Phân tích tình hình chất lượng sản phẩm chè đen của Công ty chè Long Phú và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm

Phần mở đầu Hiện nay, chè đã trở thành một trong những đồ uống phổ biến trên thế giới. ở nước ta, ngành chè đã đạt kim ngạch xuất khẩu hơn 100 triệu USD/ năm với sản lượng khoảng 120 nghìn tấn, đứng thứ 5 trên thế giới về sản xuất và xuất khẩu chè chỉ sau : Trung Quốc, ấn Độ, Nga, Srilanca. Tuy xuất khẩu với số lượng lớn nhưng chè Việt Nam vẫn chưa có chỗ đứng trên thị trường thế giới, giá chè sản xuất tại Việt Nam bao giờ cũng thấp hơn so với các sản phẩm cùng loại trên thị trường. Ngoài ra, c

doc72 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1532 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Phân tích tình hình chất lượng sản phẩm chè đen của Công ty chè Long Phú và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hè Việt Nam không thể xâm nhập vào thị trường EU và Mỹ do chất lượng kém, dư lượng thuốc bảo vệ thực vật còn cao. Hiện nay, thị trường chính của chè Việt Nam là Iraq, Pakistan, Nga. Mặc dù còn gặp rất nhiều khó khăn nhưng ngành chè không ngừng vương lên và ngày càng phát triển. Với sự phát triển của mình ngành chè đã tạo việc làm cho khoảng 2 triệu người lao động trong cả nước, chủ yếu là người dân vùng núi và trung du. Nhận thấy tầm quan trọng của cây chè đối với cuộc sống của người dân miền núi và trung du nên hiện nay Đảng và nhà nước đã có những chính sách cụ thể để giúp ngành chè đứng vững và ngày càng phát triển. Để làm được điều đó thì bản thân ngành chè không ngừng cải tiến công nghệ, đầu tư thiết bị máy móc mới, cải tổ bộ máy quản lý, nâng cao trình độ cán bộ công nhân viên, lai tạo các giống chè mới phù hợp với thổ nhưỡng cho năng suất và hương thơm…để nâng cao chất lượng sản phẩm, hạn chế dư lượng thuốc bảo vệ thực vật ở mức độ phù hợp với ngưỡng cho phép. Nếu làm được điều đó mới có thể giúp thương hiệu chè Việt Nam có chỗ đứng trên thị trường thế giới. Chính vì những lý do trên nên tôi chọn đề tài: Phân tích tình hình chất lượng sản phẩm chè đen của Công ty chè Long Phú và đề ra một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Tôi xin chân thành cảm ơn nhà máy chè Long Phú, cô giáo hướng dẫn Nguyễn Vũ Bích Uyên và các bạn đã giúp tôi hoàn thành bản đồ án tốt nghiệp này Dù đã có nhiều cố gắng nhưng chắc chắn còn nhiều sai sót rất mong được các thầy cô cùng bạn bè góp ý, tôi xin chân thành cảm ơn. Chương i: Phần lý thuyết chung I.1. Chất lượng sản phẩm: Khái niệm, đặc điểm và các nhân tố ảnh hưởng chính I.1.1.Khái niệm về chất lượng sản phẩm Chất lượng là một thuộc tính cơ bản của sản phẩm, đó là sự tổng hợp về kinh tế – kỹ thuật. Chất lượng được tạo ra từ những yếu tố có liên quan đến quá trình sống của sản phẩm. Nó được hình thành ngay từ khâu thiết kế, xây dựng phương án sản phẩm cho đến khâu sản xuất. Qúa trình sản xuất là khâu quan trọng nhất tạo nên chất lượng và sau đó là trong quá trình lưu thông phân phối và sử dụng. Trong khi sử dụng, chất lượng sản phẩm được đánh giá đầy đủ nhất và cũng là khâu quan trọng nhất trong quá trình sống của sản phẩm. Nói như vậy không có nghĩa là chất lượng sản phẩm chỉ là giá trị của sản phẩm, đó mới chỉ là điều kiện cần, thực tế cho thấy giá trị sử dụng càng cao thì sản phẩm càng có chất lượng, tuy nhiên đôi khi những thuộc tính bên trong của sản phẩm đã thay đổi. Xuất phát từ cách nhìn tổng quát đó, chất lượng sản phẩm có thể được định nghĩa như sau: Chất lượng sản phẩm là tập hợp các thuộc tính của sản phẩm nhằm thoả mãn nhu cầu của người sử dụng trong những điều kiện kinh tế, khoa học, kỹ thuật, xã hội nhất định. Tuy nhiên tuỳ thuộc vào quan niệm và những mục tiêu khác nhau trong từng thời kỳ kinh tế xã hội khác nhau mà người ta đưa ra những khái niệm về chất lượng sản phẩm khác nhau. Sau đây ta có thể đưa ra một vài định nghĩa khác về chất lượng sản phẩm. - Theo quan điểm triết học Mác: Chất lượng sản phẩm là mức độ, là thước đo biểu thị giá trị sử dụng của nó. Giá trị sử dụng của một sản phẩm làm nên tính hữu ích của sản phẩm đó và nó chính là chất lượng sản phẩm. - Theo tiêu chuẩn Liên Xô (cũ) GOST 15467 người ta định nghĩa như sau: Chất lượng sản phẩm là tổng thể những thuộc tính của nó quy định tính thích hợp của sản phẩm để thoả mãn những nhu cầu phù hợp với công dụng của nó. - Trong lĩnh vực quản lý chất lượng, tổ chức kiểm tra chất lượng Châu âu EOFQC cho rằng: Chất lượng là mức phù hợp của sản phẩm đối với yêu cầu của người tiêu dùng. - Tổ chức tiêu chuẩn chất lượng Quốc tế ISO cho rằng: Chất lượng sản phẩm là tổng thể các chỉ tiêu, những đặc trưng kinh tế kỹ thuật của nó, thể hiện được sự thoả mãn nhu cầu trong những điều kiẹn tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng của sản phẩm mà người tiêu dùng mong muốn. - Theo tiêu chuẩn Việt Nam TCVN5814-1994 phù hợp với ISO/ DIS 8402 thì chất lượng sản phẩm được định nghĩa: Chất lượng sản phẩm là một tập hợp các đặc tính của một thực thể tạo cho thực thể đó khả năng thoả mãn nhu cầu đã nêu ra và tiềm ẩn. Nhưng dù được định nghĩa theo cách này hay cách khác thì trước hết chất lượng sản phẩm phải bao gồm những tính chất đặc trưng của sản phẩm. Đó là những đặc tính khách quan thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm. Đây là yếu tố mà người sản xuất phải quan tâm hàng đầu vì người tiêu dùng luôn chú ý đến. Nhưng chất lượng sản phẩm không phải bao gồm tất cả những tính chất đặc trưng cho tính năng kỹ thuật hay giá trị sử dụng của sản phẩm, nó chỉ gồm những tính chất làm cho sản phẩm thoả mãn những nhu cầu nhất định phù hợp với công dụng. Điều đó cũng có nghĩa là khi xem xét chất lượng chúng ta phải chú ý đến một tập hợp các thuộc tính của sản phẩm chứ không cần căn cứ vào một vài chỉ tiêu nào đó… Thứ hai, chất lượng phải thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Khi nói đến chất lượng sản phẩm người ta thường nói “đạt” hay “không đạt” yêu cầu tức là xem xét sản phẩm đó thoả mãn đến mức độ nào những yêu cầu cho trước thể hiện trong các tiêu chuẩn, bản thiết kế và phẩn ứng của người tiêu dùng. Chất lượng phụ thuộc vào điều kiện công nghệ, khoa học kỹ thuật, kinh tế và cả điều kiện xã hội. Vì vậy nói đến nhu cầu cũng như khả năng thoả mãn nhu cầu phải xuất phát từ những điều kiện và hoàn cảnh cụ thể về kinh tế, kỹ thuật, xã hội. Yêu cầu chất lượng của mọi sản phẩm cũng không thể như nhau, sản phẩm xuất khẩu phải có chất lượng phù hợp với thị trường vì điều kiện xã hội, phong tục tập quán đều có ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Chất lượng sản phẩm là một yếu tố động. Trong khi giá trị sử dụng phụ thuộc vào kết cấu nội tại của sản phẩm nó sẽ bị thay đổi khi kết cấu bị thay đổi thì trái lại chất lượng sản phẩm phụ thuộc vào nhu cầu xã hội, điều kiện sản xuất, con người lao động…, nó biến đổi theo không gian và thời gian. Do xã hội luôn luôn vận động kéo theo nhu cầu của người tiêu dùng luôn thay đổi, thứ nũa là do cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật đang là động lực mạnh mẽ thúc đẩy mọi qúa trình phát triển trong xã hội, nên chất lượng sản phẩm luôn thay đổi, ngày càng được nâng cao. I.1.2. Các khía cạnh chất lượng sản phẩm Mỗi sản phẩm được đặc trưng bằng các tính chất, đặc điểm riêng biệt, những đặc tính đó phản ánh tính khách quan của sản phẩm thể hiện trong quá trình hình thành và sử dụng sản phẩm. Những đặc tính khách quan này phụ thuộc rất lớn vào trình độ thiết kế quy định cho sản phẩm. Mỗi tính chất được biểu thị bằng các chỉ tiêu cơ lý hoá nhất định có thể đo lường, đánh giá được. Vì vậy, nói đến chất lượng phải đánh giá thông qua hệ thống chỉ tiêu, tiêu chuẩn cụ thể. Đặc điểm này khẳng định những sai lẩm