công nghiệp nặng và nhẹ, thì thật sai lầm, không những chẳng thành công, mà kết quả là còn kéo theo sự phát triển trì trệ của các ngành kinh tế khác nói riêng và của toàn bộ nền kinh tế Việt Nam nói chung. Việt Nam với xuất phát điểm là nông nghiệp, đi lên cũng từ nông nghiệp. Thiên nhiên luôn luôn ưu đãi cho người Việt, với những lợi thế về đất đai, khí hậu, thời tiết, kỹ thuật canh tác lâu đời của cha ông để lại. Vì thế: Giai đoạn sau này chúng ta đã nhìn nhận ra rằng: Cần phải tập trung phát triển cho ngành nông nghiệp. Xong để làm được điều đó thì việc quan trọng nhất là cần có lực lượng sản xuất tiên tiến, phục vụ cho lĩnh vực nông nghiệp. Muốn có lực lượng sản xuất thì cần phải có đầu tư vốn cho lĩnh vực này. Vì thế, việc tăng cường cho đầu tư vào phát triển nông nghiệp và nông thôn từ Ngân sách Nhà nước là việc rất cần làm vì đây là một nguồn vốn chủ chốt, hết sức quan trọng, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế ở nông thôn, giảm khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, tạo công ăn việc làm cho người dân và góp phần vào tăng trưởng kinh tế bền vững. 2. Trong lĩnh vực kết cấu cơ sở hạ tầng: Vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước là nguồn vốn đầu tư cơ bản và quan trọng nhất, góp phần định hướng, tạo ra cơ cấu kinh tế và thu hút đầu tư của các thành phần kinh tế khác. Nguồn vốn này thường được sử dụng cho các dự án kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh, hệ thống giao thông, bưu điện, thông tin liên lạc, hỗ trợ cho các dự án của doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực cần sự tham gia của Nhà nước… Trong xu thế hội nhập kinh tế quốc tế như hiện nay, có rất nhiều công trình, cơ sở hạ tầng cần xây dựng. Các công trình này là những công trình công cộng, đòi hỏi một lượng vốn đầu tư lớn, trong thời gian thu hồi vốn dài và mức lãi suất thấp, do đó tất cả những nhà đầu tư đều e ngại và thường không muốn hay không đủ sức để đầu tư vào lĩnh vực này. Với việc tham gia đầu tư từ các nguồn vốn ngoài Ngân sách Nhà nước là quá ít. Vì thế, nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước lại chiếm đại đa số trong các dự án này. Và thực tế đã chứng minh điều đó: Trong những năm gần đây, mức chi cho đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước cũng gia tăng đáng kể, tăng từ mức 2.3% GDP năm 1991 lên 6.1% GDP vào năm 1996; Riêng vốn Nhà nước hàng năm chiếm 52 - 53% tổng đầu tư xã hội. 3. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ: Công nghệ, tri thức là trung tâm của công nghiệp hoá. Đầu tư là điều kiện tiên quyết của sự phát triển và tăng cường khả năng công nghệ của nước ta hiện nay. Theo đánh gía của các chuyên gia công nghệ, trình độ công nghệ của Việt Nam lạc hậu nhiều thế hệ so với thế giới và khu vực. Nếu chia quá trình phát triển công nghệ thế giới làm 7 giai đoạn thì Việt Nam năm 1990 ở vào giai đoạn 1 và 2. Việt Nam đang là một trong 90 nước kém nhất về công nghệ. Với trình độ công nghệ lạc hậu này, quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá của Việt Nam sẽ gặp khó khăn rất nhiều nếu không đề ra được một chiến lược đầu tư phát triển công nghệ nhanh và vững chắc. Chúng ta đều biết rằng: Có hai con đường cơ bản để có công nghệ là tự nghiên cứu, phát minh ra công nghệ và nhập công nghệ từ nước ngoài. Dù là tự nghiên cứu hay nhập từ nước ngoài thì cần phải có tiền, cần phải có vốn đầu tư. Mọi phương án đổi mới công nghệ không gắn với nguồn vốn đầu tư sẽ là những phương án không khả thi. Bên cạnh phát triển công nghệ thì vấn đề giáo dục đào tạo, tri thức cũng là một trong những vấn đề quốc sách hàng đầu cần được quan tâm ở Việt Nam. Tất cả những công nhân Việt Nam muốn đuổi kịp trình độ khoa học công nghệ của thế giới thì cần có tri thức, cần có trí tuệ, không một con đường nào khác nếu như chúng ta muốn phát triển mà trong đầu rỗng tuếch, không có gì. Nhưng muốn có tri thức, cần phải tập trung phát triển, quan tâm tới vấn đề giáo dục. Muốn làm tốt vấn đề giáo dục thì cần có cơ sở vật chất, trường lớp, đào tạo bồi dưỡng kiến thức cho giáo viên, học sinh, sinh viên… Muốn vậy, cần có vốn để trang trải cho vấn đề này và thực tế thì vốn Ngân sách Nhà nước dùng cho lĩnh vực này là rất lớn. Chương II Thực trạng tình hình sử dụng nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước ở Việt Nam giai đoạn 1991 – 2003 I. Ngân sách Nhà nước giai đoạn 1991 – 2003: Trong những năm vừa qua, nhất là giai đoạn 1991 – 2003 thì tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế nước ta đã đạt được những bước phát triển hết sức vượt bậc, nhìn từ kết quả dưới đây cho thấy: Bảng 1: Tăng trưởng kinh tế Việt Nam giai đoạn 1991 – 2002: Năm 91 92 93 94 95 96 97 98 99 00 01 02 GDP(tỷ đồng) 139634 151782 164043 178534 195567 213833 231264 244596 256272 273666 292535 313788 Tốc độ tăng GDP (%) 5.8 8.7 8.1 8.8 9.5 9.3 8.2 5.8 4.8 6.8 6.84 7.26 Nguồn: Niên giám thống kê Như vậy, tốc độ tăng GDP đã tăng không ngừng, cao nhất năm 1995 (9.5%), thấp nhất năm 1999 (4.8%) và tăng dần từ năm 1999 đến 2002 (từ 4.8% đến 7.26%). Thành tựu đó có được là có sự đóng góp rất lớn từ nguồn vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nước và sau đây chúng ta sẽ đi xem xét về tình hình thu, chi, sử dụng Ngân sách Nhà nước ở nước ta: 1. Tình hình thu Ngân sách Nhà nước: Về thu Ngân sách Nhà nước bình quân giai đoạn 1991 – 2002 đạt 20.68% GDP. Xét về con số tuyệt đối thì tình hình thu Ngân sách Nhà nước đã không ngừng tăng. Sau 12 năm đổi mới (1991 – 2002) quy mô Ngân sách Nhà nước đã tăng (105200: 10353) = 10.2 lần. Bảng 2: Thu Ngân sách Nhà nước giai đoạn 1991 -2002 Năm 91 92 93 94 95 96 97 98 99 00 01 02 Thu NS (tỷ đồng) 10353 21024 32199 41440 53374 62387 65352 70612 78489 90749 102970 105200 %thu NS/GDP 13.5 19 23.6 24.3 23.3 22.9 20.8 19.6 19.6 20.5 21.4 19.6 Tốc độ tăng thu NS (%) 68.3 103.1 53.2 28.7 28.8 16.9 4.8 8 11.2 15.6 13.5 2.2 Nguồn: Niên giám thống kê Xét về tốc độ tăng thu Ngân sách trong các năm 1991, 1992 thì tốc độ tăng thu năm sau cao hơn năm trước, cao nhất là năm 1992 tốc độ tăng thu đạt 103.1% so với năm 1991. Số thực thu của những năm này đã phản ánh rõ nét sự bùng nổ của nền kinh tế. Từ năm 1993 thì tốc độ tăng thu Ngân sách năm sau so với năm trước tuy vẫn tăng nhưng mức độ tăng lại giảm dần và tăng chem. Năm 2002 tốc độ tăng thu chỉ còn 2.2%. Biểu đồ thể hiện tốc độ tăng thu Ngân sách Nhà nước Xét về quy mô thì thu Ngân sách Nhà nước so với tổng GDP tăng từ 13.5%GDP (năm 