Phân tích thống kê tình hình lao động - Tiền lương ở Xí nghiệp Xây dựng số 7 Công ty Xây dựng Công nghiệp Hà Nội

Lời mở đầu Để tồn tại và phát triển được trong nền kinh tế thị trường hiện nay, các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp xây dựng nói riêng đều phải chú trọng vào chất lượng cũng như giá thành sản phẩm do mình sản xuất ra. Đối với xây dựng, do đặc điểm của sản phẩm xây dựng được sản xuất ra chủ yếu là do lao động của con người. Do đó trong các yếu tố có ảnh hưởng đến số lượng, chất lượng và giá thành sản phẩm xây dựng thì yếu tố lao động của con người mang tính chất quyết định. Chất lượn

doc60 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1291 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Phân tích thống kê tình hình lao động - Tiền lương ở Xí nghiệp Xây dựng số 7 Công ty Xây dựng Công nghiệp Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g và số lượng sản phẩm sản xuất ra phụ thuộc rất lớn vào trình độ tay nghề của người lao động. Mặt khác tiền lương của người lao động không chỉ là một trong những yếu tố cấu thành chi phí sản xuất kinh doanh mà nó còn là yếu tố tạo ra đòn bẩy tích cực cho ý thức làm chủ tập thể và thái độ lao động của cán bộ công nhân viên. Chính vì vậy mà công tác thống kê lao động- tiền lương ở các doanh nghiệp này là rất quan trọng. Thông qua việc thống kê lao động- tiền lương ở doanh nghiệp sẽ giúp cho người quản lý đưa ra được những kế hoạch về việc tuyển dụng, đào tạo và sử dụng lao động hợp lý nhất đồng thời đặt ra các kế hoạch sản xuất kinh doanh trong tương lai, trong đó có kế hoạch quan trọng là kế hoạch hạ giá thành sản phẩm. Như vậy có thể thấy rằng công tác quản lý lao động- tiền lương của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Nhận thức được vai trò quan trọng của yếu tố lao động- tiền lương đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, cùng với những kiến thức được tích luỹ trong quá trình học tập và quá trình thực tập ở Xí nghiệp Xây dựng số 7, Công ty Xây dựng Công nghiệp Hà Nội em đã chọn đề tài “Phân tích thống kê tình hình lao động- tiền lương ở Xí nghiệp Xây dựng số 7 Công ty Xây dựng Công nghiệp Hà Nội” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp. Do những hạn chế về trình độ cũng như thời gian, trong bài viết này em chỉ đề cập tới một số vấn đề chủ yếu trong nghiên cứu, phân tích lao động- tiền lương, một số giải pháp nhằm hoàn thiện hơn công tác quản lý lao động- tiền lương của Xí nghiệp. Nội dung của chuyên đề gồm có 3 chương: Chương I: Những lý luận chung về lao động- tiền lương. Chương II: Xác định hệ thống chỉ tiêu thống kê phân tích tình hình lao động- tiền lương. Chương III: Vận dụng hệ thống chỉ tiêu thống kê phân tích tình hình sử dụng lao động- tiền lương ở Xí nghiệp Xây dựng số 7 Công ty Xây dựng Công nghiệp Hà Nội. Em kính mong nhận được sự góp ý, bổ sung của các thầy cô giáo và các bạn để chuyên đề được hoàn thiện hơn. Em muốn gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo GS-TS Phạm Ngọc Kiểm, các cô chú lãnh đạo Xí nghiệp số 7 Công ty Xây dựng Công nghiệp Hà Nội đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành quá trình thực tập và chuyên đề tốt nghiệp này. Hà Nội tháng 4 năm 2002. Chương I Những lý luận chung về lao động- tiền lương I- Lý luận chung về lao động 1- Khái niệm lao động Trong hoạt động sản xuất kinh doanh lao động là một trong những yếu tố giữ vai trò quyết định. Khả năng lao động của con người được thể hiện bằng chính sức lao động của họ bỏ ra trong quá trình lao động. Sức lao động là toàn bộ thể lực và trí lực của con người được sử dụng trong quá trình lao động, nó là lực lượng sản xuất sáng tạo chủ yếu của xã hội. Như vậy chúng ta có một khái niệm cơ bản nhất về lao động: lao động là những hoạt động có mục đích, có ý thức của người lao động nhằm tạo ra của cải, vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội. Tuy nhiên lao động không