cho rằng chất lượng sản phẩm là các chỉ tiêu không thể đo lường đánh giá được. Nói đến chất lượng sản phẩm là phải xem xét sản phẩm đó thoả mãn đến mức độ nào nhu cầu của khách hàng. Mức độ thoả mãn phụ thuộc rất lớn vào chất lượng thiết kế và những tiêu chuẩn đặt ra cho mỗi sản phẩm. Chất lượng sản phẩm còn mang tính dân tộc thể hiện ở truyền thống tiêu dùng. Mỗi dân tộc, mỗi quốc gia, mỗi vùng lãnh thổ đều có thị hiếu tiêu dùng khác nhau. Một sản phẩm có thể được xem là tốt ở noi này nhưng lại là không tốt, không phù hợp ở nơi khác. Trong kinh doanh không thể có chất lượng như nhau cho tất cả các vùng mà căn cứ vào hoàn cảnh cụ thể để đề ra các phương án chất lượng cho phù hợp. Chất lượng chính là sự phù hợp về mọi mặt với yêu cầu của khách hàng. Chất lượng sản phẩm gồm hai loại: + Chất lượng trong tuân thủ thiết kế thể hiện ở mức độ sản phẩm đạt được so với tiêu chuẩn thiết kế đề ra. Khi sản phẩm sản xuất ra có những đặc tính kinh tế, kỹ thuật càng gần với tiêu chuẩn thiết kế thì chất lượng càng cao, được phản ánh thông qua tỷ lệ phế phẩm, sản phẩm không đạt yêu cầu thiết kế… Loại chất lượng này phản ánh những đặc tính bản chất khách quan của sản phẩm do đó liên quan chặt chẽ đến khả năng cạnh tranh và chi phí. + Chất lượng trong sự phù hợp: Chất lượng phụ thuộc vào mức độ phù hợp của sản phẩm thiết kế so với nhu cầu và mong nuốn của khách hàng. Mức độ phù hợp càng cao thì chất lượng sản phẩm càng cao. Loại chất lượng này phụ thuộc vào mong muốn và sự đánh giá chủ quan của người tiêu dùng vì vậy nó tác động mạnh mẽ đến khả năng tiêu thụ của sản phẩm I.1.3. Những tính chất đặc trưng của chất lượng sản phẩm Khi đề cập tới vấn đề chất lượng sản phẩm, tức là nói tới mức độ thoả mãn nhu cầu của sản phẩm trong những điều kiện tiêu dùng xác định, phù hợp với công dụng của nó. Như vậy là “ mức độ thoả mãn nhu cầu” đó không thể tách rời khỏi những điều kiện kỹ thuật kinh tế xã hội cụ thể. Khả năng “thoả mãn nhu cầu” của sản phẩm sẽ được thực hiện thông qua những tính chất đặc trưng của nó. - Tính kinh tế: Thể hiện ở khía cạnh chất lượng sản phẩm chịu sự chi phối trực tiếp của điều kiện kinh tế. Một sản phẩm có chất lượng kỹ thuật tốt, nhưng nếu được cung cấp với giá cao vượt quá khả năng chấp nhận của người tiêu dùng thì sẽ không phải là một sản phẩm có chất lượng cao về mặt kinh tế. - Tính kỹ thuật: Được thể hiện thông qua một hệ thống chỉ tiêu có thể lượng hoá và so sánh được. Những chỉ tiêu kỹ thuật quan trọng nhất gồm có: + Chỉ tiêu công dụng: Đo giá trị sử dụng của sản phẩm + Chỉ tiêu độ tin cậy: Đo mức độ hỏng hóc, mức độ dễ bảo quản sửa chữa, tuổi thọ + Chỉ tiêu công thái học: Đo mức độ hợp lý trong mối quan hệ tương tác giữa các yếu tố trong hệ thống “ con người- máy móc và thiết bị” + Chỉ tiêu thẩm mỹ: Đo mức độ mỹ quan + Chỉ tiêu công nghệ: Đánh giá mức độ tối ưu của các giải pháp công nghệ để tạo ra sản phẩm + Chỉ tiêu về tính dễ vận chuyển: Đánh giá mức độ thích hợp của sản phẩm đối với việc vận chuyển + Chỉ tiêu thống nhất hoá: Đánh giá mức độ thống nhất hoá, sử dụng các chi tiết bộ phận tiêu chuẩn hoá để tạo ra sản phẩm + Chỉ tiêu sinh thái học: Đánh giá mức độ tác động của sản phẩm đến môi trường sinh thái trong quá trình sản xuất và sử dụng + Chỉ tiêu an toàn: Đánh giá mức độ an toàn trong sản xuất và sử dụng sản phẩm Các chỉ tiêu này được sử dụng để đánh giá một cách toàn diện tính chất kỹ thuật của sản phẩm. Tuỳ thuộc vào loại sản phẩm cụ thể mà mức độ quan trọng của từng chỉ tiêu sẽ khác nhau. - Tính xã hội: Thể hiện ở khả năng thoả mãn nhu cầu tiêu dùng phù hợp với điều kiện và trình độ phát triển của một xã hội nhất định. Thế giới là một tập hợp gồm vô số các cộng đồng có những đặc điểm xã hội riêng biệt và trình độ phát triển khác nhau. Tính xã hội của chất lượng sản phẩm thể hiện ở khả năng kết hợp một cách hài hoà, đa dạng các nhu cầu thị hiếu tiêu dùng với khả năng phát triển văn hóa, khoa học kỹ thuật, trình độ dân trí của từng cộng đồng. - Tính tương đối của chất lượng sản phẩm: Thể hiện ở sự phụ thuộc của nó vào không gian, thời gian, ở mức độ chính xác tương đối khi lượng hoá mức chất lượng sản phẩm. I.1.4. Phân loại chất lượng sản phẩm Để hiểu đầy đủ và có những biện pháp không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm, đòi hỏi các doanh nghiệp phải nắm chắc các loại chất lượng sản phẩm. Theo hệ thống quản lý chất lượng ISO9000 người ta phân loại chất lượng sản phẩm như sau: - Chất lượng thiết kế là mức độ mà sự thiết kế phản ánh một sản phẩm hoặc một dịch vụ thoả mãn các nhu cầu của khách hàng. Chất lượng thiết kế là giai đoạn đầu của quá trình hình thành chất lượng sản phẩm. - Chất lượng của sự phù hợp là mức độ mà một sản phẩm hay dịch vụ phù hợp với tiêu chuẩn thiết kế. Sự thiết kế phải được tái tạo một cách trung thực ở mỗi sản phẩm - Chất lượng sử dụng là mức độ mà người sử dụng có thể sử dụng liên tục của người sử dụng - Chất lượng tiêu chuẩn là giá trị riêng của những thuộc tính của sản phẩm được thừa nhận, được phê chuẩn trong quản lý chất lượng sản phẩm. Chất lượng tiêu chuẩn là nội dung tiêu chuẩn của một loại hàng hoá. Chất lượng tiêu chuẩn có ý nghĩa pháp lệnh buộc phải thực hiện nghiêm chỉnh trong quá trình quản lý chất lượng. Chất lượng tiêu chuẩn có nhiều loại: + Tiêu chuẩn Quốc tế là những tiêu chuẩn do tổ chức chất lượng quốc tế đề ra được các nước chấp nhận và xem xét áp dụng cho phù hợp với điều kiện từng nước. + Tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN) là tiêu chuẩn Nhà nước, được xây dựng trên cơ sở nghiên cứu ứng dụng thành tựu khoa học kỹ thuật, áp dụng kinh nghiệm và tiêu chuẩn Quốc tế phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội ở Việt Nam. + Tiêu chuẩn ngành (TCN) là các chỉ tiêu về chất lượng do các Bộ, các Tổng cục xét duyệt, ban hành, có hiệu lực đối với tất cả các đơn vị trong ngành, địa phương đó. + Tiêu chuẩn doanh nghiệp (TCDN) là các chỉ tiêu về chất lượng do doanh nghiệp tự nghiên cứu và áp dụng trong doanh nghiệp mình cho phù hợp với điều kiện riêng của doanh nghiệp đó. + Chất lượng cho phép là dung sai cho phép mức sai lệch giữa chất lượng thực tế với chất lượng tiêu chuẩn. Chất lượng cho phép phụ thuộc vào điều kiện kỹ thuật của từng nước, phụ thuộc vào trình độ lành nghề của công nhân. Khi chất lượng thực tế của sản phẩm vượt qúa dung sai cho phép thì hàng hoá sẽ bị xếp vào loại phế phẩm. + Chất lượng tối ưu là biểu thị khả năng thoả mãn toàn diện nhu cầu của thị trường trong những điêù kiện xác định với những chi phí xã hội thấp nhất. Thường các doanh nghiệp phải giải quyết được mối quan hệ giữa chi phí và chất lượng sao cho chi phí thấp nhất mà chất lượng vẫn đảm bảo. I.1.5. Những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng sản phẩm Chất lượng sản phẩm được hình thành trong quá trình nghiên cứu phát triển, thiết kế, được đảm bảo trong qúa trình chế tạo, vận chuyển, bảo quản, phân phối, lưu thông và được duy trì trong qúa trình sử dụng. Tại mỗi giai đoạn đều có những yếu tố ảnh hưởng tác động với mức độ khác nhau. Đứng ở góc độ những nhà sản xuất kinh doanh, xem chất lượng sản phẩm là một vũ khí cạnh tranh, thì chất lượng sản phẩm chịu tác động của các yếu tố chính sau đây Các nhân tố bên ngoài: - Nhu cầu thị trường: Nhu cầu về sản phẩm của người tiêu dùng không ngừng phát triển về số lượng, chủng loại, trình độ kỹ thuật, thời điểm cung cấp, giá cả, và người cung cấp luôn tìm mọi cách để đáp ứng, làm cho sản phẩm của mình có khả năng thoả mãn mọi nhu cầu của thị trường, đó là quá trình không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm. - Tiềm năng kinh tế: Nhân tố này sẽ quyết định chính sách đầu tư, lựa chọn mức chất lượng phù