Phân tích thực trạng tình hình Sản xuất kinh doanh & hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp điện tử Truyền hình - VTC

Lời nói đầu Sau khi nền kinh tế thị trường chính thức được xác lập ở Việt Nam các doanh nghiệp đều gặp những khó khăn gay gắt chưa từng có, làm giảm sút lợi nhuận và có nguy cơ phá sản "hoạt động kém hiệu quả" là cụm từ quen thuộc đối với các doanh nghiệp. Đâu là nguyên nhân của vấn đề và biện pháp nào cần được thực thi nhằm đưa các doanh nghiệp tồn tại và phát triển. Mục đích của bài viết là áp dụng những lý thiết đã được trang bị để thực tập giải quyết và Xí nghiệp Điện tử Truyền hình - Công

doc70 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1155 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích thực trạng tình hình Sản xuất kinh doanh & hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp điện tử Truyền hình - VTC, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ty đầu tư và phát triển công nghệ truyền hình VTC được lấy làm cơ sở cho việc phân tích. Kết quả của việc phân tích là thực trạng hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp và sau đó là các biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian tới. Nội dung cơ bản và kết cấu của chuyên đề nghiên cứu gồm 3 chương Chương I: Những luận cứ khoa học về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Chương II: Phân tích thực trạng tình hình sản xuất kinh doanh và hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp điện tử Truyền hình - VTC trong thời gian qua. Chương III: Những biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp điện tử Truyền hình trong thời gian tới. Bài viết khó tránh khỏi những đánh giá chưa sát thực hoặc phần do chưa đủ kiến thức và kinh nghiệm. Tuy nhiên những vấn đề được nêu và đánh giá trên tinh thần của nguyên tắc khách quan căn cứ vào thực tiễn để tìm nguyên nhân và đưa ra giải pháp. Em xin đặc biệt cảm ơn thầy giáo Nguyễn Việt Hưng vì đã hết sức tận tình giúp em thực hiện chuyên đề trong việc đưa ra những chỉ dẫn về phương pháp và kinh nghiệm xin chân thành cảm ơn anh Hà, Chị Phương... và các cô các chú, các anh chị trong cơ quan đã nhiệt tình cung cấp các số liệu và trả lời những vướng mắc trong thời gian thực tập. Chương I Những luận cứ khoa học về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp 1. Khái niệm và bản chất của hiệu quả kinh tế trong các doanh nghiệp. a. Khái niệm về hiệu quả kinh tế. Từ trước tới nay các nhà kinh tế đa đưa ra nhiều khái niệm khác nhau về hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ hữu ích của sản phẩm sản xuất ra tức giá trị sử dụng của nó (hoặc là doanh nghiệp thuần và nhất là lợi nhuận thu được sau quá trình kinh doanh ). Quan điểm này lẫn lộn giữa hiệu quả với mục tiêu kinh doanh. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh và sự tăng trưởng kinh tế phản ánh qua nhịp độ tăng của các chỉ tiêu kinh tế. Cách hiểu này là phiến diện, chỉ đứng trên mức độ biến động của thời gian. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức độ tiết kiệm chi phí và mức tăng kết quả. Đây là biểu hiện của bản chất chứ không phải là khái niệm về hiệu quả kinh tế. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là chỉ tiêu được xác định bằng tỷ lệ so sánh giữa kết quả chi phí. Định nghĩa như vậy chỉ muốn nói về cách xác lập các chỉ tiêu, chứ không toát lên ý niệm của vấn đề. - Hiệu quả sản xuất kinh doanh là mức tăng của kết quả sản xuất kinh doanh trên mỗi lao động hay mức doanh lợi của sản xuất kinh doanh. Quan điểm này muốn quy hiệu quả về một chỉ tiêu tổng hợp cụ thể nào đó, bởi vậy cần có khái niệm bao quát hơn. Hiệu quả sản xuất kinh doanh là phạm trù kinh tế biểu hiện tập trung của sự phát triển kinh tế theo chiều sâu, phản ánh trình độ khai thác của nguồn lực đó trong quá trình sản xuất nhằm thực hiện mục tiêu kinh doanh. Nó là thước đo ngày càng trở nên quan trọng của sự tăng trưởng kinh tế và là chỗ dựa cơ bản để đánh gía việc thực hiện mục tiêu kinh tế của doanh nghiệp trong từng thời kỳ. Cụ thể ra hiệu quả sản xuất kinh doanh là một phạm trù kinh tế phản ánh trình độ sử dụng các nguồn lực (lao động, máy móc thiết bị, nguyên vật liệu và tiền vốn) nhằm đạt được các mục tiêu đã xác định là tối đa hoá lợi nhuận và tối thiểu hoá chi phí. b. Bản chất hiệu qủ kinh tế. Bản chất của hiệu qủa sản xuất kinh doanh là nâng cao năng suất lao động xã hội và tiết kiệm lao động xã hội. Đây là hai mặt có mối quan hệ mật thiết của vấn đề hiệu quả kinh tế. Chính việc khan hiếm các nguồn lực sử dụng chúng có tính chất cạnh tranh nhằm thoả mãn nhu cầu ngày càng tăng của xã hội, đặt ra yêu cầu phải khai thác, tận dụng triệt để các nguồn lực. Để đạt được các mục tiêu kinh doanh, các doanh nghiệp buộc phải chú trọng các điều kiện nội tại, phát huy năng lực có của các yếu tố sản xuất và tiết kiệm chi phí. Vì vậy, yêu cầu của việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh là phải đạt kết quả tối đa với chi phí tối thiểu hoặc ngược lại đạt kết quả nhất định với chi phí tối thiểu. Chi phí ở đây hiểu theo nghĩa rộng là chi phí tạo ra nguồn lực và chi phí sử dụng nguồn lực, đồng thời phải bao gồm cả chi phí cơ hội. Chi phí cơ hội là giá trị của việc lựa chọn tốt nhất đã bị bỏ qua, hay là giá trị của việc hy sinh công việc kinh doanh khác để thực hiện nhiệm vụ kinh doanh này. Chi phí cơ hội phải được bổ sung vào chi phí kế toán để thấy rõ lợi ích kinh tế thật sự. Cách tính như vậy sẽ khuyến khích các nhà kinh doanh lựa chọn phương án kinh doanh tốt nhất, các mặt hàng sản xuất có hiệu quả hơn. 2. Những quan điểm về hiệu quả kinh tế - Khi đề cập đến vấn đề hiệu quả có thể đứng trên nhiều góc độ khác nhau để xem xét. Nếu hiểu theo mục đích cuối cùng thì hiệu quả kinh tế là hiệu số giữa kết quả thu về và chi phí bỏ ra để đạt được kết quả đó. Trên góc độ này mà xem xét thì phạm trù hiệu quả có thể đồng nhất với phạm trù lợi nhuận. Hiệu quả sản xuất kinh doanh cao hay thấp là tuỳ thuộc vào trình độ tổ chức sản xuất và tổ chức quản lý trong doanh nghiệp. - Nếu đứng trên từng yếu tố riêng lẻ để xem xét thì hiệu quả là thể hiện trình độ và khả năng sử dụng các yếu tố đó trong quá trình sản xuất kinh doanh. - Cũng giống như một số chỉ tiêu khác, hiệu quả là một chỉ tiêu chất lượng tổng hợp phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố trong quá trình sản xuất, đồng thời là phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất hàng hoá. Sản xuất hàng hoá có phát triển hay không là nhờ đạt hiệu quả cao hay thấp. Biểu hiện của hiệu quả là lợi ích mà thước đo cơ bản của lợi ích là " tiền". Vấn đề cơ bản trong lĩnh vực quản lý là phải biết kết hợp hài hoà giữa lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài, giữa lợi ích trung ương và địa phương, giữa lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và lợi ích nhà nước. - Hiệu quả kinh doanh vừa là một phạm trù cụ thể vừa là phạm trù trừu tượng. Nếu là phạm trù cụ thể thì trong công tác quản lý phải định lượng thành các con số, chỉ tiêu để tính toán so sánh; nếu là phạm trù trừu tượng phải định tính thành mức độ quan trọng hoặc vai trò của nó trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Cụ thể nói rằng phạm trù hiệu quả là kiến thức thường trực của mọi cán bộ quản lý, được ứng dụng rộng rãi vào mọi khâu, mọi bộ phận trong quá trình sản xuất kinh doanh. Trên các nội dung vừa phân tích, ta có thể chia hiệu quả làm hai loại: - Nếu đứng trên phạm vi từng yếu tố riêng lẻ thì có phạm trù hiệu quả kinh tế hoặc hiệu quả kinh doanh. - Nếu đứng trên phạm vi xã hội và nền kinh tế quốc dân để xem xét thì có hiệu quả chính trị và hiệu quả xã hội. Cả hai loại hiệu quả này đều có vị trí quan trọng trong sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, chỉ có doanh nghiệp nhà nước có điều kiện thực hiện được hai loại hiệu quả trên, còn các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác chỉ chạy theo hiệu quả kinh tế. Đứng trên góc độ này mà xem xét thì sự tồn tại của doanh nghiệp nhà nước trong nền kinh tế hiện nay là một tất yếu khách quan. Trong thực tế hiệu quả kinh doanh trong các doanh nghiệp đạt được trong các trường hợp sau: - Kết quả tăng, chi phí giảm. - Kết quả tăng, chi phí tăng, nhưng tốc độ tăng của chi phí chậm hơn tốc độ tăng của kết quả sản xuất kinh doanh. Trường hợp thứ hai diễn ra chậm hơn và trong sản xuất kinh doanh có lúc chúng ta phải chấp nhận: thời gian đầu tốc độ tăng của chi phí lớn hơn tốc độ tăng của kết quả sản xuất kinh doanh, nếu không thì doanh nghiệp không thể tồn tại và phát triển được. Trường hợp này diễn ra vào thời điểm khi chúng ta đổi mới công nghệ, đổi mới mặt hàng hoặc phát triển thị trường mới... Đây chính là bài toán cân nhắc giữa kết hợp lợi ích trước mắt và lợi ích lâu dài. Thông thường thì mục tiêu tồn tại của doanh nghiệp trong điều kiện tối thiểu nhất là các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp phải tạo ra thu nhập và tiêu thụ hàng hoá, cung cấp dịch vụ, để bù đắp chi phí bỏ ra sản xuất hàng hoá và dịch vụ ấy. Còn mục tiêu phát triển của doanh nghiệp đòi hỏi quá trình sản xuất kinh doanh vừa đảm bảo bù đắp chi phí bỏ ra vừa có tích luỹ để tiếp tục quá trình tái sản xuất mở rộng. Sự phát triển tất yếu đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải phấn đấu nâng cao hiệu quả sản xuất. Đây là mục tiêu cơ bản của doanh nghiệp. 3. Những nguyên tắc để xem xét hiệu quả kinh tế Trong thực tiễn không phải ai cũng hiểu biết và quan niệm giống nhau về hiệu quả kinh tế và chính điều này đã làm triệt tiêu những cố gắng nỗ lực của họ mặc dù ai cũng muốn làm tăng hiệu quả kinh tế. Như vậy khi đề cập đến hiệu qủa kinh tế chúng ta phải xem xét một cách toàn diện cả về mặt thời gian và không gian trong mối quan hệ với hiệu quả chung của toàn bộ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả đó bao gồm cả hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. a.Về mặt thời gian Sự toàn diện của hiệu quả đạt được trong từng giai đoạn không được làm giảm hiệu quả khi xem xét trong thời kỳ dài hoặc hiệu quả của chu kỳ sản xuất trước không được làm hạ thấp hiệu quả chu kỳ sau. Trong thực tế không ít các trường hợp chỉ thấy lợi ích trước mắt, thiếu xem xét toàn diện và lâu dài, những vi phạm này dễ xảy ra trong trường hợp nhập về một số máy móc thiết bị cũ kỹ, lạc hậu... hoặc ồ ạt xuất các tài nguyên thiên nhiên.... Việc giảm một cách tuỳ tiện, thiếu cân nhắc toàn diện và lâu dài các chi phí cải tạo môi trường tự nhiên đảm bảo cân nhắc sinh thái, bảo dưỡng, hiện đại hoá đổi mới TSCĐ, nâng cao toàn diện trình độ chất lượng người lao động... nhờ đó làm mối tương quan thu chi giảm đi, cho rằng như thế là có " hiệu quả", không thể được coi là hiệu qủa chính đáng và toàn diện được. Như vậy ta thấy rằng không phải lúc nào giảm chi phí cũng nâng cao hiệu quả kinh tế mà việc giảm chi phí phải kết hợp được lợi ích trước mắt là lâu dài. b. Về mặt không gian Có hiệu qủa kinh tế hay không còn tuỳ thuộc vào chỗ hiệu quả hoạt động kinh tế cụ thể nào đó ảnh hưởng tăng giảm như thế nào đến hiệu quả kinh tế của cả hệ thống mà có liên quan tức giữa ngành kinh tế này với ngành kinh tế khác, giữa từng bộ phận với toàn bộ hệ thống, giữa hiệu quả kinh tế với việc thực hiện các nhiệm vụ khác ngoài kinh tế. Chằng hạn các doanh nghiệp xuất nhập khẩu được phép nhập các xe gắn máy dưới dạng CKD thì lợi nhuận đem laị là rất lớn song lại ảnh hưởng không nhỏ tới tình hình sản xuất và tiêu thụ của Xí nghiệp sản xuất xe máy trong nước. Như vậy, với nỗ lực được tính từ giải pháp kinh tế tổ chức - kỹ thuật nào đó dự định áp dụng vào thực tiễn đều phải được đặt vào sự xem xét toàn