Phân tích, thiết kế một hệ thống quản lý đăng ký kinh doanh qua mạng cho “Sở Kế Hoạch Và Đầu Tư Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

Tài liệu Phân tích, thiết kế một hệ thống quản lý đăng ký kinh doanh qua mạng cho “Sở Kế Hoạch Và Đầu Tư Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”: ... Ebook Phân tích, thiết kế một hệ thống quản lý đăng ký kinh doanh qua mạng cho “Sở Kế Hoạch Và Đầu Tư Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”

doc98 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1257 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích, thiết kế một hệ thống quản lý đăng ký kinh doanh qua mạng cho “Sở Kế Hoạch Và Đầu Tư Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu”, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU Nhằm góp phần vào công cuộc xây dựng chính phủ điện tử và áp dụng công nghệ thông tin vào thực tiển cuộc sống, mọi người bất cứ ai muốn hoạt động kinh doanh một cách hợp pháp đều phải đến Sở Kế Hoạch Và Đầu Tư của tỉnh nhà để đăng ký thành lập Doanh Nghiệp, mà hiện nay vấn đề đăng ký kinh doanh vẫn còn làm mất thời gian và bất tiện cho không ít người, chính vì vấn đề bức thiết đó đã giúp tôi nảy sinh ý tưởng là thiết kế một WebSite “Đăng Ký Kinh Doanh Qua Mạng” cho Sở Kế Hoạnh Và Đầu Tư Bà Rịa – Vũng Tàu. WebSite này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các Doanh Nghiệp có thể đăng ký kinh doanh một cách dể dàng và nhanh chống với chi phí thấp nhưng hiệu quả lại cao. Mọi người không cần phải trực tiếp đến Sở Kế Hoạch Và Đầu Tư để đăng ký thành lập Doanh Nghiệp cho mình mà có thể ngồi tại nhà nhưng lại xem được đầy đủ những thông tin hướng dẫn cũng như những thủ tục đăng ký kinh doanh rất rỏ ràng và chi tiết, rồi sau đó tự đăng ký kinh doanh cho mình. Ngoài ra qua Website này các doanh nghiệp có thể cùng trao đổi thông tin với nhau hoặc với Sở Kế Hoach Đầu Tư thông qua muc Diễn Đàn Doanh Nghiệp. Trong bản báo cáo này, tôi xin trình bày quá trình phân tích, thiết kế một hệ thống quản lý đăng ký kinh doanh qua mạng cho “Sở Kế Hoạch Và Đầu Tư Tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu” với hệ quản trị cơ sở dữ liệu SQL Server của hãng MICROSOFT. Bản báo cáo gồm ba phần chính: Phần 1. Tổng quan về cơ sở lý thuyết Phần 2. Khảo sát và phân tích hệ thống Phần 3. Hiện thực chương trình Sau quá trình tìm hiểu và thiết kế, nay tôi đã hoàn thành. Tuy nhiên, thời gian nghiên cứu có hạn, kiến thức và kinh nghiệm còn hạn chế nên trong quá trình phân tích, thiết kế cho hệ thống sẽ không tránh khỏi được những sai sót. Rất mong sự góp ý của thầy cô và phòng đăng ký kinh doanh cùng các bạn sinh viên gần xa để tôi có thể hoần thành tốt hơn Website của mình . Tôi xin chân thành cảm ơn thầy Nguyễn Đức Thuần và các Cô Chú đang công tác tại Sở Kế Hoạch Đầu Tư đã hướng dẫn và tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho tôi hoàn thành tốt Đồ Aùn của mình. PHẦN 1. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT PHẦN 1. TỔNG QUAN VỀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT CHƯƠNG I. GIỚI THIỆU VỀ WORD WIDE WEB I.1. Lịch sử Web được sinh ra bởi Internet, và nó cho thấy khả năng tự trị và giới hạn của kiến trúc Internet. Ngày nay, các chương trình duyệt Web có các khả năng truy cập vào các công nghệ Internet khác nhau như : Emai, Word Wide Web…. Nhưng Web và Internet không chỉ là một ngành kỹ thuật mà đó là môi trường để con người liên lạc, học tập, và tác động qua lại nhau trong cùng một môi trường văn hóa. Năm 1926, Paul Baran, mô tả trên giấy lời giải một vấn đề làm đau đầu các nhà quân sự lúc bấy giờ, tựa :”Liên lạc phân tán qua mạng “. Anh ta đưa ra một hệ thống máy tính rộng khắp đất nước kết nối lại với nhau sử dụng hệ thống mạng không tập trung (decentralized) do đó nếu một hay nhiều node mạng chính bị phá hủy thì các node còn lại vẫn tự động điều chỉnh các kết nối để duy trì việc liên lạc. Do mạng là không tập trung (decentralized), nên ta có thể thêm vào một máy tính thông qua đường dây điện thoại, một thiết bị phần cứng, và một số phần mềm NCP (network control protocol), ví dụ mạng ARPAnet. Một ứng dụng chính được phát triển đầu tiên trên ARPAnet là thư điện tử (electronic mail). Ngày nay, email là một phần không thể thiếu được của Net và nó được thiết kế sẵn bên trong các trình duyệt Web (ví dụ netscape) do đó một chương trình đơn lẻ để xem email là không cần thiết. I.2. Giao thức TCP/IP Vào những năm 1970, nhu cầu trao đổi truyền tin trên các mạng phân biệt có “ngôn ngữ ” khác biệt nhau là cần thiết. Năm 1974, Vint Cerf và Bob Kahn đã đưa ra việc thiết kế chi tiết cho một protocol để liên lạc giữa các mạng khác nhau. Đến năm 1982, việc thiết kế này được cài đặt và được gọi là TCP/IP (Transmission control protocol /Internet protocol). Phần TCP của giao thức TCP/IP cung cấp cơ chế kiểm tra việc truyền dữ liệu giữa Client và Server: nếu dữ liệu bị mất hay hỏng TCP sẽ yêu cầu gởi lại dữ liệu cho đến khi hết các lỗi. Phần IP trong giao thức TCP/IP di chuyển dữ liệu từ node này sang node khác. Nó sẽ giải mã các địa chỉ và tìm đường để đưa dữ liệu đến đích. Nó có thể sử dụng bởi các máy tính nhỏ để liên lạc trên các mạng LAN (ethernet hay token ring) có thể sử dụng cả giao thức TCP/IP và các giao thức khác nhau như novel hay window for workgroups. Một máy có thể ở mạng LAN và sử dụng TCP/IP để kết nối với các máy khác trên thế giới . Bộ quốc phòng Mỹ nhanh chóng định nghĩa TCP/IP như protocol chuẩn cho các hệ thống liên mạng của quân sự. Tuy nhiên với ưu thế của mình TCP/IP nhanh chóng thâm nhập và trở thành chuẩn mới cho tất cả các hệ thống mạng dân dụng và là tiền đề cho mạng Internet ngày nay . Telnet TCP/IP cung cấp khả năng login từ xa thông qua giao thức của telnet. Với telnet, User có thể liên kết và tìm thông qua các thư mục trên một hệ thống ở xa và chạy các chương trình. I.3. Giao thức FTP File transfer protocol: là một phần mềm (software) cho phép truyền file nhị phân hoặc file text từ một máy này sang máy khác trên Internet, hay nói khác hơn, FTP là dịch vụ (service) cho phép chúng ta sao chép một file từ bất kỳ Internet host này đến bất kỳ Internet host khác. Giống như những dịch vụ khác trên Internet, FTP sử dụng hệ thống Client /Server. Một hệ thống Client /Server có thể hiểu như sau: Khái quát: Một trong những nguyên tắc sử dụng mạng là cho phép chia sẻ các tài nguyên. Rất nhiều thời gian việc chia sẻ này được hoàn thành bởi hai chương trình riêng biệt, mỗi chương trình chạy trên máy tính khác nhau. Một chương trình gọi là Server, cung cấp một tài nguyên riêng. Chương trình kia gọi là Client để sử dụng tài nguyên đó. Dịch vụ này có tên là FTP, để kết nối vào một chương trình Server trên máy tính từ xa. Bằng cách sử dụng chương trình Client chúng ta phát ra những lệnh được chuyển đến Server. Server sẽ trả lời bằng cách tải những gì mà tập lệnh tới nơi phát ra yêu cầu đó. Để sử dụng, dùng lệnh FTP và mô tả địa chỉ của host từ xa mà chúng ta muốn kết nối vào. Anonymous FTP: Khi dùng FTP để chuyển file từ máy này đến máy khác trên Internet, có một vài hạn chế: Chúng ta không thể truy cập vào một máy tính trừ khi được sự cho phép. Nghĩa là chúng ta phải có User ID (account name) và password thì mới xâm nhập vào được. Khi sử dụng chương trình FTP để kết nối vào một anonymous FTP host, nó hoạt động giống như nghi thức FTP, ngoại trừ khi nó đòi hỏi một User ID, nó là anonymous. Khi nó đòi hỏi password, chúng ta đánh vào địa chỉ email hoặc tên của mình.Vì vậy, người quản trị hệ thống có thể lần ra dấu vết ai đang truy cập vào files của họ. Khi người quản trị hệ thống cài đặt một máy tính như là một anonymous FTP host định rõ những thư mục dùng cho việc truy cập chung. Như một biện pháp an toàn, hầu hết những anonymous FTP host cho phép User download file, nhưng không cho phép upload file (chép lên Server). Nếu như một anonymous cho phép