chỉ tạo ra của cải vật chất cho xã hội mà nó còn góp phần cải tạo, phát triển con người toàn diện hơn cả về thể lực và trí lực bởi vì trong quá trình lao động đòi hỏi người lao động phải phát huy mọi tiềm năng về thể lực và trí lực của mình nhằm đạt được hiệu quả lao động cao nhất, đồng thời nó cũng đòi hỏi người lao động phải không ngừng học hỏi và rèn luyện để có thể lực và trí lực tốt hơn nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao hơn của hoạt động sản xuất kinh doanh. Trình độ sản xuất ngày càng tiến bộ thì vai trò của nhân tố con người trong hoạt động sản xuất kinh doanh càng lớn. Cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật tạo điều kiện đưa con người cùng với quá trình sản xuất kinh doanh lên một tầm cao mới của lao động sáng tạo. Tuy nhiên nó cũng tạo ra cho người lao động những thách thức mới, đó là nó đòi hỏi người lao động phải luôn vận động theo hướng tích cực để đáp ứng những yêu cầu của nó. 2- Phân loại và vai trò của lao động 2.1. Phân loại lao động Dựa vào tính chất và đặc trưng kỹ thuật của các loại công việc được người lao động tham gia trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp xây dựng, người ta có thể phân chia lao động trong các doanh nghiệp xây dựng thành hai bộ phận: lao động hiện có trong danh sách và lao động ngoài danh sách. 1. Lao động hiện có trong danh sách là những người đã được tuyển dụng làm các công việc trực tiếp sản xuất (trên 01 ngày) hoặc gián tiếp (trên 05 ngày), chịu sự quản lý và sử dụng của doanh nghiệp, làm việc thường xuyên hoặc tạm thời, hưởng lương từ quỹ lương của doanh nghiệp, do doanh nghiệp trực tiếp trả lương. Lao động hiện có trong danh sách được chia ra theo các tiêu thức: Theo phạm vi hoạt động: Lao động thuộc khu vực sản xuất: là những lao động mà hoạt động của họ phục vụ cho quá trình sản xuất sản phẩm xây lắp của doanh nghiệp. Kết quả hoạt động sản xuất của họ chiếm phần lớn trong toàn bộ kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong các doanh nghiệp xây dựng thì lao động chính bao gồm: lao động xây lắp (công nhân, học nghề, cán bộ nhân viên kỹ thuật, cán bộ nhân viên quản lý kinh tế, cán bộ nhân viên quản lý hành chính) và lao động ngoài xây lắp (lao động sản xuất phụ trợ, lao động cung ứng vật tư chuyên trách, lao động trong các hoạt động sản xuất kinh doanh khác). Lao động thuộc khu vực không sản xuất: là những người làm việc trong các lĩnh vực y tế, văn hoá, giáo dục trong doanh nghiệp như: nhân viên nhà trẻ, nhân viên văn hoá giáo dục chuyên trách, nhân viên phục vụ công cộng và phục vụ sinh hoạt, nhân viên y tế .... + Theo đối tượng lao động: trong các doanh nghiệp xây dựng, do đặc thù của quá trình sản xuất là thường mang tính chất thời vụ nên lực lượng lao động của doanh nghiệp thường không đồng nhất trong thời gian dài. Chính vì vậy mà lao động hiện có trong danh sách ở các doanh nghiệp xây dựng còn được chia thành: - Lao động trong danh sách thường xuyên: là lực lượng lao động cố định của doanh nghiệp, được tuyển dụng chính thức (biên chế hoặc đã ký hợp đồng lao động dài hạn), hoặc mới được tuyển dụng tạm thời theo chế độ hợp đồng nhưng với mục đích bổ sung lực lượng lao động để phục vụ lâu dài tại doanh nghiệp. - Lao động trong danh sách tạm thời: là những người lao động tự do chỉ được doanh nghiệp ký hợp đồng thuê trong một khoảng thời gian ngắn hay chỉ trong một công trình nhất định nhằm góp phần hoàn thành kế hoạch thi công của doanh nghiệp, ngoài thời gian làm việc đó họ có thể làm cho đơn vị khác. Họ không chịu sự quản lý của doanh nghiệp ngoài thời gian ký hợp đồng, họ chỉ được trả công cho khoảng thời gian mà họ làm việc cho doanh nghiệp theo sự thoả thuận giữa họ và doanh nghiệp. 