Phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu độngở Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam – Việt Nam Airlines

TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI. KHOA KINH TẾ VÀ QUẢN LÝ. h ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP ĐỀ TÀI: Phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu độngở Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam – Việt Nam Airlines. Giáo viên hướng dẫn: Thầy: NGÔ TRẦN ÁNH. Cô : TRẦN BÍCH NGỌC. Thầy: DŨNG. Sinh viên thực hiện: HOÀNG VÂN TRANG. Lớp: KTHK – K41. Hà Nội 5 - 2001. BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM TRƯỜNG ĐH BÁCH KHOA HÀ NỘI Độ

doc50 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1268 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu độngở Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam – Việt Nam Airlines, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
c lập – Tự do – Hạnh phúc. Khoa kinh tế và quản lý. NHIỆM VỤ THIẾT KẾ TỐT NGHIỆP Họ và tên sinh viên: Hoàng Vân Trang. Lớp: Kinh tế Hàng không – K41. Khoa: Kinh tế và quản lý- Trường ĐH Bách Khoa – Hà Nội. Tên đề tài tốt nghiệp: Phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động và một số biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Hãng HKQGVN. Các số liệu ban đầu: Thu thập từ thực tế hoạt động kinh doanh của Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam . Nội dung chính của đồ án: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về vốn lưu động của doanh nghiệp. Chương 2: Phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động ở Hãng HKQGVN. Chương 3: Biện pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ ở Hãng HKQGVN. Các bản vẽ: Một số bản vẽ Ao. Giáo viên hướng dẫn: Thầy: NGÔ TRẦN ÁNH. Cô : TRẦN BÍCH NGỌC. Thầy: DŨNG. Ngày giao nhiệm vụ thiết kế: Ngày …… tháng …… năm 2001. Ngày hoàn thành nhiệm vụ : Ngày …… tháng …… năm 2001. Thông qua bộ môn : Ngày …… tháng …… năm 2001. Trưởng bộ môn: ( Ký tên ) Kết quả điểm đánh giá: Quá trình thiết kế: Bảo vệ : Tổng hợp : Sinh viên đã hoàn thành nhiệm vụ và nộp bộ môn. Ngày …… tháng …… năm 2001. Ngày …… tháng …… năm 2001. Chủ tịch hội đồng. Hoàng Vân Trang. MỤC LỤC. Lời nói đầu. CHƯƠNG 1: Những vấn đề lý luận chung về vốn lưu động của doanh nghiệp. Khái quát chung về vốn của doanh nghiệp. Vốn lưu động của doanh nghiệp. Khái niệm vốn lưu động và phân loại vốn lưu động. Cách xác định vốn lưu động. Tầm quan trọng của vốn lưu động đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Nhu cầu vốn lưu động trong khâu dự trữ. Nhu cầu vốn lưu động cho khâu sản xuất. Nhu cầu vốn lưu động trong khâu lưu thông. Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, tối thiểu. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Khái niệm về hiệu quả, hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Các chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán. Các chỉ tiêu phản ánh mức luân chuyển vốn lưu động. Các biện pháp chung nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Các nhân tố ảnh hưởng đến việc sử dụng vốn lưu động. Một số biện pháp chung nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. CHƯƠNG 2: Phân tích hình sử dụng vốn lưu động ở Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam – Việt Nam Airlines ( VNA ). Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam. Quá trình hình thành và phát triển. Nhiệm vụ và quyền hạn của hãng. Cơ cấu bộ máy tổ chức và quản lý. Tình hình hoạt động kinh doanh. Phạm vi hoạt động. Thuận lợi và khó khăn. Một số chỉ tiêu đạt được của hãng trong một số năm gần đây. Phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động của Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam. Tình hình sử dụng vốn lưu động. Kết cấu vốn lưu động. Phân bổ vốn lưu động. Một số biến động của tài sản lưu động. Một số chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sử dụng vốn lưu động của VNA. Đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động của VNA. Kết quả đạt được trong công tác quản lý và sử dụng vốn lưu động của VNA. Một số hạn chế cần giải quyết. CHƯƠNG3: Một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam. Kết luận. LỜI NÓI ĐẦU. Trong điều kiện kinh tế thị trường thì vấn đề sống còn đối với một doanh nghiệp đó là bảo toàn và phát triển vốn. Đặc biệt với điều kiện nền kinh tế nước ta, khi mà các văn bản pháp luật còn chưa đầy đủ, các quan hệ kinh tế còn chưa phổ biến thì vấn đề này trở nên đặc biệt quan trọng. Vốn hoạt động của doanh nghiệp là một phạm trù kinh tế đầy sống động, nằm trong sự vận động hết sức phức tạp của quá trình chu chuyển các hoạt động kinh tế. Thông qua các hoạt động kinh tế có hiệu quả mà vốn được bảo toàn và phát triển. Một khoản vốn nằm bất động thì không những không đem lại lợi ích kinh tế mà còn không bảo toàn được giá trị ban đầu. Đối với các doanh nghiệp có tỷ lệ vốn lưu động lớn thì việc quản lý vốn lưu động có hiệu quả tức là làm sao để bảo toàn và mở rộng vốn lưu động là vấn đề được quan tâm hàng đầu. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước hiện nay, vấn đề quản lý và sử dụng vốn lưu động đang được đặc biệt quan tâm. Trong tình hình mới cùng với sự đổi mới cơ chế quản lý và quá trình cắt giảm vốn ngân sách cấp, tăng quyền tự chủ của các doanh nghiệp cùng với sự hình thành các quan hệ kinh tế đầy phức tạp dẫn tới tình trạng một số doanh nghiệp không thể đứng vững được. Đó là do các doanh nghiệp này chưa có một biện pháp kinh doanh có hiệu quả , chưa có biện pháp quản lý vốn hợp lý. Bên cạnh đó lại có những doanh nghiệp đứng vững được và phát triển đi lên nhờ vào những biện pháp huy động và sử dụng vốn kinh doanh một cách hợp lý và có hiệu quả. Như vậy vấn đề bảo toàn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn nói chung, vốn lưu động nói riêng không chỉ được đặt ra với các doanh nghiệp kém hiệu quả trong việc quản lý vốn mà nó là vấn đề bức xúc của tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện nay. Đứng trước tình hình mới của đất nước, cũng như mọi doanh nghiệp khác, Tổng Công ty Hàng không dân dụng Việt Nam đã có nhiều cố gắng trong việc tìm hướng khai thác và huy động vốn, phát triển quy mô sản xuất kinh doanh và đã đạt được những kết quả nhất định. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt đã đạt được, Tổng Công ty vẫn còn có nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết nhằm nâng cao hơn nữa hiệu quả quản lý và sử dụng vốn, đặc biệt là quản lý và sử dụng vốn lưu động vì nguồn vốn này chiếm tới hơn 50% tổng số vốn của Tổng Công ty . Hơn thế nữa, lĩnh vực hoạt động của doanh nghiệp là rất đặc biệt: kinh doanh độc quyền về vận tải hàng không nên nó đòi hỏi phải có một phương thức quản lý vốn lưu động một cách khoa học, hợp lý và phù hợp với phương thức kinh doanh, đặc biệt là trong bối cảnh nền kinh tế thị trường nhằm đạt hiệu quả tốt nhất trong việc sử dụng vốn. Do nhận biết được tầm quan trọng của vấn đề quản lý và sử dụng vốn, đồng thời thông qua quá trình tìm hiểu thực tế khi thực tập ở Tổng Công ty Hàng không dân dụng Việt Nam, Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam nên em chọn đề tài: “ Phân tích tình hình sử dụng vốn lưu động và một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động ở Hãng Hàng không quốc gia Việt Nam – Việt Nam airlines ( VNA ) “. CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ VỐN LƯU ĐỘNG CỦA DOANH NGHIỆP . Khái quát về vốn của doanh nghiệp. Quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trên lĩnh vực sản xuất, lưu thông, dịch vụ … thể hiện sự khác biệt đáng kể về quy trình công nghệ và tính chất sản xuất kinh doanh, sự khác biệt đó chủ yếu là do đặc điểm kinh tế, kỹ thuật của từng doanh nghiệp của từng doanh nghiệp quyết định. Cho dù sự khác biệt này thể hiện đến đâu chăng nữa thì theo ngôn ngữ kinh tế học người ta cũng có thể khái quát nó bằng đầu vào và đầu