hợp. - Trình độ phát triển khoa học kỹ thuật công nghệ tác động vào chất lượng sản phẩm thông qua: + Sử dụng công nghệ tiên tiến + Sử dụng máy móc thiết bị hiện đại + Sử dụng nguyên vật liệu có tính năng ưu việt + Sử dụng các phương pháp tổ chưc quản lý sản xuất tiên tiến - Chính sách kinh tế,: Hướng đầu tư, chính sách khuyến khích phát triển đối với sản phẩm, hệ thống pháp luật - Cơ chế quản lý: Cơ chế quản lý của nhà nước có ảnh hưởng lớn đến khả năng nâng cao chất lượng của mỗi doanh nghiệp, nó vừa là môi trường vừa là điều kiện cần thiết tác động đến phương hướng, tốc độ cải tiến và nâng cao chất lượng sản phẩm. Nó tạo tính độc lập, tự chủ sáng tạo trong cải tiến chất lượng sản phẩm, hình thành môi trường thuận lợi cho việc huy động công nghệ mới, tiếp thu ứng dụng những phương pháp quản lý hiện đại trên thế giới Những yếu tố về văn hóa, truyền thống, tập quán Nhóm nhân tố bên trong - Lực lượng lao động của doanh nghiệp: Đây là một nhân tố có ảnh lớn đến chất lượng sản phẩm, dù công nghệ và thiết bị máy móc hiện đại đến đâu thì nhân tố con người bao giờ cũng là nhân tố căn bản nhất tác động trực tiếp đến các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Trình độ chuyên môn, ý thức trách nhiệm, khả năng hiệp tác và khả năng thích ứng với sự thay đổi, khả năng nắm bắt thông tin…tất cả tác động trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Quan tâm đầu tư phát triển và không ngừng nâng cao trình độ và ý thức của người lao động là một nhiệm vụ quan trọng trong quản lý chất lượng của mỗi doanh nghiệp - Khả năng về công nghệ máy móc thiết bị: Đối với mỗi doanh nghiệp, công nghệ luôn là một trong những yếu tố cơ bản tác động mạnh mẽ đến chất lượng sản phẩm. Mức chất lượng trong sản phẩm phụ thuộc vào sự đồng bộ, tính tự động hoá… của thiết bị. - Vật tư, nguyên liệu và hệ thống tổ chức đảm bảo vật tư nguyên liệu của doanh nghiệp: Nguyên liệu là nhân tố tham gia trực tiếp vào việc cấu thành nên sản phẩm, do đó chất lượng nguyên liệu ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm sản xuất ra. Doanh nghiệp không thể sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao từ những nguyên liệu có chất lượng kém. Ngoài ra, chất lượng sản phẩm của doanh nghiệp còn phụ thuộc rất lớn vào việc thiết lập hệ thống cung ứng nguyên vật liệu thích hợp trên cơ sở tạo dựng mối quan hệ lâu dài, hiểu biết và tôn trọng lẫn nhau giữa người cung ứng và doanh nghiệp đảm bảo khả năng cung cấp đâỳ đủ, kịp thời, chính xác, chất lượng phù hợp. - Trình độ tổ chức quản lý và tổ chức sản xuất của doanh nghiệp: Trình độ quản lý nói chung và trình độ quản lý chất lượng nói riêng là một trong những nhân tố quan trọng góp phần thúc đẩy tốc độ cải tiến, hoàn thiện chất lượng sản phẩm ở các doanh nghiệp. Các chuyên gia quản lý chất lượng đồng tình cho rằng trong thực tế có tới 80% những vấn đề về chất lượng là do quản lý chất lượng gây ra. Vì vậy, nói đến quản lý chất lượng ngày nay người ta cho rằng trước hết đó là chất lượng của quản lý. Các yếu tố của sản xuất như nguyên liệu, máy móc thiết bị, dây chuyền sản xuất và người lao động dù ở trình độ nào nhưng nếu không được tổ chức một cách hợp lý tạo ra sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng giữa các khâu, các yếu tố của sản xuất thì không thể tạo ra sản phẩm có chất lượng cao. Đôi khi trình độ quản lý tồi còn làm giảm chất lượng sản phẩm, gây lãng phí nguồn lực sản xuất dẫn đến làm giảm hiệu quả sản xuất kinh doanh.. Trình độ tổ chức quản lý các hoạt động sản xuất kinh doanh được thể hiện qua các phương pháp quản lý công nghệ. Mỗi doanh nghiệp cần phải tổ chức tốt bộ máy quản lý kỹ thuật và kiểm tra chất lượng sản phẩm, chú trọng trang bị các phương tiện kiểm tra kỹ thuật giám định chất lượng sản phẩm. I.1.7. Hoạt động chất lượng Hoạt động chất lượng Hoạt động chất lượng là tất cả các thao tác quản lý, đảm bảo và kiểm tra nhằm bảo tồn và cải tiến chất lượng sản phẩm và dịch vụ một cách kinh tế nhất có tính đến yêu cầu của khách hàng, bao gồm: - Kiểm tra chất lượng là tất cả các hoạt động kiểm tra chất lượng sản phẩm và dịch vụ đối với sản phẩm so sánh với những yêu cầu đã đặt ra trước. Yêu cầu đó thuộc về tiêu chuẩn chất lượng. Dựa trên cơ sở kiểm tra chất lượng để loại bỏ những nguyên nhân xấu. - Đảm bảo chất lượng là mọi hoạt động xây dựng chương trình chất lượng sản phẩm từ thiết kế, sản xuất đến phân phối dịch vụ. Đây là một hoạt động vô cùng quan trọng có ý nghĩa cả trong nội bộ và bên ngoài mỗi doanh nghiệp. Trong nội bộ doanh nghiệp, việc xây dựng hệ thống đảm bảo chất lượng là xây dựng niềm tin của lãnh đạo và của công nhân vao công việc của mình. Bên ngoài doanh nghiệp nó đảm bảo niềm tin của khách hàng đối với sản phẩm của xí nghiệp. - Quản lý chất lượng là các hoạt động về quy hoạch, tổ chức chỉ đạo và kiểm tra cần thiết để thực hiện chất lượng sản phẩm và dịch vụ theo yêu cầu của khách hàng với giá rẻ nhất và phù hợp với các hoạt động khác như sản xuất và tiêu thụ. Các hoạt động đó bao gồm: + Quy hoạch chất lượng: Có nghĩa là thiết kế và dự toán các yếu tố ảnh hưởng đến chất lượng và mục tiêu chất lượng phải đạt được. Doanh nghiệp phải đặt ra những tính chất cố định, những mục tiêu cần theo đuổi trong thời gian ngắn hạn và dài hạn, những quy định cụ thể mà sản xuất và tiêu thu phải tuân theo. + Tổ chức quản lý là khả năng sử dụng nguồn nhân lực, hợp đồng chặt chẽ giữa người sản xuát và người tiêu dùng bằng cách tận dụng nguồn nhân lực sẵn có như con người, tài chính và kỹ thuật, đồng thời xác định các vị trí để kiểm tra. + Kiểm tra thường xuyên để đánh giá các kết quả theo mục đích đã xây dựng và đề ra các biện pháp sửa chữa kịp thời đối với những khuyết tật phát hiện được. Quản lý chất lượng sản phẩm là những hoạt động nhằm xác định các yêu cầu cần phải đạt được của sản phẩm, đảm bảo các yêu cầu đó được thực hiện trong thực hiện trong thẹc tế bằng cách tác động có hiệu qủa vào những yếu tố và điều kiện có liên quan tới việc hoàn thành và duy trì chất lượng sản phẩm Quản lý chất lượng sản phẩm là cơ sở pháp lý dựa trên các văn bản, tiêu chuẩn được đề ra từ xí nghiệp đến các ngành quốc gia và quốc tế về chất lượng sản phẩm để ddảm bảo và kiểm tra chất lượng. Quản lý chất lượng là hoạt động rất quan trọng trên phương diện quản lý của xí nghiệp. Đảm bảo chất lượng và kiểm tra chất lượng là một phần của công tác quản lý chất lượng. Những hoạt động trên có mối liên hệ mật thiết và gắn bó với nhau. Nội dung của đảm bảo và kiểm tra chất lượng Sự chênh lệch giữa cung và cầu: Để đảm bảo chất lượng, cần phải thường xuyên kiểm tra liên tục từ giai đoạn sản xuất đến phân phối, tiêu thụ và dịch vụ bảo hành. Sản phẩm đã được bán ra thị trường bao giờ cũng có một sự chênh lệch giữa đặc tính có sẵn so với yêu cầu của người tiêu dùng. Công tác đảm bảo và kiểm tra chất lượng để làm giảm tối đa sự chênh lệch đó. Năm yêu cầu tuyệt đối của chất lượng - Sản phẩm phải phù hợp giữa thiết kế và sản xuất - Phải có dự phòng các khuyết tật có thể xảy ra và tìm ra nguyên nhân để sửa chữa - Tìm cách tạo ra chất lượng tốt nhất trong điều kiện có thể được - Có phương pháp đo lường phù hợp: các phương pháp lấy mẫu, kiêm tra và phân tích, kiểm tra trên sổ sách ( những người làm công tác sản xuất phải độc lập với người kiểm tra) để xem xét yêu cầu đó có phù hợp với mục đích đề ra không. - Chịu trách nhiệm trước công tác kiểm tra của mình Năm yêu cầu trên dựa trên ba cơ sở của việc sản xuất hàng hoá - Sản phẩm phải làm hài lòng khách hàng - Cung cấp ra trên thị trường một sản phẩm sạch - Sản xuất phải có lợi cho xí nghiệp I.2. thực chất của quản lý chất lượng trong các doanh nghiệp I.2.1. Quá trình hình thành và phát triển của khoa