2. Lao động ngoài danh sách: là những lao động cũng làm việc tại doanh nghiệp nhưng trong một khoảng thời gian ngắn, dưới 01 ngày đối với lao động trực tiếp sản xuất hoặc dưới 05 ngày đối với lao động gián tiếp sản xuất. Ngoài ra lao động còn được phân loại theo các tiêu thức như: giới tính, tuổi nghề, bậc thợ, trình độ học vấn, trình độ văn hoá... Việc phân loại lao động của doanh nghiệp không chỉ nhằm nghiên cứu, đánh giá và phân tích thực trạng lao động hiện có của doanh nghiệp mà nó còn giúp doanh nghiệp có kế hoạch, định hướng trong việc tuyển dụng, đào tạo và sử dụng lực lượng lao động của mình một cách hợp lý nhằm đạt hiệu quả cao nhất. 2.2. Vai trò của lao động Lao động của con người là một trong ba thành phần cơ bản của mọi quá trình sản xuất kinh doanh, bao gồm: Đối tượng lao động Tư liệu lao động Lao động của con người Sản phẩm được sản xuất ra thông qua hoạt động lao động của con người, con người sử dụng tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động nhằm sản xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu của người lao động và của xã hội. Mặc dù khoa học kỹ thuật phát triển, nhiều công việc của con người trước đây đã được máy móc thực hiện. Tuy nhiên trong lĩnh vực xây dựng do những đặc điểm riêng của mình thì sản phẩm sản xuất ra chủ yếu là do lao động của con người. Sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật chỉ góp phần nâng cao năng suất của người lao động, nó không thể thay thế được lao động của con người trong việc tạo ra các sản phẩm xây lắp. Nói tóm lại doanh nghiệp nói chung và đặc biệt là doanh nghiệp xây dựng nói riêng, có tồn tại và phát triển được hay không phụ thuộc rất lớn vào lực lượng lao động trong công ty. Nếu biết sử dụng hợp lý tiềm năng nguồn lao động, phát huy nhân tố con người trong quá trình sản xuất kinh doanh thì sẽ dẫn tới giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, nâng cao năng suất lao động... Để làm được điều này thì doanh nghiệp ngoài việc không ngừng nâng cao mức sống người lao động, tạo động lực để người lao động phát huy hết khả năng sẵn có của mình và gắn bó với doanh nghiệp, thì doanh nghiệp cũng cần phải biết khai thác, sử dụng hợp lý lao động bên cạnh đó doanh nghiệp cũng phải có biện pháp đào tạo và tái tạo nguồn lao động, thúc đẩy người lao động không ngừng học hỏi, nâng cao tay nghề. 3- ý nghĩa và nhiệm vụ của thống kê lao động Như trên chúng ta đã thấy được vai trò quan trọng của lao động đối với quá trình sản xuất kinh doanh, dù cho trình độ khoa học kỹ thuật phát triển đến đâu, dù sản xuất hoàn toàn tự động hoá thì vai trò lao động của con người trong quá trình sản xuất vẫn không thể thiếu được, đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng, lao động để sản xuất ra sản phẩm xây lắp chủ yếu là do lao động của con người. Thống kê trong các doanh nghiệp nói chung và trong các doanh nghiệp xây dựng nói riêng không chỉ để nghiên cứu, theo dõi nguồn lao động và sử dụng nguồn lao động mà còn nghiên cứu năng suất lao động và tiền lương của lao động. Khối lượng và chất lượng sản phẩm xây lắp hoàn thành phụ thuộc vào tổ chức, số lượng và trình độ công nhân viên, vào tình hình sử dụng thời gian lao động và năng suất lao động của công nhân viên. Trong điều kiện đất nước ta cơ sở vật chất kỹ thuật sản xuất còn nhiều khó khăn đặc biệt là đối với ngành xây dựng nên việc sử dụng hợp lý nguồn lao động là vấn đề hết sức quan trọng đối với mỗi doanh nghiệp xây dựng. Nó góp phần làm tăng khối lượng sản phẩm, tăng năng suất lao động, đồng thời giảm giá thành sản phẩm, qua đó làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Để giúp lãnh đạo thấy được tình hình sử dụng lý nguồn lao động trong doanh nghiệp và đưa ra các quyết định đúng đắn trong việc sử dụng lao động, thống kê cần thực hiện được các nhiệm vụ sau: Xác định các loại lao động và số lượng lao động từng loại trong doanh nghiệp Nghiên cứu tình hình biến động về số lượng lao động trong doanh nghiệp. Xác định các loại thời gian lao động, tính các chỉ tiêu thời gian lao động của lao động thuộc khu vực sản xuất. Phân tích hiệu quả sử dụng thời gian lao động