Phân tích thực trạng và các giải pháp cơ bản để mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại trong giai đoạn hiện nay

A. đặt vấn đề Trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, loài người đang bị cuốn hút vào một quá trình mang tính chất quốc tế bao trùm hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội của thế giới - đó là quá trình toàn cầu hoá mà cốt lõi của nó là toàn cầu hoá về kinh tế. Mỗi quốc gia đều cố gắng và chủ động tham gia vào quá trình này để có được một vị trí có lợi trong phân công lao động và trao đổi thương mại quốc tế. Trong lịch sử kinh tế thế giới, chưa bao giờ lại có sự hợp tác để phát triển

doc32 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1470 | Lượt tải: 3download
Tóm tắt tài liệu Phân tích thực trạng và các giải pháp cơ bản để mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
rộng rãi, đan xen, lồng ghép và nhiều tầng như hiện nay. Không một quốc gia nào trên thế giới có thể phát triển kinh tế có hiệu quả mà không gắn sự phát triển của đất nước mình với sự phát triển của các nước khác cùng khu vực cũng như trên toàn thế giới. Trước xu thế đó, kinh tế đối ngoại đang trở thành một bộ phận ngày càng quan trọng trong nền kinh tế của mỗi quốc gia, giúp nền kinh tế các nước có thể hỗ trợ cho nhau một cách có lợi và mỗi nước đều phát huy được lợi thế so sánh của nền kinh tế nước mình. Lịch sử kinh tế đã chứng minh rằng không có nền kinh tế quốc gia nào có thể tồn tại và phát triển nếu thực hiện chính sách kinh tế biệt lập, bế quan toả cảng, tự cấp, tự túc, đứng ngoài dòng chảy chung của nền kinh tế toàn cầu. Nền kinh tế Việt Nam với điểm xuất phát thấp và kém phát triển so với các nước trong khu vực, với mục tiêu vào năm 2020 sẽ trở thành một nền kinh tế công nghiệp có lực lượng sản xuất vào loại trung bình trong khu vực, càng cần thiết phải tăng cường và mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại để tạo nguồn vốn, tranh thủ các nguồn đầu tư trực tiếp và công nghệ của nước ngoài. Phát triển kinh tế đối ngoại, tăng cường hội nhập kinh tế quốc tế phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước ta. Nó đáp ứng nhu cầu kết hợp nội lực và ngoại lực, gắn sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thới đại phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước. Hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng kinh tế đối ngoại nhằm phát huy cao nhất nội lực và tranh thủ tối đa ngoại lực, đồng thời là đòn bẩy để thúc đẩy các doanh nghiệp trong nước phát triển và vươn ra đứng vững và có sức cạnh tranh mạnh mẽ trên thị trường thế giới. Phát triển kinh tế đối ngoại cũng tạo điều kiện để Việt Nam tranh thủ và đón bắt những điều kiện ưu đãi mà các thể chế kinh tế quốc tế dành cho các nước đang phát triển. Phát triển kinh tế đối ngoại là chủ trương chiến lược của Đảng và Chính phủ, chúng ta thực hiện chủ trương này theo quan điểm ''Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển'' '' đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế với mọi quốc gia, mọi tổ chức kinh tế trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, bình đẳng và cùng có lợi '' (Đại Hội VII của Đảng 6--1991) Qua hơn một thập kỷ thực hiện chính sách đối ngoại, Nhà nước ta đã gặt hái được nhiều thành công nhưng bên cạnh đó còn nhiều hạn chế và yếu kém cần khắc phục. Chính vì những lý do trên tôi đã chọn đề tài ''Phân tích thực trạng và các giải pháp cơ bản để mở rộng và nâng cao hiệu quả của kinh tế đối ngoại trong giai đoạn hiện nay ''. Trong đề án này tôi nghiên cứu vấn đề dưới giác độ của môn kinh tế chính trị và giới hạn trong phạm vi: những ưu điểm và nhược điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại ở nước ta hiện nay trong các lĩnh vực ngoại thương; đầu tư quốc tế; hợp tác quốc tế về kinh tế và khoa học- công nghệ; các dịch vụ thu ngoại tệ, du lịch quốc tế; tài chính và tín dụng quốc tế. Các giải pháp để phát huy được các ưu điểm và khắc phục các nhược điểm. Phương pháp luận tôi trình bày bao gồm: phương pháp luận chung vận dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; phương pháp trìu tượng hoá khoa học; phương pháp logic kết hợp với phương pháp lịch sử. Tôi xin trân trọng cảm ơn sự quan tâm, giúp đỡ của thầy Phạm Thành trong quá trình thực hiện đề án. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do khả năng còn hạn chế nên chắc chắn tôi không tránh khỏi nhiều thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự góp ý và chỉ giáo của thầy để đề án được hoàn thiện hơn. B. Giải quyết vấn đề I. Một số vấn đề về mặt lý luận 1. Các khái niệm Quan hệ kinh tế quốc tế là tổng thể các quan hệ về vật chất và tài chính, các quan hệ diễn ra không những trong lĩnh vực kinh tế mà cả trong lĩnh vực khoa học - công nghệ có liên quan đến tất cả các giai đoạn của quá trình tái sản xuất, chúng diễn ra giữa các quốc gia với nhau cũng như giữa các quốc gia với các tổ chức kinh tế quốc tế. Kinh tế đối ngoại của một quốc gia là một bộ phận của kinh tế quốc tế, là tổng thể các quan hệ kinh tế, khoa học, kỹ thuật, công nghệ của một quốc gia nhất định với các quốc gia khác còn lại hoặc với các tổ chức kinh tế quốc tế khác, được thực hiện dưới nhiều hình thức, hình thành và phát triển trên cơ sở phát triển của lực lượng sản xuất và phân công lao động quốc tế. Quốc tế hoá đời sống kinh tế là một quá trình xuất hiện từ khi các quan hệ kinh tế vượt ra ngoài biên giới quốc gia. Nó gắn liền với sự phát triển các quan hệ kinh tế quốc tế. Các quan hệ này đã phát triển về chiều rộng và chiều sâu, từ thấp đến cao, từ đơn giản đến phức tạp trong đó quan hệ mậu dịch quốc tế xuất hiện sớm nhất và đã phát triển nhanh chóng trên qui mô toàn cầu. Quốc tế hoá đời sống kinh tế do sự phát triển lực lượng sản xuất và sự phân công lao động quốc quyết định. Đó là quá trình tập trung sản xuất một số sản phẩm hoặc cung ứng một số dịch vụ nào đó vào một hoặc nhiều quốc gia nhất định trên cơ sở lợi thế của mình. Tham gia vào sự phân công lao động quốc tế không những đáp ứng nhu cầu của quốc gia mình mà còn đáp ứng nhu cầu các quốc gia khác thông qua trao đổi quốc tế. Toàn cầu hoá là sự xác định chương trình hành động thống nhất mang tính toàn cầu nhằm những mục tiêu nhất định và tuân theo những nguyên tắc thống nhất. Chương trình hành động thống nhất này bao gồm các mặt chính trị, kinh tế, xã hội phải phù hợp các quy luật khách quan trong đó lực lượng sản xuất với một trình độ khoa học công nghệ cao mang tính toàn cầu quyết định. 2. Tính tất yếu khách quan của việc mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại 2.1. Phân công lao động quốc tế: Phân công lao động quốc tế là quá trình tập trung việc sản xuất và cung ứng một hoặc một số loại sản phẩm và dịch vụ của một quốc gia nhất định dựa trên cơ sở những lợi thế của quốc gia đó về các điều kiện tự nhiên, kinh tế, khoa học, công nghệ và xã hội để đáp ứng nhu cầu của quốc gia khác thông qua trao đổi quốc tế. Những xu hướng mới của phân công lao động quốc tế trong vài thập niên gần đây: - Phân công lao động quốc tế diễn ra trên phạm vi ngày càng rộng lớn bao quát nhiều lĩnh vực và với tốc độ nhanh. - Dưới tác động như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, phân công lao động quốc tế diễn ra theo chiều sâu. - Sự phát triển cao của phân công lao động quốc tế làm xuất hiện ngày càng nhiều và nhanh các hình thức hợp tác mới về kinh tế, khoa học - công nghệ, chứ không đơn thuần chỉ có hình thức ngoại thương như các thế kỷ trước. - Phân công lao động quốc tế làm biến đổi nhanh chóng cơ cấu ngành và cơ cấu lao động trong từng nước và trên phạm vi quốc tế. Ngày nay trong cơ cấu ngành đã xuất hiện các ngành mới như ngành công nghệ cao, ngành dịch vụ..., những ngành có nhiều tiềm năng, đầy triển vọng và có hiệu quả cao trong tương lai. - Sự phân công lao động quốc tế thường được biểu hiện qua các tổ chức kinh tế quốc tế và các công ty xuyên quốc gia, khiến cho vai trò của chúng ngày một nâng cao trên trường quốc tế trong lĩnh vực phân phối tư bản và lợi nhuận theo nguyên tắc có lợi cho các nước phát triển. 