học quản lý chất lượng Khoa học quản lý chất lượng được phát triển và hoàn thiện liên tục, nó thể hiện ngày càng đầy đủ hơn bản chất tổng hợp, sự phức tạp của vấn đề chất lượng và phản ánh tính thích ứng với điều kiện và môi trường kinh doanh. Đầu thế kỷ 20 trên thế giới chưa có khái niệm quản lý chất lượng mà chỉ có khái niệm kiểm tra chất lượng. Toàn bộ hoạt động quản lý chất lượng chỉ bó hẹp trong lĩnh vực kiểm tra, kiểm soát sản phẩm trong quá trình sản xuất chỉ với mục đích không cho các sản phẩm đă sai hỏng ra ngoài thị trường. Vào những năm 50 khái niệm quản lý chất lượng bắt đầu xuất hiện để đáp ứng được kịp thời yêu cầu về chất lượng sản phẩm của thị trường, tuy phạm vi, nội dung và chức năng quản lý chất lượng được mở rộng hơn nhưng vẫn tập trung chủ yếu trong giai đoạn sản xuất. Những năm 70, khi sự cạnh tranh trên thị trường tăng lên đột ngột đã buộc các doanh nghiệp phải nhìn nhận lại và thay đổi quan niệm về vấn đề quản lý chất lượng . Để thoả mãn khách hàng, các doanh nghiệp không chỉ dừng lại ở khâu sản xuất mà phải quan tâm tới chất lượng sản phẩm ngay cả khi sản phẩm đã bán ra thị trường. Quản lý chất lượng đã mở rộng tới tất cả các lĩnh vực từ sản xuất đến dịch vụ trong toàn bộ đời sống của sản phẩm. Những thay đổi trong cách nhìn nhận về chất lượng sản phẩm và phương pháp quản lý chất lượng của các doanh nghiệp trên thế giới đặc biệt là ở các nước phát triển như Nhật, Mỹ và các nước Châu âu đã tạo ra một cuộc cách mạng về quản lý chất lượng sản phẩm trên thế giới. Từ đó, người ta đã biết đến quản lý chất lượng theo phương pháp hiện đại dưới cái tên quen thuộc phổ biến rộng rãi ở Nhật như quản lý chất lượng đồng bộ (TQM)… Đó là các phương pháp tiếp cận có hệ thống nhằm thiết lập và thực hiện những mục tiêu về chất lượng của các doanh nghiệp. I.2.2. Khái niệm, bản chất và nhiệm vụ của quản lý chất lượng Khái niệm Cũng giống như khái niệm về chất lượng sản phẩm, hiện nay có rất nhiều định nghĩa khác nhau về quản lý chất lượng. Sau đây là quan điểm chung nhất, toàn diện và được phổ biến rộng rãi đó là khái niệm do Tổ chức tiêu chuẩn chất lượng thế giới đưa ra và được ban hành trong TCVN5814-1994: “Quản lý chất lượng là một tập hợp những hoạt động của chức năng quản lý chung nhằm xác định chính sách chất lượng, mục đích, trách nhiệm và thực hiện chúng bằng những phương tiện như lập kế hoạch, điều khiển chất lượng, đảm bảo chất lượng và cải tiến chất lượng trong khuôn khổ một hệ thống chất lượng” Định nghĩa này đã đưa hoạt động quản lý chất lượng lên một trình độ cao, đặt vấn đề và giải quyết vấn đề chất lượng trong phạm vị hệ thống. Có thể hiểu định nghĩa trên một cách đơn giản: Quản lý chất lượng là việc ấn định mục tiêu, đề ra nhiệm vụ và tìm biện pháp thực hiện một cách hiệu quả nhất. Bản chất Quản lý chất lượng là một tập hợp các hoạt động của chức năng quản quản lý như hoạch định, tổ chức, kiểm soát và điều chỉnh. Đó là một loạt các hoạt động tổng hợp về kinh tế, kỹ tuật và xã hội. Chúng ta biết rằng chỉ khi nào toàn bộ các yếu tố trên được xem xét đầy đủ trong mối quan hệ thống nhất ràng buộc với nhau trong hệ thống chất lượng mới có cơ sở để nói rằng chất lượng sản phẩm sẽ được đảm bảo. Quản lý chất lượng phải được thực hiện thông qua một cơ chế nhất định bao gồm hệ thống các chỉ tiêu, tiêu chuẩn đặc trưng về kinh tế kỹ thuật biểu thị mức độ thoả mãn nhu cầu thị trường. Chất lượng được duy trì, đánh giá thông qua việc sử dụng các phương pháp thống kê trong quản lý chất lượng. Quản lý chất lượng là một quá trình liên tục mang tính hệ thống thể hiện sự gắn bó chặt chẽ giưã doanh nghiệp với môi trường bên ngoài. Mục đích và đối tượng của hệ thống quản lý chất lượng Một trong những mối quan tâm hàng đầu của doanh nghiệp là nâng cao chất lượng sản phẩm để tăng khả năng cạnh tranh. Muốn có sản phẩm tốt thì không thể dựa trên hệ thống quản lý chất lượng tồi. Một hệ thống quản lý chất lượng tốt phải nhằm thực hiện được các mục tiêu sau đây: - Đáp ứng thoả mãn nhu cầu của khách hàng về mức chất lượng phù hợp ứng với chức năng sử dụng xác định của sản phẩm. - Phù hợp với các tiêu chuẩn và quy định kỹ thuật mang tính pháp lệnh. - Phù hợp với pháp luật và các yêu cầu về tính kinh tế và tính xã hội - Mang lại hiệu quả kinh tế cho doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân I.2.3. Chức năng của quản lý chất lượng trong doanh nghiệp Hoạch định chất lượng Hoạch định chất lượng là hoạt động xác định mục tiêu, phương tiện, nguồn lực và biện pháp nhằm thực hiện mục tiêu chất lượng sản phẩm. Hoạch định chất lượng tạo điều kiện khai thác và sử dụng có hiệu quả hơn các nguồn lực và tiềm năng trong dài hạn fps phàn làm giảm chi phi cho chất lượng, nâng cao khả năng cạnh tranh, giúp cho các công ty chủ đọng thâm nhập thị trường đồng thời còn trạo ra đặc một sự chuyển biến căn bản về phương pháp quản lý chất lượng ở các doanh nghiệp. Nội dung chủ yếu của hoạch định chất lượng sản phẩm bao gồm: - Xác lập những mục tiêu chất lượng tổng quát và chính sách chất lượng. - Xác định khách hàng. - Phát triển các đặc điểm của sản phẩm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. - Phát triển quá trình có khả năng tạo ra những đặc điểm cua rsản phẩm. - Chuyển giao các kết quả của hoạch định cho bộ phân tác nghiệp. Tổ chức thực hiện Thực chất đây là một quá trình điều khiển các hoạt động tác nghiệp thông qua các hoạt động, những phương tiện, kỹ thuật, phương pháp cụ thể nhằm đảm bảo chất lượng sản phẩm theo đúng những yêu cầu của kế hoặch đặt ra. Tổ chức thực hiện có ý nghĩa quyết định đến việc biến các kế hoạch chất lượng thành hiện thực. Mục đích yêu cầu đặt ra với các hoạt động triển khai: - Đảm bảo rằng mọi người có trách nhiệm thực hiện các kế hoạch, nhận thức một cách đầy đủ mục tiêu và sự cần thiết của chúng. - Giải thích cho mọi người biết chính xác các nhiệm vụ, kế hoạch chất lượng cụ thể cần thiết phải thực hiện. - Tổ chức những chương trình đào tạo và giáo dục, cung cấp những kiến thức, kinh nghiệm cần thiết đối với việc thực hiện kế hoạch. - Cung cấp đầy đủ các nguồn lực. Kiểm tra Kiểm tra chất lượng là hoạt động theo dõi, thu thập, phát hiện và đánh giá những khuyết tật của quá trình. Mục đích kiểm tra không chỉ tập trung vào việc phát hiện các sai hỏng, loại cái xấu ra khỏi cái tốt mà đồng thời là phát hiện và tìm ra các nguyên nhân để đề ra các biện pháp ngăn chặn kịp thời. Những biện pháp kiểm tra - Đánh giá tình hình thực hiện chất lượng và xác định mức chất lượng đạt được trong thực tế của doanh nghiệp. - So sánh chất lượng thực tế với kế hoạch để phát hiện các sai lệch đó trên các phương diện kinh tế, xã hội. - Tiến hành các hoạt động cần thiết nhằm khắc phục những sai lệch, đảm bảo thực hiện đúng những yêu cầu ban đầu hoặc thay đổi theo dự kiến. - Phân tích các thông tin về chất lượng làm cơ sở cho cải tiến và khuyến khích cải tiến chất lượng. Hoạt động điều chỉnh và cải tiến Hoạt động điều chỉnh nhằm làm cho các hoạt động của hệ thống doanh nghiệp có khả năng thực hiện được các tiêu chuẩn đề ra đồng thời cũng là hoạt động đưa chất lượng sản phẩm thích ứng với tình hình mới nhằm giảm dần khoảng cách giữa mong muốn của khách hàng và thực tế chất lượng đạt được, thoả mãn nhu cầu khách hàng ở mức cao hơn. Nó bao gồm các bước sau: - Xác định những đòi hỏi cụ thể về cải tiến chất lượng từ đó xây dựng các dự án cải tiến chất lượng. - Cung cấp các nguồn lực cần thiết như tài chính, kỹ thuật, lao động. - Động viên, đào tạo và khuyến khích quá trình thực hiện dự án cải tiến chất lượng. Khi cần thiết có thể điều chỉnh mục tiêu chất lượng, thực chất đó chính là quá trình cải tiến chất lượng phù hợp với điều kiện và môi trường kinh doanh mới