Phân tích tài chính Công ty vật tư kỹ thuật xi măng

Mục lục Trang Lời nói đầu 3 Chương I: Những Vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp 5 1.1. Sự cần thiết của việc phân tích Tài chính doanh nghiệp 5 1.2. Trình tự phân tích tài chính 6 1.3. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp 7 1.3.1. Các thông tin chung 8 1.3.2. Các thông tin theo ngành kinh tế 8 1.3.3. Thông tin liên quan đến tài chính doanh nghiệp 9 1.4. Phương pháp phân tích tài chính 11 1.4.1. Phương pháp phân tích tỷ lệ 11 1.4.2. Phương pháp s

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1177 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích tài chính Công ty vật tư kỹ thuật xi măng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
o sánh. 12 1.4.3. Phương pháp phân tích tài chính Dupont. 13 1.5. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp. 15 1.5.1. Phân tích khái quát hoạt động tài chính doanh nghiệp 15 1.5.2. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp 15 1.5.3. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh. 16 1.5.4. Phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính đặc trưng. 18 1.5.4.1. Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán. 19 1.5.4.2. Nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn. 21 1.5.4.3. Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động. 23 1.5.4.4. Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời. 25 1.6. Những nhân tố ảnh hưởngđến phân tích tài chính. 26 1.6.1. Chất lượng thông tin sử dụng. 26 1.6.2. Trình độ cán bộ phân tích. 27 1.6.3. Sự sắn có của các chỉ tiêu trung bình ngành. 27 Chương 2: Phân tích tài chính Công ty vật tư kỹ thuật xi măng 29 2.1. Giới thiệu chung về Công ty vất tư kỹ thuật xi măng. 29 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển, chức năng, nhiệm vụ của Công ty. 29 2.1.2. Cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý của Công ty vật tư kỹ thuật xi măng. 31 2.1.3. Đăc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty. 35 2.2. Phân tích tài chính Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng. 37 2.2.1 Phân tích khái quát hoạt động tài chính Công ty 37 2.2.2. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn. 40 2.2.3. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động SXKD 42 2.2.4. Phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính đặc trưng 43 2.2.4.1. Phân tích các chỉ tiêu về khả năng thanh toán 43 2.2.4.2. Phân tích các chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn 46 2.2.4.3. Phân tích các chỉ tiêu về khả năng hoạt động 50 2.2.4.4. Phân tích các chỉ tiêu về khả năng sinh lời 53 2.3. Đánh giá tình hình tài chính Công ty VTKTXM qua 3 năm 2000 -2002. 57 2.3.1. Thành công 57 2.3.2. Hạn chế. 59 Chương 3: Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính Công ty VTKTXM 60 3.1. Mục tiêu phát triển của Công Ty trong những năm tới. 60 3.2. Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính Công ty VTKTXM. 62 3.2.1. Chủ động trong công tác huy động vốn. 63 3.2.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. 63 3.2.3. Tăng cường các biện pháp quản lý chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp nhằm tăng lợi nhuận. 68 3.2.4. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, mở rộng thị trường tiêu thụ. 69 3.2.5. Hoàn thiện công tác kế toán và nâng cao trình độ quản lý tài chính doanh nghiệp. 70 3.3. Một số kiến nghị 71 3.3.1. Đối với Tổng Công ty xi măng: 71 3.3.2. Đối với Nhà nước 71 Kết luận 72 Tài liệu tham khảo 73 Phụ lục 74 Lời nói đầu Sau 15 năm đổi mới nền kinh tế đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nền kinh tế nước ta đã từng bước ổn định, phát triển và gia nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang chuyển biến không ngừng, cạnh tranh và phát triển. Sự phát triển của các doanh nghiệp đóng vai trò quyết định vào sự ổn định và phát triển của nền kinh tế đất nước. Để các doanh nghiệp Việt Nam ngày càng phát triển và cạnh tranh được trong nền kinh tế thị trường thì vấn đề quan tâm hàng đầu của nhà quản lý là vấn đề quản trị tài chính doanh nghiệp. Hoạt động tài chính doanh nghiệp là hoạt động phức tạp bao gồm mọi mặt hoạt động của doanh nghiệp, vấn đề đặt ra đối với các nhà quản lý tài chính doanh nghiệp là quản lý có hiệu quả lao động, vật tư, tiền vốn bỏ ra để thu được kết quả cao nhất. Muốn vậy, các nhà quản lý cần thực hiện việc phân tích, đánh giá tài chính doanh nghiệp để thấy được những trọng điểm của công tác quản lý tài chính từ đó đưa ra các giải pháp tài chính phù hợp. Như vậy, phân tích tài chính là một công cụ hữu hiệu trong công tác quản lý tài chính của tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi loại hình sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên, trên thực tế, phân tích tài chính chưa được Công ty VTKTXM thực sự coi trọng. Việc phân tích tài chính chỉ mang tính chất báo cáo tổng kết, đánh giá sau một năm tài chính. Điều này đã phần nào ảnh hưởng tới chất lượng các quyết định tài chính và hiệu quả kinh doanh của Công ty. Vì vậy, trong quá trình thực tập tại Công ty VTKTXM em đã chọn đề tài: “Phân tích tài chính Công ty VTKTXM” để làm luận văn tốt nghiệp. Nội dung luận văn gồm 3 chương: Chương 1: Những vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp. Đây là phần tìm hiểu chung về phân tích tài chính doanh nghiệp bao gồm: Sự cần thiết của phân tích tài chính doanh nghiệp, thông tin sử dụng trong phân tích, phương pháp và nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp. Chương 2: Phân tích tài chính Công ty VTKTXM. Chương này vận dụng những lý thuyết đã đề cập ở chương 1 để phân tích tài chính Công ty VTKTXM nhằm đưa ra những đánh giá về tình hình tài chính của Công ty đồng thời tìm hiểu những nguyên nhân của tình hình đó. Chương 3: Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính Công ty VTKTXM. Đây là phần kết của bài viết, nêu lên những giải pháp cụ thể và những điều kiện để thực hiện những giải pháp đó xuất phát từ những đánh giá về tình hình tài chính Công ty VTKTXM kết hợp với định hướng phát triển của Công ty trong những năm tới. Chương I Những Vấn đề cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp 1.1. Sự cần thiết của việc phân tích Tài chính doanh nghiệp Phân tích tài chính là sử dụng một tập hợp các khái niệm, phương pháp và các công cụ cho phép sử lý các thông tin kế toán và các thông tin khác về quản lý nhằm đánh giá tình hình tài chính của một doanh nghiệp, đánh giá rủi ro, mức độ và chất lượng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Quy trình thực hiện phân tích tài chính ngày càng được áp dụng rộng rãi trong các đơn vị kinh tế được tự chủ nhất định về tài chính như các doanh nghiệp thuộc mọi hình thức, được áp dụng trong các tổ chức xã hội, tập thể và các cơ quan quản lý, tổ chức công cộng. Đặc biệt sự phát triển của các doanh nghiệp, của các ngân hàng và của thị trường vốn đã tạo nhiều cơ hội để phân tích tài chính chứng tỏ thực sự là có ích và vô cùng cần thiết. Mục đích của phân tích tài chính doanh nghiệp là giúp cho người sử dụng thông tin đánh giá sức mạnh tài chính, khả năng và triển vọng của doanh nghiệp và là cơ sở để đưa ra dự đoán tài chính, các quyết định tài chính. Bởi vậy, phân tích tài chính là mối quan tâm của nhiều nhóm người khác nhau như: Ban giám đốc, các nhà đầu tư, các cổ đông , các chủ nợ, các khách hàng, các nhà quản lý, kể cả các cơ quan chính phủ và bản thân người lao động. Mỗi một nhóm người có những nhu cầu thông tin khác nhau và mỗi nhóm có xu hướng tập trung vào những khía cạnh riêng trong bức tranh tài chính của doanh nghiệp. Thứ nhất: Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp Nhà quản trị phân tích tài chính nhằm đánh giá hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, xác định điểm mạnh điểm yếu của doanh nghiệp. Đó là cơ sở để định hướng các quyết định của Ban Tổng giám đốc, Giám đốc tài chính, dự báo tài chính: kế hoạch đầu tư, ngân quỹ và kiểm soát các hoạt động quản lý. Thứ hai: Đối với nhà đầu tư Nhà đầu tư cần biết tình hình thu nhập của chủ sở hữu - lợi tức cổ phần và giá trị tăng thêm của vốn đầu tư. Họ quan tâm tới phân tích tài chính để nhận biết khả năng sinh lãi của doanh nghiệp. Đó là một trong những căn cứ giúp họ ra quyết định bỏ vốn vào doanh nghiệp hay không? Thứ ba: Đối với người cho vay Người cho vay phân tích tài chính để nhận biết khả năng vay và trả nợ của khách hàng. Chẳng hạn, để quyết định cho vay, một trong những vấn đề mà người cho vay cần xem xét là doanh nghiệp thực sự có nhu cầu vay hay không? Khả năng trả nợ của doanh nghiệp như thế nào? Thứ tư: Đối với người hưởng lương trong doanh nghiệp Bên cạnh các nhà quản lý, các nhà đầu tư và các chủ nợ của doanh nghiệp, người hưởng lương cũng rất quan tâm đến những thông tin tài chính của doanh nghiệp. Điều này cũng dễ hiểu bởi kết quả hoạt động của doanh nghiệp có tác dụng trực tiếp đến tiền lương - khoản thu nhập chính của người lao động. Ngoài ra, trong một doanh nghiệp, người lao động được tham gia góp vốn mua một số cổ phiếu nhất định. Như vậy, họ vừa là người lao động, vừa là người chủ doanh nghiệp nên có quyền lợi và trách nhiệm gắn với doanh nghiệp. Thứ năm: Đối với cơ quan quản lý Nhà nước Dựa vào các báo cáo tài chính doanh nghiệp, các cơ quan quản lý của Nhà nước thực hiện phân tích tài chính để đánh giá, kiểm tra, kiểm soát hoạt động kinh doanh, hoạt động tài chính tiền tệ của doanh nghiệp có đúng chính sách, chế độ và luật pháp quy định không. 1.2. Trình tự phân tích tài chính Bước 1: Thu thập thông tin Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng lý giải và thuyết minh thực trạng hoạt động tài chính doanh nghiệp, phục vụ cho quá trình dự đoán tài chính. Nó bao gồm cả những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài, những thông tin kế toán và những thông tin quản lý khác…trong đó các thông tin kế toán phản ánh tập trung trong các báo cáo tài chính doanh nghiệp, là những nguồn thông tin đặc biệt quan trọng. Do vậy, phân tích tài chính trên thực tế là phân tích các báo cáo tài chính doanh nghiệp. Bước 2: Xử lý thông tin Giai đoạn tiếp theo của phân tích tài chính là quá trình xử lý thông tin đã thu thập được. Trong giai đoạn này, người sử dụng thông tin ở các góc độ nghiên cứu, ứng dụng khác nhau, có phương pháp xử lý thông tin khác nhau phục vụ mục tiêu phân tích đã đặt ra: xử lý thông tin là quá trình sắp xếp các thông tin theo những mục tiêu nhất định nhằm tính toán, so sánh, giải thích, đánh giá, xác định nguyên nhân của các kết quả đã đạt được phục vụ cho quá trình dự đoán và quyết định. Bước 3: Dự đoán và quyết định Thu thập và xử lý thông tin nhằm chuẩn bị những tiền đề và điều kiện cần thiết để người sử dụng thông tin dự đoán nhu cầu và đưa ra các quyết định tài chính. Có thể nói, mục tiêu của phân tích tài chính là đưa ra các quyết định tài chính. Đối với chủ doanh nghiệp phân tích tài chính nhằm đưa ra các quyết định liên quan tới mục tiêu hoạt động của doanh nghiệp là tăng trưởng, phát triển, tối đa hoá lợi nhuận hay tối đa hoá giá trị xí nghiệp. Đối với người cho vay và đầu tư vào xí nghiệp thì đưa ra các quyết định về tài trợ và đầu tư; đối với cấp trên của doanh nghiệp đưa ra các quyết định quản lý doanh nghiệp. 1.3. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính doanh nghiệp Sự phát triển của một doanh nghiệp dựa vào nhiều yếu tố: - Các yếu tố bên ngoài: sự tăng trưởng của nền kinh tế, tiến bộ của khoa học kỹ thuật, chính sách tiền tệ, chính sách thuế… - Các yếu tố bên trong: cơ cấu tổ chức của doanh nghiệp, tính chất của sản phẩm, quy trình công nghệ, khả năng tài trợ cho tăng trưởng, năng suất lao động… Phân tích tài chính có mục tiêu đưa ra những dự báo tài chính giúp cho việc ra quyết định về mặt tài chính và giúp cho việc dự kiến kết quả thu được trong tương lai của doanh nghiệp nên thông tin sử dụng để phân tích không chỉ giới hạn trong nội bộ doanh nghiệp (thông qua các báo cáo tài chính) mà phải mở rộng sang lĩnh vực ngoài doanh nghiệp. Cụ thể có 3 loại thông tin mà doanh nghiệp sử dụng để phân tích đó là: - Các thông tin chung về kinh tế - Các thông tin về ngành kinh doanh của doanh nghiệp - Các thông tin liên quan đến tài chính doanh nghiệp. Đó là các báo cáo tài chính doanh nghiệp 1.3.1. Các thông tin chung Đây là các thông tin về tình hình kinh tế có ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong năm. Sự suy thoái kinh tế hoặc tăng trưởng của nền kinh tế có tác động mạnh mẽ đến cơ hội kinh doanh, đến sự biến động giá cả các yếu tố đầu vào và thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, từ đó tác động đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Khi các tác động diễn ra theo chiều hướng có lợi, hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp được mở rộng, lợi nhuận tăng và nhờ đó kết quả kinh doanh trong năm là khả quan. Tuy nhiên, khi các tác động diễn ra theo chiều hướng bất lợi, nó sẽ ảnh hưởng xấu đến kết quả kinh doanh của doanh nghiệp.Mặt khác, các chính sách về thuế như: Thuế giá trị gia tăng, thuế xuất nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt hay những quy định có liên quan thể hiện định hướng phát triển của Nhà nước đối với các ngành kinh tế cũng ảnh hưởng đến thị trường đầu vào và thị trường đầu ra của quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì vậy, để có được sự đánh giá một cách khách quan và chính xác về tình hình tài chính của doanh nghiệp, chúng ta phải xem xét tới cả các thông tin kinh tế bên ngoài có liên quan. 1.3.2. Các thông tin theo ngành kinh tế Nội dung nghiên cứu trong phạm vi ngành là việc đặt sự phát triển của doanh nghiệp trong mối liên hệ với các hoạt động chung của ngành kinh doanh. Các thông tin theo ngành kinh tế, đó là những thông tin mà kết quả hoạt động của doanh nghiệp mang tính chất của ngành kinh tế như: - Tính chất của sản phẩm - Quy trình kỹ thuật áp dụng - Cơ cấu sản xuất: công nghiệp nặng hay công nghiệp nhẹ, những cơ cấu sản xuất này có ảnh hưởng đến khả năng sinh lời, vòng quay vốn dự trữ, phương tiện tài trợ. - Nhịp độ phát triển của chu kỳ kinh tế Thông tin theo ngành kinh tế đặc biệt là hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành là cơ sở tham chiếu để người phân tích có thể đánh giá, kết luận chính xác về tình hình tài chính doanh nghiệp. 1.3.3. Thông tin liên quan đến tài chính doanh nghiệp Phân tích tài chính sử dụng mọi nguồn thông tin có khả năng làm rõ mục tiêu của dự đoán tài chính. Từ những thông tin nội bộ đến những thông tin bên ngoài, thông tin số lượng đến những thông tin giá trị đều giúp cho những nhà phân tích có thể đưa ra những nhận xét, kết luận sát thực. Tuy nhiên, thông tin kế toán trong nội bộ doanh nghiệp như là một nguồn thông tin quan trọng bậc nhất. Thông tin kế toán được phản ánh khá đầy đủ trong các báo cáo kế toán. Phân tích tài chính được thực hiện trên cơ sở các báo cáo tài chính - được hình thành thông qua việc xử lý các báo cáo kế toán chủ yếu đó là: Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (Ngân quỹ) Bảng cân đối kế toán Bảng cân đối kế toán là một báo cáo tài chính mô tả tình trạng tài chính của một doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định nào đó. Bảng cân đối kế toán được trình bày dưới dạng bảng cân đối số dư các tài khoản kế toán: một bên phản ánh tài sản và một bên phản ánh nguồn vốn của doanh nghiệp. Bên tài sản của Bảng cân đối kế toán phản ánh giá trị của toàn bộ tài sản hiện có đến thời điểm lập báo cáo thuộc quyền quản lý và sử dụng của doanh nghiệp: đó là tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn, tài sản cố định và đầu tư dài hạn. Bên nguồn vốn phản ánh số vốn để hình thành các loại tài sản của doanh nghiệp đến thời điểm lập báo cáo: Đó là vốn của chủ (vốn tự có) và các khoản nợ. Nhìn vào Bảng cân đối kế toán, nhà phân tích có thể nhân biết được loại hình doanh nghiệp, quy mô, mức độ tự chủ tài chính của doanh nghiệp. Bảng cân đối kế toán là một tư liệu quan trọng bậc nhất giúp cho các nhà phân tích đánh giá được khả năng cân bằng tài chính, khả năng thanh toán và khả năng cân đối vốn của doanh nghiệp. Báo cáo kết quả kinh doanh Báo cáo kết quả kinh doanh phản ánh kết quả hoạt động sản xuất - kinh doanh, phản ánh tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định. Những khoản mục chủ yếu được phản ánh trên Báo cáo kết quả kinh doanh: doanh thu từ hoạt động sản xuất kinh doanh; doanh thu từ hoạt động tài chính; doanh thu từ hoạt động bất thường và chi phí tương ứng với từng hoạt động đó. Khác với Bảng cân đối kế toán, Báo cáo kết quả kinh doanh cho biết sự dịch chuyển của tiền trong quá trình sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp và cho phép dự tính khả năng hoạt động của doanh nghiệp trong tương lai. Báo cáo kết quả kinh doanh cũng giúp nhà phân tích so sánh doanh thu với số tiền thực nhập quỹ khi bán hàng hóa, dịch vụ; so sánh tổng chi phí phát sinh với số tiền thực xuất quỹ để vận hành doanh nghiệp. Trên cơ sở doanh thu và chi phí, có thể xác định được kết quả sản xuất - kinh doanh: lãi hay lỗ trong năm. Báo cáo lưu chuyển tiền tệ Báo cáo lưu chuyển tiền tệ được lập để trả lời các vấn đề liên quan đến các luồng tiền vào, ra trong doanh nghiệp, tình hình tài trợ, đầu tư bằng tiền của doanh nghiệp trong từng thời kỳ ngắn (thường là từng tháng). Những luồng vào, ra của tiền và các khoản coi như tiền được tổng hợp và chia thành 3 nhóm: lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động sản xuất kinh doanh; lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động đầu tư, tài chính và lưu chuyển tiền tệ từ hoạt động bất thường. Trên cơ sở luồng tiền vào, ra, nhà phân tích thực hiện cân đối ngân quỹ với số dư ngân quỹ đầu kỳ để xác định số dư ngân quỹ cuối kỳ. Từ đó, có thể thiết lập mức ngân quỹ dự phòng tối thiểu cho doanh nghiệp nhằm mục tiêu đảm bảo chi trả. Tóm lại, để phân tích tình hình tài chính của một doanh nghiệp, các nhà phân tích cần phải đọc và hiểu được các báo cáo tài chính, qua đó, họ nhận biết được và tập trung vào các chỉ tiêu tài chính liên quan trực tiếp tới mục tiêu phân tích của họ. 1.4. Phương pháp phân tích tài chính Sau khi xác định mục tiêu phân tích tài chính và thu thập các thông tin cần thiết, nhà phân tích phải lựa chọn phương pháp phân tích cho phù hợp với mục tiêu nghiên cứu và nguồn thông tin đã có cũng như khả năng thực hiện phân tích tài chính tại doanh nghiệp. Việc lựa chọn đúng phương pháp có ý nghĩa quan trọng quyết định hiệu quả phân tích tài chính tại doanh nghiệp. Phương pháp phân tích tài chính bao gồm một hệ thống các công cụ và biện pháp nhằm tiếp cận, nghiên cứu các sự kiện, hiện tượng, các mối liên hệ bên trong và bên ngoài, các luồng dịch chuyển và biến đổi tài chính, các chỉ tiêu tài chính tổng hợp và chi tiết, từ đó đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp. Có nhiều phương pháp phân tích tài chính doanh nghiệp nhưng trên thực tế người ta thường sử dụng kết hợp 3 phương pháp là phương pháp phân tích tỷ lệ, phương pháp so sánh, phương pháp phân tích Dupont. 1.4.1. Phương pháp phân tích tỷ lệ Phương pháp phân tích tỷ lệ là phương pháp được sử dụng phổ biến trong phân tích tài chính doanh nghiệp. Phương pháp này dựa trên ý nghĩa chuẩn mực của các đại lượng tài chính. Về nguyên tác, phương pháp tỷ lệ phải yêu cầu xác định được các ngưỡng (định mức) để phân tích, nhận xét, đánh giá tình hình tài chính trên cơ sở so sánh các tỷ lệ của doanh nghiệp với tỷ lệ tham chiếu. Trong phân tích tài chính doanh nghiệp, các tỷ lệ tài chính được phân thành các nhóm tỷ lệ đặc trưng, phản ánh những nội dung cơ bản theo các hoạt động của doanh nghiệp. Đó là các nhóm tỷ lệ về khả năng thanh toán, nhóm tỷ lệ về khả năng cân đối vốn, nhóm tỷ lệ về khả năng hoạt động, nhóm tỷ lệ về khả năng sinh lợi. Tỷ lệ khả năng thanh toán là nhóm chỉ tiêu được sử dụng để đánh giá khả năng đáp ứng các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp. Tỷ lệ về khả năng cân đối vốn là nhóm chỉ tiêu phản ánh mức độ tự chủ và mức độ sử dụng nợ vay của doanh nghiệp. Tỷ lệ về khả năng hoạt động là nhóm chỉ tiêu đặc trưng cho hiệu quả sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Tỷ lệ về khả năng sinh lợi là nhóm chỉ tiêu được dùng để đánh giá khả năng tạo lợi nhuận của doanh nghiệp. Đây là những tỷ lệ phản ánh tổng hợp nhất hiệu quả sản xuất kinh doanh, tình hình tài chính của doanh nghiệp và thường được quan tâm nhiều nhất. Mỗi nhóm tỷ lệ trên gồm nhiều tỷ lệ và trong từng trường hợp nhà phân tích phải lựa chọn các tỷ lệ phù hợp với mục đích nghiên cứu. Các tỷ lệ được lựa chọn phải làm sáng tỏ tình hình tài chính của doanh nghiệp và dự đoán tương lai của doanh nghiệp. 1.4.2. Phương pháp so sánh. Phương pháp so sánh là một công cụ rất hữu ích trong phân tích tài chính. Phương pháp so sánh có thể áp dụng theo hướng so sánh về lượng hay tỷ trọng nhưng dù so sánh theo cách nào thì phân tích tài chính cũng cần chỉ ra được tác động của sự thay đổi đó đến tình hình tài chính của doanh nghiệp. So sánh giữa số thực hiện kỳ này với số thực hiện kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi của tài chính doanh nghiệp, thấy được tình hình tài chính được cải thiện hay xấu đi như thế nào để có biện pháp khắc phục trong kỳ. So sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để thấy rõ mức độ phấn đấu của doanh nghiệp. So sánh giữa số thực hiện kỳ này với mức trung bình của ngành để thấy tình hình tài chính của doanh nghiệp đang ở tình trạng tốt hay xấu, được hay chưa được so với các doanh nghiệp cùng ngành. So sánh theo chiều dọc để thấy được tỷ trọng của từng loại trong tổng số. So sánh theo chiều ngang để thấy được sự biến đổi cả về số tương đối và tuyệt đối của từng khoản mục. Trên cơ sở đó, so sánh cho phép xác định xu hướng và tính liên hệ của các chỉ tiêu đánh giá. Như vậy, so sánh dọc làm nổi bật mối quan hệ giữa các khoản mục trong tổng số, trong khi đó so sánh ngang phản ánh sự biến động của từng khoản mục so sánh. Phương pháp so sánh thường được sử dụng lồng ghép trong Phương pháp phân tích tỷ lệ thông qua việc so sánh sự biến động của các tỷ lệ tài chính qua các năm hoặc so sánh các tỷ lệ tài chính của doanh nghiệp với các định mức. Khi so sánh cần lưu ý việc so sánh chỉ có ý nghĩa nếu các chỉ tiêu đem so sánh có cùng nội dung, tính chất và có cùng đơn vị tính toán. 1.4.3. Phương pháp phân tích tài chính Dupont. Ngoài phương pháp phân tích so sánh và tỷ lệ, trên thực tế người ta còn sử dụng phương pháp phân tích tài chính Dupont. Thực chất, phương pháp này dựa trên cơ sở các tỷ lệ được tính toán theo phương pháp phân tích tỷ lệ. Phương pháp này giúp nhà phân tích đánh giá tác động của vòng quay toàn bộ vốn, doanh lợi tiêu thụ sản phẩm và việc sử dụng nợ đến doanh lợi vốn chủ sở hữu. Theo phương pháp này, trước hết chúng ta xem xét mối quan hệ tương tác giữa doanh lợi tiêu thụ sản phẩm với hiệu suất sử dụng tổng tài sản: Tỷ số ROA cho thấy tỷ suất sinh lời của tài sản phụ thuộc vào 2 yếu tố: - Thu nhập dòng của doanh nghiệp trên một đồng doanh thu. - Một đồng tài sản thì tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Phân tích ROA cho phép xác định và đánh giá chính xác nguồn gốc làm thay đổi lợi nhuận của doanh nghiệp, trên cơ sở đó nhà quản trị doanh nghiệp đưa ra các giải pháp nhằm tăng tiêu thụ và tiết kiệm chi phí. Tiếp theo, chúng ta xem xét tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu của doanh nghiệp được tạo thành bởi mối quan hệ giữa tỷ lệ tổng tài sản trên vốn chủ sở hữu và ROA. Phương trình này gọi là phương trình Dupont mở rộng, thể hiện sự phụ thuộc của doanh lợi vốn chủ sở hữu vào doanh lợi tiêu thụ, vòng quay toàn bộ vốn và hệ số nợ. Công thức trên cho thấy, khi hệ số nợ tăng nên thì ROE tăng. Do vậy, sử dụng nợ có tác dụng khuyếch đại doanh lợi vốn chủ sở hữu. Nếu doanh nghiệp có lợi nhuận trong kỳ, hệ số nợ càng lớn thì lợi nhuận sẽ càng cao và ngược lại, nếu doanh nghiệp thua lỗ thì càng sử dụng nợ càng làm tăng số lỗ. Để đưa ra nhận xét đánh giá một cách chính xác tài chính doanh nghiệp thì không chỉ sử dụng một phương pháp nào. Do đó cần kết hợp hài hoà các phương pháp trong tài chính doanh nghiệp, từ đó giúp các chủ thể doanh nghiệp và các chủ thể khác có những quyết định kinh tế đúng đắn. 1.5. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp gồm 4 phần: - Phân tích khái quát hoạt động tài chính doanh nghiệp - Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp - Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh - Phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính đặc trưng 1.5.1. Phân tích khái quát hoạt động tài chính doanh nghiệp Qua các số liệu từ báo cáo KQKD và BCĐKT, chúng ta tiến hành phân tích một cách khái quát nhất tài chính doanh nghiệp để thấy được xu hướng thay đổi của từng khoản mục theo thời gian. Việc phân tích được tiến hành ở 3 nội dung chủ yếu sau: - Về phần tài sản: so sánh số đầu kỳ với số cuối kỳ về số tuyệt đối và tỷ trọng, so sánh tỷ trọng từng khoản mục bên tài sản với tổng số tài sản hiện có để thấy được xu hướng biến động của chúng qua các năm. - Về phần nguồn vốn: cũng so sánh tương tự như phần tài sản nhằm rút ra những kết luận chung nhất về khả năng mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh, về khả năng tài trợ cho các tài sản. - Về kết quả kinh doanh: xem xét sự thay đổi của doanh thu thuần, lợi nhuận thuần cũng như tỷ trọng của từng loại chi phí trong tổng doanh thu (giá vốn hàng bán, chi phí bán hàng, chi phí quản lý) để đánh giá xu hướng thay đổi của từng chỉ tiêu và đánh giá kết quả kinh doanh của doanh nghiệp 1.5.2. Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn trong doanh nghiệp Một trong những công cụ hữu hiệu của nhà quản lý tài chính là Bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn (Bảng tài trợ). Nó giúp các nhà quản lý xác định rõ các nguồn cung ứng vốn và mục đích sử dụng các nguồn vốn. Để tiến hành phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn trước tiên, người ta trình bày BCĐKT dưới dạng bảng cân đối báo cáo (trình bày một phía) từ tài sản đến nguồn vốn. Sau đó so sánh số liệu cuối kỳ so với đầu kỳ của từng chỉ tiêu của BCĐKT để xác định tình hình tăng (giảm) vốn theo nguyên tắc: - Sử dụng vốn: Tăng tài sản, giảm nguồn vốn - Nguồn vốn: Giảm tài sản, tăng nguồn vốn Nguồn vốn và Sử dụng vốn phải cân đối nhau Cuối cùng tiến hành sắp xếp các chỉ tiêu về nguồn vốn và sử dụng vốn theo những trình tự nhất định tuỳ theo mục tiêu phân tích và phản ánh vào một bảng biểu theo mẫu sau: Chỉ tiêu Số tiền Tỷ trọng Sử dụng vốn ………………… Cộng sử dụng vốn Nguồn vốn …………………. Cộng nguồn vốn Nội dung phân tích này cho ta biết trong một kỳ kinh doanh nguồn vốn tăng (giảm) bao nhiêu? tình hình sử dụng vốn như thế nào? những chỉ tiêu nào là chủ yếu ảnh hưởng tới sự tăng (giảm) nguồn vốn và sử dụng vốn của doanh nghiệp? Từ đó có giải pháp khai thác các nguồn vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong doanh nghiệp. 1.5.3. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh. Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có tài sản bao gồm TSLĐ & ĐTNH; TSCĐ & ĐTDH. Để hình thành hai loại tài sản này phải có các nguồn tài trợ tương ứng bao gồm nguồn vốn ngắn hạn và nguồn vốn dài hạn. - Nguồn vốn ngắn hạn là nguồn vốn mà doanh nghiệp sử dụng trong khoảng thời gian dưới một năm cho hoạt động SXKD bao gồm các khoản nợ ngắn hạn, nợ quá hạn, nợ dài hạn đến hạn trả, nợ nhà cung cấp và nợ phải trả ngắn hạn khác. - Nguồn vốn dài hạn là nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho hoạt động kinh doanh bao gồm: nguồn vốn chủ sở hữu và nguồn vốn nợ (nợ trung và dài hạn) Nguồn vốn dài hạn trước hết được đầu tư để hình thành TSCĐ. Nguồn vốn ngắn hạn và 1 phần dư của nguồn vốn dài hạn được đầu tư hình thành TSLĐ. Chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn với TSCĐ hay giữa TSLĐ với nguồn vốn ngắn hạn được gọi là vốn lưu động thường xuyên. VLĐ thường xuyên = Nguồn vốn dài hạn - TSCĐ = TSLĐ - Nguồn vốn ngắn hạn Kết quả tính toán được phân ra làm 3 trường hợp sau: - VLĐ thường xuyên > 0 (tức là Nguồn vốn dài hạn > TSCĐ hoặc TSLĐ > Nguồn vốn ngắn hạn), nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư vào TSCĐ, phần dư thưa đó được đầu tư vào TSLĐ. Đồng thời TSLĐ > nguồn vốn ngắn hạn, do vậy khả năng thanh toán của doanh nghiệp là tốt. - VLĐ thường xuyên = 0, có nghĩa là nguồn vốn dài hạn đủ tài trợ cho TSCĐ và TSLĐ đủ để doanh nghiệp trả các khoản nợ ngắn hạn, tình hình tài chính của doanh nghiệp lành mạnh. - VLĐ thường xuyên < 0 (tức là Nguồn vốn dài hạn < TSCĐ hoặc TSLĐ < Nguồn vốn ngắn hạn), nghĩa là nguồn vốn dài hạn không đủ để tài trợ cho TSCĐ. Doanh nghiệp phải đầu tư một phần nguồn vốn ngắn hạn vào TSCĐ, TSLĐ không đủ để đáp ứng nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất thăng bằng, doanh nghiệp phải dùng một phần TSCĐ để thanh toán nợ ngắn hạn đến hạn trả. Như vậy, VLĐ thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng để đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp, chỉ tiêu này cho biết 2 điều cốt yếu: Một là: Doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn không? Hai là: TSCĐ của doanh nghiệp có được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không? Ngoài khái niệm VLĐ thường xuyên được phân tích trên đây, nghiên cứu tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, người ta còn sử dụng chỉ tiêu nhu cầu VLĐ thường xuyên để phân tích. Nhu cầu VLĐ thường xuyên là lượng vốn ngắn hạn doanh nghiệp cần để tài trợ cho 1 phần TSLĐ, đó là hàng tồn kho và các khoản phải thu (TSLĐ không phải là tiền). VLĐ thường xuyên = Tồn kho và các khoản phải thu - Nợ ngắn hạn Thực tế có thể xảy ra những trường hợp sau đây: - Nhu cầu VLĐ thường xuyên > 0 (tức là tồn kho và các khoản phải thu > nợ ngắn hạn), nghĩa là nhu cầu sử dụng vốn ngắn hạn của doanh nghiệp lớn hơn nguồn vốn ngắn hạn của doanh nghiệp có được từ bên ngoài, doanh nghiệp phải dùng nguồn vốn dài hạn để tài trợ vào phần chênh lệch. Giải pháp trong trường hợp này là nhanh chóng giải phóng hàng tồn kho và giảm các khoản phải thu ở khách hàng. - VLĐ thường xuyên < 0 (tức là tồn kho và các khoản phải thu < nợ ngắn hạn), nghĩa là các nguồn vốn ngắn hạn từ bên ngoài đã dư thừa để tài trợ các sử dụng ngắn hạn của doanh nghiệp. Doanh nghiệp không cần nhận vốn ngắn hạn để tài trợ cho chu kỳ kinh doanh Mối quan hệ giữa VLĐ thường xuyên và nhu cầu VLĐ thường xuyên được biểu diễn qua biểu thức: Vốn bằng tiền = VLĐ thường xuyên - Nhu cầu VLĐ thường xuyên. Nếu tiền < 0 sẽ xảy ra tình trạng mất cân đối trong nguồn vốn ngắn hạn và dài hạn (vốn ngắn hạn nhiều, vốn dài hạn ít) hoặc mất cân đối trong đầu tư dài hạn (đầu tư dài hạn quá nhiều). 1.5.4. Phân tích các nhóm chỉ tiêu tài chính đặc trưng. Việc phân tích tài chính của doanh nghiệp thông qua các báo cáo tài chính tổng hợp mới chỉ cho ta nhìn nhận, đánh giá chung về tài chính doanh nghiệp. Vì vậy, để có thể đánh giá một cách sâu sắc toàn diện tình hình tài chính của doanh nghiệp thì cần kết hợp phân tích các chỉ tiêu tài chính đặc trưng. 1.5.4.1. Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán. Trong quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh, để tài trợ cho các tài sản của mình, các doanh nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn chủ sở hữu mà còn phải dựa vào các nguồn tài trợ khác như vay nợ. Việc vay nợ được thực hiện với nhiều đối tượng và dưới nhiều hình thức khác nhau. Cho dù là đối tượng nào đi chăng nữa thì để đi đến kết luận có nên cho doanh nghiệp vay hay không, họ đều quan tâm đến khả năng thanh toán của doanh n._.ghiệp. Khả năng thanh toán của doanh nghiệp phản ánh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán trong kì với các khoản phải thanh toán trong kì. Việc phân tích các nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán không những giúp cho các chủ nợ giảm được những rủi ro trong quan hệ tín dụng và bảo toàn được vốn của mình mà còn giúp cho bản thân doanh nghiệp thấy được khả năng chi trả thực tế từ đó có biện pháp điều chỉnh các khoản mục bên phần tài sản cho hợp lý để nâng cao khả năng thanh toán. Các chỉ tiêu về khả năng thanh toán bao gồm: Hệ số khả năng thanh toán hiện hành TSLĐ thông thường bao gồm: tiền, các chứng khoán ngắn hạn dễ chuyển nhượng (tương đương tiền), các khoản phải thu và dự trữ; nợ ngắn hạn bao gồm: vay ngắn hạn ngân hàng thương mại và các tổ chức tín dụng khác, các khoản phải trả nhà cung cấp, các khoản phải trả, phải nộp khác vv...Cả TSLĐ và nợ ngắn hạn đều có thời gian dưới một năm. Hệ số này là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương đương với thời hạn của các khoản nợ đó (hay một đồng nợ ngắn hạn của doanh nghiệp được đảm bảo bằng bao nhiêu tài sản lưu động). Tính hợp lệ của hệ số này phụ thuộc vào ngành nghề kinh doanh, ngành nghề nào mà TSLĐ chiếm tỷ trọng lớn trong tổng tài sản thì hệ số này lớn và ngược lại. Nếu hệ số này lớn hơn 1 thì được coi là an toàn, còn hệ số này nhỏ hơn 1 thì doanh nghiệp rất dễ rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán. Tuy nhiên, một doanh nghiệp có tỷ lệ này quá cao nghĩa là doanh nghiệp đã đầu tư quá nhiều vào TSLĐ so với nhu cầu, một sự đầu tư không mang lại hiệu quả lâu dài. Vấn đề này đòi hỏi các doanh nghiệp phải phân bổ vốn như thế nào cho hợp lý. Hệ số khả năng thanh toán nhanh. Hệ số khả năng thanh toán nhanh là tỷ lệ được tính bằng cách chia các tài sản quay vòng nhanh cho nợ ngắn hạn. Tài sản quay vòng nhanh là những tài sản có thể nhanh chóng chuyển đổi thành tiền, bao gồm: tiền, chứng khoán ngắn hạn, các khoản phải thu. Tồn kho là tài sản khó chuyển đổi thành tiền hơn trong tổng tài sản lưu động và dễ bị lỗ nếu được bán. Do vậy, tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn không phụ thuộc vào việc bán các khoản tồn kho. Nhìn chung hệ số này càng cao càng tốt nhưng còn phụ thuộc vào đặc điểm của từng lĩnh vực kinh doanh. Nếu hệ số này quá cao thì cần phải xem xét thêm các khoản phải thu. Trong tổng TSLĐ thì bộ phận các khoản phải thu là khó thu hồi nhất và nếu khoản phải thu lớn thì nó ảnh hưởng đến khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp. Mức trung bình hợp lý của tỷ lệ này là 1. Hệ số khả năng thanh toán tức thời. Hệ số này phản ánh mối quan hệ giữa các khoản tiền mặt và coi như tiền mặt (tiền gửi ngân hàng, ngân phiếu, chứng khoán...) với số nợ đến hạn phải trả của doanh nghiệp. Hệ số này có ý nghĩa rất quan trọng đối với những bạn hàng mà hoạt động khan hiếm tiền mặt (quay vòng vốn nhanh). Các doanh nghiệp này cần phải được thanh toán đúng hạn, nhanh chóng để hoạt động bình thường. Doanh nghiệp rất quan tâm đến hệ số này vì nó phản ánh số tiền và