1991) lên đến đỉnh cao 24.3%GDP (năm 1994). Bình quân 5 năm đầu thập kỷ 1991-1995 thu Ngân sách Nhà nước đạt khoảng 20.7%GDP. Năm năm tiếp theo (1996-2000) đạt 20.68%GDP và đến năm 2001 tăng lên khoảng 21.4%GDP, xong năm 2002 chỉ đạt 19.6%GDP. Đó chính là nguyên nhân do thiên tai, khủng hoảng tài chính Châu á đã làm giảm đáng kể số thu Ngân sách Nhà nước. 2. Tình hình chi Ngân sách Nhà nước: Về chi Ngân sách Nhà nước, trong những năm đầu thập kỷ 90 diễn ra khá thất thường. Năm 90 tổng chi Ngân sách Nhà nước chiếm 19.74%GDP, năm 1991 lại giảm xuống 15.9%GDP, năm 1993 tăng vọt lên 30.1%GDP. Từ năm 1993-1998 thì lại giảm dần và chững lại 22.7%GDP (năm 1998). Bắt đầu từ năm 1999-2002 thì tổng chi Ngân sách Nhà nước so với GDP lại tăng lên: từ 24%GDP (năm 1999) đến 25%GDP (năm 2002). Biểu đồ thể hiện tốc độ tăng chi Ngân sách Nhà nước Bình quân trong khoảng 12 năm (1991-2002) chi Ngân sách Nhà nước đạt khoảng 24.875%GDP, tăng so với mức bình quân 19.42%GDP giai đoạn 1986-1990. Tính theo giá hiện hành thì quy mô chi Ngân sách Nhà nước năm 2002 lớn hơn gấp: (133900: 12170) = 11 lần so với năm 1991. Điều đó chứng tỏ nhu cầu cho chi tiêu của Ngân sách Nhà nước đã không ngừng tăng và nhảy vọt. Bảng 3: Chi Ngân sách Nhà nước giai đoạn 1991-2002: Năm 91 92 93 94 95 96 97 98 99 00 01 02 Chi NS (tỷ đồng) 12170 24331 41114 49794 62679 70539 78057 81995 95972 108961 128370 133900 %chi NS/GDP 15.9 22 30.1 29.2 27.4 25.9 24.9 22.7 24 24.7 26.7 25 Tốc độ tăng chi NS(%) 45.9 99.9 68.9 21.1 25.9 12.5 10.7 5 17 13.5 17.8 4.3 Nguồn: Niên giám thống kê Về tốc độ tăng chi, tính theo giá hiện hành thì chi Ngân sách Nhà nước tăng mạnh vào năm 1992 (tăng 99.9% so với năm 1991). Năm 1993 tốc độ tăng chi cũng khá cao, đạt 68.9% so với năm 1992. Nhưng từ năm 1994 đến năm 2002 thì tốc độ tăng này giảm đáng kể, Kết quả cho thấy: Năm 1998 thì tốc độ tăng chi danh nghĩa so với năm 1997 chỉ còn 5%. Nhất là tốc độ tăng chi của năm 2002 so với năm 2001 chỉ còn 4.3%, thấp nhất trong 12 năm (1991-2002). Nguyên nhân sâu xa là do chủ trương tiết kiệm 10% dự toán nên nhiều khoản chi Ngân sách Nhà nước đã bị cắt giảm ngay từ khâu giao kế hoạch dự toán. 3. Kết quả cân đối Ngân sách Nhà nước: Kết quả cân đối Ngân sách trong thời kỳ này cũng cho thấy bội chi Ngân sách được kiềm chế ở mức thấp, có thể kiểm soát được, duy chỉ năm 1993 tốc độ bội chi là cao nhất (6.5% GDP). Lý do là có sự bất thường trong cân đối Ngân sách Nhà nước trong năm 1993, Nhà nước đã tập trung xây dựng đường dây tải điện 500KV Bắc Nam. Còn trong suốt giai đoạn, thì bội chi được kiểm soát chặt chẽ. Tính bình quân cả thời kỳ 1991-2002 thì bội chi Ngân sách Nhà nước chiếm 4.19%GDP. Bảng 4: Cân đối Ngân sách quốc gia giai đoạn 1991 -2002: Năm 91 92 93 94 95 96 97 98 99 00 01 02 Bội chi NS (tỷ đồng) 1817 3307 8915 8354 9305 8152 12705 11383 17483 18212 25400 28700 %BC/GDP 2.4 2.99 6.5 4.9 4.1 2.99 4.05 3.15 4.4 4.1 5.3 5.4 Nguồn: Niên giám thống kê Tóm lại, giai đoạn 1991-2003 thì mục tiêu chi Ngân sách Nhà nước cho đầu tư phát triển tuy có được nhấn mạnh, song phải thừa nhận rằng: Mục tiêu này vẫn đứng sau mục tiêu kiềm chế lạm phát, chống bội chi, khống chế bội chi ở mức thấp nhất có thể được. Chính vì vậy, tình hình tài chính và vĩ mô đã được duy trì ổn định. Tuy nhiên, nền kinh tế còn chịu ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực nên chính sách tài khoá thắt chặt trở nên không còn phù hợp với tình hình thực tế và đã bộc lộ nhiều hạn chế. II. Tình hình sử dụng nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước đối với nền kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay: 1. Về cơ cấu nguồn vốn đầu tư giai đoạn 1991 - 2003: Như chúng ta đã biết thì vốn đầu tư phát triển từ Ngân sách Nhà nuớc có vai trò hết sức quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, là yếu tố tạo tiền đề cho nền kinh tế bước vào giai đoạn cất cánh. Nếu như trước những năm 1990, nguồn vốn đầu tư phát triển của đất nước chủ yếu dựa vào vốn Ngân sách Nhà nước thông qua các khoản vay nợ Liên Xô và các nước XHCN cũ, thì nay nguồn vốn này đã được đa dạng hoá dưới nhiều hình thức khác nhau: - Nguồn vốn của Ngân sách Nhà nước - Nguồn vốn tín dụng Nhà nước - Nguồn vốn tự có của các Doanh nghiệp Nhà nước - Nguồn vốn đầu tư của dân cư - Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Bảng 5: Cơ cấu nguồn vốn đầu tư giai đoạn 1991-2003 Năm 91 92 93 94 95 96 97 98 99 00 01 02 03 Vốn ĐT toàn XH(VĐTXH) 11526 19755 34167 43100 72447 87394 108370 117134 131170.9 145333 163543 193098.5 219675 Vốn Nhà nước(VNN) 4503.5 7566.4 16643.5 21141.8 26048 42894 53570 65034 76958.1 83567.5 95020 106231.6 123000 Vốn NSNN 13575 19544 23570 26300 31762.8 34506.2 40407 45484.7 46500 %VNN/ VĐTXH 39.1 38.3 48.7 49.1 36 49.1 49.4 55.5 58. 7 57.5 58.1 55 56 %Vốn NSNN/ VNN 52.1 45.6 44 40.4 41.3 41.3 42.5 42.8 37.8 Nguồn: Niên giám thống kê Trong giai đoạn 1991-2003, vốn đầu tư của Nhà nước tuy về số lượng tuyệt đối có tăng đều qua các năm: Tăng (123000: 4503.5) = 27.3 lần, song tỷ trọng của vốn đầu tư Nhà nước trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội vẫn chưa ổn định. Tính theo giá hiện hành thì năm 1990 vốn đầu tư của Nhà nước chiếm 40.15% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, nhưng năm 1991 lại giảm xuống còn 39.1% và tiếp tục giảm năm 1992 còn 38.3%, rồi tăng dần các năm sau và cao nhất là năm 1999 (58.7%). Bình quân tỷ trọng của nguồn vốn đầu tư Nhà nước so với tổng nguồn vốn đầu tư của toàn xã hội trong cả giai đoạn 1991-2003 là 50.5%. Như vậy, có thể thấy nguồn vốn đầu tư của Nhà nước có vai trò hết sức quan trọng. Trong nguồn vốn đầu tư của Nhà nước thì có nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước. Nhìn chung từ bảng số liệu cho thấy: Về mặt giá trị thì vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước vẫn tăng đều qua các năm, từ năm 1995-2003 tăng gấp (46500: 13575) = 3.4 lần. Điều đó chứng tỏ nguồn vốn này đã được sử dụng ngày càng nhiều và hiệu quả hơn. Về mặt tỷ trọng của nguồn vốn này so với nguồn vốn đầu tư của Nhà nước thì cao nhất vào năm 1995 (52.1%), rồi giảm dần đến năm 1998 chỉ còn 40.4%. Sau đó tăng đến năm 2002 là 42.8% và năm 2003 lại chỉ còn có 37.8%. Điều này cũng dễ hiểu vì nguồn vốn đầu tư của Nhà nước giai đoạn hiện nay đã được đa dạng hoá dưới nhiều hình thức khác nhau, nên việc dùng vốn Ngân sách Nhà nước đã giảm bớt, thay vào đó là các nguồn vốn khác. Song không thể phủ định một điều rằng: Vốn Ngân sách Nhà nước