Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại Công ty cổ phần Bảo hiểm AAA - Chi nhánh Hà Nội

Danh mục các chữ cái viết tắt BH: Bảo hiểm BHHH&RRĐB: Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt Danh mục các bảng, biểu, sơ đồ, hình vẽ - Bảng 1: Kết quả hoạt động kinh doanh sau 2 năm thành lập - Bảng 2: Kết quả khai thác nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt - Bảng 3: Kết quả khai thác nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt - Bảng 4: Doanh thu phí bảo hiểm của một số nghiệp vụ của Chi nhánh Công ty Bảo hiểm AAA – Hà Nội - Bảng 5: Tình hình đề phòng, hạn chế t

doc82 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1329 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại Công ty cổ phần Bảo hiểm AAA - Chi nhánh Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ổn thất nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại AAA – Hà Nội - Bảng 6: Tình hình bồi thường nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại AAA – Hà Nội - Bảng 7: Kết quả và hiệu quả kinh doanh nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại AAA – Hà Nội - Sơ đồ 1: Sơ đồ quy trình thực hiện bảo hiểm MỞ ĐẦU Trong công cuộc đổi mới và hội nhập của đất nước, đặc biệt là sau khi nước ta chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, nền kinh tế đã và đang mở của rộng rãi, các ngành kinh tế phát triển mạnh mẽ. Bảo hiểm là một trong những ngành dịch vụ phát triển khá toàn diện và có những bước tiến cả về quy mô, tốc độ và phạm vi hoạt động và nó cũng là một trong những ngành kinh tế được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Nghiệp vụ Bảo hiểm Hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là một trong những nghiệp vụ Bảo hiểm ra đời đầu tiên từ những năm giữa thế kỷ XVII, nhưng chỉ được triển khai ở Việt Nam từ năm 1989. Từ đó đến nạy nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt đã và đang không ngừng phát triển mạnh mẽ, nó không chỉ huy động vốn cho nền kinh tế mà còn giúp các cá nhân, hộ gia đình, các tổ chức và doanh nghiệp ổn định đời sống, tài chính, khôi phục sản xuất kinh doanh. Càng ngày Bảo hiểm nói chung và Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nói riêng càng trở thành nhu cầu thiết yếu của xã hội Trong quá trình thực tập tại Chi nhánh Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA – Hà Nội, được sự giúp đỡ, định hướng của các thầy, cô trong Bộ môn và các anh, chị trong Công ty, nhận thức được tầm quan trọng của nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nên em đã lựa chọn đề tài “Phân tích tình hình triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA – Chi nhánh Hà Nội” để làm chuyên đề tốt nghiệp của mình và để có thể nghiên cứu thêm về nghiệp vụ này và thực tiễn triển khai nó. Mặc dù đã rất cố gắng nhưng do còn hạn chế về kiến thức và tài liệu còn chưa đầy đủ nên trong bài phân tích chưa được sâu sắc và chắc chắn còn nhiều thiếu xót, rất mong được sự bổ sung của các thầy, cô và mọi ngưòi để em có thể hoàn thiện hơn đề tài này. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy, cô trong Bộ môn Kinh tế Bảo hiểm các anh, chị tại cơ sở thực tập và đặc biệt cảm ơn PGS. TS Nguyễn Văn Định đã nhiệt tình hướng dẫn và giúp đỡ em hoàn thành đề tài này Em xin chân thành cảm ơn! Sinh viên thực hiện: Nguyễn Tuấn Dũng NỘI DUNG CHƯƠNG I. TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT 1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Trong cuộc sống và sinh hoạt hàng ngày, cũng như các hoạt động sản xuất, con người luôn luôn phải đối mặt với những rủi ro