của doanh nghiệp. Quá trình cải tiến được thực hiện theo các bước sau: - Thay đổi quá trình nhằm giảm khuyết tật. - Thực hiện công nghệ mới. - Phát triển sản phẩm mới, đa dạng hoá sản phẩm. I.2.4. Nội dung của quản lý chất lượng Quản lý chất lượng trong khâu thiết kế Thiết kế được hiểu la thiết kế công việc của roàng bộ các hoạt động của quá trình: thiết kế sản phẩm, dịch vụ và triển khai, nghiên cứu và thẩm định… Đây là điểm đầu tiên trong quản lý chất lượng, những thông số kinh tế kỹ thuật thiết kế đã được phê chuẩn là tiêu chuẩn chất lượng quan trong mà sản phẩm sản xuất ra phải tuân thủ. C._.hất lượng thiết kế sẽ tác động trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Để đạt được những mục tiêu đó cần thực hiện những nhiệm vụ sau: - Tập hợp, tổ chức phối hợp giữa các nhà thiết kế, quản lý, marketing, tài chính, tác nghiệp, cung ứng… để thiết kế sản phẩm. - Đưa ra các phương án khác nhau về đặc điểm sản phẩm có thể đáp ứng nhu cầu của khách hàng. - Thử nghiệm và kiểm tra các phương án nhằm chọn phương án tối ưu. - Đưa ra các chỉ tiêu bằng những thông số cụ thể. - Đưa ra các chỉ tiêu kiểm tra. Quản lý chất lượng trong khâu cung ứng Mục tiêu của quản lý chất lượng trong khâu này là nhằm đáp ứng đúng chủng loại, số lượng, thời gian, địa điểm và các đặc điểm kinh tế kỹ thuật cần thiết của nguyên vật liệu đảm bảo cho quá trình sản xuất tiến hành thường xuyên liên tục với chi phí thấp nhất. Quản lý chất lượng trong khâu cung ứng bao gồm những nội dung sau: - Lựa chọn hgười cung ứng có đủ khả năng đáp ứng những đòi hỏi về chất lượng nguyên liệu. - Tạo lập hệ thống thông tin phản hồi chặt chẽ, thường xuyên, cập nhật. - Thoả thận về việc đảm bảo chất lượng vật tư cung ứng. - Thoả thuận về phưong pháp thẩm tra, xác minh. - Xác định các phương án giao nhận. - Xác định rõ ràng đầy đủ các điều khoản trong việc giải quyết các trục trặc, khiếm khuyết. Quản lý chất lượng trong sản xuất Mục đích của quản lý chất lượng trong sản xuất là khai thác, huy động có hiệu quả các quá trình công nghệ, thiết bị mà con người đã lựa chọn để sản xuất ra sản phẩm có chất lượng phù hợp với tieue chuản thiết kế. Để thực hiện mục tiêu trên, quản lý chất lượng trong giai đoạn này cần thực hiện những nội dung sau: - Cung ứng đầy đủ số lượng, chất lượng nguyên vật liệu. - Thiết lập và thực hiện các tiêu chuẩn, thủ tục, thao tác quy trình thực hiện công việc, kiểm tra hiẹu chỉnh máy móc đồ ùng dụng cụ pục vụ sản xuất. Thường xuyên theo doic kiểm tra máy móc thiết bị trong quá trình sản xuất. - Kiểm tra chất lượng sản phẩm sau khi đã hoàn thiện. Quản lý chất lượng trong khâu bán hàng Mục tiêu của quản lý chất lượng trong giai đoạn này là thoả mãn khách hàng nhanh nhất, thuận tiện nhất và với chi phí thấp nhất nhờ đó tăng uy tín, danh tiếng cho doanh nghiêp, giúp cho doanh nghiệp có một thương hiệu ổn định trên thị trường. Nhiệm vụ chủ yếu củ quản lý chất lượng trong giai đoạn này: - Tạo lập danh mục sản phẩm hợp lý. - Tổ chức mạng lưới đại lý phân phối, dịch vụ thuận lợi nhanh chóng. - Hướng dẫn khách hàng trong việ sử dụng hàng hoá, điều kiện sử dụng, phạm vi sử dụng, tráh những sai hỏng đáng tiếc xảy ra. - Nghiên cứu vận chuyển hàng hoá, đóng gói, bảo quản. - Tổ chức bảo hành, dịch vụ kỹ thuật, thích hợp sau bán hàng. I.2.5. Một số công cụ cơ bản được áp dụng trong quản lý chất lượng sản phẩm Tờ kiểm tra Tờ kiểm tra là công cụ dùng để thu để thu thập thông tin ban đầu, nó được chuẩn bị theo các bước sau: - Lựa chọn hiện tượng cần quan sát - Quyết định thời gian thu thập số liệu - Thiết kế mẫu ghi chép - Tiến hành quan sát thu thập số liệu - Trình bày số liệu phù hợp với mục đích nghiên cứu Mộu thu thập số liệu được thiết kế tuỳ thuộc vào đối tượng quan sát và mục đích nghiên cứu. Biểu đồ tần số Biểu đồ tần số cho ta thấy rõ bằng hình ảnh tần suất xuất hiện của một giá trị hoặc một nhóm giá trị nào đó. Qua biể đồ tán số, có thể nhận thấy được mức độ tập trung, phân tán, sai số, quy luật phân bố của dãy số liệu quan sát, có thể nhận thấy được mức độ tập trung, phân tán, sai số, qui luật phân bố của dãy số hiệu quan sát. Nó cũng là phương tiện để thông tin cho những người điều khiển sản xuất biết được kết quả những cố gắng có hướng đích của họ. Biểu đồ Pareto Biểu đồ này là kỹ thuật đồ thị đơn giản dùng để sắp xếp các cá thể từ tần xuất lớn nhất đến nhỏ nhất, nhằm mục đích xác định những nguyên nhân chính dẫn đến sai hỏng lại do một số ít những nguyên nhân chủ yếu. Sử dụng biểu đồ này có thể thu được những thông tin cần thiết để đề ra những biện pháp cải tiến với hiệu quả cao nhất. Biểu đồ nhân quả Biểu đồ nhân quả là một đồ thị có dạng hình xương cá (vì thế còn gọi là biểu đồ xương cá) nhằm giúp liệt kê tất cả các nguyên nhân gây tác động tới chất lượng sản phẩm, được sắp xếp thành từng nhóm và phân biệt chính phụ theo mức độ ảnh hưởng. Biểu đồ là cơ sở để phân tích các mối quan hệ nhân quả có liên quan đến chất lượng sản phẩm, tạo điều kiện thuận lợi để đi từ nguyên nhân tới giải pháp một cách hệ thống và toàn diện. Biểu đồ tán xạ Biều đồ tán xạ là công cụ giúp lượng hoá mối quan hệ nhân quả giữa hai yếu tố hay một số yếu tố. Thông qua biểu đồ tán xạ, ta có thể nhận thấy được giữa hai yếu tố có mối tương quan hay không, tính chất tương quan và độ chặt tương quan. I.2.6. Kiểm tra chất lượng sản phẩm Kiểm tra, đánh giá chất lượng sản phẩm và hàng hoá là một trong những hoạt động quan trọng của quản lý chất lượng sản phẩm. Kiểm tra chất lượng sản phẩm nhằm xác định những sai lệch gía trị các chỉ tiêu chất lượng, tìm ra các nguyên nhân gây ra các sai lệch đó và tìm biện pháp loại trừ những nguyên nhân gây ra sai lệch Công tác kiểm tra chất lượng được thực hiện ở hầu hết các giai đoạn, từ điều tra nghiên cứu nhu cầu, thiết kế chế tạo thử, mua nguyên vật liệu… đến kiểm tra chất lượng sản phẩm cuối cùng Nhiệm vụ cơ bản của kiểm tra chất lượng sản phẩm là thông qua các phương thức và phương pháp cụ thể nhằm: - Kiểm tra đánh giá mức độ phù hợp về các thông số kinh tế – kỹ thuật với dự án thiết kế sản xuất, với tiêu chuẩn qui định, với các điều khoản của hợp đồng mua bán, giao nhận - Phân tích sự phù hợp của việc phân cấp thứ hạng sản phẩm hàng hoá thưo tiêu chuẩn và giá cả - Phát hiện kịp thời những sản phẩm kém chất lượng, phân tích nguyên nhân để có kế hoạch khắc phụ hoặc xác định rõ trách nhiệm Kiểm tra chất lượng sản phẩm không chỉ nhằm loại bỏ sản phẩm hư hỏng mà chủ yếu là phòng ngừa hư hỏng, phòng ngừa sự xuất hiện phế phẩm trong quá trình sản xuất làm cho chất lượng sản phẩm hàng hoá ngày càng được nâng cao Cơ sở để kiểm tra chất lượng sản phẩm là: Các tiêu chuẩn Quốc tế, tiêu chuẩn Nhà nước, tiêu chuẩn nghành… Nội dung của kiểm tra chất lượng sản phẩm Trong doanh nghiệp thường tồn tại song song hai hệ thống kiểm tra là kiểm tra kỹ thuật và kiểm tra chất lượng sản phẩm. Kiểm tra kỹ thuật còn gọi là kiểm tra sản xuất là qúa trình giám sát thực hiện các điều kiện kỹ thuật và quá trình công nghệ để đảm bảo sản xuất ra những bán thành phẩm và sản phẩm cối cùng đạt yêu cầu về tiêu chuẩn quy định. Kiểm tra chất lượng được tiến hành ở mọi giai đoạn hình thành ra sản phẩm, bảo đảm và duy trì mức chất lượng đã được xác định, gồm có một số khâu kiểm tra chính như sau: - Kiểm tra ở giai đoạn trước khi vào sản xuất, việc kiểm tra ở giai đoạn này nhằm xác định những điều kiện đảm bảo cho sản xuất ra sản phẩm phù hợp với yêu cầu chất lượng qui định, bao gồm: + Kiểm tra chất lượng việc cung cấp các tài liệu thiết kế, công nghệ: Các tài liệu được xây dựng có phù hợp với yêu cầu và nhiệm vụ kỹ thuật không… + Kiểm tra tình trạng của thiết bị đo lường, kiểm nghiệm phục vụ cho công tác kiểm tra chất lượng