coi như tiền mặt của doanh nghiệp có thể đảm bảo được bao nhiêu phần trăm toàn bộ số nợ đến hạn của doanh nghiệp. Đối với các chủ nợ, tỷ lệ này càng cao càng tốt, các chủ nợ đánh giá mức trung bình hợp lý cho tỷ lệ này là 0,5. Khi tỷ lệ này lớn hơn 0,5 thì khả năng thanh toán tức thời của doanh nghiệp là khả quan nhưng nếu tỷ lệ này quá cao thì không tốt cho doanh nghiệp vì các khoản tiền và coi như tiền mặt quá nhiều làm vòng quay tiền chậm lại, làm giảm hiệu quả sử dụng vốn. Các tỷ lệ trên cho phép nhà phân tích đánh giá khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn của doanh nghiệp nên rất được ngân hàng, người cho vay quan tâm. Nhà quản lý tài chính cũng chú ý đến tỷ lệ này vì chúng phản ánh khả năng thanh toán cụ thể của doanh nghiệp. Nhưng sử dụng các tỷ lệ về khả năng thanh toán cũng có một số hạn chế như: cả tử và mẫu đều có thể thay đổi rất nhanh, do vậy các tỷ lệ này chỉ có giá trị nhất định khi đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp. Phân tích tài chính lại diễn ra ở một thời điểm trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp nên tính chính xác cũng khó đảm bảo. 1.5.4.2. Nhóm chỉ tiêu về khả năng cân đối vốn. Trong công tác quản trị tài chính doanh nghiệp thì các nhà quản lý thường mong muốn đạt tới cơ cấu vốn và nguồn vốn tối ưu để sử dụng vốn và nguồn vốn có hiệu quả nhất. Nhưng trong quá trình phát triển của doanh nghiệp thì cơ cấu này luôn bị thay đổi, phá vỡ do tình hình đầu tư. Vì vậy, nghiên cứu về hệ số nợ, hệ số tự tài trợ, tỷ suất đầu tư sẽ cung cấp cho các nhà quản trị tài chính có một cái nhìn tổng quát về sự phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Các chủ nợ cũng rất quan tâm đến chỉ tiêu này vì các chủ nợ sẽ nhìn vào số vốn của chủ sở hữu doanh nghiệp để thể hiện mức độ tin tưởng vào sự đảm bảo an toàn cho món nợ. Hệ số nợ Hệ số này phản ánh trong một đồng vốn hiện có của doanh nghiệp thì có mấy đồng vốn vay nợ. Hệ số này dùng để xác định trách nhiệm của chủ doanh nghiệp với chủ nợ trong việc góp vốn. Các chủ nợ thường thích một tỷ lệ nợ vừa phải vì khi đó nó đảm bảo khả năng các khoản cho vay của họ sẽ thu hồi được. Ngược lại, các chủ doanh nghiệp ưa thích hệ số này cao vì khi đó họ chỉ phải bỏ một lượng vốn ít hơn mà lại được sử dụng một lượng tài sản lớn và họ có toàn quyền kiểm soát doanh nghiệp. Ngoài ra, họ có thể tiết kiệm một phần nhờ thuế (do lãi phải trả cho nợ vay được coi là chi phí khi tính toán lợi nhuận trước thuế của doanh nghiệp). Tuy nhiên, hệ số nợ cao đồng nghĩa với rủi ro mất khả năng thanh toán nếu hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp không có hiệu quả và doanh nghiệp khó có thể đi vay. Khi doanh lợi vốn chủ sở hữu cao hơn hệ số nợ thì chủ sở hữu doanh nghiệp càng có điều kiện gia tăng lợi nhuận. Hệ số tự tài trợ Hệ số tự tài trợ là một chỉ tiêu phản ánh khả năng tự đảm bảo về mặt tài chính và tính chủ động trong kinh doanh của doanh nghiệp. Hệ số này càng lớn, tài sản của doanh nghiệp càng ít chịu rủi ro. Tuy nhiên, chi phí của vốn cổ phần lớn hơn chi phí của nợ vay và việc tăng vốn cổ phần có thể dẫn đến bị san sẻ quyền lãnh đạo doanh nghiệp. Các chủ nợ thường thích hệ số tài trợ càng cao càng tốt vì nó sẽ đảm bảo cho các khoản nợ của họ được trả đúng hạn. Hệ số cơ cấu tài sản Đồng thời với việc xác định cho mình một cơ cấu vốn hợp lý, doanh nghiệp cần phải xem xét việc sử dụng vốn đó như thế nào để đáp ứng nhu cầu kinh doanh và nâng cao hiệu quả kinh tế đồng vốn. Việc phân tích tình hình phân bổ vốn hay kết cấu tài sản của doanh nghiệp sẽ cho ta thấy việc sử dụng vốn của doanh nghiệp có hợp lý không, có phù hợp với đặc điểm loại hình kinh doanh không và sự thay đổi kết cấu tài sản qua từng thời kỳ có ảnh hưởng gì đến kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này phản ánh tình hình trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật nói chung và máy móc thiết bị nói riêng của doanh nghiệp. Nó cho biết năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài của doanh nghiệp. Giá trị của chỉ tiêu này phụ thuộc vào từng ngành nghề cụ thể. 1.5.4.3. Nhóm chỉ tiêu về khả năng hoạt động. Việc phân tích tài chính thông qua các chỉ tiêu về khả năng hoạt động giúp cho nhà quản trị tài chính thấy được kết quả của việc sử dụng các yếu tố đầu vào của quá trình sản xuất như: vật tư, tiền vốn, lao động để tạo ra được kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất. Nguồn vốn của doanh nghiệp được dùng để đầu tư cho các tài sản khác nhau như TSCĐ, TSLĐ. Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm đến đo lường hiệu quả sử dụng của tổng nguồn vốn mà còn quan tâm đến hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguồn vốn của doanh nghiệp. Số vòng quay hàng tồn kho Số vòng quay hàng tồn kho phản ánh số lần mà hàng tồn kho luân chuyển trong kỳ. Số vòng quay hàng tồn kho càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá là tốt, bởi lẽ, doanh nghiệp chỉ đầu tư cho hàng tồn kho thấp nhưng vẫn đạt được doanh thu cao, làm củng cố lòng tin vào khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Ngược lại, nếu chỉ số này thấp thì phản ánh việc ứ đọng vốn, vật tư, hàng hoá vì dự trữ quá mức hoặc tiêu thụ chậm. Số ngày một vòng quay hàng tồn kho Số ngày một vòng quay hàng tồn kho phản ánh số ngày trung bình của một vòng quay hàng tồn kho. Số ngày này càng nhỏ thì vòng quay hàng tồn kho càng nhanh, vì đây là chỉ tiêu nghịch của vòng quay hàng tồn kho. Số ngày này nhỏ thì vốn, vật tư, hàng hoá của doanh nghiệp luân chuyển càng nhanh, không bị ứ đọng và ngược lại. Vòng quay các khoản phải thu. Chỉ tiêu này phản ánh tốc độ chuyển đổi của các khoản phải thu thành tiền mặt của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này càng lớn chứng tỏ hàng hoá được bán ra theo phương thức thanh toán ngay và do đó làm cho số ngày thu hồi nợ càng ngắn, rủi ro tài chính càng giảm, vì doanh nghiệp không phải đầu tư vào các khoản phải thu. Nếu hệ số này càng nhỏ và có xu hướng giảm dần, chứng tỏ hàng bán ra chưa thu được tiền, doanh nghiệp phải đầu tư nhiều vào các khoản phải thu, thời hạn thu hồi nợ kéo dài và rủi ro tài chính cũng tăng lên. Kỳ thu tiền bình quân Kỳ thu tiền bình quân phản ánh số ngày cần thiết để thu được các khoản phải thu. Vòng quay của các khoản phải thu càng lớn thì kỳ thu tiền bình quân càng nhỏ và ngược lại. Nếu kỳ thu tiền bình quân càng dài thì doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn lớn, vốn bị ứ đọng trong khâu thanh toán, khả năng thu hồi nợ chậm. Tuy nhiên, kỳ thu tiền bình quân cao hay thấp trong nhiều trường hợp chưa thể có kết luận chắc chắn mà phải xem xét mục tiêu của doanh nghiệp như chính sách mở rộng thị trường, chính sách tín dụng. Hiệu suất sử dụng tổng TS Chỉ tiêu này cho biết một đồng tài sản đem lại bao nhiêu đồng doanh thu. Nó cũng thể hiện số vòng quay trung bình của toàn bộ vốn của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Hệ số này làm rõ khả năng tận dụng vốn triệt để vào sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc tăng vòng quay vốn kinh doanh này là yếu tố quan trọng làm tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp đồng thời làm tăng khả năng cạnh tranh, uy tín của doanh nghiệp trên thị trường. 1.5.4.4. Nhóm chỉ tiêu về khả năng sinh lời. Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh. Lợi nhuận càng cao doanh nghiệp càng khẳng định vị trí và sự tồn tại của mình trong nền kinh tế thị trường. Nhưng chỉ thông qua số lợi nhuận mà doanh nghiệp thu được trong kỳ cao hay thấp để đánh giá chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh xấu hay tốt thì có thể đưa chúng ta đến những kết luận sai lầm. Bởi lẽ số lợi nhuận này không tương xứng với số chi phí đã bỏ ra, với khối lượng tài sản mà doanh nghiệp đã sử dụng. Để khắc phục tình trạng này các nhà phân tích thường bổ sung các chỉ tiêu tương đối bằng cách đặt lợi nhuận trong mối quan hệ với doanh thu đạt được trong kỳ, với tổng tài sản doanh nghiệp đã huy động vào sản xuất kinh doanh. Chúng là cơ sở quan trọng để đánh giá kết quả hoạt động kinh doanh trong kỳ, là đáp số sau cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh và còn là một căn cứ quan trọng để các nhà hoạch định đưa ra các quyết định tài chính trong tương lai. Doanh lợi doanh thu Chỉ tiêu này phản ánh số lợi nhuận sau thuế có trong một đồng doanh thu. Nhìn chung hệ số này cao thì tốt nếu giá thanh sản phẩm cao nhưng nếu cao do giá bán tăng thì chưa chắc đã tốt vì nó ảnh hưởng đến tính cạnh tranh của doanh nghiệp làm cho tiêu thụ sản phẩm giảm dẫn đến doanh thu và lợi nhuận cũng giảm theo. Doanh lợi tài sản Đây là chỉ tiêu tổng hợp nhất được dùng để đánh giá khả năng sinh lời của một đồng vốn đầu tư (ROA). Chỉ tiêu này phản ánh cứ một đồng vốn sản xuất trong kỳ tạo ra mấy đồng lợi nhuận. Nếu hệ số này cao chứng tỏ doanh nghiệp làm ăn có lãi và ngược lại hệ số này thấp thì chứng tỏ doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả. Doanh lợi vốn chủ sở hữu Khả năng sinh lợi vốn chủ sở hữu là chỉ tiêu quan trọng phản ánh khả năng sinh lợi của vốn chủ sở hữu nói riêng và của toàn bộ vốn nói chung. Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng vốn chủ sở hữu đầu tư thì mang lại bao nhiêu đồng lợi nhuận sau thuế. Tăng mức doanh lợi vốn chủ sở hữu cũng là mục tiêu của hoạt động quản lý tài chính doanh nghiệp. Để nâng cao tỷ lệ này ta phải xét đến các yếu tố ảnh hưởng đến nó như: Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm, Hiệu suất sử dụng tổng tài sản, tỷ trọng vốn chủ sở hữu trên tổng tài sản. 1.6. Những nhân tố ảnh hưởng đến phân tích tài chính. 1.6.1. Chất lượng thông tin sử dụng. Thông tin là yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định chất lượng phân tích tài chính bởi một khi thông tin sử dụng không chính xác, không phù hợp thì kết quả phân tích chỉ là hình thức mà không hề có ý nghĩa thực tiễn. Có thể nói, thông tin sử dụng trong phân tích tài chính chính là nền tảng của hoạt động phân tích tài chính. Từ những thông tin bên trong trực tiếp phản ánh tài chính doanh nghiệp đến những thông tin bên ngoài liên quan đến môi trường hoạt động của doanh nghiệp, người phân tích có thể thấy được tình hình tài chính doanh nghiệp trong quá khứ, hiện tại và dự đoán xu hướng phát triển trong tương lai. 1.6.2. Trình độ cán bộ phân tích. Có được thông tin đầy đủ, phù hợp, chính xác nhưng tập hợp thông tin như thế nào và xử lý thông tin ra sao để đưa lại kết quả phân tích tài chính có chất lượng cao lại là điều không đơn giản. Nó phụ thuộc rất nhiều vào trình độ cán bộ phân tích. Từ các thông tin thu thập được, các cán bộ phân tích phải tính toán các chỉ tiêu, thiết lập các bảng biểu, tuy nhiên đó chỉ là những con số và nếu để chúng đứng riêng lẻ thì bản thân chúng không nói lên điều gì . Nhiệm vụ của người phân tích là phải gắn kết, tạo lập các mối quan hệ giữa các chỉ tiêu, kết hợp với các thông tin về điều kiện hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp để lý giải tình hình tài chính của doanh nghiệp , xác định điểm mạnh, điểm yếu cũng như nguyên nhân của những điểm yểu trên. Hay nói cách khác, cán bộ phân tích là người làm cho các con số biết nói. Chính tầm quan trọng và sự phức tạp của phân tích tài chính đòi hỏi cán bộ phân tích phải có trình độ chuyên môn cao. 1.6.3. Sự sắn có của các chỉ tiêu trung bình ngành. Phân tích tài chính sẽ trở nên đầy đủ và có ý nghĩa hơn nếu có sự tồn tại của hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành. Đây là cơ sở tham chiếu quan trọng khi tiến hành phân tích. Người ta chỉ có các tỷ lệ tài chính của doanh nghiệp là cao hay thấp, tôt hay xấu khi đem nó so sánh với các tỷ lệ tương ứng của doanh nghiệp khác có điều kiện sản xuất kinh doanh tương tự mà đại diên ở đây là các chỉ tiêu trung bình ngành. Thông qua đối chiếu với hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành, nhà quản lý tài chính biết được vị thế của doanh nghiệp mình, từ đó đánh giá được thực trạng tài chính doanh nghiệp và sẽ đưa ra những định hướng, những chiến lược phát triển phù hợp. Trên đây là một số vấn đề lý luận chung về phân tích tài chính doanh nghiệp. ở mỗi doanh nghiệp vấn đề phân tích tài chính lại có vị trí, vai trò khác nhau, việc lựa chọn nội dung, phương pháp phân tích cũng khác nhau tuỳ theo mục tiêu của doanh nghiệp. Do vậy, việc vận dụng các lý thuyết trên phải linh hoạt, sáng tạo, phù hợp với yêu cầu, đặc điểm sản xuất kinh doanh của từng doanh nghiệp. Để làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về phân tích tài chính doanh nghiệp sau đây chung ta sẽ thực hiện việc phân tích tài chính Công ty Vật Tư Kỹ Thuật Xi Măng để từ đó có những giải pháp tài chính phù hợp với thực tế tài chính của Công ty. Chương 2 Phân tích tài chính Công ty vật tư kỹ thuật xi măng 2.1. Giới thiệu chung về Công ty vất tư kỹ thuật xi măng. 