diện. Khi hiệu quả ấy không làm ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả chung của nền kinh tế quốc dân thì nó mới được coi là hiệu quả kinh tế. c. Về mặt định lượng Hiệu quả kinh tế phải được thể hiện qua mối tương quan giữa thu và chi theo hướng tăng giảm chi. Điều đó có nghĩa là tiết kiệm đến mức tối đa chi phí sản xuất kinh doanh mà thực chất là hao phí lao động (lao động sống và lao động vật hoá) để tạo ra một đơn vị sản xuất có ích nhất. Nếu xem xét về tổng lượng thu được người ta chỉ thu được hiệu quả sản xuất kinh doanh khi kết quả thu được lớn hơn chi phí bỏ ra, chênh lệch này càng lớn thì hiệu quả càng cao. d. Về mặt định tính Đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân, hiệu quả kinh tế mà doanh nghiệp đạt được phải gắn chặt với hiệu quả toàn xã hội. Dành được hiệu quả cao cho doanh nghiệp chưa phải là đủ mà còn đòi hỏi mang lại hiệu quả cho xã hội. Trong những trường hợp, hiệu quả toàn xã hội là mặt có tính quyết định khi lựa chọn một giải pháp kinh tế, dù xét về mặt kinh tế nó chưa hoàn toàn được thoả mãn. Theo đánh gia của các chuyên gia, việc đặt nhà máy lọc dầu tại Dung Quất - Quảng Ngãi là không khả thi khi xét về tính kinh tế của nó nhưng hiệu quả của toàn xã hội rất cao thể hiện qua nâng cao dân trí, tạo việc làm thu nhập, đời sống cho dân và cân bằng phát triển giữa ba miền Bắc - Trung - Nam. Như vậy trong bất kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh nào, khi đánh giá hiệu quả của hoạt động ấy không chỉ dừng lại ở việc đánh giá kết quả được mà còn đánh giá chất lượng của kết quả đạt được. Có như vậy thì hiệu quả của hoạt động sản xuất kinh doanh mới được đánh giá một cách toàn diện. Kết quả đạt được trong sản xuất mới đảm bảo được yêu cầu tiêu dùng của mỗi cá nhân và toàn xã hội. Nhưng kết quả tạo ra ở mức nào, với giá trị nào, đó chính là vấn đề cần xem xét vì nó là chất lượng của hoạt động tạo ra kết quả. Vì thế đánh giá hoạt động sản xuất không chỉ đánh giá xem xét người sản xuất tạo ra kết quả bằng phương tiện gì, bằng cách nào với chi phí là bao nhiêu. Ngoài ra, nhu cầu dùng của con người bao giời cũng lớn hơn khả năng tạo ra sản phẩm của họ. Do đó, vấn đề mà con người quan tâm nhất là làm sao với khả năng hiện có tạo nhiều sản phẩm nhất, chính ở đây nảy sinh vấn đề phải xem xét lựa chọn cách nào để đạt được kết qủa cao nhất. Vì vậy nhầm lẫn giữa kết quả của hiệu quả là không thấy hết phạm trù của yêu cầu tiếtg kiệm - Bản chất của hiệu quả kinh tế được biểu hiện ở mức khái quát là kết quả của hiệu quả kinh tế được biểu hiện quan hệ giữa kết quả sản xuất với chi phí lao động xã hội. Như vậy, đứng trên góc độ nền kinh tế quốc dân, việc nâng cao hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp phải luôn gắn chặt với hiệu quả toàn xã hội, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho đơn vị phải bảo đảm hiệu quả kinh tế của ngành, địa phương. 4. Mục tiêu và ý nghĩa của việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả kinh tế. a. Mục tiêu của việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả kinh tế - Về kinh tế: doanh nghiệp thực hiện tự chủ trong hoạt động sản xuất kinh doanh muốn tồn tại và phát triển phải đảm bảo mang lại hiệu quả kinh tế nhất định. Hay nói cách khác là hoạt động có lợi nhuận và lợi nhuận ngày càng cao, ít nhất là thu nhập đủ bù đắp chi phí bỏ ra. Nếu một doanh nghiệp hoạt động kém hiệu quả trong thời gian ngắn với lý do đặc biệt nào đó thì có thể chấp nhận được, hiệu quả hoạt động nhằm mục đích duy trì, mở rộng sản xuất, phát triển doanh nghiệp ngày một lớn mạnh không ngừng. - Về xã hội: Các doanh nghiệp hoạt động làm sao cho ngày càng thoả mãn nhu cầu và quyền lợi của mọi thành viên trong doanh nghiệp như thu thập, việc làm và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Bảo vệ, duy trì, phát triển quyền lợi của các bạn hàng cũng như người tiêu dùng. Thực hiện công tác từ thiện, an ninh quốc phòng, bảo vệ môi trường, sử dụng tiết kiệm nguyên vật liệu, tài nguyên thiên nhiên của đất nước. - Về chính trị: đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động có hiệu quả thì ngoài khoản nộp ngân sách còn củng cố, tăng cường vai trò kinh tế của nhà nước. Nhà nước có đủ sức mạnh để điều tiết nền kinh tế vĩ mô, thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng và phát triển ổn định. Như vậy, để đạt được các mục tiêu trên, doanh nghiệp phải bảo đảm và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. b. ý nghĩa của việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả Trong cơ chế thị trường, cạnh tranh gay gắt góp phần thúc đẩy sự tiến bộ của các doanh nghiệp cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Tuy nhiên để có thể tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh khắc nghiệt đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng cho mình một phương thức hoạt động riệng, hoạch định chiến lược, phản ánh kinh doanh một cách phù hợp và có hiệu quả. Cụ thể là doanh nghiệp phải xác định cho mình một cơ chế hoạt động trên cả thị trường đầu vào và đầu ra để tạo được một kết qủa này phải không phát triển nâng cao về mặt chất lượng. Như vậy trong cơ chế thị trường việc nâng cao hiệu quả kinh doanh có ý nghĩa vô cùng quan trọng, nó được thể hiện thông qua: Trước hết ta xem xét ý nghĩa kinh tế và xã hội của hiệu quả sản xuất kinh doanh trong phạm vi doanh nghiệp (tầm vi mô). Thứ nhất, nâng cao hiệu quả kinh doanh là cơ sở đảm bảo tồn tại và phát triển cho doanh nghiệp. Sự tồn tại của doanh nghiệp được xác định bởi sự có mặt của doanh nghiệp trên thị trường mà hiệu quả kinh doanh lại là nhân tố trực tiếp đảm bảo sự tồn tại này, vì khi hiệu quả sản xuất kinh doanh tốt có nghĩa là hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có hiệu quả. Điều đó cũng đồng nghĩa với tăng lợi nhuận. Nó giúp doanh nghiệp tái đầu tư, mở rộng quy mô sản xuất, thay đổi dây chuyền công nghệ, trang thiết bị, có điều kiện đào tạo cán bộ quản lý và công nhân viên được nâng cao. Hơn nữa nó giải quyết được một khối lượng công ăn việc làm cho chính lao động trong doanh nghiệp và cho xã hội. Qua phân tích ta thấy rằng việc nâng cao hiệu quả kinh doanh là một đòi hỏi tất yếu khách quan đối với tất cả các doanh nghiệp hoạt động trong cơ chế thị trường hiện nay. Do yêu cầu của sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp đòi hỏi nguồn thu nhập phải không ngừng tăng lên. Nhưng trong điều kiện nguồn vốn và các yếu tố kỹ thuật cũng như các yếu tố khác của quá trình sản xuất chỉ thay đổi trong khuôn khổ nhất định thì để tăng lợi nhuận đòi hỏi các doanh nghiệp phải nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Như vậy hiệu quả kinh doanh là điều kiện hết sức quan trọng trong việc bảo đảm sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Thứ hai, nâng cao hiệu quả kinh doanh là nhân tố thúc đẩy sự cạnh tranh và tiến bộ trong kinh doanh. Chính việc thúc đẩy cạnh tranh yêu cầu các doanh nghiệp phải tự tìm tòi, đầu vào tạo nên sự tiến bộ trong kinh doanh. Chấp nhận cơ chế thị trường là chấp nhận sự cạnh tranh. Trong khi thị trường ngày càng phát triển thì cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Sự cạnh tranh lúc này không còn là về mặt hàng mà về chất lượng, giá cả và các yếu tố khác. Trong khi mục tiêu chung của các doanh nghiệp đều là phát triển thì cạnh tranh là yếu tố làm cho các doanh nghiệp mạnh lên nhưng ngược lại cũng có thể các doanh nghiệp không thể trụ vững trên thị trường. Để đạt được mục tiêu trên thì doanh nghiệp phải có hàng hoá, dịch vụ chất lượng tốt, giá cả hợp lý. Mặc khác hiệu quả kinh doanh là đồng nghĩa với việc giảm giá thành, tăng lượng hàng hoá bán ra, chất lượng không ngừng được cải thiện, nâng cao. Thứ ba, việc đảm bảo và nâng cao hiệu quả kinh doanh chính là nhân tố cơ bản tạo ra sự thắng lợi cho doanh nghiệp. Muốn thắng lợi cạnh tranh đòi hỏi các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh của mình. Chính sự nâng cao hiệu quả kinh doanh là con đường nâng cao sức cạnh tranh và khả năng phát triển của doanh nghiệp. Hiệu quả sản xuất kinh doanh còn có ý nghĩa quan trọng hơn nữa khi ta nhìn nhận nó ở giác độ toàn xã hội - tức ở tầm vĩ mô . Thực tế ngân sách của nhà nước chủ yếu từ việc thu thuế của các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế. Vì vậy khi nền kinh tế hoạt động không có hiệu quả (các doanh nghiệp hoạt động không có hiệu quả ) cũng có nghĩa là ngân sách không thu đủ theo kế hoạch. Điều này làm cho việc giải quyết những mục tiêu, kế hoạch mà nhà nước cần thực hiện cho xã hội trở nên khó khăn, thậm chí không thực hiện được. Ngược lại, khi nền kinh tế hoạt động có hiệu quả thì ý nghĩa của nó được thể hiện một cách cụ thể qua các kết quả thực hiện các mục tiêu nhất định của xã hội: giải quyết công ăn việc làm trong phạm vi toàn xã hội hoặc từng khu kinh tế, giảm số người thất nghiệp và nâng cao đời sống văn hoá tinh thần cho người dân, đảm bảo mức sống hợp lý cho người lao động vệ sinh môi trường;... Trong trường hợp đó hiệu quả sản xuất kinh doanh thực sự là nhân tố cơ bản làm cho đất nước giàu mạnh, xã hội công bằng, văn minh. 5. Nội dung chủ yếu của việc xác định hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp. Khi đánh giá hiệu quả hoạt động của mọi doanh nghiệp cần phải dựa vào một hệ thống các tiêu chuẩn, bao gồm: a. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động của doanh nghiệp . Hệ số sử dụng lao động = Tổng số lao động được sử dụng Tổng số lao động hiện có Chỉ tiêu này cho biết trình độ sử dụng lao động của doanh nghiệp, số lao động của doanh nghiệp đã sử dụng hết chưa, tiết kiệm hay lãng phí nguồn nhân lực của doanh nghiệp. Từ đó tìm ra biện pháp khắc phục nhằm tăng hiệu quả sử dụng nguồn lao động của doanh nghiệp. Năng suất lao động = Doanh thu trong kỳ Lao động trong kỳ Chỉ tiêu này cho thấy một lao động tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ - Lợi nhuận bình quân/ 1lao động = Lợi nhuận trong kỳ Lao động trong kỳ Chỉ tiêu này phản ánh với mỗi lao động trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. Dựa vào chỉ tiêu này để so sánh mức tăng hiệu quả của mỗi lao động trong kỳ. b. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định Đối với ngành vận tải ô tô ta sử dụng hai chỉ tiêu sau: - Sức sản xuất của cố định = Doanh thu trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định bình quân tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. - Sức sinh lời của vốn cố định = Lợi nhuận ròng trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định bình quân tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận. c. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưuđộng - Sức sản xuất của vốn lưu động = Doanh thu trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho biết với một đồng vốn lưu động tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu trong kỳ. Nếu chỉ tiêu này qua các kỳ tăng chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động tăng. - Sức sinh lời của vốn lưu động = Lợi nhuận trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho ta biết với một đồng vốn lưu động sẽ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận trong kỳ. Chỉ số này càng cao càng tốt, chứng tỏ hiệu quả trong việc sử dụng vốn lưu động. - Tốc độ luân chuyển vốn: trong quá trình sản xuất kinh doanh, nguồn vốn lưu động thường xuyên vận động không ngừng, nó tồn tại ở các dạng khác nhau. Có khi là tiền, hàng hoá, vật tư, bán thành phẩm... đảm bảo cho quá trình sản xuất diễn ra liên tục. Do đó việc đẩy nhanh tốc độ chu chuyển vốn lưu động sẽ góp phần giải quyết ách tắc, đình trệ của vốn, giải quyết nhanh nhu cầu về vốn cho doanh nghiệp , nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đồng thời nâng cao hiệu quả kinh doanh của toàn bộ doanh nghiệp . Thông thường sử dụng các chỉ tiêu sau để đánhgiá tốc độ luân chuyển vốn trong doanh nghiệp . + Số vòng quay của vốn lưu động = Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt, chứng tỏ vòng quay của vốn lưu động tăng nhanh, điều này thể hiện việc sử dụng vốn lưu động có hiệu quả và ngược lại. + = Thời gian này càng nhỏ chứng tỏ hiệu quả sử dụng vốn lưu động càng cao và ngược lại + Hệ sôs đảm nhiệ vốn lưu động = Chỉ tiêu này cho biết phải mất bao nhiêu đồng vốn lưu động để tạo ra được một đồng doanh thu. Chỉ tiêu này càng nhỏ càng tốt. d. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp. Nhóm chỉ tiêu này phản ánh hiệu quả kinh doanh của toàn bộ hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , được dùng để phản ánh chính xác hoạt động kinh doanh của mỗi doanh nghiệp và được dùng để so sánh giữa các doanh nghiệp vớinhau và so sánh trong các doanh nghiệp qua cá thời kỳ để xem xét các thời kỳ doanh nghiệp hoạt động có đạt hiệu quả cao hơn hay không. - Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu = Chỉ tiêu này có ý nghĩa quan trọng, cho biết hiệu quả của doanh nghiệp đã tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận từ một đồng doanh thu. Nó khuyến khích các doanh nghiệp tăng doanh thu giảm chi phí. Nhưng để có hiệu quả thì tốc độ tăng doanh thu phải nhỏ hơn lợi nhuận. - Tỷ suất lợi nhuận theo vốn chủ sở hữu = Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn chủ sở hữu tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Nó phản ánh mức độ lợi ích của chủ sở hữu. - Tỷ suất lợi nhuận theo v ốn sản xuất = Chỉ tiêu này cho biết hiệu quả sử dụng vốn kinh doanh . Một đồng vốn kinh doanh tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận, nó phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố kinh doanh của doanh nghiệp , chỉ tiêu này càng lớn càng tốt. - Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí = Chỉ tiêu này phản ánh trình độ lợi dụng các yếu tố chi phí trong sản xuất . Nó cho thấy với một đồng chi phí tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này có hiệu quả nếu tốc độ tăng lợi nhuận nhanh hơn tốc độ tăng chi phí = Chỉ tiêu này cho thấy một đồng chi phí tạo ra bao nhiều đồng doanh thu - Doanh thu trên một đồng vốn sản xuất = Doanh thu trong kỳ Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ Chỉ tiêu này cho thấy với một đồng vốn kinh doanh tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu, chỉ tiêu này càng lớn càng tốt Công thức xác định các chỉ tiêu trên được hệ thống theo biểu sau đây: Bảng 1: Tổng hợp các chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sản xuất kinh doanh Tên chỉ tiêu Công thức xác định 1. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng lao động Hệ số sử dụng lao động Năng xuất lao động - Lợi nhuận bình quân / 1 lao động Tổng số lao động được sử dụng Tổng số lao động hiện có Doanh thu trong kỳ Lao động bình quân trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ Lao động bình quân trong kỳ 2. Nhóm chỉ tiêu đánhgiá hiệu qủa sử dụng vốn cố định - Sức sản xuất của vốn cố định - Sức sinh lời của vốn cố định Doanh thu trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ 3. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động - Sức sản xuất của vốn lưu động - Sức sinh lời của vốn lưu động - Số vòng quay của vốn lưu động - Số ngày luân chuyển bình quân một vòng quay - Hệ số đảm nhiệm vốn lưu động Doanh thu trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ Donh thu trong kỳ Vốn lưu động bình quân trong kỳ 365 ngày Số vòng quay vốn lưu động Vốn lưu động bình quân trong kỳ Doanh thu trong kỳ 4. Nhóm chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tổng hợp - Tỷ suất lợi nhuận theo doanh thu Tỷ suất lợi nhuận theo vốn chủ sở hữu - Tỷ suất lợi nhuận vốn sản xuất - Tỷ suất lợi nhuận theo chi phí Doanh thu trên một đồng chi phí Doanh thu trên một đồng vốn sản xuất Lợi nhuận trong kỳ Doanh thu trong kỳ Lợi nhuận ròng Vốn chủ sở hữu Lợi nhuận trong kỳ Vốn kinh doanh trong kỳ Lợi nhuận trong kỳ Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ Doanh thu trong kỳ Tổng chi phí sản xuất và tiêu thụ trong kỳ Doanh thu trong kỳ Vốn kinh doanh bình quân trong kỳ e. Nhóm chuyên sét về mặt hiệu quả kinh tế - xã hội. Các doanh nghiệp ngoài việc hoạt động kinh doanh có hiệu quả nhằm tồn tại và phát triển còn phải đạt hiệu quả về mặt kinh tế - xã hội. Nhóm chỉ tiêu xét về mặt hiệu quả kinh tế xã hội bao gồm các chỉ tiêu sau: - Tăng thu ngân sách: mọi doanh nghiệp khi tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh thì phải có nhiệm vụ nộp cho ngân sách nhà nước dưới hình thức các loại thuế GTGT, thuế lợi tức, thuế xuất khẩu nhập khẩu, thuế tiêu thụ đặc biệt. Nhà nước sử dụng những khoản thu này đầu tư phát triển nền kinh tế quốc dân, lĩnh vực phi sản xuất, xây dựng các công trình công cộng, góp phần phân phối lại thu nhập quốc dân. - Tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, để tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người lao động và nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo, lạc hậu, đòi hỏi các doanh nghiệp phải tự tìm tòi các biện pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, mở rộng quy mô sản xuất, đa dạng hoá sản phẩm và kinh doanh tổng hợp. - Nâng cao đời sống người lao động: xét trên phương diện kinh tế, việc nâng cao mức sống của người dân được thể hiện qua các chỉ tiêu như gia tăng thu nhập bình quân trên đầu người, gia tăng đầu tư xã hội, mức tăng trưởng phúc lợi xã hội. - Tái phân phối lợi tức xã hội: sự phát triển không đồng đều về mặt kinh tế xã hội giữa các vùng, các lãnh thổ trong nước yêu cầu phải có sự phân phối lợi tức xã hội nhằm giảm sự chênh lệch về mặt kinh tế giữa các vùng. Theo quan điểm của các nhà kinh tế hiện nay, hiệu quả kinh tế xã hội còn thể hiện qua chỉ tiêu: bảo vệ nguồn lợi môi trường, hạn chế gây ô nhiễm môi trường, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 6. Một số kinh nghiệm nhằm góp phần nâng cao và bảo đảm hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp vận tải ô tô. Bên cạnh những vướng mắc còn tồn tại của ngành nói chung và xí nghiệp điện tử truyền hình nói riêng, xí nghiệp cũng rút ra được một số bài học kinh nghiệm trong quá trình thích ứng với cơ chế mới. + Chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước được Xí nghiệp tiếp nhận kịp thời và quán triệt đến từng bộ phận, cán bộ, đảng viên, công nhân. Từ đó thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng bộ cơ quan. + Xí nghiệp có truyền thống đoàn kết nhất trí giữa chính quyền đoàn thể dưới sự chỉ đạo của Đảng uỷ và ban Giám đốc, tạo sức mạnh tổng hợp vượt qua mọi khó khăn trong qúa trình đổi mới. + Khuyến khích mọi người tham gia khai khác hàng hoá không ngừng đạt hiệu quả cao. + Chủ động mở rộng ngành nghề, đa dạng hoá sản phẩm phát huy thế mạnh nội lực của Xí nghiệp, giải quyết việc làm và nâng cao đời sống cho cán bộ công nhân viên chức trong Xí nghiệp, đồng thời nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp nhằm duy trì và phát triển Xí nghiệp lớn mạnh, đứng vững trên thị trường, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. +Tích cực nghiêu cứu, sản xuất và nhập những công nghệ mới, tiên tiến gắn liền với sự sắp xếp hợp lý của cán bộ công nhân viên chức trong Xí nghiệp để họ chủ động sáng tạo sản xuất kinh doanh. + Phát động phong trào thi đua nhằm không ngừng nâng cao chất lượng các sản phẩm của Xí nghiệp đồng thời cử các nhân viên có kỹ năng kỹ xảo tốt về các tỉnh mà xí nghiệp đã đang và sắp cung cấp sản phẩm giúp cho người sử dụng giảm thiểu được những sai sót do họ không hiểu biết nhiều về sản phẩm. Ngoài ra trên từng sản phẩm xí nghiệp cũng luôn ghi rõ và dễ hiểu cách sử dụng và bảo quản giúp cho chu kỳ sống của sản phẩm không ngừng được nâng cao. - Xử lý nghiêm khắc các trường hợp vi phạm phá vỡ hợp đồng đối với khách hàng do thiếu tinh thần trách nhiệm như trở hàng đi phục vụ ở vùng sâu, vùng xa mà để cho hàng giảm chất lượng, lắp ráp ẩu.... bởi vì hàng của xí nghiệp chín phần lớn là các sản phẩm phục vụ cho sự phát triển cân đối giữa thành thị và vùng sâu vùng xa giúp cho mọi người dân mở mang kiến thức thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. + Giáo dục tinh thần nhiệt tình chu đáo, đáng tin cậy của các cán bộ công nhân viên khi nhận hàng cũng như giao hàng để nâng cao uy tín cho xí nghiệp. Chương II Phân tích thực trạng tình hình hoạt động và hiệu quả hoạt động của xí nghiệp ĐTTH trong thời gian qua I. Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp 1. Quá trình hình thành Xí nghiệp ĐTTH là một doanh nghiệp nhà nước thuộc Xí nghiệp đầu tư và phát triển công nghệ truyền hình Việt Nam. Tổng Giám Đốc Đài Truyền Hình Việt Nam căn cứ vào: - Nghị định ._.số 52 /CP ngày 16/8/1993 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ chức bộ máy của Đài truyền hình Việt Nam. - Quyết định số 918 QĐ/TC - THVN ngày 10/12/1996 của Tổng giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam quy định chức năng nhiệm vụ, quyền hạn về tổ chức bộ máy của doanh nghiệp nhà nước: Xí nghiệp đầu tư phát triển công nghệ truyền hình Việt Nam - VTC - Điều lệ tổ chức và hoạt động của Xí nghiệp Đầu tư và phát triển công nghệ Truyền hình Việt Nam được tổng Giám đốc Đài Truyền hình Việt Nam phê duyệt kèm theo quyết định số 979 QD/TC - THVN ngày 12/12/1996. - Căn cứ vào đề nghị của giám đốc Xí nghiệp Đầu tư và phát triển công nghệ truyền hình Việt Nam - VTC và trưởng ban tổ chức cán bộ Đào tạo. Quyết định số 986 QĐ/TC - THVN ngày 12/12/1996 về việc thành lập Xí nghiệp ĐTTH. - Xí nghiệp ĐTTH trực thuộc Xí nghiệp Đầu tư và phát triển công nghiệp Truyền hình Việt Nam - VTC. Xí nghiệp ĐTH là đơn vị hạch toán phụ thuộc có con dấu riêng, được mở Tài khoản tại các ngân hàng - Trụ sở Xí nghiệp ĐTTH đặt tại số 9 - phố Lạc Trung - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội, nay đổi thành số 65 - phố Lạc Trung - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. 