upload, người quản trị hệ thống yêu cầu User copy tất cả những file mới này để chỉ thư mục upload đã xác định trước đó. Sau đó, người quản trị hệ thống có dịp kiểm tra những file này, rồi chuyển chúng đến một trong những thư mục download chung. Bằng cách này có thể ngăn chặn được nhiều người, bảo vệ họ khỏi upload những file có thể phá hoại hệ thống. Như một User trên Internet, chúng ta có thể sử dụng nghi thức FTP để sao chép file giữa hai host bất kỳ trên Internet. Thực tế, mặc dù hầu hết mọi người chỉ có một tài khoản (account) duy nhất trên Internet và nghi thức FTP hầu như được sử dụng để download file dùng chung. i.4. Giao Thức Word Wide Web Word Wide Web là một tập protocol sử dụng cấu trúc trang (Web page) để cung cấp các thông tin cho User chạy Web Client software như netscape, navigator…..Nó không những cho phép kết nối dữ liệu từ những Web page khác nhau hoặc từ những vị trí khác nhau trong một trang mà còn cho phép truy xuất đến các Internet services khác. HTTP HTTP HTML Page Window NT Server Public Internet or Private Internet SQL Server DBMS Internet Information Server (Web Server) Active Server Page HTML Form Internet Explorer other Web Browser Database Server Any Client Platform Hình :Cấu Trúc Web Web có khả năng liên kết với những loại tài nguyên của Internet như: một file văn bản, một phiên kết nối của telnet…. Giống như nhiều tài nguyên khác trên Internet, Web dùng một hệ thống Client/Server. Các Client được gọi là Web Browser dùng để truy cập vào mọi dịch vụ và tài nguyên trên Internet. Điều quan trọng nhất là một Browser cũng biết cách kết nối vào Web Server để đưa ra các tài liệu hypertext công cộng. Có rất nhiều Web Server nằm khắp nơi trên mạng Internet và hầu hết chúng chuyên về một lĩnh vực nào đó. Sự bùng nổ Web Web sử dụng công nghệ mới HTML (hypertext markup language ) được sử dụng để viết trang Web, một máy Web Server sử dụng HTTP (hypertext transfer protocol) để truyền các trang này và một trình duyệt Web tại máy Client để nhận dữ liệu, xử lý và đưa ra kết quả. HTML là một ngôn ngữ đánh dấu (markup) có nghĩa là các trang Web chỉ có thể xem thông qua một chương trình duyệt Web. Vào năm 1993, National Center for SupercomputingApplications (NCSA) tại đại học Illinois đưa ra phiên bản Mosaic, một chương trình Web được thiết kế bởi Marc Andreessen. Nó đã lan rộng trên Internet và chỉ trong vòng một năm có đến hai triệu người sử dụng Web với Mosaic. Mọi người cùng tạo và truy cập các trang Web. Đó là sự phát triển rất lớn chưa từng có trong lịch sử phát triển máy tính. Vào giữa năm 1993 có 130 sites trên Word Wide Web. Sáu tháng sau có hơn sáu trăm sites. Ngày nay, có gần một trăm nghìn Web Sites trên thế giới. CHƯƠNG II. SƠ LƯỢC VỀ CÁC MÔ HÌNH CSDL TRÊN MẠNG Ii.1. Một số khái niệm cơ bản II.1.1. Công nghệ Client /Server Công nghệ Client /Server thực hiện việc phân tán xử lý giữa các máy tính. Về bản chất, một cộng nghệ được chia ra và xử lý bởi nhiều máy tính. Các máy tính được xem là Server thường được dùng để lưu trữ tài nguyên để nhiều nơi truy xuất vào. Các Server sẽ thụ động chờ để giải quyết các yêu cầu từ các Client truy xuất đến chúng. Một Client đưa ra yêu cầu về thông tin hoặc về tài nguyên cho Server. Server sẽ lấy thông tin và gởi đến cho Client và Client hiển thị thông tin đó cho người dùng. Chỉ có máy tính nào thực hiện tác vụ Client / Server mới được gọi là máy Client hay Server và chương trình chạy trên máy này được gọi là chương trình Client hay Server. II.1.2. Internet Internet là một mạng máy tính có phạm vi toàn cầu bao gồm nhiều mạng nhỏ cũng như các máy tính riêng lẻ được kết nối với nhau để có thể liên lạc và trao đổi thông tin. Trên quan điểm Client / Server thì có thể xem Internet như là mạng của các mạng của các Server, có thể truy xuất bởi hàng triệu Client. Việc chuyển và nhận thông tin trên Internet được thực hiện bằng nghi thức TCP/IP. Nghi thức này gồm hai thành phần là Internet