ra. Một đầu vào hay một nhân tố sản xuất là một hàng hóa hay một dịch vụ mà các doanh nghiệp sử dụng trong quá trình sản xuất của họ. Các đầu vào được kết hợp với nhau để sản xuất các đầu ra, còn đầu ra bao gồm hàng loạt các hàng hóa, dịch vụ có ích được tiêu dùng hoặc sử dụng trong quá trình sản xuất khác. Như vậy để có các đầu ra là các hàng hóa và dịch vụ, thì doanh nghiệp phải tổ chức đầu vào. Đầu vào được thể hiện bằng nhiều yếu tố, nhưng tựu chung lại thì chúng đều nằm trong hai yếu tố cơ bản: sức lao động và tư liệu lao động. Để có các yếu tố đầu vào, trước hết nhà doanh nghiệp phải huy động được trong tay mình một lượng tiền nhất định. Số tiền này dùng vào việc xây dựng nhà xưởng, mua sắm máy móc thiết bị và nguyên vật liệu cũng như trả lương cho công nhân viên. Nói một cách khác đi, số tiền đó được đưa vào sản xuất kinh doanh, trong quá trình số tiền ứng ra ban đầu được thể ở nhiều hình thái khác nhau của vật chất. Do có sự tác động của lao động vào đối tượng lao động thông qua tư liệu lao động, hàng hóa và dịch vụ được tạo ra và tiêu thụ trên thị trường. Cuối cùng các hình thái vật chất khác nhau đó lại được chuyển hóa về hình thái tiền tệ ban đầu. Số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm sẽ được sử dụng một phần cho tiêu dùng cá nhân, nộp thuế, bảo hiểm …, phần còn lại được tiếp tục chuyển hóa thành các điều kiện sản xuất cho các chu kỳ sản xuất tiếp theo. Toàn bộ quá trình đó có thể biểu diễn bằng sơ đồ sau: T - H SLD TLSX – SX … Trả lương, nộp thuế… - SX … SX – H’ – T’ TLSX Để đảm bảo sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp, số tiền thu được do tiêu thụ sản phẩm ( T’ ) phải đảm bảo bù đắp toàn bộ chi phí đã bỏ ra và có lãi. Theo ý nghĩa đó, phần để giành cho sản xuất lấy từ tiền bán sản phẩm không chỉ đảm bảo cho tái sản xuất giản đơn mà còn thực hiện tái sản xuất mở rộng. Như vậy số tiền đã ứng ra ban đầu không những được bảo tồn mà còn được tăng thêm do hoạt động của sản xuất kinh doanh mang lại. Như vậy, toàn bộ giá trị ứng ra ban đầu và ở các quá trình tiếp theo cho sản xuất kinh doanh được gọi là vốn. Vốn được biểu hiện cả bằng tiền mặt lẫn giá trị các vật tư và hàng hóa của doanh nghiệp. Cần phân biệt giữa vốn và tiền tệ thông thường khác. Tiền sẽ được coi là vốn khi chúng được bỏ vào sản xuất kinh doanh. Ngược lại, nó không được coi là vốn khi nó được dùng để mua sắm sản phẩm, hàng hóa hoặc dịch vụ phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của cá nhân và xã hội. Như vậy, vốn luôn được bảo tồn và tăng trưởng nhưng điều đó không có nghĩa rằng: nếu như các giá trị đầu tư vào sản xuất kinh doanh không bảo tồn thì không được coi là vốn. Sự bảo tồn và tăng trưởng của là nguyên lý và là điều kiện đảm bảo cho sự phát triển lành mạnh của doanh nghiệp. Thế nhưng nền kinh tế thị trường lại chứa đựng trong nó hàng vạn những yếu tố rủi ro bất ngờ. Qua toàn bộ những phân tích trên ta có thể hiếu khái quát về vốn nói chung. Vốn là giá trị đem lại giá trị thặng dư. Tuy nhiên trong quá trình vận động và chu chuyển, vốn được biểu hiện bằng những hình thái vật chất khác nhau. Chính sự khác nhau về hình thái vật chất của vốn sẽ quyết định đặc điểm chu chuyển vốn, mà đặc điểm chu chuyển vốn lại là căn cứ khoa học để chúng ta xác định phương thức quản lý chung. Vốn lưu động của doanh nghiệp. Khái niệm vốn lưu động và phân loại vốn lưu động. Đế tiến hành sản xuất kinh doanh, ngoài tư liệu lao động, các doanh nghiệp cần phải có các đối tượng lao động như: nguyên liệu, nhiên liệu, phụ tùng… Trong quá trình lao động và sản xuất các đối tượng này biến dạng, hay nói khác đi nó được chuyển từ hình thái hiện vật này sang hình thái hiện vật khác. Lúc đầu nó được ứng ra dưới hình thức tiền tệ, trải qua quá trình luân chuyển trong các hình thức khác nhau cuối cùng nó lại quay trở lại hình thái tiền tệ ban đầu. Bộ phận chủ yếu của đối tượng lao động sẽ thông qua quá trình chế biến để hợp thành thực thể của