của lao động thuộc khu vực sản xuất. II- Tiền lương 1- Khái niệm tiền lương Sau khi nền kinh tế thị trường ra đời, nhiều doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh ra đời, các doanh nghiệp này muốn tồn tại và phát triển được nó cần phải kết hợp tốt hai vấn đề cơ bản là vốn và lao động. Trong xã hội tồn tại hai bộ phận dân cư, một bộ phận nhỏ dân cư sở hữu một lượng vốn lớn và có một bộ phận khác trong tay không có vốn, chỉ có sức lao động của bản thân mình, họ phải đi làm thuê cho những người có vốn và họ nhận được từ những người đi thuê một lượng tiền tương ứng mà họ thoả thuận với người đi thuê. Nhu cầu thuê lao động ngày càng nhiều, trong nền kinh tế xuất hiện một thị trường mới đó là thị trường sức lao động (thị trường lao động) ở thị trường này sức lao động là hàng hoá. Khi đó khái niệm về tiền lương mới xuất hiện. Tiền lương là một phạm trù kinh tế xã hội, là kết quả của sự trao đổi giữa người bán sức lao động và người thuê lao động trên thị trường sức lao động. Bởi vì sức lao động là hàng hoá đặc biệt, nó liên quan đến bản thân con người chính vì vậy mà tiền lương không chỉ đơn thuần thể hiện mối quan hệ kinh tế giữa người sử dụng lao động (mua sức lao động) và người lao động (bán sức lao động) mà nó còn thể hiện mối quan hệ xã hội, mối quan hệ giữa người với người. Như đã trình bày ở trên ta đi đến một khái niệm cơ bản về tiền lương như sau: tiền lương là biểu hiện bằng tiền của giá trị sức lao động, là giá cả yếu tố sức lao động mà người bán sức lao động nhận được từ người sử dụng lao động. Tiền lương được trả tuân theo quy luật cung cầu của thị trường và pháp luật hiện hành của Nhà nước. Đối với doanh nghiệp thì tiền lương là một phần quan trọng cấu thành chi phí sản xuất kinh doanh. Vì vậy nó phải được tính toán và quản lý chặt chẽ. Đối với người lao động tiền lương đánh giá hao phí lao động mà họ đã bỏ ra, nó có ảnh hưởng trực tiếp đến thu nhập, mức sống của họ. Chính vì vậy mà người lao động luôn phấn đấu làm việc để nâng cao tiền lương. Trong điều kiện nền nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, với mỗi thành phần kinh tế tiền lương có biểu hiện khác nhau. Với thành phần kinh tế Nhà nước và khu vực hành chính sự nghiệp, tiền lương của người lao động là do Nhà nước trả theo cơ chế và chính sách do Nhà nước đề ra, nó được thể hiện trong hệ thống thang, bảng lương do Nhà nước quy định. Với các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, tiền lương chịu sự tác động, chi phối rất lớn của thị trường nói chung và thị trường lao động nói riêng. Mặc dù tiền lương ở khu vực này vẫn phải tuân thủ theo khuôn khổ luật pháp và các chính sách của Nhà nước nhưng nó được thoả thuận trực tiếp giữa người đi thuê lao động và người lao động. Xét tiền lương trên phương diện nền kinh tế quốc dân thì nó được đặt trong mối quan hệ về phân phối thu nhập, quan hệ trao đổi, quan hệ về sản xuất và tiêu dùng ... Chính vì tầm ảnh hưởng của tiền lương đối với các hoạt động khác của xã hội mà các chính sách về tiền lương và thu nhập luôn là các chính sách được quan tâm hàng đầu ở mỗi quốc gia. 2- Thu nhập của người lao động Thu nhập có cùng bản chất với tiền lương, nó cũng là khoản nhận được từ người sử dụng lao động từ việc cung ứng sức lao động của họ, nhưng nó được hiểu theo nghĩa rộng hơn tiền lương. Nó bao gồm: Tiền lương và các khoản có tính chất lương Tiền thưởng do có thành tích trong sản xuất kinh doanh Thu nhập do làm thêm, làm ngoài giờ Thu nhập từ các quỹ của doanh nghiệp Thu nhập khác: ăn trưa, ca ba, phụ cấp độc hại .... Nhìn chung thu nhập từ tiền lương của người lao động trong các doanh nghiệp ở nước ta còn thấp, nó chưa đảm bảo đầy đủ cho cuộc sống của người lao động. Để đảm bảo cho cuộc sống của mình người lao động phải tìm thêm nhiều việc làm khác để kiếm sống. Chính vì điều này đã làm gia tăng tính bất bình đẳng trong thu nhập của người lao động, những người kiếm được việc