2. Quá trình phát triển - Giai đoạn trước 12/12/1996: Xí nghiệp chưa được thành lập - Giai đoạn từ 12/12/1996 đến nay: Trước những khó khăn của cơ chế thị trường nhưng doanh thu của Xí nghiệp vẫn liên tục tăng năm 1997 doanh thu mới có 20,5 tỷ đến năm 2001 doanh thu của Xí nghiệp đã tăng lên đến 32,5 tỷ. Để đạt được kết qủa như thế Xí nghiệp đã thực hiện một số vấn đề sau: + Đầu tư nâng cấp máy móc thiết bị +Tinh giảm liên tục bộ máy quản lý + Thực hiện chế độ khoán quản đến từng bộ phận, từng cán bộ công nhân viên để không ngừng nâng cao tính chủ động sáng tạo của họ. Với những nỗ lực như vậy sau khi thành lập đến nay Xí nghiệp luôn hoàn thành nghĩa vụ nộp ngân sách nhà nước giao, doanh thu không ngừng tăng qua các năm tuy nhiên do vẫn còn nhiều chi phí chưa hợp lý nên lợi nhuận đạt được vẫn chưa cao. Năm 2002 Xí nghiệp tiếp tục thực hiện biện pháp đã đề ra trước đó đồng thời định hướng những vấn đề mới. + Mở rộng ngành nghề kinh doanh + Chuẩn bị triển khai kế hoạch xuất khẩu sang Lào, ANGOLa + Ký kết hợp đồng sửa chữa và lắp ráp máy thu thanh, thu hình và các thiết bị điện tử khác cho các nước.... 3. Chức năng nhiệm vụ của Xí nghiệp ĐTTH - Lắp ráp máy thu hình, thu thanh, máyphát hình, phát thanh và các thiết bị điện tử khác. - Sửa chữa và bảo hành các thiết bị điện tử cho ngành phát thanh truyền hình dân dụng. - Kinh doanh và phục vụ cho việc lắp ráp và cung ứng ra thị trường trong và ngoài nước. 4. Cơ sở vật chất thiết bị kỹ thuật a. Cơ sở làm việc, nhà xưởng Xí nghiệp ĐTTH có trụ sở tại số 9 (Nay đổi thành 65) Lạc Trung - Quận Hai Bà Trưng - Hà Nội. Tổng diện tích là 2400m2. b. Về trang thiết bị kỹ thuật Xí nghiệp có dây chuyền lắp ráp máy thu thanh máy thu hình và các thiết bị điện tử các dạng IKD, CKD, SKD dây chuyền khép kín đồng bộ nhập từ nước ngoài . Dây chuyền sản xuất, lắp ráp các loại máy thu hình, máy thu thanh, Radio Catssete và các sản phẩm điện tử khác từ linh kiện rời (IKD, CKD....) Công suất từ 15.000 - 180000 chiếc radio/tháng; 100 - 150 chiếc ti vi màu 20''/ngày; 500 - 800 chiế ti vi đen trắng/ngày. Có hệ thống thiết bị chuyên dụng như: Thiết bị trung tâm gồm các loại máy phát FM, AM, SW, máy đo độ nhạy đầu vào, máy đo mức độ tạp âm của đầu radio, máy phát chuẩn, tròn, chấm, carô, máy phát quét, máy phát sọc màu hệ PAL, SECAM, HTSC đồng thời có các máy đo Ô xylô và hệ thống cân chỉnh khác. Hệ thống chạy là, kiểm tra độ rung, độ bền chắc, nhiệt độ cao, điện áp cao.... có máy đo kiểm tra độ nhạy (dB) và kiểm soát được trong các tần số bang MW, SW, FM của sóng radio và tần số các băng VL, VH, UHF của máy thu hình. Ngoài ra Xí nghiệp còn có phương tiện vận tải phục vụ cho công tác kinh doanh, sau bán hàng và bảo hành thiết bị bán ra do Xí nghiệp cung ứng. 5. Về năng lực kỹ thuật Xí nghiệp ĐTTH có đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ sư, kỹ thuật viên, công nhân kỹ thuật lành nghề có kinh nghiệm và uy tín. Xí nghiệp đã tổ chứ sản xuất lắp ráp các loại máy thu thanh, radio catssete và các loại máy thu hình màu từ 14'' đến 29'' ở các dạng IKD, CKD. Do có kinh nghiệm về chuyên ngành nên trong những năm qua đã tổ chức sản xuất, lắp ráp các loại máy có chất lượng tốt phù hợp với điều kiện của từng vùng, đồng bộ với điều kiện phát sóng hiện tại của Đài truyền hình Việt Nam và đài Tiếng nói Việt Nam, máy thu thanh, máy thu hình của Xí nghiệp lắp ráp đã được cơ quan quản lý chất lượng của ngành chi cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng Hà Nội và Tổng cục tiêu chuẩn đo lường chất lượng nhà nước kiểm tra, đánh giá các thông số kỹ thuật theo tiêu chuẩn Việt Nam. Xí nghiệp đã xác định được đặc điểm của sản phẩm là mang tính chất xã hội cao. Đây không chỉ là một loại hàng hoá thông thường mà hàng hoá này phải đặt trong mối quan hệ cung ứng gắn liền với trách nhiệm lâu dài của ngành phát thanh - truyền hình. Do vậy trách nhiệm trước mắt và lâu dài của Xí nghiệp là không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm kết hợp với thực hiện các biện pháp đồng bộ về trang bị, dịch vụ bảo hành, bảo dưỡng, bảo trì. Xí nghiệp còn tổ chức bảo hành chuyên nghiệp gồm 20 cán bộ kỹ thuật và công nhân lành nghề với đầy đủ dụng cụ phục vụ sửa chữa bảo hành, có phương tiện phục vụ đi lại, có sức khoẻ tốt. Hàng tháng có tổ chức họp bàn biện pháp và rút kinh nghiệm, có sự chỉ đạo trực tiếp của đồng chí phó giám đốc kỹ thuật. Xí nghiệp có tổ chức sửa chữa bảo hành luôn theo dõi chặt chẽ số lượng máy của các địa phương đã được cấp phát, để lập sổ theo dõi bảo hành. Thường xuyên liên lạc với các tỉnh, huyện thậm chí các xã để bảo hành kịp thời, tại chỗ hoặc hướng dẫn đi xa qua mạng lưới cán bộ kỹ thuật của đài tỉnh, huyện khi có trường hợp máy bị hư hỏng. 6. Về năng lực tài chính - Vốn kinh doanh là 79 tỷ trong đó + Vốn cố định 62 tỷ +Vốn vay 17 tỷ Bao gồm các nguồn vốn + Vốn chủ sở hữu 62 tỷ + Vốn vay 17 tỷ - Tài khoản và các ngân hàng hoạt động + Tài khoản nội tệ 431101000150 ngân hàng nông nghiệp Hà Nội + Tài khoản ngoại tệ 36111104775 ngân hàng ngoại thương Việt Nam 7. Về khách hàng của Xí nghiệp Từ khi thành lập tới nay khách hàng chủ yếu của Xí nghiệp là các đài phát thanh - truyền hình khu vực và các địa phương, tạo mới mới quan hệ tốt với các cơ quan ở các địa phương, giúp đỡ các địa phương phát triển ngành phát thanh - truyền hình các tỉnh mà Xí nghiệp đã và đang cung cấp là: Lạng Sơn, Gia Lai, Đăklăk, Lâm Đồng, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Bình Định, Yên Bái, Lai Châu, Thanh Hoá, Cao Bằng, Lạng Sơn, Tuyên Quang.... 8. Về tổ chức bộ máy của Xí nghiệp Sơ đồ tổ chức của Xí nghiệp ĐTTH Giám đốc Phó GĐ phụ trách tài chính Phó GĐ phụ trách kinh doanh Phó GĐ phụ trách nhân sự và sản xuất Văn phòng Xí nghiệp Phòng tài chính Phòng kinh doanh Phòng tổ chức hành chính Phân xưởng sản xuất Quản đốc phân xưởng Phó quản đốc phụ trách CKD Phó quản đốc phụ trách SKD Ta biết rằng bộ máy quản trị là trung tâm đầu não chỉ huy mọi hoạt động của Xí nghiệp và hiệu quả hoạt động của nó hoàn toàn do nó quyết định, mọi phương hướng, kế hoạch hoạt động trong mọi hoàn cảnh, thời gian, lúc thuận lợi cũng như lúc khó khăn Xí nghiệp phải vượt qua. Điều quan trọng của bộ máy quản trị là biết đưa ra giải pháp đúng đắn, kịp thời, hợp lý trước bất cứ tình huống nào. Có thể nói rằng đường lối mà bộ máy quản trị vạch ra không đơn thuần có tác dụng tức thời mà có ảnh hưởng lâu dài tới hoạt động và hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp, nếu những kế hoạch định hướng đúng sẽ Xí nghiệp vượt qua những thử thách và phát triển nhanh chóng vượt bậc, ngược lại nếu sai lầm có thể làm Xí nghiệp phá sản là đều hoàn toàn có thể xảy ra. Chẳng hạn, hiện tại Xí nghiệp đang phải đối mặt với rất nhiều khó khăn như cạnh tranh quá gay gắt đẩy Xí nghiệp vào tình thế một mất một còn, thiếu vốn rong khi dây chuyền sản xuất đã quá cũ và kém sức cạnh tranh về sản phẩm trên vào đó giả cả radio, Ti vi liên tục giảm, tăng chi phí ... Nếu bộ máy quản trị không đưa ra được những biện pháp kịp thời, đúng đắn thì hậu quả thật khó lường. Khi nhân mạnh đến tầm quan trọng của bộ máy quản trị để từ đó chúng ta có những biện pháp thiết thực để tổ chức bộ máy quản trị đủ sức để tiều hành, quản lý Xí nghiệp có hiệu quả nhất. Hiệu quả của một bộ máy quản trị thể hiện qua kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, cụ thể là doanh thu, lợi nhuận, của người lao động trong Xí nghiệp và mức nộp ngân sách. - Phòng tài chính kế toán: Chịu sự điều hành quản lý trực tiếp của phó giám đốc phụ trách tài chính, là phòng có chức năng phản ánh và giám đốc cả hoạt động kinh tế trong tàon Xí nghiệp. Phòng tài chính kế toán giữ vụ trí quan trọng trong việc điều hành quản lý kinh tế, thông tin kinh tế trên mọi lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Phòng có chứ năng kiểm tra việc sử dụng, tài sản, tiền vốn đưa vào sản xuất phải đảm bảo đúng chế độ, bảo toàn và phát triển vốn nhà nước giao. - Phòng kinh doanh: chịu sự điều hành trực tiếp của phó giám đốc phục trách kinh doanh: Phòng kinh doanh đảm nhận công việc nghiên cứu và phát triển thị trường. Ngoài ra phòng kinh doanh còn thực hiện cả công tác tiêu thụ sản phẩm và Marketing. Phối hợp mật thiết với các phòng khác để lên kế hoạch sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường. - Phòng tổ chức hành chính: chịu sự điều hành trực tiếp của phó giám đốc phụ trách sản xuất thực hiện kế hoạch tổ chức, tuyển mộ, đào tạo... cán bộ công nhân viên trong Xí nghiệp. - Phân xưởng sản xuất: chịu trách nhiệm về việc sản xuất những sản phẩm theo kế hoạch đã đề ra đồng thời làm tham mưu cho giám đốc trong quá trình đầu tư nâng cấp dây chuyền công nghệ.... 9. Về công tác lao động - tiền lương Vấn đề lao động, việc làm, chính sách và đời sống xã hội luôn làm nảy sinh những mâu thuẫn phức tạp đòi hỏi giải quyết từng bước một không thể ngày một ngày hai là xong. Yêu cầu tinh giảm đội ngũ lao động, chỉ giữ lại những người có khả năng đáp ứng được yêu cầu của công việc quan hệ chặt chẽ với việc nâng cao chất lượng cũng như đời sống của người lao động vì thế công tác tổ chức lao động phải luôn đi trước một bước trong quá trình tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh. Song đi sâu vào từng việc, từng trường hợp, từng con người cụ thể lại không phải là điều dễ dàng vì nó liên quan đến đời sống, danh dự, chính sách về lao động của từng cán bộ nhất là những người đã từng gắn bó với Xí nghiệp trong thời gian khổ vì vinh quang. Chính vì vậy điều kiện hiện nay Xí nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường, hạch toán kinh tế độc lập thì hiệu quả phải đặt lên hàng đầu, thực hiện nó chỉ là vấn đề thời gian. Lao động là nhân tố quan trọng nhất ba nhân tố tham gia vào hoạt động sản xuất. Chất lượng lao động, bố trí, sử dụng đúng người, đúng việc, có cơ chế đãi ngộ hợp lý sẽ là nguồn nhân tố quyết định đến việc tăng năng suất lao động. Nói tóm lại con người là yếu tố quan trọng nhất. Chính nó quyết định trình độ sử dụng các nguồn lực khác. Trình độ sử dụng vốn cố định, vốn lưu động tạo ra doanh thu, lợi nhuận, bao nhiêu cho Xí nghiệp, nộp ngân sách cho nhà nước đúng và đủ, hạ giá thành, tiết kiệm chi phí, bảo dưỡng sửa chữa, vận hành máy móc thiết bị tốt hay xấu đều do con người quyết định. Trong những năm qua Xí nghiệp có những thay đổi trong bố trí, xắp xếp cho cán bộ công nhân viên. Bảng 1: Tình hình sử dụng lao động Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Số lượng lao động đầu kỳ 78 76 75 Tăng trong kỳ 1 1 3 Giảm trong kỳ, trong đó 3 2 3 - Nghỉ hưu 1 0 1 - Nghỉ chờ hưu 0 1 0 - Chấm dứt hợp đồng lao động 1 0 1 - Thuyên chuyển 0 1 0 - Giảm khác 1 0 1 Tổng số lao động cuối kỳ 76 75 75 - Tổng số lao động đang làm việc 76 75 75 - Số hưu chờ 0 0 0 - Số chờ giải quyết việc làm 0 0 Nguồn: Phòng tổ chức hành chính Để gắn bó trách nhiệm và quyền lợi của người lao động với hiệu quả sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp, ban Giám đốc đã ban hành quy chế quản lý quỹ lương và trả lương cho cán bộ công nhân viên theo sản phẩm và theo công việc bở vì tiền lương, nó chính là thành quả của người lao động tạo ra. Nếu tiền lương tương xứng với sức lao động bỏ ra, tương đương với tính chất công việc sẽ kết thúc đẩy người lao động hoàn thành công việc một cách sớm nhất và tốt nhất, khuyến khích họ nâng cao năng suất lao động, một người làm việc bằng hai và vị thế có ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sản xuất. Tóm lại, nếu như cách trả lương phù hợp sẽ nâng cao được năng suất lao động, hiệu quả hoạt động cho Xí nghiệp. Chính vì vậy Xí nghiệp đã áp dụng một số hình thức trả lương thích hợp với từng loại lao động. - Trả lương theo thời gian được áp dụng đối với đội ngũ công nhân nhiên gián tiếp. - Trả lương theo sản phẩm được áp dụng với cán bộ công nhân viên trực tiếp tham gia sản xuất. Công tác nâng bậc lương qua các năm là khá tốt. Năm 1999 lần đầu tiên Xí nghiệp áp dụng thi nâng bậc đối với lao động gián tiếp. Qua xét tuyển Xí nghiệp đã nâng bậc lương cho 5 người. Năm 2000 tổ chức thi nâng bậc lương cho cán bộ công nhân viên được 16 người trong đó lao động trực tiếp 10 người, gián tiếp + Phục vụ 6 người. Năm 2001 thực hiện tốt chế độ nâng bậc lương cho 11 người. II. Phân tích thực trạng tình hình hoạt động và hiệu quả hoạt động của XNĐTTH 1. Phân tích thực trạng tình hình hoạt động và hiệu quả hoạt động của xí nghiệp trong thời gian qua Trong những năm gần đây xí nghiệp đã đạt được nhiều thành công đáng khích lệ. Xí nghiệp không ngừng đổi mới cả về chiều rộng lẫn chiều sâu, cả về số lượng lẫn chất lượng, cả về quy mô đến chủng loại sản phẩm. Kết quả hoạt động của xí nghiệp được thể hiện qua bảng dưới đây. Bảng 2: Kết quả hoạt động của xí nghiệp từ 1999 đến 2001 Chỉ tiêu Đơn vị tính 1999 2000 2001 So Sánh 2000/1999 2001/2000 Sản lượng Cái Thu hình - 10442 11313 12163 8,34 7,51 Thu thanh - 42856 57300 60500 33,7 5,58 Tổng doanh thu Trđ 26354 30400 32500 15,35 6,9 - Thu hình - 19068,48 20659 22215 8,34 7,53 Thu thanh - 7285,52 9741 10285 33,7 5,58 Tổng chi phí - 26109 30250 32270 15,86 6,68 Tổng nộp ngân sách - 2700 2610 2850 - 