có đúng yêu cầu về độ chính xác không? +Kiểm tra tình trạng của trang thiết bị, máy móc xem có sẵn sàng làm việc không, việc bảo dưỡng và vệ sinh công nghiệp được tiến hành như thế nào? + Kiểm tra các điều kiện khác như nước, điện, thông gió, ánh sáng… xem có đảm bảo cho sản xuất được tiến hành một cách thuận lợi không? - Kiểm tra chất lượng nguyên vật liệu và bán thành phẩm: Quá trình kiểm tra này nhằm đánh giá nguyên liệu, bán thành phẩm hoặc các chi tiết bộ phận nhập về để chế tạo sản phẩm có đảm bảo chất lượng không? Việc kiểm tra này được thực hiện theo trình tự sau: + Kiểm tra dạng ngoài + Phân tích thử nghiệm, kiểm tra: Tiến hành lấy mẫu theo phương pháp quy định. Sau đó tiến hành kiểm tra bằng các phương pháp cụ thể. Phân tích số liệu kiểm tra, lập biên bản về chất lượng nguyên liệu. - Kiểm tra sản phẩm hoàn thành là quá trình kiểm tra xác nhận sự phù hợp của sản phẩm với yêu cầu về chất lượng theo tiêu chuẩn - Kiểm tra phòng ngừa sản phẩm khuyết tật là quá trình kiểm tra giám sát các chế độ công nghệ thông qua việc theo dõi các thông số công nghệ trong quá trình sản xuất - Kiểm tra quá trình sử dụng, mục đích là xác định mức chất lượng thực tế ứng với các điều kiện sử dụng khác nhau, qua đó người sản xuất có thể có những thông tin về các dạng sai hỏng, phân tích nguyên nhân dẫn đến các sai hỏng đó và từ đó cùng người sử dụng có những biện pháp cải tiến nhằm nâng cao chất lượng sản phẩm. Các hình thức kiểm tra chất lượng: Kiểm tra toàn bộ lô hàng: Hình thức này chỉ sử dụng cho việc kiểm tra chất lượng những sản phẩm hàng hoá quý hiếm, hoặc trong trường hợp quy cách chất lượng không đồng nhất. Cũng có trường hợp lo hàng đồng nhất, nhung kết quả kiểm tra đại diện lại không khớp nhau nên phải tiến hành kiểm tra toàn bộ. Kiểm tra điển hình hay kiểm tra đại diện: Hình thức này thường áp dụng cho những lô hàng đồng nhất ( khối lượng, loại hàng… và chất lượng tương đối đồng nhất theo phiếu kiểm tra chất lượgn của xí nghiệp sản xuất. Trong sản xuất theo quy mô lớn, hàng hoá được sản xuất theo tiêu chuẩn, kiểm tra điển hình là một hình thức phổ biến. Trong hình thức kiểm tra này, người ta chỉ chọn ra một số đơn vị nhất định trong toàn bộ lô hàng để tiến hành kiểm tra rồi dùng các kết quả đó để tính toán và suy rộng thành các đặc điểm của toàn bộ lô hàng kiểm tra. Kiểm tra điển hình có một số ưu điểm sau: - Tiến hành nhanh so với kiểm tra toàn bộ. - Do số lượng mẫu kiểm tra có số lượng ít nên tiết kiệm được chi phí, nhân lực. - Kiểm tra điển hình có điều kiện tập trung nhân lực, thu thập tài liệu giảm bớt sai số, nhằm nâng cao trình độ chính xác của công tác kiểm tra. Tuy nhiên, hình thức kiểm tra này bao giờ cũng mang một sai số nhất định. Sai số này rất khó tránh dù vậy người ta có thể hạn chế sai số đến một mức độ nhất định. Phương pháp kiểm tra Phương pháp thí nghiệm: Đây là phương pháp được sử dụng trong nghiên cứu khoa học cũng nhu trong sản xuất kinh doanh. Kết quả của phương pháp này phản ánh một cách khách quan, chính xác một số chỉ tiêu chất lượng sản phẩm. Tuỳ theo phạm vi kiểm tra người ta chia như sau: - Phương pháp thí nghiệm cơ lý như xác định kích thước cơ bản, khối lượng, tỷ trọng, độ bền… - Phương pháp thí nghiệm hoá lý: Như kiểm tra độ nhớt, nhiệt độ, độ ẩm… - Phương pháp hoá học: Xác định hàm lượng các chất có trong sản phẩm, độ tro… Phương pháp cảm quan: Phương pháp thí nghiệm có nhiều ưu điểm, được dùng phổ biến trong lĩnh vực kiểm tra chât lượng các sản phẩm thực phẩm Kiểm tra cảm quan là sử dụng sự thụ cảm của các giác quan để phân tích chất lượng của sản phẩm như xác định mức độ khuyết tật trên bề mặt sản phẩm, màu sắc, cường độ màu, mùi, vị, hương thơm của sản phẩm… Nhưng phương pháp này cũng tồn tại một số nhược điểm như chi phí kiểm tra lớn, kết quả kiểm tra tuỳ thuộc vào kỹ năng và kinh nghiệm của từng cán bộ kiểm tra. Để khắc phục nhược điểm này người ta thường tiến hành thành lập một hội đồng đánh giá để kết quả mang tính khách quan hơn. Phương pháp sử dụng thử: Phương pháp sử dụng thử thường áp dụng cho các loại hàng tiêu dùng như hàng may măc và mỹ phẩm… Cơ sở của phương pháp này là dựa vào việc xác định giá trị sử dụng của sản phẩm trong các điều kiện bình thường để đánh giá chất lượng của sản phẩm. Các phương pháp chọn mẫu Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên Phương pháp chọn mẫu theo thứ tự Phương pháp chọn mẫu thưo cách phân loại Phương pháp chọn mẫu cả khối I.3. Giới thiệu về hệ thống phân tích các mối hiểm nguy và điểm kiểm soát tới hạn HACCP((1) HACCP: Hazard Analysis Critical Control Point ) Hệ thống HACCP là hệ thống có cơ sở khoa học và tính hệ thống, xác định những mối nguy và biện pháp cụ thể để kiểm soát mối nguy đó nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm. HACCP là một công cụ để đánh giá các mối nguy và thiết lập hệ thống kiểm soát tập trung vào việc phòng ngừa hơn là phụ thuộc chủ yếu vào kiểm tra sản phẩm cuối cùng. Tại sao lại là HACCP chứ không phải là TQM hay ISO 9000? HACCP hoàn toàn tương thích với các hệ thống quản lý chất lượng nói trên, nó bảo gồm cả đảm bảo chất lượng (QA) và kiểm tra chất lượng (QC) nhưng thông qua việc nghiên cứu các mối nguy, những trục trặc có thể xảy ra nhưng dưới góc độ an toàn sản phẩm rồi thực hiện hệ thống kiểm soát và quản lý để đảm bảo sản phẩm đạt chất lượng, an toàn và không gây hại cho người sử dụng. Tuy HACCP, ISO 9000, TQM tương thích nhau nhưng không thể thay thế lẫn nhau, quan trọng hơn HACCP là một hệ thống kiểm tra được thế giới công nhận Hệ thống HACCP có thể thích nghi dễ dàng với sự thay đổi, như những tiến bộ trong thiết kế thiết bị, qui trình chế biến hoặc những cải tiến kỹ thuật, HACCP có thể áp dụng xuyên suốt dây chuyền thực phẩm từ người sản xuất đầu tiên đến người tiêu thụ cuối cùng, từ đó sẽ tạo ra các sản phẩm thực phẩm có chất lượng và đảm bảo an toàn vệ sinh Hệ thống HACCP được áp dụng nhằm xác định các mối nguy hại sinh học, vật lý, hoá học ảnh hưởng đến an toàn thực phẩm. HACCP phân tích và chỉ ra các điểm kiểm soát tới hạn (CCP), các chỉ tiêu vận hành, các ngưỡng tới hạn, thủ tục giám sát và hành động khắc phục đối với mỗi CCP nhằm đảm bảo an toàn thực phẩm một cách hiệu quả và liên tục, HACCP đánh giá một cách hệ thống mọi công đoạn của quá trình sản xuất, bảo quản, chế biến…nhằm xác định công đoạn nào ảnh hưởng nghiêm trọng đến an toàn thực phẩm để tập trung nguồn lực vào kiểm soát. Một điều rất quan trọng là HACCP giúp phát hiện và ngăn chạn các sai sót ngay tư khi có xu hướng xuấ hiện sai sót đó. Hệ thống HACCP bao gồm 7 nguyên tắc cơ bản sau: Nguyên tắc 1: Tiến hành phân tích mối nguy hại Xác định các mối nguy hại tiềm ẩn ở mọi giao đoạn có thể ảnh hưởng tới an toàn thực phẩm từ khâu tiếp nhận nguyên liệu đến khâu tiêu thụ cuối cùng. Đánh giá khả năng xuất hiện các mối nguy hại và xác định các biện pháp kiểm soát chúng. Nguyên tắc này gồm nội dung của 6 bước từ bước 1 đến bước 6 Nguyên tắc 2: Xác định các điểm kiểm soát tới hạn (CCP) Xác định các điểm tại các công đoạn vận hành của sơ đồ dây chuyền sản xuất cần được kiểm soát để lạo bỏ các mối nguy hại hoặc hạn chế khả năng xuất hiện của chúng. Thuật ngữ “ Điểm” dùng được hiểu là bấy kỳ một công đoạn nào trong sản xuất hoặc chế biến thực phẩm Nguyên tắc 3: Xác lập các ngưỡng tới hạn Xác định các ngưỡng tới hạn không được vượt quá nhằm đảm bảo khống chế có hiệu quả các điểm kiểm soát tới hạn CCP Nguyên tắc 4: Thiết lập hệ thống giám sát các điểm kiểm soát tới hạn CCP Xây dựng một hệ thống các chương trình thử nghiệm quan trắc nhằm giám sát tình trạng được kiểm soát của các điểm CCP Nguyên tắc 5: Xác định các hoạt động khắc phục cần phải tiến hành khi hệ thống giám