tiềm ẩn không lường trước được, một khi rủi ro xảy ra thì việc giải quyết hậu quả là vô cùng tốn kếm và khó khăn, gây ra những xáo trộn trong cuộc sống. Chính vì thế, bảo hiểm ra đời như một tất yếu khách quan của sự san sẻ rủi ro trong xã hội, sự san sẻ giữa con người với con người, giúp ổn định cuộc sống cũng như sản xuất kinh doanh khi rui ro ập đến. Trong thời kì đầu, lĩnh vực hoạt động chủ yếu của các công ty bảo hiểm là bảo hiểm hoả hoạn. Tại những thành phố lớn, đông đúc của thế kỷ XVII, hầu hết nhà của đều dựng bằng gỗ, người ta dung lửa để sưởi ấm, đun nấu và chiếu sang. Vì vậy rủi ro nhà bắt lửa là rất cao. Trong cộng đồng làng xã khi một ngôi nhà bị cháy thì tất cả những người hang xóm sẽ giúp để dựng lại một ngôi nhà mới, nguyên tắc tương hỗ được áp dụng một cách trực tiếp. Ngược lại, ở thành phố do tất cả đều có những nghề nghiệp, chuyên môn riêng nên họ không có khả năng và thời gian để có thể giúp cho gia đình hang xóm nếu hoả hoạn xảy ra. Thay vào đó họ đóng phí bảo hiểm cho một công ty bảo hiểm để nhận được hai cam kết: cung cấp dịch vụ cứu hoả và bồi thuờng bằng tiền mặt cho người được bảo hiểm khi xảy ra hoả hoạn Sự xuất hiện của bảo hiểm hoả hoạn được đánh dấu bằng vụ cháy thảm khốc ở Luân Đôn nước Anh ngày 2/9/1666 hủy diệt 13.000 căn nhà trong đó có hơn 100 nhà thờ trong 4 ngày để lại một sự thiệt hại quá lớn không thể cứu trợ được, lúc này người ta mới ý thức được tầm quan trọng của việc thiết lập hệ thống phòng cháy, chữa cháy và bồi thường cho người bị thiệt hại. Sau đó những nhà kinh doanh ở nước Anh đã nghĩ ra việc cộng đồng chia sẻ rủi ro hoả hoạn bằng cách đứng ra thành lập những Công ty bảo hiểm hoả hoạn như: Một số văn phòng cung cấp dịch vụ phòng cháy, chữa cháy và bảo hiểm cháy “Fire Office” (năm 1667); năm 1684 Công ty bảo hiểm hoả hoạn đầu tiên ra đời là công ty “Friendly Society”; sau đó hàng loạt các công ty bảo hiểm hoả hoạn ra đời “ Hand and Hand” năm 1696, “Lom Bard House” năm 1704… Nước Pháp do ảnh hưởng của vụ hỏa hoạn ở Luân Đôn, nên năm 1786 công ty bảo hiểm hỏa hoạn đầu tiên mới được thành lập đó là “Company L’assurance Centree L’incendie” và “Company Royade” và dần lan rộng sang các nước khác trên lục địa châu Âu. Ngày nay nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn được tiến hành ở hầu hết các nước trên thế giới và ngày càng phát triển. Ở Việt Nam, nghiệp vụ Bảo hiểm cháy được triển khai vào cuối năm 1989 theo Quyết định số 06/TCQĐ của Bộ tài chính. Sau một thời gian thực hiện, để cho phù hợp hơn với điều kiện thực tế Bộ tài chính đã có quyết định 142/TCQĐ về quy tắc biểu phí mới, quyết định 212/TCQĐ ngày 12/4/1998 ban hành biểu phí hoả hoạn và các rủi ro dặc biệt với mức phí tối đa thay cho biểu phí ở quyết định 142/TCQĐ. Có thể nói đây là những cơ sở pháp lý đầu tiên tại Việt Nam tạo điều kiện cho các công ty bảo hiểm triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt. Qua một số năm thực hiện, nghiệp vụ này ngày càng phát triển rộng khắp. Năm 1990 có 16 công ty bảo hiểm triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, giá trị bảo hiểm 6200 tỷ đồng, năm 1994 thì nghiệp vụ này được triển khai ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước, thêm nhiều công ty triển khai như: PJICO, PVI, Bảo Minh…tổng giá trị bảo hiểm đạt gần 28.000 tỷ đồng. Năm 2000 doanh thu phí bảo hiểm đạt 16.200.000 USD tăng 16% so năm 1999. Ngày càng có nhiều công ty bảo hiểm tham gia cung cấp các sản phẩm bảo hiểm hoả hoạn, gần đây có thêm các công ty như: AAA, BIC…làm cho thị truờng bảo hiểm hoả hoạn và các rui ro dặc biệt ngày càng thêm