3,3 9,2 - Nhập khẩu - 1495 1400 1405 - 6,35 0,36 - VAT - 1205 1210 1445 0,14 19,42 Tổng lợi nhuận - 245 150 230 - 38,78 53,3 - Thu hình - 200 95 170 - 52,5 78,95 - Thu Thanh - 45 55 60 22,22 9,09 Lao động bình quân năm Người 78 76 75 Thu nhập bình quân 1650 1900 2000 15,15 10,53 Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 1999 - 2001 Mặc dù hoạt động kinh doanh trong điều kiện hết sức khó khăn eo hẹp về tài chính, thị trường biến động, cạnh tranh gay gắt nhưng Xí nghiệp đã năng động trong việc thực hiện đường lối chính sách đúng đắn nên đã đạt được những thành quả nhất định. Qua biểu trên ta thấy trong ba năm 1999 - 2001 Xí nghiệp đã đạt được một số chỉ tiêu như sau: - Về sản lượng: + Máy thu hình: Xí nghiệp sản xuất hai loại máy thu hình là đen trắng và màu nhãn hiệu PANASON. Năm 2000 vượt năm 1999 là 8,34% năm 2001 vượt năm 2000 là 7,15% như vậy số lượng máy thu hình của Xí nghiệp được liên tục tăng. Điều này chứng tỏ chất lượng sản phẩm của Xí nghiệp đã được tăng lên và có sức cạnh tranh với các sản phẩm cùng loại như Ti vi SAMSUNG, LG, SONY,.... bên cạnh đó phải nói đến sự đầu tư thích đáng của Xí nghiệp đến chất lượng mẫu mã, kiểu dáng của sản phẩm và đặc biệt là tới đời sống cán bộ công nhân viên.... dần khẳng định được chỗ đứng của sản phẩm trên thị trường. + Máy thu thanh: Đây là mặt hàng rất quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, số lượng máy thu thanh liên tục tăng năm 2000 tăng 33,7% so với năm 1999, năm 2001 tăng 5,58% so với năm 2000. Số lượng máy thu thanh liên tục tăng điều đó chứng tỏ Xí nghiệp đã tạo được lòng tin đối với khách hàng. Như chúng ta thấy thì trên thị trường hiện nay có rất nhiều loại máy thu thanh vừa rẻ, mẫu mã kiểu dáng lại đẹp tuy nhiên chế độ bảo hành của nó lại quá kém mà lượng máy thu thanh lại chỉ bán được nhiều ở các vùng sâu, vùng xa noiư mà ti vi vẫn chưa phổ biến, người sử dụng họ lại cần được bảo đảm chắc chắn rằng sản phẩm họ nhận được ra tốt không gặp phải sự cố nếu có thì phải khắc phục ngay do vậy Xí nghiệp đã làm rất tốt vấn đề bảo hành sửa chữa sản phẩm một cách nhanh và tốt nhất thuận tiện cho người sử dụng. - Về doanh thu: Qua số liệu trên ta thấy tổng doanh thu của Xí nghiệp tăng rất nhanh. Năm 2000 tăng 15,35% so với năm 1999 với số tương đối là 4,046 tỷ, năm 2001 tăng 6,9% so với năm 2000 với số tương đối là 2,1 tỷ. Đây là một dấu hiệu đáng mừng, chứng tỏ là: không phải mọi doanh nghiệp nhà nước đều làm ăn kém hiệu quả. Doanh thu của máy thu thanh cũng liên tục tăng, đây là một kết quả rất đáng khích lệ. Vì Xí nghiệp xác định số lượng máy thu thanh giản đơn chủ yếu cung cấp cho các vùng thuộc các xã vùng sâu, vùng xa phục vụ vấn đề chính trị là chủ yếu. Trong tổng doanh thu đạt được thì doanh thu về máy thu hình chiếm tỷ trọng khá lớn với doanh thuu máy thu thanh. Đó là tín hiệu đáng mừng vì nó không những phản ánh được về hiệu quả hoạt động kinh doanh mà nó còn phản ánh được một mặt của đời sống xã hội chứng tỏ đời sống của người dân ngày một khấm khá hơn. Do đó nhu cầu về tinh thần ngày càng được thoả nãm... - Về nộp ngân sách: Năm 1999 Xí nghiệp nộp 2,7 tỷ đạt 104% kế hoạch, trong đó mức nộp của phát hình đạt 110% kế hoạch. Trong năm 2000 tổng nộp ngân sách giảm so với năm 1999 là 3,33% chỉ đạt 94,9% kế hoạch. Nănm 2001 đạt 103,2% kế hoạch trong đó thuế nhập khẩu 1999 là 1,495 tỷ, năm 2000 là 1,4 tỷ, năm 2001 là 1,405 tỷ. Và thuế VAT năm 1999 là 1,205 tỷ năm 2000 là 1.210, năm 2001 là 1,555. Như vậy thuế VAT trong các năm liên tục tăng điều đó chứng tỏ hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp đạt được là rất tốt. Bên cạnh đó thuế nhập khẩu có xu hướng giảm đó là dấu hiệu đáng mừng. Vì hầu hết các sản phẩm của Xí nghiệp sản xuất ra đều phải nhập linh kiện từ nước ngoài, nó cũng phù hợp với điều kiện của nước ta là nước đang phát triển. - Về lợi nhuận: Trong năm 1999 Xí nghiệp đạt mức lợi nhuận cao nhất là 245 triệu, đạt 147% kế hoạch, trong đó lợi nhuận từ máy thu hình là 200 triệu, máy thu thanh là 45 triệu. Trong hai năm tiếp theo lợi nhuận đạt thấp hơn năm 1999: Năm 2000 lợi nhuận đạt 150 triệu. Trong đó lợi nhuận máy thu hình là 95 triệu, máy thu thanh là 55 triệu, năm 2001 lợi nhuận có tăng so với năm 2000 nhưng vẫn thấp hơn 1999; Năm 2001 lợi nhuận đạt 230 triệu trong đó lợi nhuận thu từ máy thu hình là 170 triệu, từ máy thu thanh là 60 triệu. Nguyên nhân chính làm lợi nhuận năm 2000 giảm là do sản phẩm sản xuất ra chưa bán hết vẫn còn tồn tại. Trong kết cấu lợi nhuận thì lợi nhuận thu được từ máy thu hình luôn luôn lớn hơn lợi nhuận thu được từ máy thu thanh. Nhưng Xí nghiệp vẫn xác định mặt hàng chủ yếu là máy thu thanh, phục vụ cho các vùng sâu, xa thuộc các tỉnh miền núi Cao Bằng, Bắc Kạn, Yên Bái... Bên cạnh đó Xí nghiệp thường xuyên liên lạc với các đài tỉnh, huyện thậm chí cả các xã để bảo hành kịp thời tại chỗ hoặc hướng dẫn từ xa qua mạng lưới cán bộ kỹ thuật thuộc đài tỉnh huyện khi có trường hợp máy bị hư hỏng bởi vì Xí nghiệp đã xác định được đặc điểm của chương trình mục tiêu là mang tính chất xã hội. Đây không chỉ là một loại hàng hoá thông thường mà hàng hoá này phải đặt trong mối quan hệ cung ứng, gắn liền với trách nhiệm lâu dài của ngành phát thanh truyền hình. Do vậy trách nhiệm trước mắt và lâu dài của Xí nghiệp là không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm kết hợp thực hiện các biện pháp đồng bộ về trang bị, dịch vụ, bảo hành, bảo dưỡng sửa chữa.... Vì vậy sự tiến bộ xã hội là phần thưởng lớn nhất đối với Xí nghiệp. - Thu nhập bình quân đầu người lao động của Xí nghiệp không ngừng được cải thiện qua các năm. Năm 1999 là 1650 nghìm/tháng. Năm 2000 là 1900 nghìn/ tháng. Năm 2001 là 2000 nghìn/tháng. Như vậy thu nhập bình quân năm 2000 so với năm 1999 tăng 15,5%. Năm 2001 tăng 10,53% so với năm 2000. Xí nghiệp không ngừng quan tâm tới lợi ích của công nhân viên và đã áp dụng đòn bẩy kinh tế. Khuyến khích người lao động làm việc hết mình thông qua các phong trào thi đua chào mứng thành lập Đảng giải phóng thủ đô 1 - 5. - Hoạt động sản xuất kinh doanh tạo ra doanh thu chủ yếu cho doanh nghiệp. Bảng 3: So sánh kết quả doanh thu của một số lĩnh vực hoạt động Năm Doanh thu (triệu) Tỷ trọng (%) Thu thanh Thu hình Thu thanh Thu hình 1998 2944 15497 16 84 1999 7285,25 19068,48 27,6 72,4 2000 9741 20659 32 68 2001 10285 22251 31,6 68,4 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh Từ bảng trên ta thấy máy thu hình chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn doanh thu năm 1998 là 84% năm 1999 là 72,4%, năm 2000 là 68% năm 2001 là 68,4%. Tỷ trọng máy thu hình trong tổng doanh thu giảm liên tục trong các năm. Điều đó chứng tỏ khả năng cạnh tranh của máy thu thanh không ngừng được tăng lên, ngoài ra phải nói đến sự quan tâm cuả nhà nước đến đời sống kinh tế các xã vùng sâu, vùng xa. Vì sự phát triển cân bằng của toàn xã hội. Bảng 4: Báo cáo thực hiện hợp đồng Rađiô Năm 1998 Năm 1999 Năm 2000 Tỉnh Số lượng Tỉnh Số lượng (chiếc) Tỉnh Số lượng 1. Kon Tum 4329 Kon Tum 3175 Kon Tum 1984 2. Gia Lai 7792 Gia Lai 7142 Gia Lai 6350 3. Quảng Ngãi 5194 Quảng Ngãi 4762 Quảng Ngãi 3969 Lâm Đồng 6350 Lâm Đồng 5714 Đắc Lắc 7142 Yên Bái 3968 Yên Bái 5714 Lạng Sơn 6349 Lạng Sơn 5714 Lai Châu 3986 Lai Châu 4000 Quảng Nam 3976 Bình Định 7257 Thanh Hoá 5479 Sơn La 7143 Tổng: 17315 Tổng: 42856 Tổng: 57300 Nguồn: Phòng kinh doanh Mặc dù những chỉ tiêu cơ bản của năm 2001 đều tăng so với năm 1999. Nhưng xét về mặt định hình thì ta thấy tốc độ tăng năm 2001 chậm hơn năm 1999. Chứng tỏ hiệu quả sản xuất kinh doanh mà năm 2001 kém hơn so với năm 1999, Vì vậy Xí nghiệp phải cố gắng hơn nữa để đạt được mức tăng trưởng ổn định qua các năm. 2. Phân tích thực trạng tình hình hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian qua. Trong sáu năm Việt Nam đã hội nhập vào thị trường khu vực và quốc tế, thoạt đầu là thành viên của ASEAN. Sau đó tiếp tục tham gia vào một số định chế kinh tế - Thương mại của khu vực (AFTA, AICO...) Đầu năm 1996 Việt Nam là thành viên sáng lập diễn đàn hợ tác á, Âu (ASEM). Cuối năm 1998 là thành viên của tổ chức hợp tác kinh tế Châu á - Thái Bình Dương (APFC). Gần đây chúng ta mới gia nhập WTO và mới thực hiện hiệp định thương mại Việt - Mỹ. Vì vậy xí nghiệp cũng như các doanh nghiệp khác đang đứng trước những cơ hội chưa từng có để phát triển đồng thời cũng phải đối đầu với thách thức rất lớn. Tuy nhiên lợi nhuận trong các năm luôn ( +) điều đó chứng tỏ xí nghiệp đã đạt được hiệu quả tốt trong sản xuất kinh doanh. Bảng 5: Một số chỉ tiêu cơ bản về doanh thu lợi nhuận chi phí Chỉ tiêu Đơn vị tính 1999 2000 2001 Doanh thu Triệu đồng 26354 30400 32500 Chi phí Triệu đồng 26109 30250 32270 Lợi nhuận Triệu đồng 245 150 230 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh Nhìn vào bảng trên ta thấy: Về mặt tuyệt đối chỉ tiêu về doanh thu của xí nghiệp năm sau luôn lớn hơn năm trước.Còn về lợi nhuận năm 1999 đạt cao nhất. Về mặt lượng:Doanh thu năm 2000 cao hơn năm 1999 là 4046 triệu.Năm 2001 cao hơn năm 1999 là 95 triệu đồng.Năm 2001 cao hơn năm 2000 là 80 triệu,nhưng thấp hơn năm 1999 là 15 triệu. Điều đó chứng tỏ xí nghiệp làm ăn chưa đạt hiệu quả tốt.Xét về mặt định tính phản ánh về chất lượng sản xuất kinh doanh thì doanh thu năm 2000 tăng 15,35% so với năm 1999.Trong khi lợi nhuận lại giảm 38,7%.Điều đó chứng tỏ chi phí sản xuất kinh doanh của xí nghiệp đã tăng nhanh hơn tốc độ tăng doanh thu. Nguyên nhân chủ yếu là do chi phí quản lý doanh nghiệp tăng và chi phí quản lý tăng,chí phí nguyên vật liệu cũng tăng...Doanh thu năm 2001 tăng 6,9 lần so với năm 2000 trong khi đó lợi nhuận tăng 53,3%.Điều đó cho thấy xí nghiệp đã phần nào khắc phục được những chi phí không hợp lý,đồng thời có những chính sách thích hợp để khuyến khích tinh thần lao động...Nếu xét chung ta thấy mặc dù cạnh tranh ngày càng gay gắt nhưng doanh nghiệp đã chứng tỏ được vị thế của mình trên thị trường và bắt kịp tốt với sự phát triển kinh tế xã hội của toàn đất nước. Bảng 6: Tốc độ tăng một số chỉ tiêu. Chỉ tiêu 2000/1999 2001/2000 Tốc độ tăng doanh thu 15,35 6,9 Tốc độ tăng chi phí 15,86 6,68 Tốc độ tăng lợi nhuận -38,78 53,3 Nguồn:Tổng hợp từ báo cáo tổng kết năm 1999-2001 Như vậy tốc độ tăng doanh thu năm 2001 cao hơn tốc độ tăng chi phí.