làm thêm thì sẽ có thu nhập lớn hơn những người không kiếm được việc để làm thêm. Tuy nhiên thu nhập của người lao động có hai loại khác nhau. Thu nhập mà người lao động nhận được từ người sử dụng lao động được gọi là thu nhập danh nghĩa. Còn thu nhập thực tế mà người lao động nhận được là số lượng hàng hoá, dịch vụ cần thiết mà người lao động mua được bằng thu nhập danh nghĩa của mình. Thu nhập thực tế được tính theo công thức: Thu nhập thực tế của người lao động = Thu nhập danh nghĩa - Thuế thu nhập đã nộp 1 Chỉ số giá tiêu dùng Như vậy thu nhập thực tế không chỉ phụ thuộc vào lượng tiền mà họ nhận được từ người sử dụng lao động mà nó còn phụ thuộc vào giá cả hàng hoá, dịch vụ tại thời điểm mà họ tiêu dùng. Giá cả hàng hoá, dịch vụ ngày càng tăng do vậy đời sống người lao động muốn được cải thiện thì thu nhập mà họ nhận được phải tăng nhanh hơn mức tăng của giá hàng hoá tiêu dùng. 3- Phân loại và vai trò của tiền lương 3.1. Phân loại tiền lương Theo quy định chung của Nhà nước thì quỹ lương của doanh nghiệp bao gồm: Các khoản phải trả cho lương chức vụ, lương sản phẩm, lương thời gian, lương trả cho cán bộ công nhân viên. Các khoản tiền thưởng cho cán bộ công nhân viên nhằm khuyến khích sản xuất như: tăng năng suất lao động, tiết kiệm nguyên vật liệu ..... Các khoản phụ cấp khác nhằm tăng cường trách nhiệm trong công tác, bồi dưỡng sức lao động của lao động đã hao phí hơn mức bình thường như phụ cấp độc hại, phụ cấp công việc ..... Hiện nay chúng ta có nhiều hình thức trả lương khác nhau, nó phụ thuộc vào đặc điểm sản phẩm sản xuất kinh doanh của từng loại hình doanh nghiệp, nhưng chủ yếu có các hình thức sau: Căn cứ vào thời gian làm việc của cán bộ công nhân viên, ta có các loại tiền lương sau: Tiền lương tháng, quý, năm: là tiền lương được trả cố định hành tháng, quý, năm theo hợp đồng mà người lao động ký với doanh nghiệp. Tiền lương tuần: là tiền lương trả cho một tuần làm việc. Nó bằng tiền lương tháng nhân với 12 tháng và chia cho 52 tuần Tiền lương ngày: là tiền lương trả cho một ngày làm việc. Nó được xác định bằng lương tháng chia cho 22 ngày. Tiền lương giờ: là tiền lương trả cho một giờ làm việc được xác định trên cơ sở bằng lương ngày chia cho 8 giờ. Căn cứ vào hình thức, chế độ trả lương ta có: Lương theo sản phẩm: theo hình thức trả lương thì người lao động sẽ nhận được tiền lương phụ thuộc vào số sản phẩm mình sản xuất ra, đây là hình thức trả lương tiến bộ nhất, nó được khuyến khích áp dụng ở nước ta hiện nay. Tuy nhiên để làm tốt được việc này nó đòi hỏi doanh nghiệp phải có sự giáo dục tư tưởng cho công nhân và luôn kiểm tra chặt chẽ nhằm tránh lãng phí nguyên vật liệu, sử dụng tốt máy móc thiết bị và quan trọng là nâng cao chất lượng sản phẩm và năng suất lao động. Lương theo thời gian: người lao động nhận được tiền lương phụ thuộc vào khoảng thời gian lao động của bản thân mình. Người lao động sẽ nhận được tiền thưởng nếu họ lao động ngoài thời gian quy định. Căn cứ vào đối tượng lao động: Lương lao động thường xuyên: tiền lương doanh nghiệp trả cho lao động thuộc biên chế của doanh nghiệp hoặc đã ký hợp đồng dài hạn với doanh nghiệp. Lương lao động tạm thời: là tiền lương doanh nghiệp trả cho lao động mà doanh nghiệp thuê ngoài, ký hợp đồng ngắn hạn, làm công nhật, hoặc khoán công nhật.... Việc phân chia tiền lương giúp ta nghiên cứu gián tiếp việc sử dụng lao động trong doanh nghiệp, là cơ sở để tính tiền lương bình quân cho từng loại công nhân viên, đồng thời để theo dõi việc chấp hành chính sách tiền lương của từng loại lao động. 3.2. Vai trò của tiền lương Như chúng ta đã biết tiền lương là một bộ phận cấu thành chi phí sản xuất, đồng thời tiền lương là nhân tố khuyến khích lao động sản xuất kinh doanh. Vấn đề đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp là phải trả lương sao cho hợp lý nhất vừa nhằm hạ giá thành sản phẩm đồng thời phải đảm bảo cuộc sống của người lao