sản phẩm, bộ phận khác sẽ hao phí và mất đi trong quá trình sản xuất, đối tượng lao động được tham gia toàn bộ và một lần vào giá thành sản phẩm và nó được bù đắp lại khi sản phẩm được tiêu thụ và thu được tiền. (2) (1) (3) T – H – SX … - H’ – T’ Đối tượng lao động trong quá trình sản xuất kinh doanh vận động theo sơ đồ sau: Ở giai đoạn (1) doanh nghiệp cần có một lượng vốn tiền tệ dùng để mua đối tượng lao động : nguyên nhiên vật liệu, phụ tùng để dự trữ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Trong giai đoạn (2), nguyên nhiên vật liệu ở khâu dự trữ được đưa vào sản xuất, tại đây tư liệu lao động tác động vào đối tượng lao động thông qua hoạt động của con người. Quá trình này làm cho đối tượng lao động bị biến dạng và chuyển sang các hình thái hiện vật khác: bán thành phẩm tự chế, thành phẩm dở dang. Đó là bộ phận sẽ tạo nên thực thể của sản phẩm. Cùng với quá trình này một số bộ phận khác của đối tượng lao động như: nhiên liệu, năng lượng, công cụ lao động nhỏ … cũng bị tiêu phí để tiến hành sản xuất. Toàn bộ đối tượng lao động trong giai đoạn (1) và (2) được gọi là tài sản lưu động. Quá trình sản xuất của doanh nghiệp luôn gắn liền với quá trình lưu thông, ở giai đoạn (3) doanh nghiệp phải tiến hành một số công việc như: chọn lọc, đóng gói, xuất giao sản phẩm và thanh toán … Đối tượng lao động ở giai đoạn này được gọi là các tài sản lưu thông. Tài sản lưu động và tài sản lưu thông trong các giai đoạn thay chỗ nhau vận động không ngừng. Do sản xuất được tiến hành liên tục nên các tài sản này được tồn tại cùng một lúc ở tất cả các hình thái của chúng. Điểm xuất phát của các tài sản lưu động và các tài sản lưu thông là việc doanh nghiệp ứng tiền ra đầu tư vào các tài sản đó. Như vậy, vốn lưu động của doanh nghiệp là số tiền ứng trước về tài sản lưu động và tài sản lưu thông nhằm đảm bảo cho quá trình tái sản xuất của doanh nghiệp được tiến hành một cách thường xuyên và liên tục. Vốn lưu động là điều kiện vật chất không thể thiếu được của quá trình tái sản xuất. Trên cùng một lúc, vốn lưu động của doanh nghiệp được phân bổ trên khắp các giai đoạn luân chuyển và tồn tại dưới nhiều hình thái khác nhau. Mặt khác, quá trình tiêu thụ sản phẩm và thu tiền diễn ra không đồng thời. Các chứng từ, hoá đơn phải qua các cơ quan, bưu điện, ngân hàng. Chỉ khi nào doanh nghiệp thu được tiền hoặc có giấy báo trả tiền của ngân hàng thì quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm mới được hoàn thành. Đến đây vốn lưu động mới thực hiện được một vòng chu chuyển của mình. Muốn cho quá trình tái sản xuất được tiến hành liên tục, doanh nghiệp phải có đủ vốn đầu tư cho các hình thái khác nhau đó. Mức tồn tại hợ lý của vốn lưu động sẽ giúp cho quá trình luân chuyển được thuận lợi. Nếu doanh nghiệp không đủ vốn thì quá trình luân chuyển của các hình thái vốn lưu động sẽ gặp khó khăn, cản trở và có thể gây ra gián đoạn trong sản xuất. Trong doanh nghiệp , sự vận động của vốn lưu động thể hiện sự vận động của vật tư hàng hóa. Vốn lưu động nhiều hay ít sẽ phản ánh vật tư hàng hoá nằm trên các khâu nhiều hay ít. Nhưng mặt khác, vốn lưu động luân chuyển nhanh hay chậm còn phản ánh số lượng vật tư sử dụng tiết kiệm hay lãng phí. Phân loại vốn lưu động: Để tổ chức và quản lý vốn lưu động, người ta phải phân loại chúng. Có nhiều cách phân loại vốn lưu động: Căn cứ vào nguồn hình thành. _ Vốn lưu động từ chủ sở hữu: không có một tỷ lệ cố định. _ Vốn lưu động coi như của chủ sở hữu (coi như nợ định mức): là phần vốn không thuộc quyền sở hữu của doanh nghiệp nhưng do chế độ thanh toán qui định doanh nghiệp có quyền sử dụng hợp pháp vào quá trình sản xuất kinh doanh của mình. _ Vốn vay ngắn hạn. Căn cứ vào biện pháp quản lý vốn. _ Vốn lưu động định mức: là phần vốn cần tiến hành định mức kế hoạch để có cơ sở quản lý và bố trí vốn lưu động quản lý trong từng giai đoạn sản xuất kinh doanh, tạo cơ sở xác định nhu cầu vốn trong năm kế hoạch. Các yếu tố