sát cho thấy tại một điểm kiểm soát tới hạn nào đó không được kiểm soát đầy đủ Nguyên tắc 6: Xác định các thủ tục thẩm định để khẳng định rằng hệ thống HACCP đang hoạt động có hiệu quả Nguyên tắc 7: Thiết lập hệ thống tài liệu liên quan đến mọi thủ tục, hoạt động của chương trình HACCP phù hợp với các nguyên tắc trên và các bước áp dụng chúng Để áp dụng HACCP phải thực hiện qua 12 bước sau: Thành lập đội HACCP Mô tả sản phẩm Xác định mục đích sử dụng Xây dựng sơ đồ quá trình sản xuất Kiểm tra thực địa về sơ đồ sản xuất Tiến hành phân tích mối nguy hại Xác định các điểm kiểm soát tới hạn Xác định các giới hạn tới hạn Thiết lập hệ thống giám sát Thiết lập hành động khắc phục Thiết lập các thủ tục xem xét xác nhận 12. Thiết lập tài liệu và lưu trữ hồ sơ Mục đích của việc áp dụng HACCP: - Cải tiến việc kiểm soát chất lượng của quá trình chế biến và là một công cụ quản lý cung cấp sự kiểm an toàn thực phẩm hữu hiệu nhất. - Tăng khả năng xuất khẩu nhờ lòng tin vào an toàn thực phẩm - Tiết kiệm được công sức và tiền bạc do có ít sản phẩm không đảm bảo chất lượng - Khuyến khích nhân viên tham gia tích cực vào việc duy trì chất lượng, mang lại cho họ lòng tự hào vào công việc, khích lệ họ làm việc tốt hơn Như vậy, với các nhà máy sản xuất, chế biến sản phẩm thực phẩm nếu áp dụng hệ thống HACCP sẽ mang lại rất nhiều Chương II phân tích chất lượng và tình hình quản lý chất lượng chè đen sản xuất theo phương pháp truyền thống ở công ty chè long phú II.1. Giới thiệu khái quát về công ty chè long phú II.1.1 Lịch sử hình thành công ty chè Long Phú Công ty chè Long Phú là một doanh nghiệp nhà nước, trực thuộc Tổng công ty chè Việt Nam, hạch toán độc lập. Công ty có trụ sở đặt tại huyện Quốc oai, tỉnh Hà Tây Tên giao dịch của công ty: Longphu tea company Ngày 6 tháng 4 năm 1995, Bộ NN và PTNT ra quyết định thành lập công ty chè Long phú. Sau hai năm xây dựng, đến tháng 5 năm 1997 công ty chè long phú được khánh thành và đi vào hoạt động với một dây truyền sản xuất chè đen theo phương pháp truyền thống, năng xuất 13 tấn chè búp tuơi/ ngày. Đến nay, sau hơn 5 hoạt động mặc dù còn gặp nhiều khó khăn nhưng công ty chè Long Phú vẫn không ngừng nỗ lực để hoàn thành kế hoạch do Tổng công ty chè giao đạt cả về số lượng và chất lượng. II.1.2. Cơ cấu tổ chức của Công ty chè Long Phú Công ty chè Long Phú là một công ty trực thuộc Tổng công ty chè Việt Nam, hạch toán độc lập, do đó cơ cấu tổ chức quản lý của công ty là cơ cấu tổ chức trực tuyến chức năng, đứng đầu công ty là Giám đốc do Tổng Giám đốc Tổng công ty chè Việt Nam bổ nhiệm, là người chịu trách nhiệm, người đại diện cho quyền lợi của toàn công ty trước cơ quan cấp trên và pháp luật. Trợ giúp cho Giám đốc gồm hai phó Giám đốc là phó Giám đốc kỹ thuật và phó Giám đốc phụ trách nông nghiệp. Do là một công ty nhỏ nên công ty chỉ gồm ba phòng: Phòng tổ chức hành chính, Phòng kế hoạch tài vụ, Phòng kinh doanh, Phòng phục vụ sản xuất Phân xưởng sản xuất chính, nông trường, phân xưởng sản xuất phụ trợ chịu sự quản lý trực tiếp của Giám đốc. Sơ đồ cơ cấu tổ chức của Công ty chè Long Phú Giám đốc Phó giám đốc KT Phó giám đốc KD Phòng KHTV Phòng TCHC Phòng KD Phòng phục vụ SX Nông trường Xưởng sản xuất chính Xưởng phụ trợ Chức năng nhiệm vụ của từng phòng ban - Phòng tổ chức hành chính có nhiệm vụ: + Tổ chức, quản lý sắp xếp nhân sự phù hợp với tính chất tổ chức quản lý của Công ty + Lập kế hoạch thực hiện lao động, kế hoạch tiền lương, kế hoạch đào tạo và tuyển dụng + Thực hiện các chính sách đối với người lao động, các chế độ bảo hiểm y tế, công tác bảo hiểm lao động… + Xây dựng định mức lao động, đơn giá tiền lương… - Phòng kế hoạch tài vụ +Xây dựng kế hoạch sản xuất, cơ cấu mặt hàng + Tham mưu cho Giám đổc trong lĩnh vực tài chính + Trực tiếp quản lý nguồn tài sản phục vụ cho sản xuất kinh doanh + Theo dõi chi phí sản xuất, hạch toán và phân tích kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh - Phòng kinh doanh: + Ký kết hợp đồng giao chè cho Tổng công ty chè Việt Nam + Tiến hành định giá và mua bán nguyên liệu + Kết hợp với phòng kế hoạch tài vụ tiến hành thanh toán thu hồi tiền bán hàng +Thực hiện các hợp đồng mua bán bán thành phẩm II.1.3. Đặc điểm về sản phẩm và thị trường tiêu thụ Hiện nay hoạt động kinh doanh của công ty bao gồm: Mua nguyên liệu chè búp tươi để chế biến chè đen theo phương pháp truyền thống ( chiếm 87.2%) Mua bán thành phẩm để gia công chế biến chè đen OTD (chiếm 12.8%) Sản phẩm của công ty là các mặt hàng chè đen sau: OP, FBOP, P, PS, F, D. Trong đó OP, FBOP, P là 3 mặt hàng cấp cao do là chè cánh, còn lại là mặt hàng cấp thấp. Thị trường tiêu thụ của công ty: Hiện nay công ty chưa tìm được các hợp đồng xuất khẩu trực tiếp ra nước ngoài nên sản phẩm của công ty được tiêu thụ chủ yếu theo một trong hai hình thức sau: Bán trực tiếp cho Tổng công ty chè Việt Nam theo giá cả và số lượng ký kết Bán cho các đơn vị kinh doanh chè trong cả nước Tuy nhiên, phần lớn sản phẩm của công ty được bán cho Tổng công ty chè Việt Nam vì TCT có chính sách ưu đãi và hỗ trợ về giá đối với các đơn vị thành viên II.1.4. Đặc điểm về kết cấu sản xuất Do đặc điểm sản xuất chỉ gồm 7 mặt hàng sản xuất ra từ 1 dây truyền sản xuất ra từ một dây truyền công nghệ nên kết cấu sản xuất của công ty rất đơn giản gọn nhẹ Sơ đồ kết cấu sản xuất của Công ty chè Long Phú Nông trường Phân xưởng sản xuất chính Kho thành phẩm Phân xưởng phụ trợ Trong kết cấu sản xuất của công ty chè Long Phú, dây chuyền sản xuất chính đặt tại phân xưởng chính, phân xưởng này có nhiệm vụ tổ chức triển khai sản xuất từ khâu bảo quản nguyên liệu đến khâu bảo quản sản phẩm. Nông trường chỉ có nhiệm vụ thu mua nguyên liệu từ vườn chè thuộc sự quản lý của công ty sau đó có trách nhiệm vận chuyển nguyên liệu về công ty để KCS kiểm tra và đánh giá. Phân xưởng sản xuất phụ trợ có phụ trách về phần thiết bị, năng lượng sửa chữa thiết bị, gia công và cung cấp nhiệt độ...để phục vụ cho sản xuất được. Phân xưởng này bao gồm tổ lò, tổ điện, tổ cơ khí. II.1.5. Hiện trạng quản lý và kiểm tra chất lượng của Công ty Mục tiêu chất lượng của Công ty đối với sản phẩm chè đen OTD là: - Tiêu chuẩn về cảm quan: Đạt tiêu chuẩn nghành về TCViệt Nam về chất lượng: màu nước, hương, vị và ngoại hình. - Tiêu chuẩn về kinh tế: Tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, tăng lượng sản phẩm đạt mức 10 điểm Để đạt được mục tiêu đó công ty không ngừng nâng cao trình độ cán bộ, đặc biệt là cán bộ công nghệ và KCS. Giám đốc KCS trưởng KCS nguyên liệu KCS hoàn thành phẩm Sơ đồ hệ thống quản lý chất lượng của Công ty chè Long Phú Hiện nay, công tác quản lý chất lượng của công ty chè Long Phú còn bị động, chờ vào sự chỉ đạo của Tổng công ty chè Việt Nam. Bộ phận kiểm tra chất lượng (KCS) do phân xưởng sản xuất chính phụ trách, KCS trưởng phụ trách chung và chịu trách nhiệm từ khâu nguyên liệu đến khâu bảo quản thành phẩm. - KCS trưởng: Nhận sự chỉ đạo trực tiếp từ Giám đốc. Cùng KCS hoàn thành phẩm kiểm tra chất lượng hàng trước khi xuất kho các chỉ tiêu của chè thành phẩm là ngoại hình, màu nước, mùi, vị theo TCVN 5609-1996 - KCS nguyên liệu chịu trách nhiệm trước KCS trưởng về chất lượng nguyên liệu nhập vào hàng ngày. Chất lượng nguyên liệu được KCS đánh giá theo các loại A, B1, B2, C, D theo TCVN 1053- 86. KCS nguyên liệu thực hiện việc kiểm tra nguyên liệu đầu vào như sau: Cứ mỗi lô nguyên liệu khoảng 100 kg, bốc và làm mẫu trung bình cho lô. Xác định hàm lượng lá già bánh tẻ bằng phương pháp bấm bẻ theo TCVN 1053-86 để phân loại nguyên liệu A, B1, B2, C, D. Nếu trời mưa, KCS phải xác định lượng nước bề mặt bằng phương pháp lắc nguyên liệu trong bình kín chứa hạt Silicagen để trừ lượng nước có trong nguyên liệu. Nguyên liệu sau khi đã xác định được phẩm cấp, lô nào đạt được nhập vào và tiến hành sản xuất ngay hoặc bảo quản, lô nào lượng lá già bánh tẻ > 55% hoặc ủng, ôi ngốt nặng sẽ bị trả lại. - KCS hoàn thành phẩm: Chịu trách nhiệm trước KCS trưởng về chất lượng thành phẩm (nhưng chủ yếu về ngoại hình). KCS khâu này tiến hành kiểm tra từng mặt hàng của mỗi ca sản xuất theo số sàng, nếu mặt hàng nào không đạt về ngoại hình như bị lẫn loại, lộ cẫng, lộ râu sơ hay chưa đạt… KCS sẽ yêu cầu tổ sản xuất tiến hành làm lại, số sàng đạt yêu cầu được nhập vào kho để KCS trưởng đấu trộn và thử nội chât (mùi, vị, màu nước) Nhận xét: - Qua sơ đồ trên ta nhận thấy khâu chất lượng trong quá trình chế biến không có sự kiểm tra của bộ phận KCS. Như vậy chất lượng sản phẩm trong quá trình sản xuất hoàn toàn phụ thuộc vào cán bộ kỹ thuật đi theo ca. Ta thấy rằng nếu trong ca sản xuất có sự cố ảnh hưởng đến chất lượng, chất lượng kém thậm chí hỏng phải loại bỏ, cán bộ kỹ thuật đi ca vẫn có thể vẫn cho tiến hành sản xuất tiêp, sản phẩm hỏng sẽ bị loại bỏ sau đó khi đã được KCS kiểm tra. Nếu có KCS quản lý chất lượng quá trình sản xuất có thể tiến hành lập biên bản loại bỏ các lý lịch bị hỏng ngay, vừa có tác dụng giảm chi phí không cần thiết, vừa tiết kiệm thời gian và loại hẳn sự lây nhiễm giữa các lý lịch sản xuất. Vì vậy nên thành lập thêm bộ phận KCS quá trình để cùng cán bộ kỹ thuật đi ca theo dõi và sử lý các sự cố ảnh hưởng đến chất lượng kịp thời. - Nguyên liệu là một nhân tố quan trọng quyết định đến chất lượng sản phẩm Nguyên liệu chuyển về nhà máy thường bị lèn chặt dẫn đến dập nát và làm giảm chất lượng sản phẩm do tạo ra mùi ôi ngốt đối với thành phẩm. Đây là một khuyết tật thuộc về nội chất, nó làm giảm điểm của sản phẩm khi đánh giá cảm quan. Tuy nhiên, ở khâu này KCS nguyên liệu chưa có biện pháp cụ thể để hạn chế khuyết tật này. Lấy mẫu trong một lô lớn nên đôi khi còn đánh giá không đúng phẩm cấp nguyên liệu. Nguyên liệu mua vào già thường làm cho sản phẩm bị mắc các khuyết tật về ngoại hình như lộ cẫng đỏ, lộ râu xơ, để hạn chế các khuyết tật này KCS nguyên liệu cần lấy mẫu cẩn thận và bấm bẻ chính xác khi xác định loại nguyên liệu. - KCS hoàn thành phẩm mới chỉ tiến hành chủ yếu xác định chất lượng sản phẩm qua ngoại hình, vậy bộ phận này cần thiết phải đồng thời xác định nội chất của sản phẩm để có ý kiến tham gia kịp thời với KCS trưởng trong phương pháp đấu trộn sản phẩm giữa các ca sản xuất để làm giảm các sản phẩm đạt mức điểm thấp. Bộ phận kỹ thuật công nghệ cũng do phân xưởng sản xuất chính phụ trách, chịu trách nhiệm về việc đảm bảo qui trình công nghệ và các thông số kỹ thuật trong quá trình sản xuất. II.1.6. Sơ đồ dây chuyền công nghệ và một số thông số cơ bản. Làm héo Vò+sàng tơi Nguyên liệu Lên men Phân loại Bảo quản Sấy Với dây truyền sản xuất trên, các sản phẩm của Công ty đều được chế biến qua cùng một công nghệ, các mặt hàng OP, FBOP,P, PS, BPS, F, D chỉ là sự phân loại theo kích thước, các mặt hàng này chỉ phân loại đơn thuần theo phương pháp cơ học và được thực hiện trong khâu phân loại. Ngoài ra do kết cấu của búp chè tươi (nguyên liêu) tỷ lệ mặt hàng cấp cao OP, FBOP,P không được vượt quá 60% tổng lượng sản phẩm. Một số thông số kỹ thuật cần kiểm tra và yêu cầu đối với nhân lực trong từng khâu chế biến. Nguyên liệu: + Kiểm tra phân loại nguyên liệu đưa vào sản xuất theo TCVN 1053-86 để phân cấp nguyên liệu: A, B1, B2, C1, C2, D. Việc xác định loại nguyên liệu dựa vào phương pháp bấm bẻ nguyên liệu, nếu: % lá già bánh tẻ: < 20 nguyên liệu đạt mức A 20 – 25 nguyên liệu mức B1 25.1 – 30 nguyên liệu đạt mức B2 30.1 – 35 nguyên liệu đạt mức C >35.1 nguyên liệu đạt mức D + Bảo quản nguyên liệu trước khi đưa vào làm héo trong điều kiện thông thoáng + Đối với nhân lực: nguyên liệu là một yếu tố rất quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm. Nếu như nguyên liệu A, B sẽ tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, ít lộ cẫng (đối với mặt hàng cấp cao) và râu xơ (đối với mặt hàng cấp thấp), ngoài ra còn cho sản phẩm có hàm lượng tanin, CHT cao. Do đó yêu cầu đối với nhân lực tại khâu này là: cán bộ tối thiểu tốt nghiệp trung cấp thực phẩm, có kinh nghiệm tối thiểu 6 năm trở lên trong lĩnh vực sản xuất và kiểm tra chất lượng sản phẩm. Héo: + Nhiệt độ héo; 32OC á 38OC + Tốc độ gió: 55000 á 60000 m3/h + Thời gian héo: 6h á 8h + Nhân lực: Thợ bậc 4/7 trở lên, là nam giới, có sức khoẻ để vận chuyển nguyên liệu đến máy vò. Vò: + Vò 2 lần, thời gian vò mỗi lần là 45 phút + Tốc độ máy vò: 58 vòng / phút + Sau khi kết thúc vò lần một, cho nguyên liệu ra để sàng tơi, phần dưới sàng cho đi lên men, phần trên sàng cho đi vò lần 2 + Yêu cầu đối với nhân lực: Công nhân bậc 4/7 trở lên Lên men: + Thời gian lên men: 2h + Độ ẩm không khí: 95% á 98% + Phòng lên men phải luôn thoáng mát, đủ O2 + Nhiệt độ phòng men: 270C á300C + Nhân lực: Công nhân bậc 3/7 trở lên. Sấy: + Nhiệt độ sấy: 1000C á1050C + Độ dày lớp chè trên băng tải: 5mm + Nhân lực: là nam giới, thợ bậc 4/7 trở lên. Sàng hoàn thành phẩm + Nhân lực: là nữ, bậc thợ 3/7 trở lên. Tổ trưởng và tổ phó phải đạt bậc thợ 5/7 trở lên. Để sản phẩm đạt chất lượng, mỗi người nhân công phải luôn tuân thủ qui trình công nghệ trong từng khâu, cán bộ kỹ thuật đi ca phải thường xuyên kiểm tra các thông số kỹ thuật để điều chỉnh khi cần thiết. II.1.7.Tình hình máy móc thiết bị ở công ty chè Long Phú. Công ty có nhiều tài sản khác nhau tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp vào quá trình sản xuất kinh doanh, nhưng theo qui định chung tài sản cố định của công ty được chia thành các nhóm chính như sau: Nhóm 1: Đất. Nhóm 2: Nhà cửa, vật dụng kiến trúc. Nhóm 3: Máy móc, thiết bị. Nhóm 4: Phương tiện vận tải, chuyền dẫn. Nhóm 5: Thiết bịo, dụng cụ quản lý. Nhóm 6: TSCĐ khác. Hiện nay công ty quản lý gần 300 ha đất đai, trong số có hơn 4 ha là nhà xưởng và Văn phòng làm việc, còn lại là diện tích trồng chè. là một công ty nhỏ, sản xuất công nghiệp gắn liền với sản xuất nông nghiệp nên mặc dùcó nhiều cố gắng đầu tư trang thiết bị, nâng cấp nàh xưởng nhưng do nguồn vốn có hạn, nên thiết bị đôi khi còn chắp vá và không đồng bộ. Hiện nay với qui trình công nghệ như trên, các loại thiết bị máy móc được sử dụng tại công ty chè Long Phú được liệt kê trong bảng dưới đây. Bảng1: Trang thiết bị, máy móc của Công ty STT Tên thiết bị Số lượng Năng suất Nước sản xuất I. Công đoạn héo 1. Hộc héo 05 1000 kg/hộc Việt Nam II. Công đoạn vò 1. Máy vò to 02 220 kg/mẻ ấn Độ 2. Máy vò nhỏ 03 80 kg/mẻ ấn Độ 3. Sàng tơi 01 220 kg/mẻ ấn Độ III. Công đoạn lên men 1. Băng tải lên men 01 220 kg/mẻ ấn Độ 2. Khay lên men 50 10 kg/khay Việt Nam IV. Công đoạn sấy 1. Máy sấy 02 600 kg/h ấn Độ V. Công đoạn sàng hoàn thành phẩm 1. Sàng bằng 01 400 kg/h ấn Độ 2. Sàng vòi 03 200 kg/h Trung Quốc 3. Máy cán, cắt 01 200 kg/h Việt Nam 4. Máy hút sâu, xơ 01 50 kg/h ấn Độ 5. Máy quạt phân loại 01 200 kg/h ấn Độ (Nguồn: Phòng kế hoạch tài vụ- Công ty chè Long Phú) Qua bảng trên ta thấy, mặc dù là một nhà máy mới xây dựng, các thiết bị chính phải nhập từ ấn Độ, số còn lại là mua về do thực tế sản xuất. Tuy là thiết bị nhập nhưng các thiết bị này đều được sản xuất từ những năm 80 nên thường xuyên xảy ra những sự cố, gây ảnh hưởng tới qui trình sản xuất và làm ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng sản phẩm. Hiện nay, do điều kiện thiết bị máy móc không hiện đại nên công ty không ngừng cải tiến và đại tu các thiết bị nhằm hạn chế tối đa các sự cố trong mỗi vụ sản xuất. II.1.8.Tình hình lao động Nguồn nhân lực là nh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28767.doc
Tài liệu liên quan