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển, chức năng, nhiệm vụ của Công ty. Bước sang những năm đầu thập kỉ 90, kinh tế nước ta bắt đầu tăng trưởng cao, tốc độ xây dựng tăng mạnh, nhu cầu xi măng ngày một gia tăng, đặc biệt ở những địa bàn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh. Xuất phát từ nhu cầu của thị trường và ngành xây dựng, việc một đơn vị đứng ra làm nhiệm vụ lưu thông, cung ứng xi măng tại Hà Nội và các tỉnh phía Bắc là cần thiết. Vì thế, ngày 12/2/1993 Bộ Xây Dựng ra quyết định số 023A thành lập Xí nghiệp Vật tư kỹ thuật xi măng. Xí nghiệp lúc này thuộc Liên hiệp các xí nghiệp xi măng thuộc Bộ Xây Dựng với nhiệm vụ kinh doanh vật liệu xây dựng, kỹ thuật. Ngày 30/9/1993, Bộ Xây Dựng ra Quyết định số 445 BXD/TCLĐ đổi tên xí nghiệp thành Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng. Đây là Công ty thương mại thuộc Liên hiệp xí nghiệp xi măng, và là đơn vị kinh tế Nhà nước hạch toán độc lập, có tư cách pháp nhân đầy đủ. Công ty có nhiệm vụ kinh doanh chủ yếu là: - Tổ chức thực hiện vật tư đầu vào cho các nhà máy sản xuất xi măng như nguyên vật liệu, vật tư, phụ tùng, thiết bị. - Là lực lượng dự bị để cung ứng xi măng khi cần thiết. - Kinh doanh tiêu thụ xi măng của hai nhà máy sản xuất xi măng là Hoàng Thạch và Bỉm Sơn trên địa bàn Hà Nội. Sau đó, Công ty được bổ sung thêm chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tham gia liên doanh ngành xi măng: Xí nghiệp liên doanh xi măng Bình Điều (Thành phố Hồ Chí Minh), Xí nghiệp liên doanh xi măng số 1 (Quảng Bình), Xí nghiệp liên doanh xi măng số 4 ( Bình Định ). Trước đây, Bộ Xây dựng, Liên Hiệp các xí nghiệp xi măng (Từ năm 1994 là Tổng Công ty xi măng Việt Nam) cho phép các Công ty sản xuất xi măng tự tổ chức tiêu thụ xi măng theo Quyết định của Liên hiệp các xí nghiệp xi măng. Do vậy, trên địa bàn Hà Nội và các tỉnh phía Bắc có tới 3 đơn vị tiêu thụ xi măng là Xí nghiệp Vật tư kỹ thuật xi măng, Chi nhánh tiêu thụ xi măng tại Hà Nội của Công ty xi măng Hoàng Thạch, Chi nhánh tiêu thụ xi măng tại Hà Nội của Công ty xi măng Bỉm Sơn. Nhưng đến tháng 5/1995 xảy ra cơn sốt xi măng do mất cân đối giữa sản xuất và tiêu thụ, để chấn chỉnh lại Tổng Công ty xi măng Việt Nam đã có những bố trí để đảm bảo cân đối hơn bằng phương thức chuyên môn hoá giữa sản xuất và tiêu thụ. Ngày 01/7/1995, Hội Đồng Quản trị Tổng Công ty xi măng Việt Nam ra Quyết đinh số 833/TCT-HĐQT nhập hai chi nhánh tiêu thụ xi măng của Công ty Xi măng Hoàng Thạch, Công ty xi măng Bỉm Sơn và Công ty Kỹ thuật xi măng thành Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng. Công ty có nhiệm vụ sau: - Tổ chức tiếp nhận, vận chuyển xi măng tại các ga, cảng tại Hà Nội do các Công ty xi măng Hoàng Thạch, Bỉm Sơn và Hải Phòng chuyển đến theo kế hoạch của Tổng Công ty. - Tổ chức mạng lưới cửa hàng, quầy hàng để lưu thông tiêu thụ xi măng theo định hướng kế hoạch được giao và theo hợp đồng với khách hàng. - Tổ chức công tác tiếp thị để nắm vững nhu cầu tiêu thụ xi măng từng tháng, quý và cả năm trên địa bàn phía Bắc, lập kế hoạch xin nguồn sao cho sát đúng với thực tế, đồng thời kí kết hợp đồng với các Công ty xi măng Hoàng Thạch, Bỉm Sơn và Hải Phòng, kí kết hợp đồng với khách hàng, đại lý của Công ty nhằm thực hiện tiêu thụ không để xảy ra đột biến về nhu cầu và giá cả xi măng. - Tổ chức hệ thống kho tàng, bến bãi để đảm bảo kế hoạch giao hàng của Công ty và thường xuyên có đủ lượng xi măng dự trữ theo định mức để đề phòng biến động đột xuất trong những tháng tiêu thụ cao điểm, góp phần ổn định tình hình tiêu thụ xi măng. - Được ký kết hợp đồng tiêu thụ xi măng cho các đơn vị sản xuất xi măng trong nước và xi măng nhập khẩu của các đơn vị nhập khẩu. - Quan hệ chặt chẽ với các cơ quan bảo vệ pháp luật và quản lý thị trường, các cấp, ngành liên quan để phối hợp trong việc kiểm tra, kiểm soát và xử lý vi phạm, góp phần duy trì trật tự kỷ cương trong lĩnh vực kinh doanh, tiêu thụ xi măng trên địa bàn các tỉnh phía Bắc. Ngày 01/08/1995, để phù hợp hơn với thực tế, các hoạt động liên doanh của Công ty được bàn giao cho đơn vị khác của Tổng Công ty xi măng Việt Nam. Nhằm thực hiện tiếp các bước của việc cải tiến hoạt động kinh doanh theo Quyết định số 97/XMVN- HĐQT ngày 21/3/2000 của Hội đồng quản trị Tổng Công ty Xi măng Việt Nam, từ 1/4/2000, Công ty đã tiếp nhận toàn bộ các chi nhánh kinh doanh xi măng của Công ty Vật tư Vận tải xi măng tại Lào Cai, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thái Nguyên. Hiện nay Công ty với tên giao dịch là Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng, đơn vị thành viên hạch toán độc lập trực thuộc Tổng Công ty xi măng Việt Nam có trụ sở tại km6 đường Giải Phóng, quận Thanh Xuân, Hà Nội. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức, bộ máy quản lý của Công ty vật tư kỹ thuật xi măng. Cuối năm 2002, Công ty có 756 CBCNV làm việc ở các bộ phận. Trong đó có 67 người làm nhiệm vụ quản lý, 105 người làm công tác nghiệp vụ, còn lại là bộ phận trực tiếp. Sơ đồ tổ chức bộ máy của công ty. P. Kinh Tế Kế Hoạch P. Kế toán tài chính Trạm Kho Dự Trữ Giám đốc PGĐ kinh doanh PGĐ kỹ thuật P. Quản lý Thị Trường P. Quản Lý Tiêu thụ Các chi nhánh P. Tổ chức lao động Văn phòng XN Vận tải P. Điều độ & quản lý kho P. Kỹ thuật đầu tư Trung tâm Cửa Hàng Đội sửa chữa Đội xe GĐ, PGĐ,ban KT,TC,QLK Kế toán trưởng Bộ phận quản lý của Công ty được tổ chức theo mô hình trực tuyến chức năng, mô hình này phù hợp với Công ty trong giai đoạn hiện nay. - Đứng đầu Công ty là Giám đốc có nhiệm vụ chính là quản lý, giám sát toàn bộ hoạt động của Công ty và chịu trách nhiệm trước Tổng Công ty theo quy định. - Giúp việc cho Giám đốc có 2 Phó giám đốc và các Trưởng phòng chức năng. Mỗi phòng đảm nhiệm một chức năng riêng biệt nhưng cùng có một mục đích là giúp cho Giám đốc thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. + Phó Giám đốc kinh doanh: Phụ trách nghiệp vụ kinh doanh, kế hoạch kinh doanh, hợp đồng kinh tế, thanh lý hợp đồng kinh tế, kiểm tra và kiểm toán hàng hoá vật tư. + Phó Giám đốc kỹ thuật: Phụ trách về vầt tư, vận tải xi măng, công tác định mức trong khâu vận tải và trong từng cửa hàng, chất lượng hàng hoá, kỹ thuật giao nhận, bốc xếp lưu kho, xây dựng quy trình, quy phạm của các quy chế an toàn của Công ty, phụ trách công tác đào tạo, cải tiến kỹ thuật và công tác sửa chữa lớn. + Kế toán trưởng: Giúp cho Giám đốc thực hiện các điều lệ của Nhà nước và pháp luật về kế toán, thống kê trong các hoạt động kinh doanh của Công ty. Các phòng của công ty: + Văn phòng Công ty: có nhiệm vụ phục vụ đời sống và đảm bảo trật tự an toàn cho Công ty. + Phòng tổ chức lao động: có nhiệm vụ định giá tiền lương và tổ chức lao động hợp lý, thực hiện chế độ chính sách cho cán bộ công nhân viên toàn Công ty, chăm lo công tác đào tạo con người. + Phòng kỹ thuật đầu tư: có nhiệm vụ sửa chữa lớn, đầu tư xây dựng cơ bản tại Công ty. + Phòng kinh tế kế hoạch: Xây dựng kế hoạch, giao kế hoạch cho từng phòng ban, chủ trì, dự thảo hợp động kinh tế mua bán xi măng, hợp đồng thuê phương tiện vận tải xi măng, hợp đồng thuê cửa hàng bán xi măng, hợp đồng thuê và cho thuê kho tàng dự trữ xi măng… + Phòng quản lý tiêu thụ: có nhiệm vụ cung cấp, giám sát thông tin về thị trường, giá cả, số lượng chủng loại xi măng ở từng khu vực, xử lý các trường hợp buôn bán xi măng giả…Ngoài ra, phòng còn tổ chức khai thác thị trường tiêu thụ mới ở các khu vực khác. + Phòng điều độ và quản lý kho: có nhiệm vụ điều độ, tiếp nhận, vận chuyển xi măng đảm bảo cân đối mức nhập vào và xuất ra phục vụ việc tiêu thụ của toàn Công ty và có nhiệm vụ đảm bảo dự trữ theo quy định, thực hiện báo cáo số lượng chính xác, kịp thời. +Xí nghiệp vận tải: có nhiệm vụ tiếp nhận xi măng từ các trạm giao nhận đại diện của Công ty tại các ga, cảng, đầu mối về các kho dự trữ và từ các kho vận chuyển tới các cửa hàng và các kho dự trữ đại lý cho Công ty, vận chuyển tới chân công trình khi có nhu cầu. + Phòng kế toán tài chính: làm nhiệm vụ thu thập chứng từ để lập Báo cáo tài chính theo năm tài chính theo quy đinh chuẩn mực Nhà nước. Từ đó, giúp giám đốc Công ty thực hiện phân tích hoạt động kinh tế để nắm bắt những thông tin và hiệu quả kinh doanh để giám đốc điều hành. Đồng thời, xây dựng kế hoạch tài chính cho phù hợp với nhiệm vụ mua vào, bán ra mà Tổng Công ty giao. + Các chi nhánh của Công ty: làm nhiệm vụ đại diện tiêu thụ xi măng ở các tỉnh phía Bắc - địa bàn của Công ty. Các chi nhánh có ban giám đốc gồm 1 Giám đốc, 1 Phó giám đốc, ban kế toán, ban quản lý kho và ban tổ chức hành chính. Từ tháng 4/2002, Công ty có 4 chi nhánh: . Chi nhánh Vĩnh Phúc (quản lý địa bàn tỉnh Vĩnh Phúc). . Chi nhánh Thái Nguyên (quản lý địa bàn tỉnh Thái Nguyên, Bắc Kạn, Cao Bằng). . Chi nhánh Lào Cai (quản lý địa bàn tỉnh Lào Cai). . Chi nhánh Phú Thọ (quản lý địa bàn tỉnh Phú Thọ, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang). ở khu vực Hà Nội việc tiêu thụ do Phòng quản lý tiêu thụ quản lý và có 5 trung tâm. Các trung tâm quản lý các cửa hàng của Công ty và các cửa hàng đại lý Công ty có một mạng lưới cửa hàng rộng khắp gồm: 185 cửa hàng trong đó 125 cửa hàng Công ty và 60 cửa hàng đại lý. Đội xe của Công ty gồm 146 chiếc với trọng tải 804,6 tấn. Đi kèm với đội xe là đội sửa chữa. Tại Hà Nội Công ty có 5 kho, trong đó có 2 kho của Công ty là kho Giáp Nhị (10.000 tấn) và kho Vĩnh Tuy (15.000 tấn), còn lại 3 kho đi thuê là Nhân Chính, Văn Điển và Cầu Diễn. Tổ chức hạch toán kế toán: Các chi nhánh hạch toán báo sổ. Việc hạch toán tập trung tại phòng KTTC của Công ty. ở Công ty, phòng KTTC có Kế toán trưởng, 1 Phó phòng phụ trách công tác kế toán tổng hợp, 1 Phó phòng phụ trách công tác đầu tư xây dựng, hợp đồng tiêu thụ xi măng và 11 nhân viên kế toán phụ trách các bộ phận: kế toán hàng mua, hàng bán, thanh toán, tài sản, vận chuyển, thuế, quỹ, tổng hợp. Công ty đã thực hiện đưa cơ giới vào kế toán, sử dụng hình thức sổ nhật ký chung và hạch toán hàng tồn kho theo phương pháp kê khai thường xuyên. 