sôi động, các sản phẩm bảo hiểm hoả hoạn ngày càng đa dạng và phong phú Có thể thấy, nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ngày càng được triển khai rộng khắp, mọi người dân và doanh nghiệp đều có thể dễ dàng tiếp cận, tìm hiểu nghiệp vụ này. Đáp ứng tốt nhu cầu cần thiết của nền kinh tế - xã hội Hiện nay trong hợp đồng bảo hiẻm hoả hoạn ngoài các rủi ro chính như Cháy, nổ thì người ta còn thêm vào các rủi ro phụ đi kèm là các rủi ro dặc biệt như: động đất, lũ lụt, cháy ngầm dưới đất, hệ thống phòng cháy chữa cháy bị rò rỉ nước, máy bay và phương tiện hàng không rơi làm tài sản bị cháy, nổ hay thiệt hại do bạo loạn, đình công… hình thành nên nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 1.2. Sự cần thiết và tác dụng của Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 1.2.1. Sự cần thiết khách quan Có thể nói hoả hoạn là một thảm hoạ, rất khó kiểm soát khi xảy ra và thường để lại hậu quả là những thiệt hại to lớn về người và tài sản. Theo số liệu thống kê, hàng năm trên thế giới có khoảng 5 triệu vụ cháy lớn, nhỏ xảy ra, gây thiệt hại hàng trăm tỷ USD. Có thể kể ra đây những vụ hoả hoan như: vụ cháy ở ngã tư King's cross ngày 18/11/1987, vụ Cháy nhà máy lọc dầu của hãng Texaco tại Pembroke (Anh) năm 1994, hay như vụ cháy KTX sinh viên trường đậi học hữu nghi nhân dân Moscow làm 40 sinh viên nước ngoài thiệt mạng, 156 người bị thương năm 2003…Gần đây có các vụ như: vụ cháy lớn, tàn phá khu chợ nổi tiếng ở Camden Town, bắc London ngày 9/2/2008, vụ cháy ở công viên Griffith là khủng khiếp nhất tại Ló Angeles kể từ năm 1961, khi đám cháy kéo dài 2 ngày tại khu Bel Air-Brentwood đã phá hủy gần 500 ngôi nhà, gây thiệt hại hơn 20 triệu USD hay như trong trận hoả hoạn xảy ra ở khu chợ năm tầng Yadanabon tại thành phố Mandalay của Myanmar làm ít nhất 21 người bị thương, 1.400 cửa tiệm bị phá huỷ… Có nhiều người cho rằng hoả hoan chỉ xảy ra ở các nước kém phát triển, chưa có trình độ kỹ thuật cao để có thể đảm bảo an toàn phòng cháy chữa cháy, nhưng trên thực tế cho thấy các vụ cháy không chỉ diễn ra ở các nước có nền kinh tế chậm phát triển mà còn xảy ra ở các nước có nền kinh tế phát triển hiện đại như Mỹ, Anh, Pháp, Đức, Nhật Bản…những nơi mà nền khoa học công nghệ đạt đến đỉnh cao của sự hiện đậi và an toàn thì hoả hoạn vẫn xảy ra và ngày một tăng cả về số lượng cũng như là thiệt hại Còn các rủi ro đặc biệt như: động đất, máy bay rơi…khi mà xảy ra thì hậu quả vô cùng to lớn. ví dụ như vụ rơi máy bay vào khu dân cư 4/9/2005 một chiếc Boeing 737 đã rơi xuống khu dân cư đông đúc tại đảo Sumatra ở Indonesia khiến gần 150 người thiệt mạng. trong đó có 47 ngưòi trên mặt đất. Vụ rơi máy bay này tiếp sau 5 tai nạn máy bay thảm khốc trong tháng 8 vừa qua khiến khoảng 334 người thiệt mạng. Hàng năm trên thế giới, thiết hại do những rủi ro đặc biệt gây ra là không thể kể xiết Ở Việt Nam, do ý thức chưa cao cũng như là các phương tiện cứu chữa chưa đầy đủ và còn lạc hậu, hệ thống giao thông phục vụ cho việc cứu chữa không tốt, chính vì thế hoả hoạn xảy ra nhiều và gây thiêt hại lớn. Theo số liệu thống kê thì hàng năm trên cả nước xảy ra hơn 20.000 vụ hoả hoạn gây thiệt hại hang trăm tỷ đồng, thiệt hại nặng lại đặc biệt xảy ra ở các thành phố lớn và các khu công nghiệp. Chỉ riêng Thành Phố Hồ Chí Minh, 10 tháng đầu năm 2004 đã xảy ra 322 vụ, làm 11 người chết, bị thương 44 người, thiệt hại tài sản trị giá khoảng 76 tỷ đồng. Nếu so với cùng kỳ năm 2003, số vụ tăng 22, người chết tăng 2, bị thương tăng 18 và thiệt hại tài sản tăng 61 tỷ đồng.Trước đó vào năm 2002 tai đây cung xảy ra