2.2. Lý thuyết về lợi thế - cơ sở lựa chọn của thương mại quốc tế Trong các quan hệ kinh tế quốc tế, thương mại quốc tế là hình thức xuất hiện rất lâu đời, song nó bắt nguồn từ đâu, trong trao đổi đó ai là người có lợi, giữa các quốc gia phát triển cao với các quốc gia phát triển thấp có nên trao đổi thương mại không? Điều này có liên quan đến lý thuyết lợi thế và xu thế phát triển thị trường thế giới dựa trên cơ sở của sự phân công và hợp tác lao động quốc tế. Theo David Ricardo, lý thuyết lợi thế tuyệt đối của A.S.Mith chỉ mới giải thích được một phần nhỏ sự phân công lao động và thương mại quốc tế, vì vậy ông đưa ra lý thuyết mới - lý thuyết lợi thế tuyệt đối. Theo lý thuyết này, mỗi dân tộc có hiệu quả thấp hơn so với các dân tộc khác trong việc sản xuất hầu hết các loại sản phẩm, vẫn có cơ sở cho phép tham gia vào việc phân công lao động và thương mại quốc tế, tạo lợi ích cho dân tộc mình nếu biết lợi dụng sự chênh lệch về tiền lương và theo đó là tỷ giá giữa hai đồng nội tệ và ngoại tệ khi thực hiện trao đổi quốc tế. Một số nhà kinh tế sau David Ricardo đã làm rõ hơn bản chất và đưa ra cách lý giải mới về lợi thế tương đối: -C.Mac cho rằng trong quan hệ quốc tế việc xuất khẩu và nhập khẩu tiền công và năng suất lao động đều có lợi nhuận, vì bao giờ người ta cũng xuất những hàng hoá là thế mạnh của họ và thế yếu của quốc tế và ngược lại khi nhập khẩu bao giờ họ cũng nhập những hàng hoá vốn là thế mạnh của quốc tế và thế yếu của bản thân mình. Thực chất của lợi nhuận đó, chính là biết lợi dụng sự chênh lệch của tiền công và năng suất lao động giữa dân tộc và quốc tế mà có. -G.Haberler cho rằng, cách lý giải của David Ricardo là chưa hoàn toàn hợp lý, mà nên giải thích theo lý thuyết về chi phí cơ hội. Theo lý thuyết này thì chi phí cơ hội của một hàng hoá là số lượng hàng hoá phải cắt giảm để nhường lại đủ các nguồn lực cho việc sản xuất thêm một đơn vị hàng hoá thứ nhất. Như vậy, quốc gia nào có chi phí cơ hội của một loại hàng hoá nào đó thấp thì quốc gia đó có lợi thế tương đối trong việc sản xuất này. - Sau này còn có nhiều lý thuyết như lý thuyết Hecksher Ohlin, định lý Sloper, Samuelson, v.v..., có cách xem xét riêng và có sự lý giải khác nhau về lợi thế so sánh có tác dụng tham khảo nhất định. Song mọi cách lý giải đều đi đến một chân lý chung là lợi thế so sánh (bao gồm cả lợi thế tuyệt đối, lợi thế tương đối, lợi thế của nước phát triển muộn về công nghiệp và kinh tế thị trường) tồn tại là khách quan mà mỗi quốc gia phải lợi dụng để góp phần vào sự phân công lao động và thương mại quốc tế nhằm nâng cao hiệu quả của hoạt động kinh tế đối ngoại. 2.3. Xu thế thị trường thế giới Xu thế phát triển của thị trường thế giới có liên quan đến sự phân công lao động quốc tế và việc vận dụng lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong thương mại giữa các nước với nhau. Dưới đây là những biểu hiện của xu thế phát triển thị trường thế giới: -Thương mại trong các nghành tăng lên rõ rệt: Sau chiến tranh thế giới lần thứ hai, sự phân công quốc tế giữa các ngành từng bước chuyển sang phân công nội bộ ngành, do đó thương mại trong các ngành phái triển rất mạnh. Theo dự đoán, cùng với cạnh tranh quốc tế càng gay gắt và cùng với tiến bộ khoa học và công nghệ, thương mại trong nội bộ ngành sẽ chiếm tỷ trọng ngày càng lớn hơn trong thương mại quốc tế. -Khối lượng thương mại trong nội bộ các tập đoàn kinh tế khu vực không ngừng mở rộng: Tổng kinh ngạch thương mại trong các tập đoàn kinh tế khu vực không ngừng tăng lên và chiếm tỷ trọng ngày càng lớn trong tổng kinh ngạch quốc tế. Hình thành thị trường thế giới trong từng khu vực, lấy Mỹ, Châu Âu, Nhật Bản làm trung tâm. -Thương mại công nghệ phát triển nhanh chóng: Từ những năm 80 của thế kỷ XX đến nay, trên thị trường thế