2.1.3. Đăc điểm hoạt động kinh doanh của Công ty. Công ty vật tư kỹ thuật xi măng là một DNNN, đơn vị thành viên của Tổng công ty xi măng. Mọi hoạt động của Công ty phải theo sự chỉ đạo và phải được phép của Tổng Công ty. Giá bán xi măng là giá do Ban vật giá Chính Phủ, Bộ Xây Dựng và Tổng Công ty xi măng quy định. Ngoài chức năng kinh doanh, Công ty còn phải làm nhiệm vụ chính trị là bình ổn giá trên thị trường và cung ứng hay dự trữ, thu mua xi măng khi có biến động bất thường xảy ra. Điều này ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của Công ty, đó là dù lỗ vẫn phải bán xi măng ở những địa bàn vùng sâu, vùng xa như Hà Giang, Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn. Hàng năm, Công ty lập kế hoạch kinh doanh, kế hoạch tài chính, kế hoạch sửa chữa xây dựng cơ bản…nộp cho Tổng Công ty duyệt sau đó mới được thực hiện. Về thị trường tiêu thụ: Công ty được giao nhiệm vụ lưu thông, tiêu thụ xi măng trên địa bàn các tỉnh phía Bắc là Hà Nội, Hà Tây, Lai Châu, Vĩnh Phúc, Cao Bằng, Bắc Cạn, Yên Bái, Hà Giang, Lào Cai, Phú Thọ…trong đó địa bàn chính là Hà Nội - thủ đô của cả nước với mức tiêu thụ xi măng được đánh giá cao trong cả nước (1,2 triệu tấn- 1,6 triệu tấn / năm), và địa bàn này còn có lượng xi măng tiêu thụ mạnh trong những năm tới đây vì số lượng dự án đang và sẽ triển khai. Về sản phẩm xi măng: Sản phẩm xi măng của Công ty là vật liệu chính của các công trình xây dựng. Do Công ty chủ yếu cung cấp xi măng cho các công trình xây dựng thuộc địa bàn phía Bắc - là địa bàn có khí hậu nhiệt đới gió mùa, tốc độ xây dựng các công trình phụ thuộc vào thời tiết và do cuối năm các công trình cần nhanh chóng hoàn thành nên chỉ vào những tháng như tháng 3, 4, 5, 6, 10, 11, 12 lượng xi măng mới tiêu thụ mạnh. Đặc điểm này ảnh hưởng đến các khoản phải thu, phải trả, hàng tồn kho và tiền của Công ty.. Hiện nay, Công ty kinh doanh 5 loại xi măng: xi măng Hoàng Thạch (Công ty xi măng Hoàng Thạch - Quảng Ninh), xi măng Bỉm Sơn (Công ty xi măng Bỉm Sơn - Thanh Hoá), xi măng Bút Sơn (Công ty xi măng Bút Sơn - Hà Nam), xi măng Hải Phòng (Công ty xi măng Hải Phòng - Hải Phòng), xi măng Hoàng Mai (Công ty xi măng Hoàng Mai - Nghệ An). Ngoài ra, Công ty còn có các hoạt động khác như cung cấp phụ gia cho các nhà máy xi măng. Hiện nay, Công ty đang có chủ trương đa dạng hoá hoạt động của mình. Về đối thủ cạnh tranh: trên thị trường hiện nay đang tồn tại đa dạng các Công ty xi măng của đủ mọi thành phần : từ các Công ty thuộc Tổng Công ty xi măng Việt Nam, Công ty xi măng liên doanh, xí nghiệp xi măng quốc phòng và nhà máy xi măng địa phương. Sự đa dạng này tuy cung ứng các sản phẩm phù hợp nhu cầu người tiêu dùng nhưng cũng tạo ra một sản phẩm gay gắt và quyết liệt : cạnh tranh giữa các Công ty thuộc Tổng Công ty xi măng, cạnh tranh giữa các Công ty trong Tổng Công ty và xi măng liên doanh, xi măng quốc phòng, xi măng địa phương do cùng địa bàn. Sự cạnh tranh chủ yếu về mặt giá cả và chất lượng. Về khách hàng: khách hàng Công ty rất đa dạng, phong phú, họ có thể mua từ vài tạ đến vài trăm tấn xi măng. Khách hàng có thể mua theo hợp đồng kinh tế hoặc không theo hợp đồng kinh tế. Hiện nay khách của Công ty chủ yếu là khách hàng mua không theo hợp đồng kinh tế. Họ có thể là các tổ chức, cá nhân thầu xây dựng, mua để sử dụng hoặc mua nhằm bán lại. Về phương thức vận chuyển: Là đơn vị kinh doanh xi măng trên địa bàn 14 tỉnh phía Bắc, mua xi măng của 5 Công ty sản xuất xi măng tại địa bàn các tỉnh khác nhau. Chình vì vậy, Công ty đã sử dụng đa phương tiện vận chuyển. Cụ thể, phương tiện đường bộ; phương tiện đường sắt về tại các ga; phương tiện đường thuỷ về tại các cảng. Ngoài ra, Công ty còn có một xí nghiệp vận tải làm nhiệm vụ trung chuyển xi măng từ các kho, ga, cảng về các cửa hàng bán lẻ và vận chuyển thẳng đến chân công trình cho khách hàng. Về phương thức tiêu thụ: Công ty tổ chức bán buôn theo hợp đồng kinh tế hoặc bán lẻ tại các cửa hàng của Công ty và của đại lý, khách hàng có thể trả chậm hoặc trả tiền ngay, Công ty còn tổ chức bán tại ga, tại cảng, tại đầu mối đường bộ, tại kho và tại chân công trình. 2.2. Phân tích tài chính Công ty Vật tư kỹ thuật xi măng. 2.2.1 Phân tích khái quát hoạt động tài chính Công ty Trong 3 năm từ năm 2000 đến năm 2002, hoạt động tài chính doanh nghiệp được thể hiện khái quát qua Bảng 2.1 sau: Bảng 2.1. Bảng các chỉ tiêu về cơ cấu tài sản, nguồn vốn và kết quả SXKD Đơn vị: triệu đồng. Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 2001/2000 2002/2001 Lượng % Lượng % Lượng % Lượng % Lượng % A. Kết cấu TS & NV TS, NV 119.677 100 133.800 100 149.270 100 14.123 11,8 15.469 11,6 1. TSLĐ 91.400 76,3 107.455 80,3 128.955 86,4 16.054 17,6 21.499 20,0 2. TSCĐ 28.276 23,6 26.345 19,7 20.315 13,6 -1.931 0,93 -6.029 0,77 3. Nợ phải trả._. - Do cơ chế của Tổng Công ty, số chiếm dụng vốn của Tổng Công ty (Số tiền phải trả) trong năm tài chính phát sinh lớn. Điều này có lợi cho Công ty nhưng trong quan hệ với bạn hàng thì không lành mạnh. - Tổng Công ty qui định về giá mua và giá bán, nhưng để cạnh tranh được với các Công ty bán xi măng, Công ty đã bán với giá thấp hơn giá do Tổng Công ty qui định. Khi hạch toán Công ty lại hạch toán với giá do Tổng Công ty ra. Do đó, doanh thu không phản ánh đúng dòng tiền thực thu. Tình trạng này Công ty gọi là giá treo. Vấn đề này còn đang tồn tại bất cập. Công ty đã đề nghị với Tổng Công ty có biện pháp xử lý. Chương 3 Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính Công ty VTKTXM 3.1. Mục tiêu phát triển của Công ty trong những năm tới. Tính đến nay, Công ty đã có hơn 9 năm tham gia kinh doanh trên thị trường xi măng. Trong 9 năm đó, cùng với sự biến đổi của nền kinh tế nói chung và của thị trường xi măng nói riêng, kết quả hoạt động sản xuất xi măng của Công ty cũng có nhiều thay đổi, đăc biệt trong giai đoạn từ năm 1999 đến năm 2002 Công ty đã đạt được những thành tựu đáng kể. Năm Sản Lượng (tấn) Nộp ngân sách (tỷ đồng) Lợi nhuận 1999 694.255 7,415 2,5 2000 1.007.103 9,393 7,5 2001 1.065.419 11,349 3,2 2002 1.662.083 14,255 11,2 (Nguồn: Phòng kế toán tài chính- Công ty VTKTXM) Năm 2000, nền kinh tế Việt Nam sau 3 năm suy giảm đã có dấu hiệu phục hồi và trên đà tăng trưởng ( GDP tăng 6,75%), nhiều công trình dự án được triển khai nhằm chào mừng đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX, chào đón một thế kỷ mới đã kích cầu xi măng làm cho sản lượng bán xi măng của Công ty tăng mạnh đạt 145%, lợi nhuận tăng 213% so với năm 1999. Năm 2001, sản lượng bán Công ty vẫn xấp xỉ năm trước nhưng do cạnh tranh quyết liệt với các loại xi măng giá rẻ nên Công ty phải bán với giá thấp hơn giá quy định rất nhiều (thấp hơn khoảng 40.000 - 50.000 đồng/tấn), Công ty phải tăng chi phí mới bán được hàng, xí nghiệp vận tải thua lỗ nên lợi nhuận giảm. Kết quả năm 2002, Công ty đã thực hiện bán ra: 1.662.083 tấn xi măng các loại, tăng 596.664 tấn so với năm trước, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch đặt ra. Đánh giá hoạt động của công ty ta thấy có những khó khăn, hạn chế sau: - Nhu cầu xi măng trên thị trường tăng nhưng cung vẫn vượt cầu, trên thị trương các loại xi măng của các đối tác khác bán với giá rẻ hơn. Tình trạng gian lận thương mại và sự cạnh tranh không lành mạnh trong nội bộ ngành đã làm cho tính chất cạnh tranh ngày càng thêm quyết liệt, gay gắt đã làm giảm sản lượng tiêu thụ của Công ty đặc biệt là xi măng Bút Sơn và Bỉm Sơn. - Công ty phải phụ thuộc quá nhiều vào Tổng Công ty xi măng Việt Nam, điều này làm hạn chế khẳ năng cạnh tranh của Công ty. Cụ thể về giá bán, Công ty không được tự do định giá mà phải theo “giá treo” do Tổng Công ty quy định, mà mức giá này bao giờ cũng cao hơn mức giá của đối thủ cạnh tranh gây khó khăn cho Công ty khi tiêu thụ hàng và tạo những bất cập trong hạch toán kế toán (giá bán thực té thấp nhưng phải hạch toán theo giá treo cao). - Lực lượng bán hàng chưa đáp ứng các yêu cầu trong cơ chế thị trường do trình độ chuyên môn nghiệp vụ thấp, chưa đáp ứng được các kỹ năng cơ bản cần có của nhân viên bán hàng. Cơ sở vật chất trang thiết bị phục vụ bán hàng rất ít ỏi, việc phần lớn các cửa hàng của Công ty là đi thuê cũng ảnh hưởng nhiều đến hoạt động kinh doanh của Công ty. - Điều kiện giao thông vận tải cũng khó khăn cho Công ty trong điều kiện chuyển xi măng, nhất là chuyên chở lên địa bàn trung du, miền núi. - Bộ phận vận tải làm ăn thua lỗ do có nhiều xe đã sử dụng lâu ngày, cơ chế điều hành, quản lý chưa phù hợp Tuy nhiên, Công ty cũng có những lợi thế rất lớn: - Là một DNNN trực thuộc Tổng Công ty xi măng Việt Nam có khối lượng sản phẩm chiếm đại đa số trên thị trường. Mức tiêu thụ xi măng các Công ty thuộc Tổng Công ty xi măng Việt Nam thường chiếm 70% - 80% mức tiêu thụ xi măng nói chung. - Các sản phẩm công ty đang kinh doanh có chất lượng cao, có uy tín từ lâu đáp ứng các nhu cầu về kỹ thuật của các công trình có chất lượng cao. - Công ty đã tạo được uy tín vững vàng trên thị trường, tạo được nhiều mối quan hệ lâu bền và chắc chắn với khách hàng. - Lượng dự trữ của Công ty đảm bảo đáp ứng nhu cầu của khách hàng trong mọi điều kiện, phương thức phân phối ngày càng đa dạng thuận tiện, phục vụ tốt mọi nhu cầu của khách hàng. Định hướng phát triển của công ty trong những năm tới: Trên cơ sở những thuận lợi và khó khăn mà Công ty đang gặp phải trong hoạt động kinh doanh, dựa trên tình hình thực tế của Công ty thì hàng năm ban lãnh đạo Công ty cũng đề ra một số mục tiêu trước mắt và lâu dài nhằm định hướng cho sự phát triển trong tương lai của Công ty. Mục tiêu đặt ra trong 3 năm tới cụ thể như sau: Chỉ tiêu Đơn vị Năm 2003 Doanh thu Tỷ đồng 1.200 Nộp ngân sách Tỷ đồng 14,5 Lợi nhuận Tỷ đồng 9,5 Lao động Người 800 Thu nhập BQ tháng Đồng\người \tháng 2.200.000 3.2. Một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính Công ty VTKTXM. Thông qua việc đánh giá tình hình tài chính của Công ty trong 3 năm từ năm 2000 đến năm 2002, ta thấy được những nguyên nhân của những hạn chế trong hoạt động tài chính của Công ty. Trong khuôn khổ đề tài của mình và cùng với mục tiêu mà công ty đã đề ra, em xin trình bày một số giải pháp nhằm cải thiện tình hình tài chính của Công ty. 3.2.1. Chủ động trong công tác huy động vốn. Trong nền kinh tế hàng hoá tiền tệ ngày nay, vốn là một trong những yếu tố quan trọng hàng đầu quyết định đến sự thành bại của một doanh nghiệp trên thị trường. Doanh nghiệp muốn tiến hành sản xuất kinh doanh, muốn đáp ứng nhu cầu thị trường thì không thể thiếu vốn sản xuất được. Do vậy, doanh nghiệp cần chủ động trong công tác xây dựng kế hoạch huy động và sử dụng vốn sản xuất kinh doanh, đây là một việc cần thiết và không thể thiếu được nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Trong cơ cấu vốn của Công ty, nợ phải trả chiếm trên 58% tổng nguồn vốn và có xu hướng tăng trong 3 năm. Cụ thể, năm 2000, 2001, 2002 nợ phải trả lần lượt chiếm 58%, 62%, 67%. Còn lại là vốn chủ sở hữu. Trong đó, phải trả cho người bán chiếm trên 76% tổng nợ phải trả. Công ty có được một khoản vốn lớn từ người bán là do Tổng Công ty cho phép Công ty được trả chậm 45 ngày tiền mua hàng. Đây là một lợi thế lớn cho Công ty, vì trong lúc chưa phải trả tiền hàng, Công ty đã sử dụng số tiền đó để mở rộng kinh doanh hoặc gửi vào Ngân hàng để hưởng lợi nhuận tài chính (Lợi nhuận từ hoạt động tài chính trong 3 năm 2000, 2001, 2002 lần lượt chiếm 36,9%, 76,1%, 32,7% tổng lợi nhuận trước thuế). Tuy nhiên, trong năm 2003, Tổng Công ty rút ngắn thời hạn trả chậm từ 45 ngày xuống còn 25 ngày và có thể thời hạn này còn thấp hơn. Do vậy, trong thời gian tới để chủ động trong kinh doanh, Công ty nên có giải pháp huy động vốn từ bên ngoài như vay ngắn hạn Ngân hàng để đầu tư vào TSLĐ. Với tình hình tài chính như hiện nay, các Ngân hàng đều dễ dàng chấp nhận cho Công ty vay. 3.2.2. Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Vốn là một yếu tố không thể thiếu của mọi quá trình sản xuất kinh doanh. Do vậy, quản lý vốn và tài sản trở thành một trong những nội dung quan trọng của quản trị tài chính. Mục tiêu quan trọng nhất của quản lý vốn và tài sản là đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh tiến hành bình thường với hiệu quả kinh tế cao nhất. Cho nên, các doanh nghiệp phải quản lý vốn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, cụ thể là nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động và vốn cố định. Nâng cao hiệu quả sử dụng Vốn lưu động. Hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả sử dụng vốn lưu động nói riêng phụ thuộc vào việc sử dụng tiết kiệm và tăng nhanh tốc độ luân chuyển của vốn lưu động. Như trong phần đánh giá tình hình tài chính doanh nghiệp của Công ty vật tư kỹ thuật xi măng ta thấy: TSLĐ chiếm tỷ trọng cao trên 75% và có xu hướng tăng qua các năm. Vì Công ty là loại hình doanh nghiệp thương mại nên tỷ trọng TSLĐ trong tổng tài sản như trên là hợp lý. Trong đó, VLĐ dưới dạng tiền chiếm 66,3% năm 2001 và 76,5% năm 2002 (trong đó tiền mặt tại quỹ chiếm trên 1,4% và tiền gửi Ngân hàng chiếm trên 62,2% tổng VLĐ), VLĐ dưới dạng hàng tồn kho chiếm 14,9% năm 2001 và 7,9% năm 2002, VLĐ trong khâu dự trữ chiếm 18,5% năm 2001 và 15,4% năm 2002. Vòng quay VLĐ trong 2 năm 2001, 2002 lần lượt là 7(vòng) và 10(vòng); số ngày một vòng quay là 48 và 37 vòng. Ta thấy, hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp là tương đối cao. Tuy nhiên, để phù hợp với tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, trong thời gian tới Công ty cần có biện pháp tốt hơn nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Sau đây em đưa ra một số giải pháp mà Công ty có thể áp dụng: Thứ nhất: quản lý tiền mặt. Tiền mặt được hiều là tiền tồn quỹ, tiền trên tài khoản thanh toán của doanh nghiệp ở ngân hàng. Nó được sử dụng để trả lương, mua nguyên vật liệu, mua tài sản cố định, trả tiền thuê, trả nợ... Tiền mặt bản thân nó không sinh lãi, do vậy trong quản lý tiền mặt thì việc tối thiểu hoá lượng tiền mặt phải giữ là mục tiêu quan trọng nhất. Tuy nhiên, việc giữ tiền mặt trong kinh doanh cũng là vấn đề cần thiết, điều đó xuất phát từ những lý do sau: đảm bảo giao dịch kinh doanh hàng ngày, hưởng lợi thế trong thương lượng mua hàng. Trong năm 2002, VLĐ dưới dạng tiền mặt chiếm 76,5% tổng VLĐ. Lượng tiền mặt như vậy là nhiều. Công ty có thể tham khảo giải pháp sau để giữ lượng tiền mặt tối ưu, hiệu quả: Dựa vào dòng tiền thực thu và thực chi trong quá khứ, Công ty lập kế hoạch cho các dòng tiền ở hiện tại và tương lai. Dòng tiền thực thu như thu từ tiền bán hàng, từ cho thuê kho, từ hoạt động tài chính (lãi tiền gửi ở ngân hàng), từ hoạt động bất thường (thanh lý tài sản). Đối với khoản thu từ bán hàng, Công ty cần quy định cụ thể các phương thức bán hàng cho từng cửa hàng như thời hạn thu tiền, các khoản giảm giá chiết khấu, thời hạn trả chậm tiền hàng đối với khách hàng mua với khối lượng lớn. Điều này được quy định cụ thể trong hợp động tín dụng của Công ty. Có thể thấy các khoản thực thu của Công ty là tương đối ổn định. Dòng tiền thực chi như chi mua hàng, chi thuê kho, chi lương, chi bảo quản sửa chữa máy móc thiết bị, chi sửa chữa trụ sở...Trong đó, chi mua hàng chiếm tỷ lệ lớn nhất và thường biến động. Chi mua hàng phụ thuộc vào lượng hàng mua và thời gian thanh toán cho bên mua. Thời hạn thanh toán cho bên mua được quy định là trả chậm 45 ngày. Với khối lượng hàng mua, phòng kế toán phải phối hợp với phòng điều độ và quản lý kho để xác định lượng hàng mua thực tế. Từ đó, Công ty xác định được dòng tiền thực chi. Tuy nhiên, có những khoản thu, chi Công ty không thể xác định được một cách chính xác. Để bù đắp cho những khoản này, Công ty có thể nắm giữ chứng khoản có tính thanh khoản cao để khi cần có thể mua hoặc bán. Trong khi nắm giữ chứng khoán Công ty vẫn được hưởng lãi. Trong điều kiện thị trường chứng khoán chưa phát triển, đa số các doanh nghiệp Việt nam chưa có thói quen đầu tư tiền dư thừa vào chứng khoán có tính thanh khoản cao. Vì vậy, để thực hiện được giải pháp trên thì việc phát triển thị trường chứng khoán là một đòi hỏi không thể thiếu được Thứ hai là quản lý dự trữ: Ta biết rằng, nếu hàng hoá dự trữ nhiều sẽ bị hao mòn đi rất nhanh và phải tốn kém chi phí bảo quản, chi phí vận chuyến bốc dỡ. Tuy nhiên, nếu dự trữ quá ít sẽ không đáp ứng được nhu cầu mua hàng của khách hàng. Do vậy, để giữ một lượng hàng vừa đủ là mục tiêu quản lý dự trữ của Công ty. Trong năm 2002, lượng hàng tồn kho của Công ty tăng 17 triệu đồng tăng 0,08% so với năm 2001. Trong thời gian tới Công ty nên giảm lượng hàng tồn kho xuống thấp hơn nữa. Công ty có thể xem xét hướng giải quyết sau: Hàng tháng, quý, năm Công ty lập kế hoạch dự trữ hàng bằng cách bám sát với kế hoạch tiêu thụ hàng do Tổng Công ty quy định kết hợp với việc nghiên cứu thị trường. Phòng nghiên cứu thị trường phải thực hiện các công việc sau đây: Thứ nhất: Điều tra, nắm bắt tình hình biến động của thì trường như: nhu cầu của khách hàng, sự biến động về giá cả, chi phí khuyến mại sản phẩm của đối thủ cạnh tranh trên thị trường. Từ đó xác định mức dự trữ tối ưu. Thứ hai: xem xét yếu tố thời tiết có thuận lợi cho việc xây dựng hay không. Vào những tháng như 1,2,3,4,10,11,12 thời tiết khô ráo nên nhu cầu về xây dựng tăng. Ngược lại, vào tháng 7,8,9 mưa nhiều nên nhu cầu về xây dựng giảm. Do vậy, phòng nghiên cứu thị trường phải dựa vào điều kiện thời tiết khí hậu để xác định lượng hàng dự trữ tối ưu. Ngoài ra, Công ty nên áp dụng phương thức bán thẳng đến chân công trình cho khách hàng để giảm các chi phí qua kho không cần thiết như: chi phí chu chuyển, chi phí bốc xếp, chi phí bảo quản, chi phí hao hụt, rách vỡ. Thứ ba: quản lý các khoản phải thu: Năm 2002, khoản phải thu giảm 5 tỷ đồng giảm 36,5% so với năm 2001, vòng quay phải thu là 87(vòng), kỳ thu tiền bình quân là 4 ngày. Điều này chứng tỏ doanh nghiệp đang áp dụng chính sách tín dụng thương mại đúng đắn. Tuy nhiên, để cạnh tranh được với đối thủ khác, Công ty nên có chính sách tín dụng thương mại sao cho phù hợp hơn trong giai đoạn tới. Công ty có thể tham khảo một số giải pháp sau: Thứ nhất: Công ty nên có chính sách bán chịu đúng đắn cho từng khách hàng. Đối với khách hàng là tổ chức phải được sự bảo lãnh của ngân hàng và phải cam kết việc mua bán chịu thông qua hợp đồng kinh tế. Đối với khách hàng là cá nhân thì được trả chậm 15 ngày, nhưng phải trả trước một phần giái trị của đơn đặt hàng. Thứ hai: Phân loại từng đối tượng sau đó tổ chức ra một bộ phận chuyên trách luôn đi thu hồi nợ, bộ phận này sẽ theo dõi từng khoản nợ. Đối với các khoản nợ quá hạn thì Công ty nên tìm hiểu nguyên nhân của nó để có biện pháp xử lý như gia hạn nợ, thoả ước xử lý nợ, xoá một phần nợ cho khách hàng...Về phần Công ty, đối với những khoản nợ quá hạn mà khó có khả năng thu hồi thì Công ty nên lập quỹ dự phòng các khoản nợ khó đòi. Thứ ba: Công tác thu hồi nợ nên tiến hành theo phương pháp cuốn chiếu, tiến hành để đặn không nên dồn dập vào cuối mỗi năm làm cho vốn bị chiếm dụng lâu, gây lãng phí. Trong khi đó, cuối năm lượng tiền thu về sẽ làm tồn quỹ tăng nhanh gây dư tiền mặt giả tạo. Nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản cố định. TSCĐ là một bộ phận quan trọng cấu thành nên vốn sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó, việc quản lý và sử dụng có hiệu quả TSCĐ sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sản xuất kinh doanh, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. TSCĐ của Công ty chiếm một tỷ lệ rất thấp, dưới 25% tổng giá trị tài sản. TSCĐ của Công ty chủ yếu là nhà cửa, kho tàng, máy móc thiết bị. Tuy vậy, Công ty cũng cần có các giải pháp quản lý và sử dụng TSCĐ sao cho có hiệu quả hơn góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh trong thời gian tới. Công ty có thể xem xét một số giải pháp sau: Thứ nhất: chú trọng vào việc mua sắm TSCĐ, đầu tư thiết bị văn phòng như máy tính, trung bình cứ hai nhân viên phải sử dụng một máy tính nhằm làm tăng hiệu quả làm việc. Thứ hai: thường xuyên sửa chữa, nâng cấp trụ sở Công ty để làm tăng vị thế của Công ty. Đồng thời, đối với thiết bị văn phòng khi hết thời gian sử dụng phải thanh lý, mua mới. Thứ ba: Công ty nên chủ động đề phòng các tổn thất bất ngờ xảy ra đối với TSCĐ như thiên tai, hoả hoạn...bằng cách mua sắm các thiết bị phòng cháy chữa cháy hoặc trích lập các quỹ dự phòng tài chính. 3.2.3. Tăng cường các biện pháp quản lý chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp nhằm tăng lợi nhuận. Trong quá trình sản xuất kinh doanh thì việc tiết kiệm chí phí sản xuất kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm là nhân tố quan trọng hàng đầu làm tăng lợi nhuận trực tiếp cho doanh nghiệp. Vì vậy, trong quá trình sản xuất kinh doanh thì bất cứ doanh nghiệp nào cũng không ngừng phấn đấu để giảm chi phí sản xuất kinh doanh, hạ giá thành sản phẩm. Đối với Công ty, giá mua vào và bán ra do Tổng công ty quy định nên để tăng lợi nhuận Công ty phải có các biện pháp quản lý chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp sao cho có hiệu quả. Thực tế cho thấy, chi phí bán hàng của Công ty tăng cao trong các năm. Cụ thể, năm 2002 tăng 51 tỷ tăng 46,8% so với năm 2001. Đối với chi phí quản lý doanh nghiệp, năm 2002 tăng 4 tỷ đồng tăng 41,9% so với năm 2001. Do đó, để giảm 2 chi phí trên Công ty cần áp dụng các biện pháp sau: Thứ nhất: Công ty nên xây dựng các định mức về chi phí cố định một cách hợp lý. Chi phí khuyến mại nên áp dụng cho từng thời kỳ tiêu thụ sản phẩm hoặc theo mùa vụ. Trong quá trình tiêu thụ tốt, Công ty nên hạn chế chi phí khuyến mại. Thứ hai: Quản lý các chi phí phát sinh không cần thiết như chi phí qua kho (chi phí vận chuyển, chi phí bốc xếp). Để giảm được chi phí này, Công ty nên tăng cường tiếp thị khách hàng để vận chuyển thẳng đến chân công trình. Thứ ba: Nắm bắt về giá trên từng địa bàn Công ty phụ trách để có giá bán phù hợp hơn. 3.2.4. Đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu, mở rộng thị trường tiêu thụ. Trong tình hình hiện nay, ngày càng có nhiều loại xi măng tham gia vào thị trường, việc tiêu thụ xi măng ngày càng trở nên khó khăn. Vì vậy, việc đẩy mạnh hoạt động nghiên cứu thị trường, tìm kiếm khách hàng mới, mở rộng thị trường là một biện pháp rất cần thiết đối với Công ty vật tư kỹ thuật xi măng. Trước hết, việc nghiên cứu thị trường phải chủ động nắm bắt về diễn biến thị trường trên các địa bàn ở từng thời điểm, kịp thời đề ra biện pháp kinh doanh phù hợp. Một trong những yếu tố thay đổi thị trường là giá cả. Giá cả trên thị trường được quyết định dựa trên quan hệ cung - cầu về xi măng trên thị trường. Hiện nay, trên thị trường xi măng quan hệ cung - cầu diễn ra rất phức tạp, giá xi măng liên tục thay đổi. Do vậy, nhiệm vụ đặt ra đối với công tác nghiên cứu thị truờng là phải có cơ chế giá linh hoạt để duy trì khả năng cạnh tranh, giữ vững được thị phần và bình ổn giá trên địa bàn được phân công quản lý. Hoạt động nghiên cứu thị trường còn phải quan tâm đến các đối thủ cạnh tranh, cụ thể là quan tâm đến chất lượng, giá cả, điểm mạnh, điểm yếu và phản ứng của họ đối với các tình huống kinh doanh trên thị trường. Nhìn chung, chất lượng của các loại xi măng tương đối đồng đều nhưng giá cả lại có sự chênh lệch. Cơ chế giá của các đối thủ này khá linh hoạt do không phải chịu sự ràng buộc về cơ chế giá của Tổng Công ty. Hơn nữa, họ lại áp dụng các hình thức quảng cáo, khuyến mại khá phong phú với giá trị quà tặng tương đối lớn. Do đó, việc nghiên cứu các đối thủ cạnh tranh này là rất quan trọng, nó giúp cho Công ty có những phản ứng kịp thời trước những diễn biến phức tạp của thị trường. Ngoài ra, Công ty phải nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng. Nhu câu, thị hiếu của khách hàng thay đổi cũng có ảnh hưởng lớn đến sản lượng, giá bán và cơ cấu mặt hàng tiêu thụ. Như vậy, nghiên cứu về nhu cầu, thị hiếu của người tiêu dùng giúp Công ty chuyển đổi cơ cấu kinh doanh kịp thời và có những biện pháp tác động phù hợp nhằm thúc đẩy hoạt động tiêu thụ sản phẩm, tăng doanh thu cho Công ty. Hoạt động nghiên cứu thị trường của Công ty cũng nên quan tâm đến những khu vực vùng sâu, vùng xa như Lào Cai, Yên Bái, Cao Bằng...