protocol (IP) và transmission control protocol (TCP). IP cắt nhỏ và đóng gói thông tin chuyển qua mạng, khi đến máy nhận, thì thông tin đó sẽ được ráp nối lại. TCP bảo đảm cho sự chính xác của thông tin được chuyền đi cũng như của thông tin được ráp nối lại đồng thời TCP cũng sẽ yêu cầu truyền lại tin thất lạc hay hư hỏng . II.1.3. Web Server Tùy theo thông tin lưu trữ và mục đích phục vụ mà các Server trên Internet sẽ được phân chia thành các loại khác nhau như Web Server, email Server hay FTP Server. Mỗi loại Server sẽ được tối ưu hóa theo mục đích sử dụng. Web Server là Web cung cấp thông tin ở dạng siêu văn bản (các tập tin HTML ), được biểu diễn ở dạng trang. Các trang có chứa các liên kết tham chiếu đến các trang khác hoặc đến các tài nguyên khác trên cùng một Web Server một trên một Web Server khác. II.1.4. Cơ sở dữ liệu (CSDL) Cơ sở dữ liệu là một sưu tập thông tin về một chủ đề, nhằm tổ chức hợp lý nhằm đạt đến mục đích quản lý, tìm kiếm và xử lý thông tin được thuận tiện và nhanh chóng. II.2. Kết hợp CSDL và Web Trong quá trình khai thác Web Server, do sự bùng nổ thông tin nên số lượng các trang Web (mà vốn được lưu trữ dưới dạng các tập tin) tăng lên rất nhanh dẫn đến việc quản lý Web Server ngày càng trở nên khó khăn. Web Server là trọng tâm của hệ thống, do đó việc quản lý tốt Web Server sẽ làm cho toàn bộ hệ thống hoạt động tốt hơn. Trong vô số các trang Web chứa trong một Web Server người ta thấy rằng rất nhiều trang mà nội dung của chúng hoàn toàn có thể đưa vào CSDL. Nếu thay những trang Web như trên bằng một trang Web duy nhất có khả năng hiển thị thông tin lấy từ cơ sở dữ liệu thì tốt hơn tìm kiếm trên những tập tin rời rạc. Như vậy vấn đề quản lý tốt Web Server dẫn đến việc xây dựng một CSDL lưu trữ thông tin. Khi xây dựng một ứng dụng CSDL, ngoại trừ CSDL đó chỉ phục vụ cho mục đích cá nhân, còn không thì xem xét việc tạo khả năng để nhiều người có thể truy xuất đến CSDL. Muốn vậy thì cần có một hệ thống gồm nhiều máy tính, tất cả đều được kết nối với nhau và với Server chứa CSDL. Khi đó sẽ nảy sinh một số vấn đề sau: - Với trường hợp những người muốn truy xuất đến ở xa Server với một khoảng vài km, vài trăm hay vài ngàn km, nhưng việc thiết lập riêng một hệ thống mạng trên diện rộng đến như thế là không khả thi. - Các máy tính truy xuất đến CSDL có thể thuộc nhiều họ máy, chạy trên nhiều hệ điều hành khác nhau. Do đó cần phải xây dựng các ứng dụng thích hợp với các nền tảng đó, và các ứng dụng này sẽ được phân tích tại mỗi Client. Sau một thời gian khai thác, khi dó nhu cầu sừa đổi các ứng dụng Client thì phải sửa các ứng dụng trên từng Client. Có một số chuyên gia cho rằng Worl Wide Web là một giải pháp cho vấn đề này, vì các lý do sau: Hỗ trợ đa nền tảng. Hỗ trợ mạng. II.2.1. Hỗ trợ đa nền tảng Một trong những điểm nổi bậc nhất củaWeb là một trang Web có thể xem được trên nhiều họ máy tính khác nhau. Do đó trong hệ thống CSDL Web, các Client có thể gồm nhiều máy tính chạy trên các hệ điều hành khác nhau mà không cần phải phát triển các ứng dụng để chạy trên từng máy mà chỉ cần xây dựng một trang Web đặt tại Web Server. Điều này sẽ giảm thời gian và chi phí phát triển ứng dụng, giảm chi phí bảo trì và cập nhật các ứng dụng đó. II.2.2. Hỗ trợ mạng Một điều quan trọng cần phải xét đến khi thiết kế các ứng dụng CSDL là làm thế nào để truy xuất CSDL từ các máy ở xa (remote computer). Như đã đề cập ở trên không một cá nhân hay tổ chức nào có thể xây dựng mỗi một hệ thống mạng máy tính trải rộng trên qui mô hàng trăm, hàng ngàn km, trong khi đó đã tồn tại một hệ thống mạng có phạm vi toàn cầu là Internet. Web Server và Web Brower mới có những tính năng về mạng. Chúng được thiết kế để chuyển và nhận thông tin thông qua Internet hay mạng cục bộ. Vậy tại sao không sử dụng Internet cho mục đích truy cập CSDL. Nếu xét ở khía cạnh quản lý tốt tài liệu của Web Server hay ở khía cạnh khai thác tốt CSDL trên phạm vi rộng đều