xác định vốn lưu động có thể định mức: đơn giá, khối lượng sản phẩm cần sản xuất. Các yếu tố này được định mức dựa trên các định mức về đơn vị sản phẩm hoặc định mức dự trữ. _ Vốn lưu động không thể định mức: là yếu tố khó định mức, không cần định mức. Căn cứ vào các giai đoạn vốn lưu động ( phương pháp này được áp dụng phổ biến nhất ). _ Vốn lưu động nằm trong quá trình dự trữ sản xuất: vốn nguyên vật liệu chính, vốn vật liệu phụ, vốn phụ tùng thay thế, vốn bao bì đóng gói, vốn công cụ lao động nhỏ. _ Vốn lưu động nằm trong quá trình sản xuất bao gồm: vốn về sản phẩm đang chế tạo, vốn về bán thành phẩm tự chế, chi phí chờ phân bổ. _ Vốn lưu động nằm trong quá trình lưu thông bao gồm: vốn thành phẩm, vốn thanh toán, vốn bằng tiền. Dựa vào cách phân loại trên, người ta có thể xác định được kết cấu vốn lưu động: kết cấu vốn lưu động là quan hệ tỷ lệ giữa các thành phần vốn lưu động chiếm trong tổng số vốn lưu động. Việc nghiên cứu kết cấu vốn lưu động sẽ cho ta xác định được trọng tâm quản lý chúng. Tất nhiên việc quản lý phải dựa trên tất cả các mặt, các khâu và từng thành phần vốn lưu động. Thế nhưng việc tập trung các biện pháp vào quản lý những bộ phận chiếm tỷ trọng lớn có ý nghĩa quyết định đến việc tăng nhanh vòng quay và tiết kiệm vốn lưu động. Có thể tổng kết các cách phân loại theo sơ đồ sau: VỐN LƯU ĐỘNG Giá trị tài sản lưu động. Vốn trong lưu thông. Vốn trong dự trữ. Vốn trong sản xuất. Vốn trong thành phẩm. Vốn trong thanh toán. Vốn tiền tệ. Vốn lưu độngkhông thể định mức. Vốn lưu động định mức. Cách xác định vốn lưu động. Để tiến hành sản xuất kinh doanh các doanh nghiệp cần có tài sản gồm: các tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn; các tài sản cố định và đầu tư dài hạn Vốn ngắn hạn là vốn của doanh nghiệp được phép sử dụng dưới 1 năm cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn ngắn hạn bao gồm các nợ ngắn hạn, nợ Nhà nước cung cấp, nợ phải trả ngắn hạn khác như: thuế, lương công nhân viên … Vốn dài hạn là nguồn vốn doanh nghiệp sử dụng lâu dài cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Vốn dài hạn gồm: vốn chủ sở hữu, các nợ trung hạn và dài hạn. Vốn dài hạn trước hết được đầu tư hình thành tài sản cố định ( những tài sản có thời gian sử dụng trên 1 năm và tham gia vào nhiều quá trình sản xuất kinh doanh và có giá trị lớn ). Phần còn dư của vốn dài hạn cùng với vốn ngắn hạn được đầu tư hình tài sản lưu động. Phần chênh lệch còn lại được gọi là vốn lưu động thường xuyên. TÀI SẢN. NGUỒN VỐN. A. Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn. B. Tài sản cố định và đầu tư dài hạn. A. Nợ ngắn hạn phải trả. B. Nợ trung và dài hạn. C. Vốn chủ sở hữu. Tài sản ngắn hạn. Tài sản dài hạn. Tài sản ngắn hạn. Tài sản dài hạn. Vốn lưu động thường xuyên. Có thể xác định được giá trị của vốn lưu động thường xuyên thông qua công thức sau: Vốn lưu động thường xuyên. Nguồn vốn dài hạn. Tài sản cố định Tài sản lưu động Nguồn vốn ngắn hạn. = _ = _ Như vậy, vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp khác với vốn lưu động của doanh nghiệp: vốn lưu động của doanh nghiệp luôn là giá trị dương vì giá trị tài sản lưu động của doanh nghiệp không thể âm, còn vốn lưu động thường xuyên có thể âm hoặc dương. Vốn lưu động thường xuyên âm khi nguồn vốn dài hạn nhỏ hơn tài sản cố định hoặc tài sản lưu động nhỏ hơn nguồn vốn ngắn hạn. Có nghĩa là doanh nghiệp đấu tư vào tài sản cố định một phần nguồn vốn ngắn hạn hay tài sản lưu động của doanh nghiệp không đáp ứng đủ nhu cầu thanh toán nợ ngắn hạn, cán cân thanh toán của doanh nghiệp mất cân bằng, doanh nghiệp phải dùng một phần tài sản cố định để thanh toán nợ đến hạn trả. Còn ngược lại, vốn lưu động thường xuyên dương khi nguồn vốn dài hạn dư thừa sau khi đầu tư cho tài sản cố định, phần dư này được dành cho tài sản lưu động. Đồng thời tài sản lưu động lớn hơn nguồn vốn ngắn hạn, do vậy khả năng thanh toán của doanh nghiệp là tốt. Vốn lưu động