ở những vùng này trước đây việc tiêu thụ xi măng gặp nhiều khó khăn, nhưng hiện nay tình hình tiêu thụ đã có những diễn biến tốt. Hơn nữa, hoạt động tiêu thụ ở đây không vấp phải sự cạnh tranh gay gắt với các đối thủ khác. 3.2.5. Hoàn thiện công tác kế toán và nâng cao trình độ quản lý tài chính doanh nghiệp. Công tác hạch toán kế toán có vai trò tích cực đối với việc quản lý vốn, tài sản và phân tích các hoạt động tài chính doanh nghiệp. Vì vậy, trong những năm tới Công ty cần từng bước hoàn thiện, đổi mới việc tổ chức công tác kế toán tài chính để thích nghi với yêu cầu và nội dung của việc đổi mới cơ chế quản lý tài chính doanh nghiệp và phù hợp với đặc điểm sản xuất kinh doanh của Công ty. Đồng thời với việc hoàn thiện công tác kế toán tài chính thì Công ty cũng nên từng bước nâng cao trình độ quản lý tài chính doanh nghiệp để góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Bởi vì quản lý kinh tế nói chung và quản lý tài chính doanh nghiệp vừa là khoa học vừa là nghệ thuật, nó phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố chủ quan của con người. Mọi tác động của doanh nghiệp chỉ phát huy hiệu quả tích cực khi bản thân mỗi cán bộ quản lý đều nỗ lực phấn đấu tối đa trong việc tích luỹ kinh nghiệm, thu nhận kiến thức, vận dụng các quy luật tài chính khách quan vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp sao cho mỗi đồng vốn bỏ ra đều có khả năng sinh lợi. Có như thế, doanh nghiệp mới tạo dựng được một cơ chế tài chính lành mạnh làm động lực cho doanh nghiệp phát triển và vững tin vào tương lai 3.3. Một số kiến nghị 3.3.1. Đối với Tổng Công ty xi măng: + Công ty không được tự quyết định giá mà tình trạng giá treo do Tổng Công ty đề nghị Ban Vật giá Chính Phủ và Bộ Xây dựng quy định gây khó khăn cho hoạt động của Công ty. Giá bán trên thị trường thấp hơn rất nhiều so với mức giá quy định, do đó, Công ty phải tăng các chi phí vận chuyển, bốc xếp mới bù đắp được phần doanh thu thấp hơn quy định. Điều này ảnh hưởng đến các báo cáo tài chính của Công ty không phản ánh đúng mức doanh thu và chi phí, số liệu không chính xác ảnh hưởng đến việc Phân tích. Tổng Công ty nên xem xét giải quyết tình trạng giá treo như hiện nay để Công ty tự chủ hơn về tài chính, để các thông tin trên báo cáo tài chính phản ánh đúng thực trạng của Công ty. +Vì Tổng Công ty quy định Công ty VTKTXM phải bán xi măng ở những địa bàn miền núi, đi lại khó khăn, phí vận chuyển lớn, sức tiêu thụ ít, giá rẻ dẫn đến thua lỗ. Do vậy, Tổng Công ty cần có những chính sách hỗ trợ về giá khi chỉ đạo bán xi măng ở vùng sâu, vùng xa. 3.3.2. Đối với Nhà nước + Nhà nước cần sớm ban hành quy định về công khai hoá các báo cáo tài chính, thành lập một cơ quan chuyên tập hợp số liệu để đưa ra hệ thống chỉ tiêu tài chính trung bình cho từng ngành để các doanh nghiệp có cơ sở chính xác trong việc đánh giá vị thế của doanh nghiệp mình, từ đó có biện pháp giải quyết các mặt yếu kém. + Phát triển thị trường chứng khoản để các doanh nghiệp dễ dàng phát huy đồng vốn cũng như thực hiện đầu tư tài chính được dễ dàng. Kết luận Công cuộc đổi mới nền kinh tế nước ta do Đảng và nhà nước lãnh đạo đã đạt được những thành công to lớn, từng bước chuyển nền kinh tế nước ta từ một nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước. Trong bối cảnh đó, các doanh nghiệp cũng phải từng bước quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, thực hiện hạch toán kinh doanh độc lập lời ăn lỗ chịu. Vì vậy, vấn đề đặt ra đối với mọi doanh nghiệp là làm thế nào để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, đứng vững và phát triển trên thị trường. Chính vì vậy, Phân tích tài chính là một đòi hỏi bắt buộc không chỉ đối với Công ty VTKTXM mà còn đối với tất cả các doanh nghiệp. Dựa trên những kiến thức đã được học ở nhà trường, thông qua phân tích thực tế tình hình tài chính tại Công ty VTKTXM, em đã nêu trong luận văn những thành công và hạn chế về tình hình tài chính của Công ty, trên cơ sở đó đưa ra một số giải pháp cải thiện tình hình tài chính, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Tuy nhiên, do còn hạn chế về trình độ nhận thức cũng như kiến thức thực tiễn nên những giải pháp em đưa ra chưa hẳn đã thích hợp và tối ưu nhưng cũng có thể giúp các nhà quản lý tài chính của Công ty tìm ra các biện pháp quản lý hữu hiệu nhằm lành mạnh hoá tình hình tài chính, nâng cao hiệu quả kinh doanh. Hy vọng rằng những giải pháp em đưa ra sẽ góp phần nhỏ bé vào việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Trong quá trình thực tập và làm chuyên đề, em đã nhận được sự giúp đỡ to lớn của các cô chú phòng tài chính kế toán Công ty và được sự chỉ bảo tận tình của thầy cô trong khoa Ngân Hàng - Tài chính đặc biệt là thầy giáo Nguyễn Văn Định đã giúp đỡ em hoàn thành bài viết này. Qua đây, em muốn gửi tới thầy giáo và các cô chú phòng Tài chính - Kế toán Công ty VTKTXM lời cảm ơn chân thành nhất. Tài liệu tham khảo TS. Lưu Thị Hương, Giáo trình Tài chính doanh nghiệp, NXB Giáo dục, 2002. TS Vũ Duy Hào, Quản trị Tài chính doanh nghiệp, NXB Giáo dục,1998. Nguyễn Hải Sản, Quản trị Tài chính, NXB Thống kê, 1996. Nguyễn Văn Công, Đọc, lập và phân tích Tài chính doanh nghiệp Các văn bản pháp luật về quản lý Tài chính doanh nghiệp. Luận văn khoá trước. Phụ lục Phụ Lục 1: Báo cáo Kết quả hoạt động kinh doanh đơn vị : VNĐ Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Tổng doanh thu 699.634.533.511 740.627.774.260 1.147.732.335.893 1. Doanh thu thuần 699.634.533.511 740.627.774.260 1.147.732.335.893 2. Giá vốn hàng bán 588.658.112.852 626.185.755.053 971.741.775.227 3. Lợi nhuận gộp 110.976.420.659 114.442.019.207 175.990.560.666 4. Chi phí bán hàng 98.571.268.772 105.309.677.613 156.761.950.290 5. Chi phí quản lý 9.741.228.675 10.821.905.408 15.362.594.758 6. Lợi nhuận thuần từ HĐKD 2.663.923.212 (1.689.563.814) 3.866.015.618 7. Thu nhập HĐTài chính 2.804.659.807 2.516.416.080 3.695.157.730 8. Chi phí HĐTài chính 21.366.500 57.333.700 12.283.600 9. Lợi nhuận thuần từ HĐTC 2.783.293.307 2.459.082.380 3.682.874.130 10. Các khoản Thu nhập BT 3.073.505.059 3.245.293.271 8.102.509.336 11. Chi phí bất thường 985.064.548 784.304.556 4.392.294.793 12. Lợi nhuận bất thường 2.088.440.511 2.460.988.715 3.710.214.543 13. Tổng lợi nhuận trước thuế 7.535.657.030 3.230.507.281 11.259.104.291 14. Thuế TNDN 2.449.648.586 1.033.762.330 3.586.913.373 15. Lợi nhuận sau thuế 5.086.008.444 2.196.744.951 7.672.190.918 (Nguồn: BCKQKD của Công ty VYKTXM 3 năm 2000-2002) Phụ Lục 2: Bảng cân đối kế toán Đơn vị :VNĐ Tài sản 31/12/2000 31/12/2001 31/12/2002 A- Tài sản lưu động và đầu tư NH 91.400.903.091 107.455.877.289 128.955.226.979 I. Tiền 61.609.435.188 71.294.200.913 98.698.627.011 1. Tiền mặt tại quỹ 3.996.552.800 2.864.794.700 1.846.043.500 2. Tiền gửi ngân hàng 45.821.774.488 66.855.906.213 94.131.943.511 3. Tiền đang chuyển 11.791.107.900 1.573.500.000 2.720.640.000 II. Các khoản đttc ngắn hạn 0 0 0 III. Các khoản phải thu 14.668.060.225 16.050.614.123 10.183.875.193 1. Phải thu của khách hàng 13.062.013.024 13.611.033.480 8.240.668.842 2. Trả trước cho người bán 1.639.991.267 394.037.068 1.416.555.317 3. Thuế GTGT được khấu trừ 0 0 0 4. Phải thu nội bộ (208.442.400) 0 0 5. Các khoản phải thu khác 174.498.334 2.045.543.575 526.651.034 6. Dự phòng phải thu khó đòi 0 0 0 IV. Hàng tồn kho 14.952.910.586 19.899.047.711 19.916.349.775 1. Hàng mua đang đi trên đường 7.521.788.337 11.874.875.961 14.144.078.180 2. Nguyên liệu, vật liệu trong kho 442.236.153 398.839.269 246.136.570 3. Công cụ dụng cụ trong kho 66.166.440 49.397.097 25.569.846 4. Chi phí sản xuất kinh doanh dở dang 0 0 0 5. Thành phẩm tồn kho 0 0 0 6. Hàng hoá tồn kho 6.922.719.656 7.575.935.384 5.500.565.179 7. Hàng gửi đi bán 0 0 0 8. Dự phòng giảm giá hàng tồn kho (*) 0 0 0 V. Tài sản lưu động khác 170.497.092 212.014.542 156.375.000 1. Tạm ứng 170.497.092 205.338.042 156.375.000 2. Chi phí trả trước 0 6.676.500 0 B- Tài sản cố định và đầu tư DH 28.276.803.293 26.345.066.402 20.315.302.521 I. Tài sản cố định 27.070.707.715 24.604.797.887 18.936.056.077 1. Tài sản cố định hữu hình 26.517.155.225 24.127.052.417 18.936.056.077 - Nguyên giá 54.360.671.871 43.485.760.647 42.500.328.666 - Giá trị hao mòn luỹ kế (*) (27.843.516.646) (29.358.708.230) (23.564.272.589) 2. Tài sản cố định thuê tài chính 0 0 0 - Nguyên giá 0 0 0 - Giá trị hao mòn luỹ kế (*) 0 0 0 3. Tài sản cố định vô hình 553.552.490 479.745.470 0 - Nguyên giá 738.070.000 738.070.000 0 - Giá trị hao mòn luỹ kế (*) (184.517.510) (258.324.530) 0 II. Các khoản đầu tư tài chínhDH 575.000.000 625.000.000 675.000.000 Đầu tư chứng khoán dài hạn 575.000.000 625.000.000 675.000.000 III. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 631.095.578 1.113.268.515 704.246.444 IV. Các khoản ký quỹ, ký cược DH 0 0 0 Tổng cộng tài sản 119.677.706.384 133.800.943.691 149.270.529.500 Nguồn vốn A- Nợ phải trả 69.149.252.499 83.137.132.645 100.070.593.940 I. Nợ ngắn hạn 64.689.594.357 79.144.387.765 95.396.818.009 1. Vay ngắn hạn 0 0 0 2. Nợ dài hạn đến hạn trả 0 0 0 3. Phải trả cho người bán 52.526.611.597 69.901.471.751 83.720.803.207 4. Người mua trả tiền trước 74.938.950 397.469.870 723.467.532 5. Thuế và các khoản phải nộp NN 3.737.051.728 2.650.079.939 5.501.435.878 6. Phải trả công nhân viên 2.323.070.697 3.284.526.850 4.048.140.117 7. Phải trả cho các đơn vị nội bộ 5.209.149.135 2.447.574.911 990.381.382 8. Các khoản phải trả, phải nộp khác 818.772.250 463.264.444 412.589.893 II. Nợ dài hạn 0 0 0 III. Nợ khác 4.459.658.142 3.992.744.880 4.673.775.931 1. Chi phí phải trả 1.967.648.142 2.824.814.880 2.930.155.931 2. Tài sản thừa chờ xử lý 0 0 0 3. Nhận ký quỹ, ký cược dài hạn 2.492.010.000 1.167.930.000 1.743.620.000 B- Nguồn vốn chủ sở hữu 50.528.453.885 50.663.811.046 49.199.935.560 I. Nguồn vốn – quỹ 50.528.453.885 50.369.445.184 46.400.893.081 1. Nguồn vốn kinh doanh 44.167.404.821 44.700.801.858 39.404.120.446 2. Chênh lệch đánh giá lại tài sản 0 0 0 3. Chênh lệch tỷ giá 0 0 0 4. Quỹ đầu tư phát triển 3.203.613.634 3.208.794.960 3.865.724.187 5. Quỹ dự phòng tài chính 0 1.011.052.647 1.682.252.729 6. Lợi nhuận chưa phân phối 0 0 0 7. Nguồn vốn đầu tư xây dựng cơ bản 1.448.795.719 1.448.795.719 1.448.795.719 II. Nguồn kinh phí, quỹ khác 294.365.862 2.799.042.479 1. Quỹ dự phòng về trợ cấp mất việc làm 106.097.809 28.309.315 (120.148.572) 2. Quỹ khen thưởng, phúc lợi 737.722.264 266.056.547 2.919.191.051 3. Nguồn kinh phí sự nghiệp 0 0 0 - Nguồn kinh phí sự nghiệp năm trước 0 0 0 - Nguồn kinh phí sự nghiệp năm nay 0 0 0 Tổng cộng nguồn vốn 119.677.706.384 133.800.943.691 149.270.529.500 (Nguồn: BCĐKT của Công ty VTKTXM 3 năm 2000-2002) ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7911.doc
Tài liệu liên quan