động, duy trì sức lao động của họ. Vì vậy mỗi doanh nghiệp cần phải sử dụng quỹ lương của mình có kế hoạch bằng việc xây dựng và quản lý quỹ lương chặt chẽ. Hiện nay tiền lương của cán bộ công nhân viên được trả theo tháng, do đó quỹ lương nhàn rỗi cần được sử dụng vào sản xuất kinh doanh sao cho đem lại lợi ích tốt nhất cho doanh nghiệp. Nếu thực hiện được tốt điều này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Điều này là rất quan trọng bởi vì trong nền kinh tế thị trường như hiện nay, các doanh nghiệp phải chịu sự cạnh tranh trực tiếp từ các doanh nghiệp khác. Cơ chế thị trường vốn rất khắc nghiệt, nó sẵn sàng đào thải những doanh nghiệp làm ăn không hiệu quả. Để có thể tồn tại và phát triển được mỗi doanh nghiệp đều phải chú trọng đến chất lượng và giá cả sản phẩm của mình sản xuất ra. Để khuyến khích người lao động phát huy hết khả năng sáng tạo, tinh thần trách nhiệm trong sản xuất kinh doanh và gắn bó chặt chẽ với doanh nghiệp thì doanh nghiệp cần có biện pháp quản lý sao cho hiệu quả. Trong đó đặc biệt là quản lý quỹ lương của doanh nghiệp giữ vai trò hết sức quan trọng. 4- ý nghĩa và nhiệm vụ của thống kê tiền lương Với mỗi doanh nghiệp để quản lý có hiệu quả quỹ lương của mình thì cần phải có quy định rõ ràng, đúng đắn về từng mức lương, mức thưởng sao cho vừa khuyến khích người lao động nâng cao trình độ về nghề nghiệp, không ngừng cải tiến kỹ thuật và nâng cao năng suất lao động. Đối với mỗi người lao động thì tiền lương, tiền thưởng là yếu tố có ảnh hưởng rất lớn tới cuộc sống của họ. Chính vì vậy mà doanh nghiệp cần đảm bảo mức lương phù hợp với hao phí sức lao động mà họ đã bỏ ra. Tiền thưởng được xác định đúng người, đúng lúc là yếu tố kích thích người lao động làm việc, gắn bó với doanh nghiệp. Như vậy tiền lương không chỉ là vấn đề quan trọng đối với quá trình sản xuất kinh doanh mà là mục tiêu phấn đấu của người lao động, nên thống kê tiền lương có ý nghĩa rất lớn đối với mỗi doanh nghiệp trong việc đề ra kế hoạch hạ giá thành sản phẩm, tuyển dụng lao động, quản lý lao động, quản lý tiền lương. Để làm tốt công tác thống kê tiền lương trong mỗi doanh nghiệp thì nó cần thực hiện tốt những nhiệm vụ chủ yếu sau: Nghiên cứu kết cấu của tổng quỹ lương trong doanh nghiệp, kiểm tra và phân tích sự biến động và các nhân tố ảnh hưởng tới tổng quỹ lương của doanh nghiệp. Tính và phân tích sự biến động của tiền lương bình quân trong các thời kỳ khác nhau. Thống kê tiền lương cần nghiên cứu để có được tỷ lệ thích hợp giữa tăng năng suất lao động và tốc độ tăng tiền lương. Chương II Phương pháp và hệ thống chỉ tiêu thống kê dùng để phân tích tình hình lao động- tiền lương I- Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê. Để xây dựng được một hệ thống chỉ tiêu thống kê đảm bảo giúp ta phân tích, nghiên cứu đúng về đối tượng nghiên cứu là lao động và tiền lương thì chúng ta cần hiểu khái niệm về hệ thống chỉ tiêu thống kê là gì. Hệ thống chỉ tiêu thống kê là tập hợp các chỉ tiêu có thể phản ánh các mặt, các tính chất quan trọng, các mối liên hệ cơ bản giữa các mặt của tổng thể nghiên cứu với các hiện tượng có liên quan. Hệ thống chỉ tiêu giúp ta lượng hoá cơ cấu và các mối liên hệ cơ bản của đối tượng nghiên cứu, đồng thời giúp ta thấy được bản chất và quy luật phát triển của các hiện tượng cần nghiên cứu. 1. Nguyên tắc xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê Bất kỳ một hệ thống chỉ tiêu thống kê nào khi xây dựng cần phải đáp ứng đầy đủ 3 nguyên tắc sau: 1.1. Tính hướng đích: tuỳ thuộc vào mục đích nghiên cứu, hệ thống chỉ tiêu thống kê phải đáp ứng được mọi nhu cầu về thông tin của đối tượng cần nghiên cứu. 1.2. Tính hệ thống: để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phản ánh đầy đủ vềđối tượng cần nghiên cứu, hệ thống chỉ tiêu thống kê không chỉ có các chỉ tiêu phản ánh tổng hợp về đối tượng nghiên cứu mà nó cần phải có các chỉ tiêu chi tiết, thành phần để phản ánh đối tượng một cách đầy đủ, chính xác và toàn diện nhất. 1.3. Tính khả thi: xây dựng hệ thống chỉ tiêu thống kê phải phù hợp với khả năng về con người cũng như tài chính của đơn vị, đảm bảo quá trình thực hiện được hoàn thành. 