dẫn đến một nhu cầu là tích hợp Web với CSDL. Tích hợp Web với CSDL bao gồm việc tạo khả năng truy cập và cập nhật dữ liệu thông qua Web. Để có thực hiện việc tích hợp Web với CSDL thì cần phải xây dựng lại hệ thống trong đó có cơ chế chuyển thông tin giữa trang Web và CSDL, cơ chế truy cập đến CSDL và những trang Web động trong môi trường Web và phải có những tính năng như là một hệ thống ứng dụng CSDL trên Web. Trong trang Web thì việc giao tiếp với người sử dụng được thực hiện thông qua các “HTML form”. Các form này chức các phần tử dùng để nhập liệu như là textbox, checkbox, option button. Khi hoàn tất việc nhập liệu bằng cách bấm vào một nút để chấp nhận submit, hành động này sẽ gởi nội dung của form đến Web Server. Do Internet là hệ thống Web Client/Server nên hệ thống ứng dụng CSDL trên Web sẽ mang những đặc điểm của một hệ thống ứng dụng CSDL Client/Server. Do đó, việc nghiên cứu về cách tiếp cận để xây dựng hệ thống ứng dụng Client/Server là rất cần thiết. Hiện nay đa số nhà phát triển phần mềm cho rằng cách tiếp cận dựa trên thành phần (component_based) là cách tiếp cận tốt để phát triển các ứng dụng Client/Server. II.3. Các giải pháp tích hợp Web và CSDL Trong phần này, mô tả một số mô hình đã được áp dụng cho các Web site có tích hợp với CSDL và xem xét ở hai khía cạnh, thứ nhất là sự liên lạc giữa các Client/Server, thứ hai là phương pháp truy xuất CSDL. Những mô hình bao gồm: Mô hình Web site theo kiến trúc 1 lớp. Mô hình Web site theo kiến trúc 2 lớp cổ điển. Mô hình Web site tích hợp với CSDL theo kiến trúc 3 lớp. Mô hình Web site tích hợp với CSDL theo kiến trúc 3 lớp cải tiến. II.3.1. Mô hình kiến trúc một lớp Ứng dụng một lớp đơn giản chỉ là một lớp, một chương trình Stand-alone chạy trên máy của User. Nó có thể liên lạc với CSDL nhưng CSDL này nằm trên cùng một máy, một điểm chính là cả 3 dịch vụ: User, bussiness và dữ liệu được kết nối vào trong một chương trình. II.3.2. Mô hình kiến trúc hai lớp Các Web Sites đầu tiên được xây dựng theo kiến trúc Client/Server hai lớp bao gồm: Lớp thứ nhất có Web Browser. Lớp thứ hai có Web Server chứa các trang Web (các tập tin HTML), được thiết kế từ trước. II.3.3. Mô hình kiến trúc ba lớp Các kiến trúc Web site được xây dựng theo mô hình này bao gồm 3 lớp như sau: Lớp thứ nhất gồm Web Browser. Lớp thứ hai gồm Web Server và Application Server. Lớp thứ ba Server CSDL, chứa CSDL và phần giao tiếp với CSDL. II.3.4. Các vấn đề bảo mật Đối với các nhà ứng dụng Web, có rất nhiều người truy cập đến cho nên vấn đề bảo mật để kiểm soát quyền truy cập người dùng cũng rất phức tạp và quan trọng. Có rất nhiều cách bảo mật, gồm: Vị trí đặt chế độ bảo mật Quyền truy cập chế độ người dùng. Các nguyên tắc bảo mật thời điểm thiết kế (design-time security). Quyền truy cập tới các ứng dụng Web, các thư mục và các tập tin. Các chế độ bảo mật thời điểm thực thi. Giới hạn truy cập Web visitor. Bảo mật qua đường truyền HTTP. CHƯƠNG III. TÌM HIỂU VỀ IIS (INTERNET INFORMATION SERVER) III.1. Giới thiệu Ngày nay, Web Server đã đủ mạnh để có thể trở thành các hạt nhân không thể thiếu, dù chúng dùng trong Intranet hay cho một Web site trên Internet thì các công cụ quản trị mạng vẫn cần thiết để quản lý hệ thống. Việc chọn một Web Server trở nên rất dễ dàng, chúng ta hỗ trợ việc cung cấp các trang web tĩnh (static) khi một trình duyệt (Browser) đòi hỏi. Tuy nhiên, các ứng dụng Web ngày nay càng tân tiến và đòi hỏi sự tương tác rất nhiều với người sử dụng, đây là các ứng dụng Web động. Các Web Server đòi hỏi phải có các công cụ quản lý chặt chẽ tích hợp với các Server của cơ sở dữ liệu (CSDL), có các công cụ để phát triển ứng dụng, tốc độ đảm bảo và chi phí sở hữu thấp. Khó mà thiết lập những yêu cầu về Server nếu không lưu ý về hệ điều hành. Người ta đang quan tâm đến Server chạy trên Linux ,Windows NT. Trong thử nghiệm về hiệu suất thì chỉ có ICSS (Internet connection secure Server ) của IBM chạy trên AIX (thể Unix thông dụng ). Để điều khiển Windows NT nhóm thử nghiệm đã tăng lưu lượng cho Server ứng dụng và loại bỏ một số dịch vụ Server như plug and play (cấm và chạy ), alter (thông báo ), thông điệp và trợ giúp TCP/IP. Trên AIX người ta tăng kích thước hàng truyền (transmit queue) và kích thước lưu trữ gởi nhận TCP/IP. Ơû mức độ ứng dụng, việc điều chỉnh các Web Server này tương đối đơn giản. Trên IIS ta có thể tăng thời gian mà đối tượng được lưu trên bộ nhớ cache và thời gian luân chuyển truy cập. Trên IIS người ta tắt chức năng truy cập thông tin về trình duyệt truy cập trang và thông tin yêu cầu, tăng số lượng tối đa về số luồng (thread) kích hoạt. Với Netscape, nhóm thử nghiệm tăng số lượng yêu cầu. Vấn đề đặt ra là Web Server nào đủ tinh vi để có thể xử lý các yêu cầu ngoài HTML như: Dễ cài đặt. Khả năng mở rộng và chất lượng của các kết nối để phát triển ứng dụng. Mức độ và chất lương hỗ trợ (kể cả tài liệu). Chi phí sở hữu. Các nhà thiết kế đã đưa ra bốn giải pháp: Giải pháp apache. Giải pháp IBM. Giải pháp Microsoft. Giải pháp Netscape. Giải pháp Microsoft có các thành phần liên quan: Internet Information Server (IIS). Windows NT Server. Active Server Pages. Front Pages. Chưa đến hai năm rưỡi kể từ khi khai sinh IIS (Internet Information Server) đã xứng đáng chiếm vị trí thứ hai trên thị trường Web Server của Internet. Tính dễ sử dụng, tính tích hợp chặt chẽ của IIS và hệ điều hành Windows NT đã ràng buộc bất kỳ công ty nào chuyên sử dụng phần mềm Microsoft. Ngoài ra, trong môi trường xây dựng trang HTML động của IIS thì vừa mạnh mẽ và vừa sử dụng. Nhưng đối với giải pháp dành cho nhiều hệ thống khác nhau, tính tích hợp và dễ dùng thì chưa đủ để trở thành giải pháp phù hợp. Giải pháp quản trị của IIS tạo ra sự dễ dàng nhờ ứng dụng ISM (Internet Server Manager). Đã có phiên bản HTML của ISM nhưng giao diện chưa hấp dẫn. Thiết lập Server hay thư mục ảo dùng ISM rất tiện lợi và đơn giản, có thể tạo người dùng (User) Web với cùng các công cụ như tạo User trong NT (User manager của NT). Nếu đã quen thuộc với chức năng bảo mật của NT, việc truy cập hạn chế đến toàn bộ từng phần trong Sites của chúng sẽ rất dễ dàng. Để hạn chế User có thể sử dụng tài khoản (acount) hoặc mã khóa (password) để hạn chế quyền vào tài khoản người dùng hay chỉ cho phép truy vào các thư mục nhất định bằng access control lists (Acls) trong hệ thống file NT. Để kết nối vào dịch vụ Web, IIS đòi hỏi theo mô hình logic bao gồm thiết lập quản trị IIS và bảo mật NT. IIS hỗ trợ điều khiển SNMP nhưng hỗ tổng thể rất ít. Dùng management information base IIS có thể điều khiển tối đa 24 bộ đệm trong performance monitor nhưng không thể định cấu hình IIS. IIS có log bên trong riêng để theo dõi xem ai truy cập Server hay truy cập những file nào. Có thể định cấu hình truy cập đến file hay CSDL SQL và IIS hỗ trợ dạng chuẩn từ hoạt động truy cập của IIS. IIS hỗ trợ ASP, dễ dàng tạo các ứng dụng phía Server bằng ngôn ngữ mô tả ActiveX bất kỳ như VBscript hay Jscript. III.2. Tìm hiểu về Internet Information Server III.2.1. Internet Information Server (IIS) là gì ? Microsoft Internet Information Server (IIS) là một Web Server giúp chúng ta hiển thị thông tin trên Internet va Intranet . IIS hiển thị thông tin bằng cách sử dụng giao thức HTTP. Ngoài ra, IIS còn hỗ trợ các giao thức truyền FTP (file transfer protocol), FTP giúp người sử dụng chuyển những tập tin từ Web. IIS rất linh động trong việc nhiều chức năng quan trọng từ việc hỗ trợ hệ thống files Server đơn đến việc hỗ trợ hệ thống site Server rộng lớn. Ví dụ : như www.Microsoft.Com và www.Msn.Com là một trong những file bận rộn nhất trên Internet ngày nay và cả hay dùng nhiều Server để chạy IIS. III.2.2. Những khảo sát về Internet và Intranet Có một số khảo sát mà chỉ hóa cho những ứng dụng Internet và Intranet. Những packages phần cứng và phần mềm sau đây sẽ được cài đặt và định cấu hình trên Internet Information