thường xuyên của doanh nghiệp bằng 0 có nghĩa là nguồn vốn dài hạn vừa đủ tài trợ cho tài sản cố định và tài sản lưu động đủ để doanh nghiệp trả các khoảnn nợ đến hạn. Từ những phân tích trên ta có thể thấy vốn lưu động thường xuyên là một chỉ tiêu tổng hợp rất quan trọng dùng để đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp. Chỉ tiêu này cho biết hai điều cốt yếu sau: _ Doanh nghiệp có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ đến hạn không? _ Tài sản cố định của doanh nghiệp có được tài trợ vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn không? Qua việc tìm hiểu trên ta có thể rút ra công thức xác định vốn lưu động như sau:` Vốn lưu động của doanh nghiệp. Vốn lưu động thường xuyên. Nguồn vốn ngắn hạn. Tổng nguồn vốn của doanh nghiệp. Tài sản cố định. Vốn lưu động của doanh nghiệp. = _ + = Hay: Tổng nguồn vốn ở đây bao gồm nguồn vốn dài hạn và nguồn vốn ngắn hạn. Theo công thức này vốn lưu động của doanh nghiệp là phần còn lại của tổng nguồn vốn mà doanh nghiệp có thể huy động được sau khi đã tài trợ cho tài sản cố định. Vốn lưu động của doanh nghiệp chính là nhân tố tài trợ cho sự vận hành tài sản cố định của doanh nghiệp thông qua tài sản lưu động. Do đó quy mô của vốn lưu động cũng phải phù hợp với quy mô của tài sản cố định tuy rằng ty lệ có sự khác nhau của các doanh nghiệp sản xuất và các doanh nghiệp thương mại và dịch vụ. Một số tăng lên về vốn lưu động để quá trình sản xuất được tiến hành liên tục và ổn định. Trong suốt quá trình tồn tại, sự vận động của vốn lưu động luôn gắn với lợi ích của doanh nghiệp và người lao động. Vốn lưu động vận động theo mỗi giai đoạn của quá trình sản xuất như: cung ứng vật tư, sản xuất kinh doanh, dự trữ và tiêu thụ sản phẩm. Với tư cách là người trực tiếp làm cho vốn lưu động luân chuyển, doanh nghiệp phải tính toán chặt chẽ số vốn lưu động phù hợp với nhu cầu sản xuất. Làm thế nào để tiết kiệm vốn, tránh tình trạng ứ đọng vốn ở khâu dự trữ tồn kho, nghiên cứu các phương thức thanh toán hiện tại ở doanh nghiệp nhằm thu được tiền bán hàng một cách nhanh nhất, làm tăng tốc độ chu chuyển của vốn lưu động, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động. Tầm quan trọng của vốn lưu động đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Vốn lưu động là một bộ phận của vốn sản xuất kinh doanh, được đầu tư vào tài sản lưu động của doanh nghiệp. Tài sản lưu động là một bộ phận không thể thiếu được của quá trình sản xuất vì nó đảm bảo cho quá trình sản xuất được diễn ra liên tục, đảm bảo cho sự vững chắc của tài sản cố định của doanh nghiệp. Thiếu vốn lưu động có nghĩa là không đủ tài sản lưu động, doanh nghiệp phải sử dụng đến tài sản cố định. Vốn lưu động là một bộ phận chủ yếu cấu thành nên giá thành sản phẩm, giá trị của nó chuyển hóa toàn bộ một lần vào giá trị sản phẩm sau mỗi chu kỳ sản xuất. Do vậy chi phí về vốn lưu động là cơ sở để xác định giá thành sản phẩm sản xuất hay cung ứng ( dịch vụ ). Về cơ bản, doanh nghiệp đầu tư tiền vốn lưu động ban đầu để mua sắm vật tư sau đó tiến hành sản xuất kinh doanh tạo ra sản phẩm hàng hóa, dịch vụ rồi thu lại chúng nhằm thu lại tiền vốn ban đầu bỏ ra và thu thêm được giá trị thăng dư phục vụ cho quá trình tái sản xuất. Vòng tuần hoàn và chu chuyển vốn lưu động diễn ra trong toàn bộ các giai đoạn của quá trình sản xuất kinh doanh nên việc quản lý vốn lưu động cũng giúp cho doanh nghiệp gần như quản lý được hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Các quyết định về quản lý vốn lưu động cũng chính là những quyết định tài chính ngắn hạn. nó liên tục tác động trực tiếp đến việc tình hình tài chính của doanh nghiệp có lành mạnh hay không. Như vậy, vốn lưu động của doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việc nghiên cứu vốn lưu động để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn lưu động là một yêu cầu cấp bách đối với các doanh nghiệp hiện nay để nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh đồng thời phục vụ cho các chiến lược kinh doanh của doanh nghiệp. Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp. Vốn lưu động tham gia toàn bộ và một lần vào chu kỳ sản xuất, nó được thu hồi toàn bộ giá trị sau mỗi chu kỳ sản xuất, vậy nếu quy mô sản xuất không thay đổi thì người ta chỉ phải ứng ra một lần cho toàn bộ nhu cầu. Nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp xuất hiện khi hết chu kỳ sản xuất, doanh nghiệp bán sản phẩm của mình và thu được tiền. Trong tiền bán sản phẩm đã chứa đựng toàn bộ số tiền đã ứng ra ban đầu, số tiền đó lại được sử dụng ngay cho quá trình sản xuất tiếp theo. Cứ như thế vốn lưu động luân chuyển không ngừng, giá trị của nó luôn được bảo tồn. Tuy nhiên trên thực tế luôn luôn phát sinh ra các vấn đề như: một số các cơ sở mới bước vào hoạt động hoặc các doanh nghiệp đang hoạt động phải thu hẹp sản xuất cũng như là việc chuyển sang sản xuất những sản phẩm khác do yêu cầu và đòi hỏi của thị trường … Điều này làm nảy sinh ra vấn đề là cần phải xác định nhu cầu vốn lưu động tối thiểu, thường xuyên cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Với một quy mô sản xuất đã định, người ta phải cần một lượng vốn lưu động đủ để đảm bảo cho nó. Đủ vốn lưu động có nghĩa là không thiếu và không thừa vốn lưu động. Nếu doanh nghiệp xác định một lượng vốn lưu động không đủ cho quá trình sản xuất kinh doanh thì sẽ làm cho quá trình sản xuất kinh doanh bị gián đoạn, ngừng sản xuất …sẽ gây ra sự lãng phí đáng kể về việc sử dụng lao động cũng như việc tận dụng máy móc, thiết bị. Nếu vốn lưu động xác định quá thừa so với nhu cầu thì có nghĩa là doanh nghiệp phải ứng ra một lượng vốn lớn mà qui mô sản xuất của doanh nghiệp không đòi hỏi như vậy, trong trường hợp này vốn lưu động bị ứ đọng nhiều trên tất cả các khâu, điều này gây ra lãng phí không cần thiết. Trong điều kiện vốn lưu động phải đi vay hoặc do phát hành trái phiếu… thì một đồng vốn phải cõng thêm chi phí cho nó ( lãi suất ). Chắc chắn không có doanh nghiệp nào lại đi vay vốn để cất nó trong kho. Từ phân tích trên ta thấy sự cần thiết phải xác định cho được nhu cầu vốn lưu động thường xuyên, tối thiểu cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Thông thường việc xác định nhu cầu vốn lưu động được xác định cho từng khâu và mỗi khâu lại xác định cho từng yếu tố vốn lưu động. Việc xác định nhu cầu vốn lưu động của doanh nghiệp được tiến hành ở ba khâu: _ Nhu cầu vốn lưu động cho dự trữ sản xuất. _ Nhu cầu vốn lưu động trong sản xuất. _ Nhu cầu vốn lưu động trong lưu thông. Sau khi đã xác định được nhu cầu về vốn lưu động cho cả ba khâu: dự trữ, sản xuất, lưu thông, tổng hợp lại ta sẽ có nhu cầu vốn lưu động tối thiểu, thường xuyên cần thiết cho hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp. Nhu cầu vốn lưu động trong khâu dự trữ sản xuất. Trong khâu dự trữ sản xuất người ta phải xác định nhu cầu về nguyên liệu chính vật liệu phụ, phụ tùng, nhiên liệu, và công cụ lao động nhỏ trên cở sở mức tiêu hao bình quân một ngày về giá trị các loại tài sản lưu động đó và thời gian dự trữ định mức của từng loại. Trong khâu này người ta phân làm ba loại dự trữ: Dự trữ thường xuyên: Là mức dự trữ nhằm đảm bảo sản xuất liên tục giữa hai kỳ cung cấp bình thường về mặt toán học. t0 T t1 t2 t3 t t4 q Mức dự trữ. tq Nếu gọi q: là lượng nguyên vật liệu tối đa một lần nhập trong kỳ. mlc: là lượng tiêu dùng bình quân một ngày đêm. tq: là số ngày giữa hai kỳ cung cấp kề nhau. Đm: là định mức tiêu hao nguyên vật liệu. Pm: là định mức giá. Ta có: Mức luân chuyển vốn lưu động ( lượng tiêu dùng ) một ngày đêm: Lượng dự trữ thường xuyên tối đa một lần nhập trong kỳ là: Vấn đề đặt ra là làm sao tính được lượng nguyên vật liệu tối đa một lần nhập hay thời gian giữa hai kỳ cung cấp kề nhau hợp lý nhất, vừa đảm bảo yêu cầu sản xuất vừa phải có chi phí dự trữ và bảo quản là thấp nhất. Để giải quyết vấn đề này ta phải có: _ T: thời gian