vẫn có một vai trò quan trọng trong nguồn vốn Nhà nước (chiếm 37.8% năm 2003), trong đó vốn Nhà nước chiếm 56% tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội (năm 2003). Tuy nhiên, nếu xét về tổng nguồn vốn đầu tư toàn xã hội qua các năm thì nguồn vốn từ Ngân sách Nhà nước chiếm một tỷ trọng không lớn lắm: Cụ thể năm 2003 chiếm (46500: 219675)*100% = 21.2%. Song thực tế nó lại có vai trò rất quan trọng đối với việc tăng trưởng kinh tế, nó là chất xúc tác, dẫn xuất để kích thích nguồn vốn đầu tư của các thành phần khác, là bánh lái cho cả cỗ xe kinh tế. 2. Tình hình sử dụng nguồn vốn đầu tư từ Ngân sách Nhà nước trong các lĩnh vực trọng yếu hiện nay: a. Đối với lĩnh vực phát triển nông nghiệp và nông thôn: Nông nghiệp là nền tảng quan trọng để góp phần ổn định kinh tế -xã hội. Trong 5 năm (2001-2005) Chính phủ đã ban hành nhiều cơ chế chính sách phát triển nông nghiệp và nông thôn, xoá đói giảm nghèo và tạo việc làm cũng như thực hiện các chương trình mục tiêu quốc gia khác, xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc cho người nông dân. Nông nghiệp tiếp tục duy trì đà phát triển khá cao với nhịp tăng trên 5.7%/năm, góp phần giữ vững ổn định lương thực, cung cấp nông sản cho công nghiệp chế biến và cho xuất khẩu, góp phần ổn định chính trị, kinh tế -xã hội của đất nước. Để đáp ứng mục tiêu phát triển của ngành, nhu cầu vốn đầu tư phát triển 5 năm (2001-2005) dự kiến khoảng 133.8 nghìn tỷ đồng, chiếm 15.9% tổng vốn đầu tư phát triển, tăng bình quân hàng năm trên 9%, trong đó: Vốn đầu tư công cộng khoảng 97.6 nghìn tỷ đồng, chiếm 80% tổng vốn đầu tư phát triển của ngành, riêng vốn Ngân sách Nhà nước khoảng 56.6 nghìn tỷ đồng, chiếm 57% tổng vốn đầu tư công cộng của ngành. Như vậy, trong bố trí vốn cho phát triển nông nghiệp và nông thôn đã đầu tư thêm hàng nghìn tỷ vốn Ngân sách cho xoá đói giảm nghèo và các mục tiêu kinh tế –xã hội khác và cả vốn bảo dưỡng, duy tu công trình. Vốn đầu tư phát triển ngành nông, lâm, ngư nghiệp 2001-2005: Đơn vị: 1000 tỷ đồng, giá năm 2000 2001-2005 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng số 133.8 20.7 23.5 25 26.3 28.1 Vốn chương trình đầu tư công cộng 97.6 17.6 18.6 19.6 20.3 21.5 -Vốn NSNN 56.6 10.9 11 11.4 11.5 11.8 -Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 15.4 2.9 3 3.1 3.2 3.2 -Vốn tự có của DN Nhà nước 21 3 3.8 4.2 4.6 5.4 -Vốn duy tu, bảo dưỡng (nguồnNSNN) 4.6 0.8 0.8 0.9 1 1.1 Nguồn: Quy hoạch, chiến lược phát triển ngành- chương trình ưu tiên-NXB thống kê Nhờ có nguồn vốn này mà trong những năm qua, giá trị sản xuất nông nghiệp đã đạt được những thành tựu đáng kể: Năm 2000 đạt 129140.5 tỷ đồng, năm 2001 đạt 130177.6 tỷ đồng và tiếp tục tăng năm 2002 là 145021.3 tỷ đồng, đến năm 2003 đạt 153769.6 tỷ đồng. Giá trị sản xuất thuỷ sản theo giá so sánh năm 1994 phân theo địa phương của cả nước năm 1995 là 13523.9 tỷ đồng, năm 2003 là 30212.3 tỷ đồng, đã tăng 2.23 lần so với năm 1995. Cơ cấu sản xuất nông nghiệp trên nhiều vùng đã có sự chuyển dịch theo hướng tăng hiệu quả trên một đơn vị diện tích đất nông nghiệp, đặc biệt nghề nuôi trồng và đánh bắt thuỷ sản phát triển khá nhanh, chiếm khoảng 15% giá trị sản xuất toàn ngành, kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản tăng cao. Kinh tế nông thôn phát triển đa dạng, nhiều vùng sản xuất nông sản hàng hoá với quy mô lớn, gắn liền với công nghiệp chế biến được hình thành, các làng nghề bước đầu được khôi phục, sản xuất trang trại phát triển nhanh, góp phần xoá đói giảm nghèo và tạo thêm việc làm ở nông thôn… b. Trong lĩnh vực công nghiệp: Ngành công nghiệp có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp công nghiệp hoá - hiện đại hóa đất nước. Cần phải tập trung phát triển với nhịp độ cao, có hiệu quả, chuyển dịch nhanh cơ cấu công nghiệp, tăng nhanh các ngành công nghiệp, các sản phẩm công nghiệp sử dụng công nghệ cao, công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn… Để đạt được các mục tiêu trên, trong những năm vừa qua, nhất là trong kế hoạch 5 năm (2001-2005) Nhà nước ta đã đầu tư rất lớn cho lĩnh vực này và đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ, cụ thể là: Nhu cầu vốn đầu tư phát triển ngành công nghiệp và xây dựng 2001-2005: Đơn vị: 1000 tỷ đồng, giá năm 2000 2001-2005 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng số 369.6 62.6 71 74.9 78.05 83.05 Vốn chương trình đầu tư công cộng 197.5 31.6 36.1 40 43.4 46.4 -Vốn NSNN 17.9 3.3 3.5 3.6 3.7 3.8 -Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 70 11.5 13.2 14 15.3 16 -Vốn tự có của DN Nhà nước 108.7 16.7 19.2 22.2 24.2 26.4 Nguồn: Quy hoạch, chiến lược phát triển ngành- chương trình ưu tiên-NXB thống kê -Vốn duy tu, bảo dưỡng (nguồn NSNN) 0.9 0.1 0.2 0.2 0.2 0.2 Như vậy, trong 5 năm (2001-2005), yêu cầu về vốn đầu tư cho các ngành công nghiệp dự kiến khoảng 369.6 nghìn tỷ đồng, chiếm khoảng 44% tổng vốn đầu tư toàn xã hội, trong đó nguồn vốn chương trình đầu tư công cộng khoảng 197,5 nghìn tỷ đồng, chiếm 53% tổng vốn đầu tư phát triển của ngành. Riêng vốn Ngân sách Nhà nước khoảng 17.9 nghìn tỷ đồng, chiếm 9% tổng vốn đầu tư. Vốn tín dụng đầu tư vào khoảng 70 nghìn tỷ đồng, chiếm 35% tổng vốn đầu tư. Nhờ có nguồn vốn trên, ngành công nghiệp Việt Nam đã có những bước tiến hết sức quan trọng trong việc chuyển đổi cơ cấu sản xuất, cơ cấu sản phẩm và cơ cấu công nghệ theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng, đáp ứng nhu cầu của thị trường. Tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm ngành công nghiệp trong 5 năm (1996-2000) đạt 13.5%. Đó là bước phát triển khá nhanh, góp phần làm cho nền kinh tế tiếp tục tăng trưởng với tốc độ bình quân khoảng 7% trong điều kiện kinh tế các nước trong khu vực đều suy giảm. Năng lực sản xuất một số sản phẩm công nghiệp tăng khá, không những đảm bảo nhu cầu về ăn, mặc, ở, phương tiện đi lại, học hành và nhiều loại hàng tiêu dùng thiết yếu khác, mà còn có khả năng xuất khẩu ngày càng tăng. Nhiều sản phẩm quan trọng có ý nghĩa chiến lược, có tác động lớn đến nhiều ngành kinh tế đều có tốc độ tăng trưởng khá. Cơ cấu các ngành công nghiệp đã có sự chuyển dịch đáng kể, hình thành một số sản phẩm mũi nhọn, một số khu công nghiệp, khu chế xuất với nhiều cơ sở sản xuất có công nghệ khá hiện đại. Đến năm 2000, công nghệ khai thác chiếm khoảng 15% tổng giá trị sản xuất toàn ngành, trong đó khai thác dầu, khí chiếm 11.2%, công nghiệp chế tác chiếm 79%, trong đó công nghiệp sản xuất thực phẩm chiếm