Server nếu chúng ta hoạch kế hoạch công bố thông tin trên Intranet: - Cài đặt card mạng tương thích mà nó sẽ kết nối với mạng cục bộ(LAN). Điều này sẽ cho phép thông tin truyền giữa máy tính này và máy tính khách trên mạng. - Một “option” mà thật sự không là một, là Wins Server. Điều này cho phép những người dùng của tập đoàn Intranet sử dụng các tên thân thiện thay vì với những địa chỉ khó chịu mỗi khi muốn duy chuyển quanh Intranet. - Một chức năng khác tương tự việc sử dụng tên thân thiện trên Intranet là domain name service Server. Nếu chúng ta cài đặt một Server để tạo thông tin trên Internet, có một số công việc sau phải hoàn thành trước khi cài những chức năng cần thiết để đạt được mục đích: - Kết nối Internet hoặc là kết nối trực tiếp hoặc là qua nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP). - Sẽ nhận một địa chỉ IP trong khi thiết lập liên kết với Internet. Ta cần những địa chỉ này để có những packages. - Card mạng để kết nối Server với Internet. - Domain name Server (DNS) cho địa chỉ IP trên của Server là một chức năng tốt cần có. III.2.3. Có thể làm gì với IIS Khả năng sáng tạo trên IIS là vô hạn, một vài ứng dụng thông thường: - Hiển thị homepage trên Internet để tạo ra bảng tin thường kỳ, thông tin mậu dịch hoặc cơ hội nghề nghiệp. - Hiển thị cataloge và nhận yêu cầu từ khách hàng. - Cung cấp sức mạnh mậu dịch từ xa để dễ dàng truy cập cơ sở mậu dịch. - Sử dụng cơ sở dữ liệu order-tracking. III.2.4. Bảo mật IIS a. Truy xuất vô danh: Đôi khi là để xem các quyền của account. Đây là account dùng cho truy xuất vô danh. Bất cứ ai tham quan Web site sẽ có thể dùng loại truy xuất này. Truy xuất vô danh thì thường dùng trên những Web site FTP cho những tập tin tổng quát. b. Truy xuất xác thực: Truy xuất xác thực được cung cấp theo hai cách dưới Internet information Server. Truy xuất xác thực có thể dễ dàng làm việc đồng thời với truy xuất vô danh. Những tập tin tổng quát thì có thể qua truy xuất vô danh và thông tin User, đặc biệt hơn có thể được bảo vệ bằng password. Hai dạng truy xuất xác thực Windows NT và Internet Information Server cung cấp là basic và challenge / response. Windows challenge/response cho phép truyền sự bảo mật của các tên và các password của người sử dụng. Challenge/response hiện thời chỉ được cung cấp bởi Internet explorer 2.0, Win 95ø (cao hơn nữa), Internet Explorer 3.0 và Win 3.1. CHƯƠNG IV. TÌM HIỂU ĐÔI NÉT VỀ ASP IV.1. Tìm hiểu sơ lược về ASP ASP được viết tắt từ: Active Server Page. Microsoft đã phát triển Active Server Page (ASP) như một kiến trúc Server-side dùng để xây dựng các ứng dụng Web động. ASP là môi trường kịch bản trên máy Server (Server-side scripting environment) dùng để tạo và chạy các ứng dụng trong trang Web. Nhờ tập các đối tượng có sẳn (build-in object) vơí các tính năng phong phú, khả năng hổ trợ VBscript, Javascript cùng một số thành phần ActiveX khác kèm theo. ASP cung cấp một cách làm mới để tạo trang Web động. ASP không phải là một kỹ thuật mơí nhưng nó sử dụng dễ dàng và nhanh chóng. ASP sẽ tham vấn trực tiếp vào Brower gởi dữ liệu đến Web Server và từ đây sẽ đưa lên mạng. Trong khi ASP thực thi trên máy mà nó hổ trợ dùng, thì ta có thể xem ASP từ bất cứ máy nào và với bất cứ Browser nào. ASP cung cấp giao diện lập trình nhanh và dễ dàng triển khai ứng dụng. ASP chạy trên môi trường Internet Information Server 4.0 (IIS) và Personal Web Server 4.0. Nó cho phép ta quản lý việc truyền nối giưã một Browser; Web Server , hình thức động cuả trang Web và phản hồi lại cho người dùng. Nó có thể cho phép ta truy cập đến CSDL và quay trở về với kết quả ngắn nhất trên Web site, cập nhật nội dung trên Web site khi thay đổi. CGI Common gateway interface (CGI) là một qui trình quản lý tương tác giữa phần mềm Web Server và trình Browser. CGI làm việc dưạ vào phương thức gởi yêu cầu (request) đến cho Server, CGI script sẽ xử lý thông tin này bằng cách dùng các phương thức