giới thương mại công nghệ phát triển nhanh chóng, cứ 10 năm lại tăng lên 4 lần, vượt xa tốc độ tăng trưởng của thương mại hàng hoá. Thương mại công nghệ phát triển theo ba xu hướng: + Cùng với sự điều chỉnh cơ cấu ngành nghề và chiến lược kinh tế của các nước, các nước phát triển sẽ nhanh chóng chuyển vốn, thiết bị và kỹ thuật quá thừa ra nước ngoài (kể cả nước phát triển và nước đang phát triển). Còn các nước đang phát triển sẽ tìm cách thu hút thiết bị kỹ thuật của nước ngoài để phát triển sản xuất, mở rộng kinh tế đối ngoại. + Xuất khẩu bằng sáng chế, phát minh, giấy phép, bản vẽ thiết kế, tổ chức quản lý,v.v...sẽ ngày càng chiếm vị trí quan trọng. + Cạnh tranh gay gắt trong thị trường thương mại công nghệ. Trong cuộc cạnh tranh ấy, các xí nghiệp xuyên quốc gia của các nước phát triển giữ vai trò chi phối. -Thương mại phát triển theo hướng tập đoàn hoá kinh tế khu vực: Xu thế tập đoàn hoá kinh tế khu vực ngày càng có ảnh hưởng quan trọng đến tình hình kinh tế thương mại thế giới, làm cho hướng chuyển dịch tiền vốn và kỹ thuật trên phạm vi thế giới có sự thay đổi lớn. Điều này vừa đem lại cơ hội cho sự phát triển thương mại và kinh tế thế giới, vừa có ảnh hưởng bất lợi đối với nhiều nước, nhất là các nước nằm ngoài khu vực và các nước đang phát triển. Tóm lại, sự hình thành và phát triển kinh tế đối ngoại mà cơ sở khoa học của nó chủ yếu được quyết định bởi sự phân công và hợp tác lao động trên phạm vi quốc tế được các quốc gia vận dụng thông qua lợi thế so sánh để ra quyết định lựa chọn các hình thức kinh tế đối ngoại, diễn ra trên phạm vi toàn cầu, khu vực hoá và được biểu hiện rõ nhất ở xu thế phát triển của thị trường thế giới trong mấy thập niên gần đây. 3. Những nguyên tắc và hình thức chủ yếu của kinh tế đối ngoại 3.1. Những nguyên tắc của kinh tế đối ngoại Để mở rộng kinh tế đối ngoại có hiệu quả cần quán triệt những nguyên tắc phản ánh những thông lệ quốc tế, đồng thời bảo đảm lợi ích chính đáng về kinh tế, chính trị của đất nước. Những nguyên tắc đó là: 3.1.1. Bình đẳng Đây là nguyên tắc rất quan trọng làm nền tảng cho việc thiết lập và lựa chọn đối tác trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước. Nguyên tắc bình đẳng xuất phát từ yêu cầu phải coi mỗi quốc gia trong cộng đồng quốc tế là một quốc gia độc lập có chủ quyền. Nó cũng bắt nguồn từ yêu cầu của sự hình thành và phát triển của thị trường quốc tế mà mỗi quốc gia là một thành viên. Với tư cách là một thành viên, mỗi quốc gia phải được đảm bảo có quyền tự do kinh doanh, quyền tự chủ như mọi quốc gia khác. Nói cách khác, đảm bảo tư cách pháp nhân của mỗi quốc gia trước pháp luật quốc tế và cộng đồng thế giới. Kiên trì đấu tranh để thực hiên nguyên tắc này là nhiệm vụ chung của một quốc gia, nhất là các nước đang phát triển khi thực hiện mở cửa và hội nhập ở thế bất lợi so với các nước đang phát triển. 3.1.2. Cùng có lợi Nếu nguyên tắc thứ nhất giữ vai trò chung cho việc hình thành và phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại, thì nguyên tắc này giữ vai trò là nền tảng kinh tế để thiết lập và mở rộng quan hệ kinh tế giữa các nước với nhau. Cơ sở của nguyên tắc cùng có lợi bắt nguồn từ yêu cầu phải thực hiện đúng các quy luật kinh tế của thị trường diễn ra trên phạm vi quốc tế mà mỗi nước có lợi ích kinh tế dân tộc khác nhau. Trong nền kinh tế thị trường thế giới, nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia sẽ là hình thức, nếu các quốc gia có tham dự không cùng có lợi ích kinh tế. Nguyên tắc này còn là động lực kinh tế để kiến thiết và duy trì lâu dài mối quan hệ kinh tế giữa các quốc gia với nhau. Cùng có lợi về kinh tế là một trong những nguyên tắc làm cơ sở cho chính sách kinh tế đối ngoại và luật đầu tư nước ngoài. Nguyên tắc này được cụ thể hoá thành những điều khoản làm cơ sở để ký kết trong các nghị định thư giữa các chính phủ và trong các hợp đồng kinh tế giữa các tổ chức kinh tế các nước với nhau. 