vụ hoả hoạn gây chấn động dư luân tại Trung tâm thương mại Quốc tế ITC làm hơn 60 người thiệt mạng và phải xác định AND để phân biệt. Đặc biệt khi hoả hoạn xảy ra tại các nhà máy, xí nghiệp các khu công nghiệp thì sẽ gây ra thiệt hại lớn và còn khiến rất nhiều nguời mất việc làm, trong thời gian quan, số vụ hỏa hoạn xảy ra tại các nhà máy, xí nghiệp, khu công nghiệp ngày càng tăng, gây thiệt hại kinh tế lớn. Trong số đó, không thể không nhắc đến vụ hỏa hoạn tại Công ty cổ phần TNHH POU YUEN (100% vốn Đài Loan), đóng ở xã Tân Tạo, huyện Bình Chánh, TP.HCM xảy ra vào rạng sáng 3/3; nhưng mãi đến trưa ngày 9/3, công tác chữa cháy mới chấm dứt, gây thiệt hại hàng triệu USD; sáng ngày 16/10/2004, tại huyện Bình Chánh, hỏa hoạn lại xảy ra trong Công ty TNHH sản xuất giày Thượng Thăng, số D5/42 quốc lộ 1A, thuộc ấp 4, xã Tân Túc. Ngọn lửa bao trùm khoảng 3.000m2, thiêu rụi nhiều máy móc, trang thiết bị phục vụ sản xuất, gây thiệt hại trên 15 tỷ đồng, làm 5 người bị thương; Toàn bộ nhà xưởng chế biến gỗ của Công ty TNHH Cheer Hope Việt Nam - thuộc Khu công nghiệp Biên Hòa 1 (Đồng Nai) bị thiêu rụi, hàng nghìn công nhân nguy cơ thất nghiệp. đám cháy đã thiêu rụi và làm sập đổ toàn bộ nhà xưởng với diện tích khoảng 2.200m2. Thiệt hại ban đầu ước tính hàng chục tỷ đồng ngày 22/12/2007… Ngoài ra có thể nêu ra một số vụ hoả hoạn mang tính lịch sử như: Vụ cháy chợ lớn Quy Nhơn( Bình Định ) ngày 17/12/2006 gây thiệt hại vài trăm tỷ đồng, Trung tâm thương mại An Đông làm hàng trăm người trong khu vực thất thần, hay như vụ cháy chợ đầu mối Đồng Xuân(Hà Nội) làm rất nhiều hộ kinh doanh điêu đứng… Đối với các rủi ro dặc biệt cũng có thể kể ra đó là ngày 9/32004, một chiếc máy bay loại YAK 52 của Trường Sĩ quan không quân (Nha Trang) đã rơi xuống một khu dân cư đông đúc, tai nạn đã làm một phụ nữ chết tại chỗ, một em nhỏ bị thương nặng và hư hại một căn nhà… Như vậy hoả hoạn và các rủi ro đăc biêt là một thảm hoạ không thể lường trước được, nó có thể xảy ra ở bất kỳ đâu, bất kỳ lúc nào, và hậu quả để lại là khôn lường, ảnh hưởng rất lớn đến vấn đề kinh tế xã hội của các quốc gia Điều lo ngại nhất khi xảy ra hỏa hoạn và các rủi ro đăc biêt tại các khu công nghiệp, cơ sở sản xuất, dân cư là thiệt hại lớn. Trong nền kinh tế thị trường các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân đều phải tự chủ về tài chính. Hoạt động kinh tế ngày một gia tăng, khối lượng hàng hoá ngày một lớn. Nếu xảy ra hoả hoạn thì sẽ phải đối mặt với một vấn đề rất lớn thậm trí là bị phá sản. Bên cạnh đó, nếu không ngăn chặn kịp thời ngay từ khi phát hỏa, thì nguy cơ cháy lan rất cao, dẫn đến khó khăn và kéo dài trong công tác chữa cháy. Để đề phòng hoả hoạn thì người ta đã sử dụng nhiều biện pháp khác nhau như các biện pháp phòng cháy chữa cháy, nâng cao ý thức , giáo dục tuyên truyền về phòng cháy chữa cháy. Tuy nhiên để đối phó với hậu quả của hoả hoạn gây ra thì bảo hiểm vẫn được coi là một trong những biện pháp hữu hiệu nhất, thực sự là một giá đỡ cho các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân tham gia bảo hiểm. Ngoài ra khi tham gia bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm còn nhận được các dịch vụ tư vấn về quản lý rủi ro, phòng cháy chữa cháy từ phía người bảo hiểm. Loại hình bảo hiểm này không chỉ ra đời sớm nhất mà còn rất phát triển, ngày càng củng cố vững chắc vị trí quan trọng của minh trong cơ cấu chung của bảo hiểm. Bảo hiểm hoả hoạn là sự cần thiết khách quan trong toàn bộ nền kinh tế hiện nay 1.2.2. Tác dụng của Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt Có thể nói vấn đề