Điều này chứng tỏ xí nghiệp hoạt động năm 2001 tốt hơn năn 2000 về hiệu quả.Nhưng tốc độ tăng doanh thu không đáng kể so với tốc độ tăng chi phí,đây là một yếu tố để ta có thể tăng hiệu quả cao hơn nữa. Riêng năm 2001 xí nghiệp đã đạt được nhiều kết quả trong việc giảm chi phí. Tốc độ tăng lợi nhuận giảm sút trong năm 2000,có nguyên nhân chủ yếu là do năm 2000 xí nghiệp có nhiều khoản thất thoát như: Lũ lụt cuấn trôi một số hàng hoá trong khi vận chuyển...Năm 2001 tuy chi phí quản lý doanh nghiệp giảm được 95 triệu so với 750 triệu của năm 2000. Nhưng chi phí nguyên vật liệu lại tăng vọt tới 238 triệu so với 100 triệu của năm 2000. Ngoài ra chi phí tăng còn do xí nghiệp liên tục đổi mới,bảo dưỡng,sửa chữa nâng cấp dây chuyền công nghệ. Bên cạnh đó xí nghiệp còn chưa sử dụng hết công suất của dây chuyền công nghệ làm chi phí tăng, giảm sức sinh lời cũng như sức sản xuất của vốn cố định và làm giảm hiệu quả kinh doanh của xí nghiệp. Bên cạnh đó chi phí tăng còn do xí nghiệp liên tục đổi mới mẫu mã,chủng loại sản phẩm...Như vậy việc tăng chi phí có ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả kinh doanh của xí nghiệp. Đây là vấn đề cần xem xét trong thời gian tới. a. Xét hiệu quả sản xuất kinh doanh theo hiệu quả sử dụng lao động. Bảng 7: Tình hình sử dụng lao động của xí nghiệp. Năm Số lao động bình quân(người) Tổng quỹ lương(tỷ) 1999 78 1,1 2000 76 1,24 2001 75 1,35 Nguồn: Phòng tổ chức hành chính Từ bảng trên ta thấy xí nghiệp đã không ngừng quan tâm tới đời sống cán bộ công nhân viên mặc dù số lượng lao động bình quân năm giảm dần nhưng tổng quỹ lương vẫn luôn tăng năm 2000 so với năm 1999 tăng 12,7%,năm 2001 so với năm 2000 tăng 8,87%. Năm 2001 so với năm 1999 tăng 22,73%. Bảng 8: Tình hình hiệu quả sử dụng lao động. Chỉ tiêu Đơn vị tính 1999 2000 2001 HSLĐBQ Triệu/người 337,78 400 433,33 Lợi nhuận bình quân/người Triệu/người 3,141 1,974 3,067 KQSX/một đồng tiền lương đồng/đồng 23,96 24,52 24,07 Hệ số sử dụng lao động % 95 92 91,5 Nguồn :Tổng hợp từ báo cáo lao động tiền lương. Năm 2000 xí nghiệp gặp một số khó khăn do lũ lụt đã làm mất toàn bộ một chuyến hàng trên đườngvận chuyển,mặt khác do một số hàng lớn vẫn chưa bán được dẫn tới chi phí tăng nên,lợi nhuận bình quân trên một lao động giảm mạnh so với năm 1999. Đánh giá chung hiệu quả sản xuất kinh doanh của xí nghiệp năm 2000 là kém hiệu quả.Vì vậy khi xác định hiệu quả hoạt động của xí nghiệp trong 3 năm qua chúng ta phải so sánh các chỉ tiêu của năm 2001 so với năm 1999 mới phản ánh chính xác thực trạng hiệu quả hoạt động. Năng suất lao động bình quân năm 2001 là 433,33 triệu đồng trên người cao hơn năm 1999 là 337,78 triệu đồng trên người,chủ yếu là do giảm số lao động dư thừa,tinh giảm bộ máy quản lý,chú trọng về chất lượng lao động,nâng cao thu nhập,nâng cao thu nhập,đời sống.Đây là một yếu tố có thể khai thác để nâng cao hiệu quả hoạt động của xí nghiệp.Nhưng khi xét về lợi nhuận bình quân trên một lao động thì năm 1999 gấp 1,63 lần năm 2000 và 1,07 lần năm 2001.Để xét về hiệu quả thì chỉ tiêu lợi nhuận bình quân trên một lao động là có ý nghĩa hơn cả đối với bất kỳ doanh nghiệp nào hoạt động trong cơ chế thị trường.Trường hợp này chứng tỏ xí nghiệp chỉ chú trọng đến vấn đề quy mô mà chưa quan tâm đến vấn đề hiêụ quả cũng như vấn đề kiểm soát chi phí và hạ giá thành sản phẩm,cần phải chú trọng hơn nữa trong thời gian tới. Theo bảng phân tích các chỉ tiêu trên ta thấy cứ một đồng chi phí tiền lương xí nghiệp trả cho người lao động đem lại 23,96 đồng doanh thu năm 1999;24,52 đồng doanh thu năm 2000 và 24,07 đồng doanh thu năm 2001.Đây là con số khá cao chứng tỏ lao động trong xí nghiệp làm việc khá hiệu quả.Có một vấn đề cần xem xét là hiệu quả hoạt động của xí nghiệp năm 1999 khá cao ,tuy nhiên tiền lương rất thấp 1650 nghìn/tháng trong khi năm 2000 và năm 2001 hiệu quả giảm mạnh,tốc độ tăng lợi nhuận cả hai năm so với năm 1999 đều thua xa nhưng tiền lương bình quân năm 2000,năm 2001 so với năm 1999 là 1,1515 và 1,212.Tốc độ tăng lợi nhuận trong cả hai năm 2000 và 2001 so với năm 1999 nhỏ hơn tốc độ tăng chi phí tiền lương và nó gây ảnh hưởng xấu tới kết quả kinh doanh. Bảng 9: Tốc độ tăng doanh thu, lợi nhuận, chi phí tiền lương Chỉ tiêu Tốc độ tăng doanh thu Tốc độ tăng lợi nhuận Tốc độ tăng chi phí tiền lương 2000/1999 15,35 - 38,78 12,7 2001/2000 6,9 53,3 8,9 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh Từ bảng trên ta thấy lợi nhuận năm 2000 giảm 38,78% so với năm 1999 trong khi đó tốc độ tăng doanh thu có xu thế giảm xuống. Năm 2000 tăng 15,35% so với năm 1999 nhưng năm 2001 chỉ tăng 6,9% so với năm 2000 vì vậy Xí nghiệp cần phải tìm xem đâu là nguyên nhân chính dẫn đến sự giảm sút này. Mặt khác lợi nhuận năm 2000 giảm mạnh so với năm 1999 ngoài nguyên nhân hàng bị trôi ra còn do tốc độ do tốc độ tăng chi phí tiền lương quá lớn (12,7%). b. Xét theo hiệu quả sử dụng vốn cố định - Sức sản xuất vốn cố định = Doanh thu tiêu thụ trong kỳ Vốn cố định bình quân trong kỳ - Sức sinh lời của vốn cố định = Lợi nhuận trong kỳ Vốn cố định trong kỳ Bảng 10: Tình hình hiệu quả sử dụng vốn cố định Chỉ tiêu 1999 2000 2001 Sức sản xuất của vốn cố định 0,527 0,53 0,524 Sức sinh lời của vốn cố định 0,0049 0,0026 0,0037 Nguồn: Tổng hợp từ báo cáo kết quả kinh doanh Nhìn bảng ta thấy rằng doanh thu mà một đồng vốn cố định mang lại năm 2000 là cao nhất 0,53 đồng nhưng lợi nhuận do một đồng yếu tố đầu vào này lại là nhỏ nhất giảm 1,88 lần so với năm 1999. Lợi nhuận là mục tiêu cuối cùng cả các doanh nghiệp. Như thế có thể nói mục tiêu sử dụng tài sản cố định của Xí nghiệp chưa đạt kết quả tốt. Nguyên nhân là do dây chuyền sản xuất của Xí nghiệp đã quá cũ nát, tốc độ tăng chi phí năm._. theo định biên có xem xét đến việc giữ lại và đào tạo một số lao động có năng lực. + Trước hết lực chọn người có kiến thức có sức khoẻ, trẻ ở các phòng ban đi bồi dưỡng, đào tạo lại. Sau đó căn cứ vào bảng phân tích công việc, cơ cấu tổ chức mới để xem xét từng vị trí làm việc cụ thể để quyết định vị trí nào đòi hỏi nhân tố mới hoàn toàn, thêm về kiến thức và sự năng động sáng tạo (ví dụ Marketing). Chủ đề quan trọng cần đề cấp đến trong tuyển mộ là xây dựng tiêu chuẩn tuyển mộ của từng ứng viên dựa vào bảng phân tích công việc. Do Xí nghiệp chưa xây dựng bảng phân tích công việc nên đặt ra các tiêu chuẩn nhiều khi không có căn cứ. Trong phiếu điểm tuyển của Xí nghiệp có những điểm sau: Phiếu điểm Môn thi Hệ số Điểm Nhận xét - Vô tuyến điện - Chế tạo máy - Quản lý chất lượng - Kế toán - tài chính - Vi tính - Ngoại ngữ - Dự thảo hợp đồng kinh tế - Chuyên môn khác Tiêu chuẩn đầu tiên và cao nhất là vô tuyến điện chế tạo máy hầu như chỉ có sinh viên Bách Khoa, kinh tế và đáp ứng được. Xã hội ngày nay có sự chuyên môn hoá mạnh, những vị trí nào sẽ đòi hỏi con người có đầy đủ kiến thức và có khả năng tương ứng. Trong kinh doanh lao động quản trị được chia thành 3 cấp: Cơ sở (đốc công đội trưởng) trung gian (Trưởng phòng ban), cao cấp (giám đốc, phó giám đốc). Nếu như ở cấp cơ sở kiến thức kỹ thuật được coi là hàng đầu sau đó mới đến kỹ năng tổ chức và quan hệ bên ngoài thì càng nâng cao kiến thức kỹ đòi hỏi ít đi và chủ yếu là kiến thức kỹ năng tổ chức và quan hệ bên ngoài. ở cấp cao cấp nhất theo tính toán yếu tố kỹ thuật chỉ chiếm 20% kiến thức và tập trung lớn nhất vào quan hệ đối ngoại sau đó đến tổ chức. Vì vậy thứ nhất, tiêu chuẩn rất cần thiết nhưng mức độ đòi hỏi cho từng vị trí làm việc khác nhau là khác nhau do đó cần linh hoạt, thứ hai một cá nhân có hiểu biết tốt ở vị trí này nhưng không hẳn cũng làm tốt ở vị trí cao hơn với đòi hỏi mới về kiến thức kỹ năng cần có cho vị trí mới, vì vậy cá nhân đó cũng cần được đào tạo chuẩn bị trước khi đề bạt. Tiêu chuẩn về quản lý chất lượng là rất cần thiết cho mọi người trong Xí nghiệp bởi vì khi Xí nghiệp đã áp dụng thành công một hệ thống quản lý chất lượng thích hợp thì sẽ giúp cho sản phẩm tăng sức cạnh tranh, doanh thu, lợi nhuận không ngừng tăng, giảm thiểu những chi phí thiệt hại do vậy vừa đạt hiệu quả về phía doanh nghiệp vừa đạt hiệu quả cho xã hội. Tiêu chuẩn vi tính và ngoại ngữ nhìn qua quả rất cần thiết cho nhân viên nhưng trên thực tế vi tính chỉ sử dụng như máy đánh chữ, còn ngoại ngữ tỏ ra xa vời hơn bởi vì khách hàng của Xí nghiệp đều ở trong nước. Các vị trí hiện tại không đòi hỏi trình độ vi tính và ngoại ngữ vì không có điều kiện sử dụng. Hoàn toàn không sai nến Xí nghiệp muốn phát triển sản xuất kinh doanh và cần những nhân viên như vậy nhưng thực tế việc đưa ra tiêu chuẩn này không căn cứ vào chiến lược của Xí nghiệp vì vậy nó không phù hợp và không có tính thực tế. Trước yêu cầu của việc mở rộng sản xuất đa dạng hoá sản phẩm cần phải tuyển thêm một vị trí nào đó, căn cứ vào bảng phân tích công việc để xác định tiêu chuẩn ứng viên và các trang bị cần thiết cho nhân lực mới đảm bảo hoàn thành công việc: phòng làm việc, bàn làm việc và trang thiết bị khác.... ví dụ căn cứ vào chiến lược thấy rằng cần thành lập bộ phận Marketing với các chức năng, nhiệm vụ, khối lượng công việc đã xác định, phòng tổ chức lao động chính thức đưa ra các tiêu chuẩn lựa chọn ứng viên và thực hiện các quy trình tuyển chọn cụ thể. Tuy nhiên nếu cứ đào tạo, tuyển mộ nhân lực mà không có sự phát triển tương ứng về phương diện làm việc, về điều kiện khách quan của thị trường, khách hàng để áp dụng những kỹ năng đã được đào tạo thì sẽ làm thui chột trình độ nhân viên và việc đào tạo không có hiệu quả và ý nghĩa. Vậy biện pháp cho vấn đề này vẫn là: + Xây dựng bảng phân tích công việc + Cần thiết phải có một quản trị nhân lực được trang bị về kiến thức và kinh nghiệm để đảm bảo trách nhiệm việc xây dựng chương trình phát triển nhân lực. Người này nên là người mới tuyển mộ. + Phải giải quyết dứt điểm số cán bộ sắp đến tuổi nghỉ hưu, thiếu năng lực trong công tác, không có việc làm, tạo điều kiện để thuyên chuyển, đào tạo lại, hỗ trợ thêm về tài chính lao động tình nguyện nghỉ hưu trước tuổi. Khi thực hiện được vấn đề tuyển dụng lao động mới có năng lực thích hợp với yêu cầu mới cũng như việc giảm số lao động dư thừa do không có những kiến thức kỹ năng cần thiết Xí nghiệp sẽ tạo ra cho mình một đội ngũ nhân viên có sức trẻ, năng động, nhanh chóng tiếp thu và dễ dàng thích nghi những kiến thức, kỹ năng mới trong điều kiện cạnh tranh gay gắt như hiện nay, chấp nhận cạnh tranh, có năng lực đủ sức đáp ứng được công việc một cách tốt nhất, với số nhân viên ít nhưng làm việc có hiệu quả, hoàn thành nhhiệm vụ mà Xí nghiệp đặt ra đúng thời gian, số lượng cũng như vấn đề chấ lượng Xí nghiệp. Đồng thời Xí nghiệp sẽ giảm được gánh nặng về việc làm, nâng cao thu nhập và đời sống cho người lao động, tăng năng suất lao động. Tuy nhiên chương trình phát triển nhân lực cần phải xác định được vị trí nào cần tuyển thêm người có các vị trí nào cần được đào tạo lại. Đặc biệt là nhân lực cho phòng Marketing phòng tổ chức hành chính. Nói tóm lại con người là yếu tố quan trọng nhất. Chính nó quyết định trình độ sử dụng các nguồn nhân lực. Trình độ sử dụng vốn cố định, vốn lưu động tạo ra donh thu, lợi nhuận bao nhiêu cho Xí nghiệp, nộp ngân sách nhà nước đúng và đủ, hạ giá thành, tiết kiệm chi phí, boả dưỡng, sửa chữa máy móc thiết bị tốt hay xấu đều do nhân tố con người quyết định. - Về khuyến khích vật chất và tinh thần đối với người lao động Về khuyến khích vật chất trong Xí nghiệp tập trung vào lương và thưởng Vấn đề không nằm ở lương mà nằm ở thưởng. Như đã phân tích rút ra những tồn tại yếu kém trong việc xét thưởng. Để khắc phục cần xây dựng ngay một cơ chế đánh giá thành quả nhân viên một cách kịp thời đúng để thưởng, tuy ít nhưng phát huy tác dụng khuyến khích tinh thần làm việc của nhân viên, nâng cao năng suất lao động. Cơ chế đánh giá thành tích phải căn cứ vào bảng phân tích công việc, nhiệm vụ được giao và kết quả thực hiện của từng người, từng phòng ban trong từng thời kỳ, không gộp thưởng một lần vào cuối năm như hiện nay. Cần xây dựng quỹ tiền thưởng để thưởng ngay cho những người lao động có thành tích suất sắc, ý kiến đóng góp bổ ích và những sáng kiến làm lợi cho Xí nghiệp. Tuy nhiên đánh giá con người là việc làm hết sức thận trọng và cần thiết. Một sự đánh giá đúng đắn kịp thời có hiệu quả hơn là động viên tinh thần làm việc của nhân viên, ngược lại đánh giá sai lầm có thể gây những bất bình từ phía người được đánh giá và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công việc. Việc đánh giá và xét thưởng cần phải đúng với kết quả thành tích người lao động đạt được. Nếu đánh giá kết quả quá cao thì tác hại xảy ra không phản đối với người được thưởng mà chính là những người khác sẽ tỏ thái độ cho rằng trong sự đánh giá có sự thiên vị, có tình cảm cá nhân xen vào và gây ra cho họ sự chán nản, bất bình. Ngược lại đánh giá quá thấp thành tích hay sự nỗ lực đóng góp của cá nhân nào đó thì sẽ thủ tiêu tinh thần sáng tạo và mong muốn đóng góp cho sự thành công của Xí nghiệp. Ta thấy rằng cả hai trường hợp đều có hậu quả đáng tiếc. Vấn