của chu kỳ sản xuất tương ứng. _ R: nhu cầu nguyên vật liệu dự trữ trong kỳ. _ m: số lần nhập trong kỳ. Số lần nhập trong kỳ có thể tính được bằng công thức sau: Thời gian giữa hai kỳ cung cấp kề nhau hợp lý nhất là: Đồng thời nếu khoảng thời gian tq bắt đầu khi trong kho có q đơn vị nguyên vật liệu và khi kết thúc không còn dự trữ thì lượng nguyên vật liệu dự trữ trung bình trong thời gian tq là q/2. Gọi: C1 là chi phí cố định cho một lần nhập. C2 là chi phí để bảo quản và tổn thất mỗi lần nhập trong mộ đơn vị thời gian. C2 không thay đổi đối với một đơn vị dự trữ. Khi đó chi phí để bảo quản 1 nhóm nguyên vật liệu trong thời gian tq là: Dự trữ bảo hiểm: Là mức dự trữ nhằm phòng ngừa việc cung cấp bị gián đoạn bất thường. t Dự trữ bảo hiểm. t4 t3 t'2’ t2 t1 q’ q t0 Mức dự trữ. Mức dự trứ bảo hiểm được xác định theo công thức: Trong đó: _ Tbh: là thời gian dự trữ bảo hiểm. _ mbh: là mức dự trữ bảo hiểm Có hai phương pháp tính toán số ngày dự trữ bảo hiểm: _ Dựa vào số ngày cung cấp chậm chễ bình quân đã xảy ra ở những kỳ trước. _ Dựa vào số ngày cần thiết để báo tin cho người cung cấp đưa hàng tới, chuẩn bị đưa vào sản xuất. Dự trữ mùa vụ: được lập ra là do một số loại nguyên vật liệu có tính chất thời vụ về sản xuất, thu mua, chuyên trở và tiêu dùng. Có thể xác định mức dự trữ mùa vụ theo công thức tính sau: Trong đó: _ Tmv: là thời gian dự trữ mùa vụ định mức. _ mmv: là mức dự trữ mùa vụ. Tmv mmv t0 Có thể xác định thời gian dự trữ mùa vụ bằng công thức sau: _ tcc: là chu kỳ cung cấp bình quân của kỳ dự trữ. _ n: số các thời điểm cung cấp. _ kxk: hệ số xen kẽ trong cung ứng. Sở dĩ cần có hệ số xen kẽ kxk là do doanh nghiệp phải dự trữ rất nhiều loại nguyên vật liệu khác nhau và mức dự trữ cho mỗi loại là cũng khác nhau. Không phải lúc nào doanh nghiệp cũng cần một lượng vốn lớn nhất định để dự trữ mọi loại nguyên vật liệu cần thiết, nếu biết xen kẽ doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được vốn cho dự trữ. Nếu mức dự trữ xen kẽ cố định thì kxk= 0,5. Theo tính toán thường kxk= 0,7¸0,8. Nếu kxk= 0,7 thì giảm dự trữ, kxk= 0,8 là tăng dự trữ. _ tvc: thời gian vận chuyển, được tính bằng hiệu số giữa thời gian doanh nghiệp chuyển tiền và hàng về doanh nghiệp. _ tch: thời gian chỉnh lý, bằng hiệu số giữa hai thời điểm hàng thực tế về doanh nghiệp và nhập kho xong. _ tbh: thời gian bảo hiểm, là hiệu số của hai thời điểm hàng về doanh nghiệp và phải về doanh nghiệp theo hợp đồng. Nhu cầu vốn lưu động cho khâu sản xuất. Ở khâu sản xuất người ta phải xác định về nhu cầu vốn cho bán thành phẩm, vốn cho sản phẩm chưa hoàn thành và vốn cho chi phí trong chi phí chờ phân bổ. Căn cứ vào phí tổn cho sản xuất bình quân một ngày, độ dài chu kỳ sản xuất, hệ số sản phẩm đang chế tạo, số dư đầu kỳ về chi phí chờ phân bổ, chi phí chờ phân bổ phát sinh trong kỳ và chi phí chờ phân bổ trong kỳ. Vốn trong bán thành phẩm. _ Sntp: số lượng nửa thành phẩm tự chế mỗi ngày. _ Zntp: giá thành sản xuất mỗi đơn vị nửa thành phẩm. _ Tdt: thời gian dự trữ kế hoạch nửa thành phẩm. Vốn cho sản phẩm chưa hoàn thành. _ Cp: dự toán chi phí sản xuất kỳ kế hoạch. _ N1: số ngày theo lịch kỳ kế hoạch. _ Tck: độ dài chu kỳ sản xuất sản phẩm dở dang. _ Hsd: hệ số sản phẩm chưa hoàn thành. Việc xác định Hsd khó khăn phức tạp. Có các phương pháp xác định Hsd như sau: _ Đối với những doanh nghiệp mà phần lớn các chi phí sản xuất được đưa vào từ ngay những ngày đầu sản xuất, sau đó các chi phí còn lại được bỏ thêm vào một cách đều đặn ( điện năng, luyện kim, hoá … ). + CP1: chi phí bỏ vào lần đầu tiên. + CP2: chi phí còn lại bỏ dần vào sản xuất. _ Trường hợp chi phí sản xuất từng ngày không đều nhau. + Plk: số luỹ kế chi phí sản xuất mỗi kỳ. + Cpn: chi phí sản xuất bình quân mỗi ngày. + Tck: chu kỳ sản xuất. Vốn trong chi phí chờ phân bổ: là những chi phí được chi ra một lần nhưng chưa tính vào giá thành s._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8436.doc