quan trọng nhất sau một vụ cháy nổ, hay các thảm hoạ đặc biệt xảy ra gây thiệt hại về nhân mạng và tài sản chính là tìm kiếm đền bù, giải quyết hậu quả. Nhưng vì hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt đã nêu khi xảy ra thì thương mang tính thảm hoạ, hậu quả để lại là vô cùng to lớn, vì thế việc giải quyết hậu quả phải diễn ra trong một thời gian dài và rất khó khăn, thậm trí có những rui ro khi xảy ra thì nạn nhân phải tự gánh chịu hậu quả. Kinh nghiệm tại một số nước trên thế giới cho thấy vấn đề này sẽ dễ dàng hơn nếu nạn nhân đã được bảo hiểm. Ngoài ra, việc phòng cháy chữa cháy và nâng cao ý thức của cộng đồng cũng đóng vai trò hết sức quan trọng. Tất cả những vấn đề trên đều có thể được thực hiện tốt hơn khi bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt được triển khai. Khi triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm Hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt sẽ đem lại những tác dụng: Thứ nhất, Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt giúp khắc phục tổn thất khi xảy ra hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt một cách nhanh chóng và thuận tiện nhất, từ đó góp phần ổn định cuộc sống sản xuất, kinh doanh và sinh hoạt hàng ngày của xã hội + Đối với người dân: tỉ lệ xảy ra hoả hoạn trong các hộ dân cư là rất cao khoảng 70% mà tài sản của họ lại chủ yếu tập trung trong ngôi nhà vì thế khi mà xảy ra hoả hoạn với ngôi nhà của họ thì phần lớn tài sản sẽ bị thiệt hại, còn đối với những hộ kinh doanh thì do tính chất kinh doanh còn manh mún, nhỏ lẻ, tài sản thường tập trung vào kinh doanh, buôn bán nhưng công tác phòng cháy chữa cháy không được đảm bảo. Vì thế, khi hoả hoạn xảy ra thì sẽ mang đến rất nhiều khó khăn trong cuộc sống. Nếu tham gia bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thì những rủi ro này sẽ được chuyển giao cho nhà bảo hiểm. khi rủi ro xảy ra thì nhà bảo hiểm sẽ có trách nhiệm đền bù thiệt hại bằng tiền, như thế người dân sẽ có điều kiện để khắc phục lại cuộc sống cũng như công việc kinh doanh buôn bán của mình một cách dẽ dàng hơn + Đối với các doanh nghiệp: Để phục vụ nhu cầu ngày càng cao của con người, thị trường ngày cang mở rộng, phát triển trông mọi lĩnh vực sản xuất, kinh doanh. Để cạnh tranh được trên thị trường thì quy mô sản xuất, kinh doanh ngày càng được mở rộng, hang hoá sản xuất ngày càng nhiều, giá trị tài sản lớn, cơ sở vật chất phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh ngày càng hiện đại, các doanh nghiệp phải đầu tư rất nhiều tiền của. Vì thế khi hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt xảy ra thì các doanh nghiệp phải đương đầu với khó khăn lớn về mặt tài chính, đặc biệt là các doanh nghiệp sản xuất, mà mức cao nhất phải đối mặt đó là dẫn đến phá sản. Điều này không một doanh nghiệp nào mong muốn. Chính vì thế bảo hiểm sẽ như một lá chắn hữu hiệu, giúp cho các doanh nghiệp khắc phục được những khó khăn về mặt tài chính từ đó dẫn đến ỏn định lại sản xuất, kinh doanh Thứ hai, Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt góp phần tích cực vào công tác đề phòng hạn chế tổn thất Khi nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt được triển khai, do là một nghiệp vụ bảo hiểm nên áp dụng nguyên tắc số đông bù số ít. Vì vậy để có thể xác định được một tỉ lệ phí chính xác thì các doanh nghiệp bảo hiểm phải thường xuyên tiến hành các cuộc điều tra thu thập số liệu một cách tỉ mỉ, chính xác. Và dựa vào các số liệu này của doanh nghiệp bảo hiểm thì các nhà quản lý có thể nắm bắt được tình hình, xác định được những điểm nóng…để từ đó