đề bây giờ là phải dựa vào bảng phân tích công việc để người đánh giá biết được rằng công việc đó có hoàn thanh theo tiêu chuẩn kỹ thuật, thời gian cho phép với số lượng và chất lượng công việc như thế nào. Làm được thế này mới đảm bảo công bằng trong việc xét thưởng. Như vậy việc xét thưởng người lao động nhằm mục đích đánh giá chính xác những đóng góp của họ cho Xí nghiệp và có phần thưởng xứng đáng với những gì họ đã làm được và khuyến khích đạt được những kết quả cao hơn trước. Có thể nói rằng đây là một đòn bẩy kinh tế có tác dụng nâng cao lao động tốt nhất, gắn bó quyền lợi và trách nhiệm của người lao động, thúc đẩy họ nhiệt tình, tận tâm trong công việc và mong muốn đóng góp ngày càng nhiều hơn cho Xí nghiệp. Đây là một biện pháp mà Xí nghiệp sử dụng để nâng cao năng suất lao động và gắn bó người lao động với Xí nghiệp. Song song với vấn đề khen thưởng là kỷ luật lao động cũng đóng góp vai trò quan trọng trong khuyến khích, động viên người lao động làm việc. ở đây muốn nhấn mạnh đến việc đánh giá người lao động không hoàn thành nhiệm vụ hoặc vi phạm nội quy, quy chế của Xí nghiệp hay vi phạm pháp luật là do nguyên nhân khách quan hay chủ quan. Đối với sai lầm do chủ quan vì thiếu tinh thân trách nhhiệm thì không thể tha thứ và phải căn cứ vào bảng phân tích công việc để xác định nhiệm vụ, quyền hạn của người được giao việc và hậu quả của việc thiếu ý thức để có quyết định xử phạt hợp lý tuỳ theo mức độ nặng nhẹ của hậu quả. Việc xử phạt nghiêm khắc để răn đe đồng thời cả người phạm lỗi và người chưa phạm lỗi. Không để tình trạng vị nể tình riêng mà xử nhẹ gây ra tình trạng bất bình và nhờn kỷ luật đối với người lao động. Mục đích của kỷ luật là để lần sau người vi phạm có ý tưởng sáng tạo. Trong Xí nghiệp phải xây dựng được tinh thần đoàn kết giữa các cá nhân cũng như giữa các phòng ban với nhau, có như vậy mới nâng cao được hiệu quả của công việc. Việc kỷ luật người lao động như đã nói ở trên là không được gây ra mâu thuẫn giữa các cá nhân cũng như giữa các phòng ban vì nếu như vậy sẽ rất nguy hiểm. Khi có mâu thuẫn xảy ra nó sẽ triệt tiêu tinh thần hợp tác giữa các cá nhân cũng như giữa các phòng ban, nhiều khi còn ngầm phá hoại nhau trong công việc. Kết quả là công việc trong Xí nghiệp sẽ bị ách tắc, đình trệ và hiệu quả công việc sẽ bị giảm sút. Tuy nhiên việc khen thưởng hay kỷ luật người lao động chỉ thật sự có ý nghĩa khi trên thực tế trên cơ sở bố trí đúng người, đúng việc, theo dõi đánh giá kết quả thực hiện của cán bộ công nhân viên để có biện pháp xử lý thích hợp. Không phải mọi trường hợp sai phạm giống nhau đều có cách giải quyết giống nhau. Chẳng hạn do công việc vượt quá khả năng dù lỗ lực người lao động không thể hoàn thành và một bên là có năng lực nhưng do thiếu tinh thần nên cũng không hoàn thành thì cách sử lý phải khác nhau. Trước yêu cầu phải bố trí đúng người đúng việc đòi hỏi phải có bảng phân tích rõ ràng, chi tiết trong đó nêu rõ tiêu chuẩn nhân viên phải có để phù hợp với vị trí làm việc. Do vậy nếu chỉ dùng bảng thống kê số lượng, chất lượng cán bộ công nhân viên theo hướng dẫn của Nhà nước là chưa đủ. Số lượng, chất lượng lao động trong Xí nghiệp Ngành nghề Tổng số Trong đó Nữ Cấp bậc cơ bản 1234567 Cấp bậc bình quân 1. Lái xe 2. Cán bộ KHKT 3. Đại học, cao đẳng 4. Trung học 5. Chuyên nghiệp 6. Thợ sửa chữa 7. Sản xuất phụ Các chỉ tiêu trong bảng có ý nghĩa với cơ quan quản lý nhà nước mà ít có ý nghĩa với Xí nghiệp ĐTTH bởi vì không chi tiết là những con người đó có được bố trí đúng việc hay không. Sẽ không có hiệu quả nếu một người có trình độ đại học lại làm những việc chỉ yêu cầu trình độ trung học, thật là lãng phí chất xám. Vì vậy để bố trí công việc không thể chỉ dừng lại ở việc thống kê số lượng đơn thuần mà cần đi sâu xem xét tương hợp của trình độ, sở trường đối với công việc và con người củ thể từ đó có phương hướng sắp xếp nhân lực hợp lý nhằm phát huy tiềm năng nhân lực của Xí nghiệp cải thiện môi trường làm việc. Rõ ràng một lần nữa vai trò của bảng phân tích công việc được đề cao như một cơ sở cho việc đánh giá sự tương hợp giữa yêu cầu công việc và năng lực của nhân viên. Tuy thấy rằng việc bố trí đúng người, đúng việc ảnh hưởng trực tiếp tới hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp vì nếu bố trí công việc vượt quá khả năng thì người lao động không thể hoàn thành, ngược lại gây ra tình trạng chán nản cho người lao động và lãng phí nguồn nhân lực. Biện pháp 2: Về huy động và sử dụng vốn Khó khăn lớn nhất của Xí nghiệp ĐTTH hiện nay là dây chuyền công nghệ đã cũ lạc hậu, công suất thấp không phù hợp với điều kiện sản xuất hiện tại và trong tương lai. Tuy nhiên nguyên nhân của vấn đề là do Xí nghiệp thiếu vốn một cách trầm trọng. Lợi nhuận thấp, tích luỹ đầu tư từ lợi nhuận hầu như không đáng kể, vì vậy để huy động vốn, trước mắt không thể trông chờ vào khoản tự tích luỹ của Xí nghiệp. Đứng trước yêu cầu cấp bách của việc đầu tư đổi mới, bảo dưỡng, sửa chữa, nâng cấp dây truyền công nghệ đòi hỏi Xí nghiệp phải nhanh chóng huy động được nguồn vốn thoả nãm những điều kiện sau: + Nguồn vốn huy động được phải lớn, đủ cho nhu cầu đầu tư theo kế hoạch dự kiến. Năm 2000 do thiếu vốn nên Xí nghiệp đầu tư chỉ đạt 1,91 tỷ tương đương 60% kế hoạch đề ra, gây khó khăn trong việc củng cố sản xuất kinh doanh cũng như khả năng cạnh tranh của Xí nghiệp. + Nguồn vốn huy động phải được dài hạn. Yêu cầu này đặt ra là do những đầu tư vào tài sản cố định thì thời gian thu hồi vốn chậm. Vì vậy cần vốn nhưng phải đảm bảo ổn định trong thời gian dài Xí nghiệp mới có khả năng hoàn trả. Như vậy Xí nghiệp phải huy động được nguồn vốn lớn, trong dài hạn và chỉ có thể chịu được với mức lãi suất thấp. Đây là những yêu cầu mà khi vay ai cũng mong muốn có được. Thực hiện nó ủa là một vấn đề cực kỳ khó khăn, tuy nhiên để có vốn đầu tư có hiệu quả, vực dậy sản xuất vận tải thì Xí nghiệp không thể không thực hiện. Hiện nay có một số ý kiến cho rằng " từ lâu Xí nghiệp lãng phí nguồn vốn rất lớn, đó là không huy động vốn từ bản thân các cán bộ công nhân viên nếu triển khai như trên là không căn cứ vào thực tế vì những lẽ sau: + Thu nhập của cán bộ công nhân viên trong Xí nghiệp là chưa cao bình quân năm 2001 là 200.000đ/ tháng. Với số tiền này sống ở Hà Nội thì chỉ đủ trang trải cho bản thân mình. Đời sống nói chung của người lao động thấp vì vậy tiền tiết kiệm được không đáng kể. + Khi huy động vốn từ công nhân viên trong Xí nghiệp thì lãi suất trả cho họ phải cao hơn lãi suất tiền gưỉ ngân hàng cho công nhân viên phải thấp hơn lãi vay của ngân hàng. Nếu không thì không thể chấp nhận được. Đứng trước tình hình như vậy ta có các thình thức tạo vốn cho ĐTTH như sau: 2.1. Về huy động vốn - Thứ nhất Xí nghiệp phải giải quyết tốt công việc thu hồi nợ từ khách. Không để nợ dây dưa kéo dài, thanh lý hợp đồng dứt khoát, tuy nhiên để thu nợ đúng hạn đòi hỏi Xí nghiệp có nhiều khéo léo. Không chỉ đơn thuân dựa vào đúng tính hợp lý đã ký kết trong hợp đồng mà áp dụng. Nếu như vậy sớm hay muộn cũng mất khách. Điều mấu chốt ở đây là phải thoả thuận đàm phán vì trong cơ chế ngày nay phải cho nợ thì mới tính chuyện làm ăn lâu dài trước hết. Xí nghiệp phải dựa vào hợp đồng ký kết để thu hồi nợ, sau đó phải trình bày, làm cho khách hàng hiểu được những khó khăn của Xí nghiệp lớn nhất hiện nay là vấn đề vốn và nếu thiếu nó sẽ gây đình chệ sản xuất. Vốn của Xí nghiệp ít vì vậy việc thu hồi nợ đúng thời hạn có ý nghĩa quan trọng như thế nào. Kết quả cuối cùng là khách hàng thông cảm và chấp nhận thanh toán. Trong quá trình thu hồi nợ thì Xí nghiệp phải luôn nhắc nhở khách hàng để khách hàng có sự chuẩn bị trước, tránh tình trạng bị động và không thanh toán đúng thời hạn gây khó khăn cho Xí nghiệp. Tóm lại để thu hồi vốn đúng thời hạn thì Xí nghiệp phải kết hợp cả hai biện pháp đó là cả tình và lý. - Thứ hai Xí nghiệp có thể huy động vốn từ việc thanh lý các phương tiện máy móc thiết bị. Trong số các máy móc thiết bị của Xí nghiệp hiện nay có một số đã hết khấu hao việc thanh lý chúng sẽ tạo cho Xí nghiệp một nguồn vốn nhất định để đầu tư thiết bị máy móc mới. - Thứ ba: Huy động nguồn vốn nhàn rỗi từ cán bộ công nhân viên: Mặc dù thu nhập bình quân của Xí nghiệp chưa cao nhưng nếu tiết kiệm thì mỗi tháng mỗi người có thê trích ra từ 300.000 á 700.000 để tiết kiệm và nếu như Xí nghiệp biết cách huy động được nguồn vốn này thì sẽ rất thuận lợi cho sự phát triển của Xí nghiệp. Vì khi đã cho Xí nghiệp vay thì họ sẽ có trách nhiệm hơn với Xí nghiệp từ đó sẽ tạo điều kiện tốt cho việc nâng cao năng suất lao động và hạ giá thành sản phẩm giảm thiểu được những chi phí không đáng có. - Thứ tư: Huy động nguồn vốn từ ngân hàng: đây là nguồn vốn rất quan trọng vì vậy Xí nghiệp phải tạo mối quan hệ tốt với các ngân hàng. Tóm lại để huy động vốn một cách có hiệu quả thì Xí nghiệp ĐTTH phải thực hiện những biện pháp sau: + Giải quyết tốt công tác thu hồi nợ từ khách hàng, tránh để tình trạng nợ quá hạn. + Huy động vốn từ việc thanh lý các máy móc thiết bị. + Huy động nguồn vốn nhãn rỗi từ cán bộ công nhân viên trong Xí nghiệp + Vay từ ngân hàng 2.2. Về sử dụng vốn Sử dụng vốn một cách có hiệu quả sẽ làm giảm nhu cầu về vốn đầu tư. ở Xí nghiệp ĐTTH theo đánh giá trong thời gian qua việc hiệu quả sử dụng vốn có xu hướng suy giảm, vì vậy yêu cầu phải chú trọng đến vấn đề này: + Trước hết với một số vốn không tăng có thể tăng được doanh số hoạt động, tạo điều kiện tăng lợi nhuận như Xí nghiệp tăng được tốc độ vốn luân chuyển, ta có Tổng doanh thu - vốn lưu động bình quân x hệ số luân chuyển Như vậy trong điều kiện vốn không đổi nếu tăng được hệ số luân chuyển sẽ tăng được doanh thu. Chẳng hạn năm 2001 nếu hệ số luân chuyển là 3 thì doanh thu của Xí nghiệp là 51 tỷ. + Với một số vốn lưu động ít hơn nếu tăng tốc độ luân chuyển sẽ đạt doanh số như cũ, thậm chí còn cao hơn nếu năm 1999 số vòng quay của vốn lưu đông là 2,5 thì doanh thu là 33,75 tỷ. Ta thấy các yếu tố ảnh hưởng tới tốc độ luân chuyển vốn ở Xí nghiệp ĐTTH +Tình hình thu mua, cung cấp, dự trữ nguyên vật liệu, linh kiện... + Tình hình thanh toán công nợ Biện pháp 3: Đầu tư cho dây chuyền công nghệ Qua phân tích thực trạng hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian qua (1999 - 2001) và tìm ra nguyên nhân,ta thấy yêu cầu nâng cấp dây chuyền công nghệ là yêu cầu bức thiết của Xí nghiệp và cần phải đáp ứng kịp thời. Khi đầu tư nâng cấp dây chuyền công nghệ phải căn cứ vào: + Nhu cầu thị trường hiện tại và trong tương lai: Đây là yếu tố hàng đầu vì sản phẩm của Xí nghiệp là sản phẩm điện tử do đó hao mòn vô hình rất nhanh vì vậy nó sẽ ảnh hưởng lâu dài đối với hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp. + Khả năng tài chính của Xí nghiệp: Vốn đầu tư nâng cấp dây chuyền công nghệ của Xí nghiệp là rất khan hiếm vi vậy khi đầu tư phải chú ý đến vấn đề chi phí nếu không sẽ vượt quá khả năng của Xí nghiệp và dự án đầu tư không có tính khả thi + Phụ tùng thay thế: Trong quá trình hoạt động thì máy móc thiết bị không tránh khỏi hao mòn hỏng hóc cần sửa chữa và có phụ tùng thay thế. + Khả năng thích ứng với điều kiện Việt Nam: Khí hậu nhiệt đới ẩm của Việt Nam dễ làm ăn mòn nhanh máy móc thiết bị; máy móc thiết bị phải phù hợp với người Việt Nam ví dụ về chiều cao: + Kế hoạch và chiến lược cua Xí nghiệp trong thời gian tới: Để đầu tư có hiệu quả thì bộ phận đầu tư phải kết hợp với các phòng ban để biết rõ về kế hoạch sản xuất kinh doanh trong thời gian tới tránh tình trạng đầu tư nâng cấp máymóc thiết bị mà chỉ sử dụng được một phần công suất của máy + Xí nghiệp cần phải nắm bắt thông tin về giá cả của thị trường để tránh