khoảng 23.6%, công nghiệp sản xuất và phân phối điện, khí đốt, nước, chiếm khoảng 6%, trong đó công nghiệp điện chiếm 5.4% và theo thống kê cho thấy: Giá trị sản xuất công nghiệp theo giá so sánh năm 1994 phân theo thành phần kinh tế năm 2002 là: 261092.4 tỷ đồng, năm 2003 là: 302990.1 tỷ đồng. Tuy vậy, sản xuất công nghiệp vẫn đứng trước nhiều khó khăn, một số ngành sản xuất còn nhiều bấp bênh, chất lượng sản phẩm còn kém, năng suất lao động công nghiệp thấp, công nghệ chưa đáp ứng được với nhu cầu phát triển… Tuy tốc độ phát triển công nghiệp đạt trên 14%/năm nhưng do tăng nhanh ở một số sản phẩm và phân ngành có tiêu hao vật tư lớn như dệt, may, ô tô, xe máy nên làm cho tốc độ tăng giá trị gia tăng không tăng tương xứng, chỉ tăng khoảng trên dưới 10%/năm. Chính vì vậy, cần phải có những chính sách sử dụng và huy động có hiệu quả nguồn lực trong ngành công nghiệp và những nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này. c. Trong lĩnh vực kết cấu cơ sở hạ tầng và dịch vụ: Kinh nghiệm những năm qua cho thấy việc đầu tư vào phát triển hạ tầng và dịch vụ có ý nghĩa quan trọng, có tác động đến hiệu quả chung của toàn nền kinh tế và chất lượng cuộc sống. Trong 5 năm (1996-2000), kết cấu hạ tầng đô thị (bao gồm cả cấp thoát nước, đường nội đô…) đã được cải thiện rõ rệt, các ngành dịch vụ đô thị phát triển khá, từng bước đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế và nâng cao mức sống các tầng lớp dân cư. Hệ thống cấp nước cho sinh hoạt dân cư và cho sản xuất đã được hoàn thiện bước đầu. Đến cuối năm 2000, hầu hết các thành phố, các tỉnh lỵ và phần lớn các thị trấn đều được đầu tư nâng cấp và cải thiện hệ thống cấp nước. Năng lực cấp nước cho khu vực đô thị tăng thêm trong 5 năm (1996-2000) là 610000m3/ngày, với 850 Km đường ống phân phối theo tuyến trục đã rải đều trong các khu vực dân cư, đạt mức tiêu dùng là 70 lít nước/người - ngày (so với mục tiêu đề ra là 80 – 100 lít/người - ngày). Hệ thống trụ sở các cơ quan Nhà nước đã được chỉnh trang, mở rộng và đầu tư xây dựng mới. Các khu dân cư đô thị đã được mở rộng, nhất là ở các thành phố lớn như Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng… Dịch vụ đô thị phát triển mạnh, các trung tâm thương mại, hệ thống các chợ, các siêu thị đã được hình thành trong các thành phố, thị xã, thị trấn. Dịch vụ du lịch, nhà hàng, khách sạn phát triển đáng kể, đáp ứng được nhu cầu đời sống dân cư. Nhiệm vụ phát triển hạ tầng và dịch vụ trong 5 năm (2001-2005) là trực tiếp góp phần xây dựng đô thị văn minh, lịch sự, cơ sở hạ tầng nông thôn phát triển, đáp ứng đầy đủ các nhu cầu dịch vụ và hạ tầng cơ sở cho đời sống và cho phát triển ở cả vùng nông thôn và đô thị. Để đáp ứng mục tiêu phát triển cơ sở hạ tầng và các dịch vụ ở đô thị và nông thôn, nhu cầu vốn đầu tư trong 5 năm (2001-2005) dự kiến vào khoảng 122000 tỷ đồng, chiếm 14% tổng vốn toàn xã hội, trong đó riêng chương trình đầu tư công cộng vào khoảng 44.5 nghìn tỷ đồng, bằng khoảng 38% so với tổng vốn của ngành. Vốn đầu tư phát triển lĩnh vực hạ tầng và dịch vụ đô thị thời kỳ 2001-2005 Đơn vị: 1000 tỷ đồng, giá năm 2000 2001-2005 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng số 121.6 21.9 24 24.6 25.2 25.9 Vốn chương trình đầu tư