2. Những yêu cầu đối với xây dựng hệ thống chỉ tiêu Hệ thống chỉ tiêu phải đáp ứng được mục đích nghiên cứu đó là phải nêu được mối quan hệ giữa các mặt của hiện tượng có liên quan. Hệ thống chỉ tiêu không chỉ có các chỉ tiêu mang tính chất chung mà để phản ánh đầy đủ và sâu sắc tổng thể nghiên cứu, nó cần phải có các chỉ tiêu mang tính chất bộ phận và các chỉ tiêu nhân tố. Các chỉ tiêu cùng loại phải đảm bảo thống nhất về nội dung, phương pháp và phạm vi tính toán. II- Xác định hệ thống chỉ tiêu thống kê phân tích lao động và tiền lương trong các doanh nghiệp 1. Nhóm chỉ tiêu về lao động 1.1. Số lượng lao động hiện có trong danh sách của doanh nghiệp Số lượng lao động hiện có trong danh sách của doanh nghiệp là những người làm việc thường xuyên hoặc tạm thời, hưởng lương từ các nguồn kinh phí thuộc quỹ lương của doanh nghiệp, do doanh nghiệp trực tiếp trả lương, đã được ghi tên vào danh sách lao động của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo. Theo quy định của Nhà nước thì những người làm các công việc trực tiếp sản xuất từ 01 ngày trở lên, gián tiếp sản xuất từ 05 ngày trở lên đều phải được ghi tên vào danh sách lao động của doanh nghiệp. Như vậy lao động trong danh sách của doanh nghiệp trong kỳ báo cáo gồm tất cả lao động nghỉ phép, ốm đau, sinh đẻ, đi an dưỡng .... Số lượng lao động hiện có của doanh nghiệp đến cuối kỳ báo cáo là những lao động đã được ghi tên vào danh sách lao động của doanh nghiệp, do doanh nghiệp quản lý, sử dụng sức lao động và trả mọi thù lao lao động theo những hợp đồng giữa người lao động và chủ doanh nghiệp, có đến cuối kỳ báo cáo (đến ngày 30/6 đối với báo cáo 06 tháng hoặc 31/12 đối với báo cáo 01 năm). Lao động đến cuối kỳ báo cáo không bao gồm: Lao động gia đình làm gia công cho các cơ quan, đơn vị ... Học sinh đến thực tập, doanh nghiệp không trả lương hoặc sinh hoạt phí. Phạm nhân đến lao động, cải tạo. Lao động của các đơn vị liên doanh, liên kết gửi đến doanh nghiệp sử dụng nhưng không trả lương. Những người lao động công tác chuyên trách Đảng, đoàn thể do quỹ lương của các tổ chức này chi trả. Có hai chỉ tiêu phản ánh số lượng lao động trong danh sách: 1.1.1. Số lượng lao đông hiện có: là tổng số lao động trong danh sách có trong một ngày làm việc nào đó. Số lượng thời điểm được dùng trong các bảng cân đối nguồn sức lao động của doanh nghiệp và dùng nó để tính chỉ tiêu số lượng lao động bình quân. 1.1.2. Số lượng lao động có bình quân: là số lượng lao động hiện có trong danh sách của doanh nghiệp đại diện cho cả kỳ báo cáo. Số lượng lao động bình quân (): được tính theo công thức tổng quát: Trong đó: :số lao động bình quân trong kỳ yi: số lao động hiện có vào thời điểm i ti: số ngày từng thời điểm thống kê lao động. Ngoài ra đối với doanh nghiệp có số lao động ổn định hoặc ít biến động thì việc tính lao động bình quân theo tháng có thể tính theo công thức đơn giản sau: Lao động bình quân tháng = Lao động có ngày đầu tháng + Số lao động hiện có ngày giữa tháng + Lao động có ngày cuối tháng 3 Lao động bình quân 6 tháng = Tổng số lao động bình quân từng tháng của 6 tháng 6 Lao động bình quân năm = Tổng số lao động bình quân từng tháng trong năm 12 Hoặc Lao động bình quân năm = Lao động bình quân từng quý trong năm 4 Hoặc Lao động bình quân năm = Lao động bình quân 6 tháng đầu năm + Lao động bình quân 6 tháng cuối năm 2 Đối với doanh nghiệp họat động không đủ 6 tháng hoặc không đủ 12 tháng thì khi tính lao động hiện có bình quân 6 tháng hoặc 1 năm ta vẫn phải lấy số lao động hiện có bình quân của các tháng có hoạt động chia cho 6 (đối với bình quân 6 tháng) hoặc chia cho 12 (đối với bình quân 1 năm). Nếu lực lượng lao động trong doanh