3.1.3. Tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của mỗi quốc gia Cơ sở khách quan của nguyên tắc này bắt nguồn từ nguyên tắc bình đẳng, trong quan hệ đối ngoại giữa các quốc gia với nhau. Nó cũng bắt nguồn từ nguyên tắc cùng có lợi, mà xét cho đến cùng chỉ khi cùng có lợi về mặt kinh tế, mới tạo cơ sở để cùng có các lợi ích khác nhau về chính trị, quân sự và xã hội. Nguyên tắc này đòi hỏi mỗi bên trong hai bên hoặc nhiều bên phải thực hiện đúng các yêu cầu: - Tôn trọng các điều khoản đã được ký kết trong các nghị định giữa các chính phủ và trong các hợp đồng kinh tế giữa các chủ thể kinh tế với nhau. - Không được đưa ra những điều kiện làm tổn hại đến lợi ích của nhau. - Không được dùng các thủ đoạn có tính chất can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia có quan hệ, nhất là dùng thủ đoạn kinh tế, kỹ thuật và kích động để can thiệp vào đường lối, thể chế chính trị của các quốc gia đó. 3.1.4. Giữ vững độc lập, chủ quyền dân tộc và củng cố định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn: Trong quan hệ kinh tế quốc tế giữa các nước với nhau không chỉ đơn thuần phải xử lý tốt mối quan hệ về lợi ích kinh tế, mà còn phải xử lý tốt mối quan hệ giữa lợi ích kinh tế và lợi ích chính trị. Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao và bền vững. Nhưng tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với việc thực hiện từng bước những đặc trưng của chủ nghĩa xã hội. Do vậy, mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại, phải chủ động đảm bảo sao cho vừa khai thác được nhiều nguồn lực bên ngoài, vừa phát huy được nguồn lực bên trong, bảo đảm phát triển kinh tế, trả được nợ, phụ thuộc nhưng không lệ thuộc nước ngoài và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Bốn nguyên tắc nói trên có mối quan hệ mật thiết với nhau và đều có tác dụng chi phối hoạt động kinh tế đối ngoại giữa các nước trong đó có nước ta. Vì vậy, không được xem nhẹ nguyên tắc nào khi thiết lập, duy trì và mở rộng kinhtế đốingoại. 3.2. Các hình thức chủ yếu của kinhtế đối ngoại Kinh tế đối ngoại gồm nhiều hình thức như: hợp tác sản xuất (nhận gia công, xây dựng xí nghiệp chung, khu chế xuất, khu kỹ thuật cao); hợp tác khoa học - công nghệ (trong đó có hình thức đưa lao động và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài); ngoại thương; hợp tác tín dụng quốc tế; các hoạt động dịch vụ như du lịch quốc tế, giao thông vận tải, thông tin liên lạc quốc tế, dịch vụ thu, đổi và chuyển giao công nghệ...; đầu tư quốc tế,v.v... Trong các hình thức kinh tế đối ngoại, ngoại thương, đầu tư quốc tế và dịch vụ thu ngoại tệ là những hình thức chủ yếu và có hiệu quả nhất cần được coi trọng. 3.2.1. Ngoại thương Ngoại thương, hay còn gọi là thương mại quốc tế, là sự trao đổi hàng hoá, dịch vụ (hàng hoá hữu hình và vô hình) giữa các quốc gia thông qua xuất nhập khẩu. Trong các hoạt động kinh tế đối ngoại, ngoại thương giữ vị trí trung tâm và có tác dụng to lớn: góp phần làm tăng sức mạnh tổng hợp, tăng tích luỹ của mỗi quốc gia nhờ sử dụng có hiệu quả lợi thế so sánh giữa các quốc gia trong trao đổi quốc tế; là động lực thúc đẩy tăng trưởng kinh tế; ''điều tiết thừa thiếu'' trong mỗi nước; nâng cao trình độ công nghệ và cơ cấu ngành nghề trong nước. Tạo công ăn việc làm và nâng cao đời sống của người lao động nhất là trong các ngành sản xuất. Nội dung của ngoại thương bao gồm: xuất khẩu và trao đổi hàng hoá, trong đó xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm của hoạt động kinh tế đối ngoại ở các nước nói chung và nước ta nói riêng. Mấy thập niên gần đây, dưới tác động của cuộc cách mạng khoa học-công nghệ và xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá, thương mại quốc tế có những đặc điểm mới: - Tốc độ tăng trưởng ngoại thương quốc tế tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của tổng sản phẩm quốc dân. - Tốc độ tăng trưởng ngoại thương hàng hoá ''vô hình'' có xu hướng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng ngoại thương hàng hoá ''hữu hình''. Điều đó bắt nguồn từ sự thay đổi cơ cấu kinh tế giữa ngành sản xuất vật chất và ngành dịch vụ trong mỗi quốc gia và quốc tế. - Cơ cấu mặt hàng có sự biến đổi sâu sắc theo hướng: hàng hoá nhu cầu tầng 1 (nhu cầu về đời sống vật chất) giảm xuống và hàng hoá nhu cầu tầng 2 (nhu cấu về đời sống văn hoá tinh thần) tăng nhanh; tỷ trọng xuất khẩu hàng thô, nguyên liệu giảm xuống, còn hàng dầu mỏ khí đốt, sản phẩm công nghệ chế biến nhất là máy móc thiết bị lại tăng nhanh. - Phạm vi, phương thức và công cụ cạnh tranh của thương mại quốc tế diễn ra rất phong phú và đa dạng, không chỉ về mặt chất lượng, giá cả, mà còn về điều kiện giao hàng, baobì, mẫu mã, thời hạn thanh toán, các dịch vụ sau bán hàng. Phạm vi thị trường ngày một mở rộng không chỉ hàng hoá, dịch vụ thông thường mà còn mở rộng sang lĩnh vực tài chính, tiền tệ - lĩnh vực này càng đóng vai trò quan trọng trong quan hệ kinh tế quốc tế. - Chu kì sống của từng loại sản phẩm ngày càng rút ngắn lại. Các hàng hoá có hàm lượng khoa học - công nghệ cao có sức mạnh cạnh tranh hơn so với các hàng hoá truyền thống. - Quá trình phát triển thương mại quốc tế đòi hỏi, một mặt phải tự do hoá thương mại, mặt khác phải thực hiện bảo hộ mậu dịch một cách hợp lý. Cần nhấn mạnh rằng, muốn biến ngoại thương thành đòn bẩy có sức mạnh phát triển nền kinh tế quốc dân, cần nắm bắt được lợi thế so sánh. Các nước thuộc thế giới thứ ba trong khi sử dụng lợi thế so sánh phải không ngừng học tập, vươn lên khắc phục thế yếu kém của mình và chủ động sáng tạo ra những lợi thế so sánh mới, tăng sức mạnh cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu trong quá trình mở cửa và hội nhập. 3.2.2. Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất. Hợp tác trong lĩnh vực sản xuất bao gồm gia công, xây dựng xí nghiệp chung, chuyên môn hoá và hợp tác hoá sản phẩm quốc tế... 3.2.2.1. Nhận gia công Do tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ, các nước công nghiệp phát triển đã tiến hành cải tổ cơ cấu kinh tế quốc dân theo hướng tập trung ưu tiên những ngành có hàm lượng khoa học cao, chuyển những ngành có hàm lượng lao động và nguyên liệu cao sang các nước đang phát triển. Các ngành có hàm lượng lao động cao cũng thích hợp với nước ta bởi vì chúng ta có thể tận dụng nguồn lao động, tạo nhiều việc làm và chúng đòi hỏi ít vốn đầu tư, việc đào tạo công nhân cũng nhanh hơn việc đầu tư công nhân cho các ngành có hàm lượng khoa học cao. 3.2.2.2. Một hình thức phổ biến khác là xây dựng những xí nghiệp chung với sự hùn vốn và công nghệ từ nước ngoài Về mặt pháp lý, xí nghiệp chung thường được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần với trách nhiệm tương ứng với số vốn đóng góp của các thành viên. Các xí nghiệp này thường được ưu tiên xây dựng ở các ngành kinh tế quốc dân hướng vào xuất khẩu hay thay thế hàng nhập khẩu và trở thành nguồn thu ngoại tệ chuyển đổi hay tạo điều kiện cho nhà nưóc tiết kiệm ngoại tệ. ở nước ta hiện nay, hình thức này đóng vai trò rất quan trọng. 3.2.2.3. Hợp tác sản xuất quốc tế trên cơ sở chuyên môn hoá. Hợp tác sản xuất quốc tế có thể diễn ra một cách tự giác theo những hiệp định hay hợp đồng giữa các bên tham gia, cũng có thể hình thành một cách tự phát do kết quả cạnh tranh, do đầu tư và lập các chi nhánh của các công ty xuyên quốc gia tại các nước Chuyên môn hoá bao gồm chuyên môn hoá những ngành khác nhau và chuyên môn hoá trong cùng một ngành (chuyên môn hoá theo sản phẩm, theo bộ phận sản phẩm hay chi tiết và theo công nghệ). Hình thức hợp tác này làm cho cơ cấu kinh tế ngành của các nước tham gia đan kết vào nhau, phụ thuộc lẫn nhau. 3.2.3 Hợp tác khoa học- kỹ thuật Hợp tác khoa học kỹ thuật được thực hiện dưới nhiều hình thức, như trao đổi những tài liệu- kỹ thuật và thiết kế, mua bán giấy phép, trao đổi kinh nghiệm, chuyển giao công nghệ, phối hợp nghiên cứu khoa học kỹ thuật, hợp tác đào tạo,bồi dưỡng cán bộ và công nhân... Đối với những nước lạc hậu về kỹ thuật, vốn chi cho nghiên cứu khoa học kỹ thuật còn ít, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật chưa nhiều, phương tiện vật chất còn thiếu thốn như nuớc ta thì việc tham gia hợp tác khoa học kỹ thuật với nước ngoài là vô cùng quan trọng. Đó là một điều kiện thiết yếu để rút ngắn khoảng cách với các nuớc tiên tiến. Việc đưa lao dộng và chuyên gia đi làm việc theo hợp đồng ở nước ngoài cũng là một hình thức hợp tác đào tạo cán bộ và công nhân. Vì vậy, cùng với việc nhận gia công từ nước ngoài, cần tổ chức tốt việc đưa lao dộng và chuyên gia đi làm việc ở nước ngoài bằng nhiều hình thức thích hợp. 3.2.4 Đầu tư quốc tế Đầu tư quốc tế là một hình thức cơ bản của quan hệ kinh tế đối ngoại. Nó là quá trình trong đó hai hay nhiều bên (có quốc tịch khác nhau) cùng góp vốn để xây dựng và triển khai một dự án đầu tư quốc tế để sinh lợi. Có hai loại đầu tư quốc tế: đầu tư trực tiếp và đầu tư gián tiếp. Đầu tư trực tiếp là hình thừc đầu tư mà quyền sở hữu và quyền sử dụng vốn của người đầu tư thống nhất với nhau, tức là người có vốn đầu tư trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, quản lý và điều hành dự án đầu tư, chịu trách nhiệm về kết quả, rủi do trong kinh doanh và thu lợi nhuận. Vốn đầu tư thường mang lại hiệu quả cao, nhưng phía chủ nhà dễ bị thua thiệt nếu trình độ quản lý non kém. Các đối tác nước ngoài lợi dụng trình độ quản lý yếu kém đó để nâng giá đầu vào những máy móc thiết bị, vật tư, qua đó nâng thị phần vốn của họ trong cơ cấu vốn và góp vốn bằng những máy móc đã khấu khao hết và đã lạc hậu ở nước họ; đồng thời hạ giá bán ở đầu ra, khai báo kinh doanh lỗ để giảm thuế. Qui mô vốn và số lượng dự án đầu tư trực tiếp phụ thuộc vào ý đồ đầu tư của các chủ đầu tư nước ngoài. Đầu tư trực tiếp được thực hiện dưới các hình thức: - Hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng. Hình thức không cần phải thành lập một pháp nhân mới. - Xí nghiệp kinh doanh mà vốn do hai bên cùng góp theo tỷ lệ nhất định để hình thành xí nghiệp mới có hội đồng quản trị và ban điều hành chung. - Xí nghiệp có 100% vốn nước ngoài. - Hợp đồng xây dựng - kinh doanh - chuyển giao (BOT). Hình thức này đòi hỏi cần có nguồn vốn của bên ngoài và thường đầu tư cho các công trình kết cấu hạ tầng. Thông qua các hình thức trên mà các khu chế xuất, khu công nghiệp mới, khu công nghệ cao...được hình thành và phát triển. Đầu tư gián tiếp là hình thức đầu tư mà quyền sở hữu rời quyền sử dụng vốn đầu tư, tức là người có vốn không trực tiếp tham gia vào việc tổ chức, điều hành dự án mà thu lợi dưới hình thức lợi tức cho vay (nếu là vốn cho vay) hoặc lợi tức cổ phần (nếu là vốn cổ phần), hoặc có thể không thu lợi (nếu là vốn ưu đãi). Nguồn vốn đầu tư gián tiếp rất đa dạng về chủ thể và hình thức. Chủ thể đầu tư gián tiếp có thể là chính phủ, các tổ chức quốc tế, các tổ chức phi chính phủ,v.v... với các hình thức như: Viện trợ có hoàn lại (cho vay), viện trợ không hoàn lại, cho vay ưu đãi hoặc không ưu đãi; mua cổ phiếu và các chứng khoán theo mức qui định của từng nước. So với nguồn đấu tư trực tiếp thì nguồn vốn đầu tư gián tiếp không lớn. Trong các nguồn đầu tư gián tiếp, một bộ phận quan trọng là viện trợ phát triển chính thức (ODA) của chính phủ một số nước có nền kinh tế phát triển. Bộ phận này có tỷ trọng lớn và thường đi kèm với điều kiện ưu đãi. ODA bao gồm các khoản viện trợ không hoàn lại, các khoản tín dụng ưu đãi khác do các tổ chức trong hệ thống Liên Hợp Quốc, các chính phủ, các tổ chức kinh tế quốc dân dành cho các nước chậm phát triển. Các hình thức hỗ trợ chủ yếu của ODA là tiền mặt, hàng hoá, tín dụng thương mại ưu đãi, hỗ trợ chương trình, hỗ trợ dự án. Nguồn vồn hỗ trợ này nhằm vào các mục đích y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình, giáo dục và đào tạo, các vấn đề xã hội, nghiên cứu chương trình, dự án bảo vệ môi trường sinh thái, hổ trợ ngân sách và hỗ trợ nghiên cứu