công cộng 44.5 8.4 8.9 9 9 9.2 -Vốn NSNN 21.1 4.3 4.3 4.3 4.1 4.1 -Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước 12 2.3 2.5 2.4 2.4 2.4 -Vốn tự có của DN Nhà nước 7.4 1 1.3 1.5 1.7 1.9 -Vốn duy tu, bảo dưỡng (nguồn NSNN) 4 0.8 0.8 0.8 0.8 0.8 Nguồn: Quy hoạch, chiến lược phát triển ngành- chương trình ưu tiên-NXB thống kê Nhìn từ kết quả trên cho thấy: Riêng vốn Ngân sách Nhà nước đầu tư cho lĩnh vực này là rất lớn. Cụ thể: Năm 2001 chiếm 51% tổng vốn chương trình đầu tư công cộng, năm 2002 là 48.3%, năm 2003 là 47.8% và dự kiến năm 2005 là 44.6%. Tuy vậy, cơ sở hạ tầng đô thị và các hoạt động dịch vụ đô thị vẫn còn nhiều bất cập. Sức vươn tới cơ sở hạ tầng và dịch vụ đô thị chưa đáp ứng được quá trình đô thị hoá nhanh chóng trong từng vùng. Sự dồn nén về mật độ dân cư ở các thành phố lớn như hiện nay đang là khó khăn lớn với thực trạng về cơ sở hạ tầng còn yếu kém cần phải được khắc phục trong những năm tiếp theo. d. Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo: Trong 5 năm (1996-2000), ngành giáo dục và đào tạo có bước tiến đáng kể, đóng góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới và phát triển đất nước. Hệ thống các trường học phổ thông phát triển rộng khắp và đa dạng. Quy mô giáo dục đào tạo tiếp tục tăng ở tất cả các cấp học, bậc học. Hiện nay cả nước có khoảng 21000 trường tiểu học và trung học cơ sở, 350 trường dân tộc nội trú, bảo đảm điều kiện ăn ở cho 50000 học sinh con em đồng bào dân tộc thiểu số. Đến năm 2000, tất cả các tỉnh thành phố trong cả nước đều đạt chuẩn quốc gia về xoá mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học. Quy mô dạy nghề tăng bình quân 16.8%/năm, trong đó hệ dài hạn tăng 12.1%, hệ ngắn hạn tăng 18.5%. Chỉ tiêu tuyển mới đào tạo hệ dài hạn năm 2000 đã tăng gần 3 lần so với năm 1996, hệ ngắn hạn tăng bình quân 14%/năm. Đào tạo trung học chuyên nghiệp tăng bình quân 13.2%, đào tạo đại học cao đẳng tăng bình quân đạt 14.2%/năm. Công tác xã hội hoá giáo dục có nhiều tiến bộ, mạng lưới các trường đại học và cao đẳng được củng cố phát triển. Đã có 206 cơ sở đào tạo đại học và cao đẳng, trong đó có 16 cơ sở dân lập, 2 viện đại học mở, trên 100 cơ sở đào tạo nghiên cứu sinh, 82 cơ sở đào tạo cao học, 2 đại học quốc gia và 3 đại học vùng… Ngành giáo dục đào tạo trong 5 năm (2001-2005) phải tạo ra bước chuyển biến cơ bản, toàn diện, nhanh chóng nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và trình độ dân trí của toàn xã hội. Để đáp ứng mục tiêu phát triển ngành giáo dục, đào tạo, nhu cầu vốn đầu tư trong 5 năm 2001-2005 dự kiến vào khoảng 45000 tỷ đồng, chiếm gần 5.3% vốn đầu tư phát triển, riêng chương trình đầu tư công cộng vào khoảng 30000 tỷ đồng, bằng khoảng 67% so với tổng vốn đầu tư của ngành, trong đó vốn Ngân sách Nhà nước là 24.5 nghìn tỷ đồng, chiếm 11.3% tổng vốn đầu tư từ Ngân sách cả nước. Vốn đầu tư cho phát triển ngành giáo dục đào tạo thời kỳ 2001-2005: Đơn vị: 1000 tỷ đồng, giá năm 2000 2001-2005 2001 2002 2003 2004 2005 Tổng số 45 7.9 8.7 9.2 9.4 9.8 Vốn chương trình đầu tư công cộng 30 5.46 5.76 6.06 6.26 6.46 -Vốn NSNN 24.5 4.7 4.8 4.9 5 5.1 -Vốn tín dụng đầu tư phát triển ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docC0189.doc
Tài liệu liên quan