nghiệp không ổn định công tác thống kê lao động- tiền lương của doanh nghiệp tổ chức ghi chép số lượng lao động sử dụng trong từng đợt ngắn ngày thì số lao động bình quân trong kỳ nghiên cứu được xác định theo phương pháp số bình quân gia quyền giống như công thức tổng quát đã nói ở trên. 1.2- Chỉ tiêu cơ cấu lao động Dựa trên số liệu thống kê về số lao động hiện có của từng loại lao động trong doanh nghiệp ta sẽ xác định cơ cấu lao động trong doanh nghiệp bằng cách tính tỷ trọng từng loại lao động chiếm trong tổng số lao động của doanh nghiệp. So sánh các chỉ tiêu cơ cấu lao động ở kỳ nghiên cứu so với kỳ gốc (hoặc so với yêu cầu lao động cần đáp ứng cho mỗi loại công việc) ta có thể đưa ra nhận xét, kiến nghị về việc giảm bớt hoặc bổ xung từng loại lao động trong kỳ nghiên cứu hoặc đưa ra được những kết luận về sự biến động từng loại hình lao động của doanh nghiệp. ở đây chúng ta chỉ xét một chỉ tiêu đại diện: tỉ trọng lao động hiện có trong danh sách thường xuyên. Tỷ trọng lao động hiện có trong danh sách thường xuyên = Số lượng lao động hiện có trong danh sách thường xuyên x 100(%) Tổng số lao động hiện có trong danh sách 1.3- Chỉ tiêu phản ánh chất lượng lao động của doanh nghiệp Trong tổng số lao động hiện có của doanh nghiệp không phải là tất cả đều có tay nghề, trình độ giống nhau. Mặt khác do công việc xây lắp một công trình cũng không đòi hỏi người lao động phải có trình độ như nhau. Có những công việc đơn giản chỉ đòi hỏi sức khoẻ, không cần kỹ năng nhưng cũng có công việc nếu không có một trình độ kỹ thuật nhất định thì sẽ không thực hiện được hoặc nếu thực hiện thì chất lượng sản phẩm và hiệu quả làm việc của lao động không cao. Chính vì vậy mà để sản xuất ra một sản phẩm nói chung và một sản phẩm xây dựng nói riêng thường đòi hỏi nhiều loại lao động với trình độ tay nghề khác nhau. Vấn đề đặt ra đối với mỗi doanh nghiệp là phải bố trí lao động sao cho không những cân đối về số lượng các loại công nhân theo ngành nghề mà còn phải sử dụng chất lượng công nhân đúng việc, đúng chỗ để đảm bảo nâng cao năng suất lao động và chất lượng sản phẩm. Trình độ thành thạo của lao động được sử dụng trong doanh nghiệp có ảnh hưởng rất lớn tới mức độ hoàn thành khối lượng công tác xây lắp, chất lượng sản xuất ra cũng như ảnh hưởng rất lớn tới kết quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ nghiên cứu. Để phản ánh trình độ thành thạo của lực lượng lao động được sử dụng trong doanh nghiệp cần tính chỉ tiêu: cấp bậc bình quân của công nhân xây lắp. Chỉ tiêu này được tính theo công thức: kcn = ồkiti ồti Trong đó : kcn: cấp bậc bình quân của công nhân. ki: cấp bậc công nhân loại i (xếp theo bậc lương của công nhân xây lắp). ti: số công nhân xây lắp tại bậc lương thứ i. Chỉ tiêu này phản ánh cấp bậc công nhân của doanh nghiệp ở đầu kỳ hoặc cuối kỳ báo cáo (kcn càng lớn chứng tỏ trình độ người lao động của doanh nghiệp càng cao), để phản ánh cấp bậc công nhân cả kỳ ta lấy cấp bậc công nhân bình quân đầu kỳ cộng cấp bậc công nhân cuối kỳ rồi chia cho hai. Để biết được trình độ thành thạo của công nhân phù hợp hay không so với yêu cầu của công việc xây lắp chúng ta cần phải so sánh hai chỉ tiêu cấp bậc bình quân của công nhân và cấp bậc bình quân của công việc. Chỉ tiêu cấp bậc bình quân của công việc được tính theo công thức: kcv = ồkifi ồfi Trong đó: kcv: cấp bậc bình quân của công việc. ki: cấp bậc công việc loại i fi: thời gian định mức để lao động bậc i hoàn thành công việc loại i Hệ số đảm nhiệm (HĐN) công việc của công nhân được tính theo công thức: HĐN = kcv kcn HĐN có thể nhận một trong ba trị số: (HĐN >1, HĐN<1, HĐN=1). Nếu HĐN >1 thì trình độ tay nghề của công nhân cao hơn yêu cầu kỹ thuật sản xuất sản phẩm, như vậy nó phản ánh doanh nghiệp sử dụng lao động trong kỳ không hợp lý, lãng phí lao động, những lao động có trình độ kỹ thuật ca._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33512.doc