tình trạng mua "hớ". Một vấn đề quan trọng nữa là Xí nghiệp phải đánh giá chính xác giá trị của các bộ phận phải nâng cấp, tình trạng của các bộ phận đó... Như vậy bộ phận đầu tư phải kết hợp với các Xí nghiệp có kinh nghiệm trong công việc này để thực hiện kế hoạch đầu tư một cách tốt nhất. Biện pháp 4: Về thành lập phòng Marketing Sự đình trệ trong hoạt động tiêu thụ hàng hoá của Xí nghiệp ĐTTH ngoài một số nguyên nhân như chất lượng chưa cao mẫu mã chưa phong phú đa dạng thì sự biến động liên tục của hàng hoá trên thị trường đã cản trở Xí nghiệp rất nhiều trong việc nâng cao chất lượng sản phẩm, tăng doanh thu và lợi nhuận cho Xí nghiệp gặp nhiều khó khăn trong việc tạo nguồn hàng ổn định vì sự cạnh tranh rất mạnh của Xí nghiệp liên doanh với nươc ngoài, vì vậy sản phẩm tồn kho vẫn nhiều. Kinh tế thị trường ngày càng phát triển thì hoạt động marketing giữ vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại của Xí nghiệp. Xí nghiệp luôn mong muốn tăng sản lượng hàng hoá bán ra, tăng doanh thu nhưng lại không có biện pháp cụ thể nào. Hàng hoá bán ra chủ yếu dựa vào các khách hàng truyền thống. Vì vậy trong những năm qua sản lượng hàng hoá tăng không đáng kể. Đã đến lúc Xí nghiệp cần có một hướng mới trong việc tìm kiếm khách hàng bên ngoài khách hàng quen thuộc, có như vậy Xí nghiệp mới tăng được nhanh, mạnh sản lượng hàng hoá bán ra. Thực tế hiện nay Xí nghiệp chưa có một phòng riêng biệt nào đứng ra đảm trách về công tác marketing mà tìm hiểu thị trường. Một câu hỏi rất khó trả lời là tại sao trong một thời gian dài và cho đến tận thời điểm hiện nay Xí nghiệp, nhà nước không còn bao cấp nữa tức Xí nghiệp phải tìm đến khách hàng và tự lo cho mình hàng hoá sản xuất trong khi hầu hết các doanh nghiệp khác thì không thể thiếu. Phải chăng Xí nghiệp chưa nhận thức được tầm quan trọng của công tác marketing và tìm hiểu nhu cầu thị trường tình trạng xe nằm chờ hàng kéo dài với nhiều xe gây cho Xí nghiệp nhiều khó khăn sức ép về tạo việc làm cho lao động, hoạt động vận tải thua lỗ và nếu có lời thì lợi nhuận cầm chứng như đã trình bày ở trên và rất thấp. Yêu cầu huy động vốn để đầu tư đặt ra rất cấp thiết và cần nhanh chóng triển khai để đưa ra khỏi giai đoạn trì trệ như hiện nay. Trước những vấn đề như vậy tính cấp thiết của việc thành lập bộ phận chuyên về công tác marketing và nghiên cứu thị trường là hết sức đúng đắn và cần được sự quan tâm của ban lãnh đạo Xí nghiệp trong việc chỉ đạo và hỗ trợ kinh phí để nhanh chóng thành lập một phòng marketing. Tuy nhiên khó khăn ở đây là khái niệm về marketing xem ra còn khá mới mẻ với Xí nghiệp. Việc nghiên cứu nắm bắt nhu cầu thị trường về hàng hoá, kỹ kết hợp đồng do phòng marketing đảm nhiệm từ trước tới nay chưa có ở Xí nghiệp. Xác định bước đầu thành lập phòng Marketing và đưa nó vào hoạt động ở Xí nghiệp ĐTTH cả một vấn đề nhưng nó có ý nghĩa quan trọng với Xí nghiệp và yêu cầu nhanh chóng thành lập. Việc thành lập phòng Marketing bước đầu phải thử nghiệm tính thiết thực mà nó mang lại, vì vậy theo tôi phòng chỉ nên có 3 người, một trưởng phòng làm công tác chỉ đạo và tổng hợp kết quả và hai nhân viên chuyên vào tìm hiểu nghiên cứu nhu cầu thị trường, các nhu cầu hiện tại và trong tương lai. Từ đó mới tiếp cận với khách hàng và ký hợp đồng kinh tế. Ngoài ra phòng Marketing có nhiệm vụ quảng cáo về Xí nghiệp cho khách hàng hiểu và giúp khách hàng có đủ thông tin cần thiết để tạo dựng mối làm ăn lâu dài. Công việc đầu tiên là tuyển nhân viên. Do lần đầu tiên thành lập nên đòi hỏi phải là những người có kinh nghiệm từ 2 - 3 năm trở lên, kỹ năng ưu tiên là năng động, giao tiếp tốt, có thể làm việc độc lập và thành thạo về chuyên môn marketing. Nhiệm vụ chủ yếu của nhân viên marketing như sau: - Điều tra thị phần các vùng xác định, các vùng cơ bản và vùng triển vọng, xác định nguyên nhân và đưa ra giải pháp - Tìm được khách hàng có nhu cầu để ký hợp đồng kinh tế sản lượng tiêu thụ cho Xí nghiệp - Thiết kế hệ thống thu nhập thông tin phản hồi từ khách hàng để có biện pháp điều chỉnh thích hợp - Phải làm cho khách hàng nắm được những thông tin đầy đủ về Xí nghiệp tạo dựng niềm tin với khách hàng để giữ mối quan hệ làm ăn lâu dài. - Điều tra thường xuyên, theo dõi động thái và thực trạng của các đối thủ cạnh tranh để có những đối sách hợp lý. - Ngoài công việc về tiêu thụ gia thì phòng Marketing còn có nhiệm vụ nghiên cứu và dự báo nhu cầu về hàng hoá để có lượng dự trữ tối ưu tránh tình trạng tồn đọng hàng hoá dẫn đến ứ đọng vốn. Mặt khác để khuyến khích phòng Marketing trong việc tìm kiếm khách hàng thì Xí nghiệp cần phải có một chính sách hợp lý. Theo tôi ngoài tiền lương làm việc theo thời gian ra Xí nghiệp cần trích thưởng phần trăm doanh thu của hợp đồng mà phòng marketing ký kết được. Với cơ chế đãi ngộ này chắc chắc sản lượng tiêu thụ của Xí nghiệp nhất định tăng nhanh. Chưa hết, để đánh giá hiệu quả hoạt động của bộ phận Marketing và có những điều chỉnh kịp thời Xí nghiệp phải xây dựng các chỉ tiêu đánh giá như sau: * Tốc độ tăng sản lượng hàng hoá bán ra * Tốc độ tăng doanh thu * Tốc độ tăng lợi nhuận Các chỉ tiêu này phải so sánh với những năm trước để thấy rõ kết quả mà phòng marketing đạt được. Tóm lại: Mục đích cuối cùng của việc thành lập Marketing là tăng sản lượng không ngừng dự báo chính xác nhu cầu thị trường và nâng cao khả năng cạnh tranh cho Xí nghiệp. D.Những kiến nghị với nhà nước 1. Trong lúc chuẩn bị xây dựng luật cạnh tranh đề nghị chính phủ sớm ban hành những quy định về khuyến khích cạnh tranh và kiểm soát độc quyền để khuyến khích các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả bằng cách giảm thuế đối với những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả để tạo điều kiện cho họ đầu tư đổi mới công nghệ. Đối với những doanh nghiệp có quy mô lớn khuyến khích họ tạo công ăn việc làm cho người lao động bằng cách sẽ giảm mức thuế xuất khẩu đối với những doanh nghiệp có số lao động từ 50 á 99 người, không đánh thuế với những doanh nghiệp có số lao động lớn hơn 100 người 2.Sửa đổi một số luật, có liên quan đến việc cung cấp các sản phẩm của ngành Phát thanh - Truyền hình nghị định đã bộc lộ những hạn chế và bất cập so với thực tế. 3. Tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp vay vốn để phát triển nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh bằng cách có thể dùng uy tín của doanh nghiệp để cho vay. Kết luận Trong cơ chế thị trường thì hiệu quả sản xuất kinh doanh có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với tất cả các doanh nghiệp. Nó quyết định sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Vì vậy nó bắt buộc mọi doanh nghiệp phải huy động tối đa và sử dụng mọi nguồn lực hiện có một cách tối ưu nhất để đạt được hiệu quả và lợi nhuận là yếu tố hàng đầu để đánh giá. Xem xét một doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả hay không. Mặc dù Xí nghiệp điện tử truyền hình với ưu thế hoạt động lâu năm: uy tín các mối quan hệ khách hàng quen thuộc, có thể nói rằng trong những năm qua Xí nghiệp Điện tử truyền hình hoạt động chưa thực sự có hiệu quả, cụ thể biểu hiện qua kết quả hoạt động là lợi nhuận thu được chưa cao. Trong quá trình thực tập tại Xí nghiệp tôi đã có dịp nghiên cứu, phân tích thực trạng và hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp thời gian qua, tìm ra được nguyên nhân thấy rõ được tầm quan trọng của hiệu quả hoạt động đối với Xí nghiệp và tôi mạnh dạn đưa ra một số giải pháp thực hiện nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian tới. Dựa trên lý luận của hiệu quả kinh tế và qua phân tích thực trạng của Xí nghiệp các giải pháp tập trung vào nhân lực DNNN đề cập đến vấn đề tuyển mộ, tận dụng số thời gian nhàn rỗi, bố trí, sắp xếp lại lao động, khuyến khích vật chất, tinh thần và kỷ luật người lao động. Giải pháp huy động với chi phí thấp nhất và sử dụng có hiệu quả nhất. Giải pháp đầu tư nâng cấp dây chuyền công nghệ để củng cố và nâng cao năng lực sản xuất của Xí nghiệp. Giải pháp thành lập phòng Marketing nhằm tạo và tăng khả năng tiêu thụ cho Xí nghiệp trong thời gian tơí. Bên cạnh những vấn đề được giải quyết, bài viết còn chưa đề cập đến hoặc đề cập chưa đầy đủ các vấn đề sau: Tìm hiểu chi phí lợi nhuận và thị phần của các đối thủ cơ bản, các đối thủ tiềm năng đồng thời tìm hiểu nguyên nhân và giải pháp cụ thể để thu hút và giữ khách hàng và tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Chưa xây dựng được chương trình phát triển đồng bộ gồm hai phần chủ yếu là tuyển mộ, khuyến khích tinh thần làm việc, chỉ dừng lại ở phương hướng mà chưa cụ thể số lượng đào tạo lại, tuyển mộ hàng năm các bước đi trong khích lệ tinh thần làm việc và đào tạo đội ngũ kế vị. Tài liệu tham khảo 1. Kinh tế và tổ chức sản xuất trong doanh nghiệp PGS. TS. Nguyễn Hữu Huy (chủ biên) NXB Giáo dục- 1998 2. Kinh tế và quản lý công nghiệp GS. TS. Nguyễn Đình Phan (chủ biên) NXB Giáo dục1998 3. Giáo trình Quản trị doanh nghiệp PGS. TS. Lê Văn Tâm (chủ biên) NXB Giáo dục 1998 4. Vốn và giải pháp về vốn trong quản lý vĩ mô và vi mô Khoa kế toán - Hà Nội 1997 5. Giáo trình phân tích kinh doanh - Trường ĐHKTQD - Hà Nội TS. Phan Thị Gái (chủ biên) 6. Tài liệu của VINASTAS Số 57 - Tháng 6 - 1998 Số 87 - Tháng 6,7 - 2001 Mục lục Lời nói đầu 1 Chương I: Những luận cứ khoá học về hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp 2 1. Khái niệm và bản chất của quan hệ kinh tế trong các doanh nghiệp 2 2. Những quan điểm về hiệu quả kinh tế 3 3. Những nguyên tắc để xem xét hiệu quả kinh tế 5 4. Mục tiêu và ý nghĩa của việc bảo đảm và nâng cao hiệu quả kinh tế 7 5. Nội dung chủ yếu của việc xác định hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp 10 6. Một số kinh nghiệm nhằm góp phần nâng cao và bảo đảm hiệu quả kinh tế của doanh nghiệp vận tải ô tô 16 Chương II. Phân tích thực trạng tình hình hoạt động và hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp ĐTTH trong thời gian qua 18 I. Tổng quan về quá trình hình thành và phát triển của Xí nghiệp 18 1. Quá trình hình thành 18 2. Qúa trình phát triển 18 3. Chức năng nhiệm vụ của Xí nghiệp tin học 19 4. Cơ sở vật chất thiết bị kỹ thuật 19 5. Về năng lực kỹ thuật 20 6. Về năng lực tài chính 21 7. Về khách hàng của Xí nghiệp 21 8. Về tổ chức bộ máy của Xí nghiệp 22 9. Về công tác quản lý lao động - tiền lương 23 II. Phân tích thực trạng tình hình hoạt động và hiệu quả hoạt động Của Xí nghiệp ĐTTH trong thời gian qua 25 1. Phân tích tình hình hoạt động và hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian qua 25 2. Phân tích thực trạng tình hình hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp trong thời gian qua 30 III. Đánh giá thực trạng hoạt động và hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp 39 1. Về thực trạng hoạt động của Xí nghiệp 40 2. Về phần hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp 43 3. Các nguyên nhân tương ứng 45 Chương III. Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ở Xí nghiệp ĐTTH 47 A. Triển vọng phát triển và các chính sách của nhà nước 47 1. Triển vọng phát triển ĐTTH ở Việt Nam 57 2. Những chính sách của nhà nước đối với ngành PT - TH 48 B. Mục tiêu và phương hướng phát triển của Xí nghiệp trong Thời gian tới 49 1. Mục tiêu 49 2. Định hướng khách hàng 50 3. Kế hoạch sản xuất trong năm 2002 50 4. Phương hướng thực hiện kế hoạch năm 2002 52 C. Một số biện pháp cơ bản nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp Điện tử Truyền hình trong thời gian qua 52 D. Những kiến nghị với nhà nước 65 Kết luận 67 Tài liệu than khảo 68 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0187.doc
Tài liệu liên quan