POST, GET, HEAD và trả kết quả cho Server. process request Client Server CGI Script Request and send to info response response IV.2. ASP là gì và tại sao sử dụng ASP IV.2.1. ASP là gì? ASP không là một ngôn ngữ và cũng không là một ứng dụng, nó giống như : Fontpage 98 hay Work 97. Ta có thể gọi ASP là một kỹ thuật dùng cho việc xây dựng trang Web động và tương tác đến trang Web. ASP tạo dưới hình thức nào cũng đều biên dịch thành chuẩn ActiveX scripting. ASP đơn giản chỉ là tập tin *.asp bên ngoài được lưu trữ dưới dạng text, html, xml. Khi một Browser yêu cầu một tập tin có đuôi là .asp thì lập tức IIS sẽ đưa yêu cầu này đến cho ASP. Ta dùng bất cứ loại văn bản nào cũng có thể soạn thảo một tập tin có đuôi .asp, nhưng việc sử dụng công cụ thiết kế như: Fontpage, Visual Interdev sẽ đưa ra kết quả tốt nhất. Fontpage cho phép ta thêm ASP vào trang Web dùng lệnh insert script. Visual InterDev là một môi trường đặc biệt được thiết kế riêng cho ASP dưạ vào Web site và cung cấp môi trường dùng để thiết kế và kiểm tra lỗi. IV.2.2. Tại sao sử dụng ASP? Sự khác biệt giưã ASP và các kỹ thuật mơí khác là ASP thực thi trên Web Server trong khi các trang lại được phát sinh từ những kỹ thuật khác được biên dịch bởi Browser (hay Client). Những lợi điểm mà ASP dùng thích hợp hơn là dùng CGI và Perl. Tầm quan trọng cuả Web Server: Những người sử dụng Internet hay các mạng cục bộ Intranet thường phải đánh điạ chỉ cuả trang Web (URL). Vậy Web Server là gì? Đơn giản đó chỉ là một máy tính dùng để cung cấp các dịch vụ Web trên Internet or Intranet. Web Server chủ được thiết kế vị trí, địa chỉ và gơỉ đến trang HTML. Web Server tạo ra trang Web hiển thị lên tất cả cho người dùng và có thể dùng truy cập đến các trang này. IV.2.3. Những sự việc xảy ra trong trang ASP? Đọc những yêu cầu từ Browser. Tìm trang cần thiết trong Server. Thực hiện bất cứ những giới thiệu đã cung cấp trong ASP để cập nhật vào trang Web. Sau đó gởi trả về cho Browser. IV.2.4. Lợi ích cuả việc sử dụng ASP Tập trung tại Browser Tất cả các ứng dụng đều có thể thực thi trên Server với phần điều khiển hoàn tất những gì được gởi đến cho Browser. ASP không phải là ngôn ngữ mới: ASP có thể được ghi vào trong ngôn ngữ VBscript, Jscript. ASP Không phải là công cụ phức tạp: Mặc dù tồn tại những công cụ phát triển mạnh, ASP vẫn có thể được tạo để sử dụng cho phần thiết kế trang HTML. Kiểm tra lỗi: Script debugging hổ trợ tương tác (interactive) cho việc kiểm tra lỗi của cả hai loại Client và Server. Độ tin cậy: Không như Client-side scripting và các thành phần khác (components), ASP không thay đổi và chỉ chạy trên Server. Không thể xem ASP trên trình duyệt Browser mà chỉ có thể xem trên trang HTML. Tính ổn định: Mỗi ứng dụng ASP có thể bị tách ra khỏi phần không gian vùng nhớ riêng từ Web Server. Nếu một ứng dụng Web lỗi thì những ứng dụng khác vẫn tiếp tục chạy. IV.3. Cách hoạt động cuả ASP ASP chứa trong các tập tin file có đuôi là *.asp. Trong script có chứa các lệnh cuả các ngôn ngữ script nào đó khi ta nhập đuôi điạ chỉ có phần là *.asp trên Web Browser thì lập tức nó gởi yêu cầu đến cho ASP. Khi nhận yêu cầu Web Server đồng thời Web Server sẽ tìm các tập tin trên điạ chỉ có các tập tin yêu cầu Web server gởi đến tập tin. Chương trình đặc biệt này gọi là asp.dll. Khi đó các câu lệnh yêu cầu sẽ được thực hiện. Đây là một vài ví dụ điển hình mà ta có thể sử dụng ASP: Tạo những nội dung cuả trang Web bằng cách cập nhật tập tin văn bản hay nội dung cơ sở dữ liệu. Tạo những trang giới thiệu chỉ để hiện thị. Hiện thị và cập nhật cơ sở dữ liệu được lưu trữ trong trang Web. Tạo những trang Web mà có thể được sắp xếp thứ tự. Phản hồi từ phiá người dùng và đưa thông tin trở về cho người dùng. Truy cập cơ sở dữ liệu với các đối tượng Active Data Dùng ADO,ODBC, CSDL có thể truy cập từ ASP scripts và các ngôn ngữ phổ biến như Visual Basic và C++. Các ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDA.doc