khoa học - công nghệ. 3.2.5. Các hình thức dịch vụ thu ngoại tệ, du lịch quốc tế. Các dịch vụ thu ngoại tệ là một bộ phân quan trọng của kinh tế đối ngoại. Xu thế hiện nay là tỷ trọng các hoạt động dịch vụ tăng lên so với hàng hoá khác trên thị trường thế giới. Với Việt Nam, việc đẩy mạnh các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ là giải pháp cần thiết, thiết thực để phát huy lợi thế của đất nước. Sau đây là các hình thức thu ngoại tệ chủ yếu: 3.2.5.1. Du lịch quốc tế. Du lịch là nhu cầu khách quan, vốn có của con người. Kinh tế càng phát triển, năng suất lao động càng cao thì nhu cầu du lịch - nhất là du lịch quốc tế càng tăng vì thu nhập của con người tăng lên, thời gian nhàn rỗi, nghỉ ngơi cũng nhiều hơn. Du lịch quốc tế là một ngành kinh doanh tổng hợp bao gồm các hoạt động tổ chức, hướng dẫn du lịch, sản xuất, trao đổi hàng hoá và dịch vụ đáp ứng nhu cầu đi lại, ăn uống, ngỉ ngơi, lưu trú, tham quan, giải trí, tìm hiểu, lưu niệm...của du khách. Phát triển ngành du lịch quốc tế sẽ phát huy lợi thế của Việt Nam về cảnh quan thiên nhiên, về nhiều loại lao động đặc thù mang tính dân tộc, truyền thống của VIệt Nam. 3.2.5.2. Vận tải quốc tế. Vận tải quốc tế là hình thức chuyên trở hàng hoá và hành khách giữa hai nước hay nhiều nước. Sự ra đời và phát triển của vận tải quốc tế gắn liền với sự phân công lao động xã hội và quan hệ buôn bán giữa các nước với nhau. Sự phát triển của vận tải quốc tế có tác dụng tăng nguồn thu ngoại tệ thông qua vận tải và tiết kiệm chi phí ngoại tệ do phải thuê vận chuyển khi nhập khẩu hàng hoá. Vận tải hàng hoá sử dụng các phương thức như: đường biển, đường sắt, đường bộ (ô tô), đường hàng không...trong các hình thức đó, vận tải đường biển có vai trò quan trọng nhất. Việt Nam có vị trí địa lý quan trọng, lại có nhiều hải cảng thuận tiện cho vận tải đường biển nên có thể phát huy thế mạnh của mình thông qua việc đẩy mạnh vận tải quốc tế. 3.2.5.3. Xuất khẩu lao động nước ngoài và tại chỗ. Hiện nay nhu cầu lao động ở các nước phát triển vẫn còn lớn do kinh tế phát triển, tỷ lệ tăng dân số ở các nước này có xu hướng giảm và nhất là do chuyển dịch cơ cấu kinh tế bởi cách mạng khoa học - công nghệ. Những ngành có cơ giới hoá và tự động hoá, độc hại, nguy hiểm hoặc cần nhiều lao động không lành nghề như xây dựng, khai mỏ, công nghiệp nhẹ, công nghiệp lắp giáp ô tô, diện tử vẫn cần nhiều lao động. Việt Nam với dân số gần 80 triệu người, kinh tế chưa phát triển, là một nước có thương mại lao động lớn. Việc xuất khẩu lao động mang lại nhiều lợi thế trước mắt và lâu dài. Vì vậy, việc đẩy mạnh xuất khẩu lao động thu ngoại tệ là một nhiệm vụ quan trọng của kinh tế đối ngoại. 3.2.5.3. Các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác. Ngoài các hoạt động nêu trên, lĩnh vực kinh tế đối ngoại còn có nhiều hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ khác như dịch vụ thu bảo hiểm, dịch vụ thông tin bưu điện, dịch vụ kiều hối, dịch vụ ăn uống, dịch vụ tư vấn... Nhìn chung các hoạt động dịch vụ thu ngoại tệ ở nước ta mới đang ở giai đoạn hình thành và phát triển bước đầu. Những hoạt động này có triển vọng to lớn. Tuy nhiên, muốn đưa các hoạt động này thành một lĩnh vực quan trọng của nền kinh tế, cần phải có cái nhìn đúng đắn về vai trò của chúng, cần đầu tư thoả đáng và có các chính sách thích hợp tích luỹ ngoại tệ, tăng thu cho nhân sách nhà nước, giải quyết việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân... 4. Vai trò và tác dụng của kinh tế đối ngoại Có thể khái quát vai trò to lớn của kinh tế đối ngoại qua các mặt sau đây: - Góp phần nối liền sản xuất và trao đổi trong nước với sản xuất và trao đổi quốc tế; nối liền thị trường trong nước với thị trường thế giới và khu vực. - Hoạt động kinh tế đối ngoại góp phần thu hút vốn đầu tư trực tiếp (FDI) và vốn viện trợ chính thức từ các chính phủ và tổ chức tiề._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35506.doc
Tài liệu liên quan