có thể chỉ đạo tốt công tác đề phòng hạn chế tổn thất. Mặt khác, các doanh nghiệp bảo hiểm muốn nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt đạt được hiệu quả kinh doanh cao thì cần hạn chế được rủi ro xảy ra, để làm được điều này thì các doanh nghiệp sẽ cung cấp cho bên tham gia bảo hiểm những biện pháp hữu hiệu trong công tác đề phòng hạn chế tổn thất, tư vấn về quản lý rủi ro, tuyên truyền nâng cao ý thức của cộng đồng về công tác phòng cháy chữa cháy Thứ ba, việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt mang lại lợi ích kinh tế - xã hội cho cả doanh nghiệp bảo hiểm và nhà nước + Đối với doanh nghiệp bảo hiểm: việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt làm cho doanh nghiệp bảo hiểm đa dạng hoá được sản phẩm, tăng thêm doanh thu phí và lợi nhuận, những khoản phí này sẽ được đem đi đầu tư sinh lợi và nhiều hạng mục như: bất động sản, chứng khoán, gửi ngân hàng… đem lại lợi nhuận đầu tư lớn và nâng cao hiệu quả kinh doanh, tăng cường uy tín và năng lực cạnh tranh trên thị trường. Từ đó có thể giúp cho doanh nghiệp mở rộng được quy mô doanh nghiệp, tạo lập thương hiệu và chiếm lĩnh thị trường + Đối với nhà nước: việc bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt được triển khai giúp cho người dân và các doanh nghiệp nhanh chóng khắc phục được hậu quả khi rủi ro xảy ra làm cho người dân không bị mất đi chỗ ở, việc làm(nếu không gánh năng lại đè lên vai các nhà hoạch định chính sách), giúp cho các doanh nghiệp khôi phục sản xuất kinh doanh, tránh bị phá sản, những điều này khi xảy ra không chỉ ảnh hưởng đến doanh nghiệp mà còn liên luỵ đến các doanh nghiệp khác nữa, thậm trí còn tạo gánh nặng cho ngân sách nhà nước. Từ đó làm cho cuộc sống xã hội được ổn định hơn. Ngoài ra, nhà nước còn có thể thu thêm được từ các doanh nghiệp bảo hiểm một khoản thuế bổ sung vào ngân sách nhà nước phục vụ cho các chương trình quốc gia. Ngoài ra, nền kinh tế nước ta đang trong quá trình mở cửa hội nhập, thu hút được nhiều vốn đầu tư nước ngoài, các nhà đầu tư nước ngoài thì làm ăn rất bài bản và chuyên nghiệp, vì thế việc triển khai nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt được thực hiên tốt sẽ làm cho các nhà đầu tư an tâm hơn và tăng cường đầu tư, tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế đối ngoại của đất nước Như vậy bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt có tác dụng hết sức to lớn trong cuộc sống, hoạt động kinh tế diễn ra hàng ngày, phục vụ tốt nhu cầu của xã hội và mang lại lợi ích cho cả người tham gia, doanh nghiệp bảo hiểm và nhà nước. Xuất phát từ tầm quan trọng này, ở nhiều nước đã quy định đây là nghiệp vụ bảo hiểm bắt buộc. Ở Việt Nam, chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 130/2006/NĐ-CP ngày 08/11/2006 quy định chế độ bảo hiểm cháy, nổ bắt buộc, Điều 8 Luật kinh doanh bảo hiểm và Điều 9 Luật phòng cháy chữa cháy cũng quy định bắt buộc cho nghiệp vụ này 1.3. Nội dung cơ bản của Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt 1.3.1. Các khái niệm được sử dụng - Cháy: là phản ứng hoá học có toả nhiệt và phát ra ánh sáng. - Hoả hoạn: Là cháy xảy ra không kiểm soát được ngoài nguồn lửa chuyên dùng và gây thiệt hại cho tài sản và người xung quanh - Sét: là tác động trực tiếp của tia chớp vào tài sản được bảo hiểm - Nổ: là hiện tượng cháy với tốc độ nhanh, toả ra nhiều sức nóng, sinh ra nhiều hơi, thường gây thiệt hại có tính cơ học cho môi trường xung quang như phá huỷ, lật đổ, gây sức ép… - Đơn vị rủi ro: Là nhóm tài sản tách biệt khỏi nhóm tài sản khác với khoảng cách không cho phép lửa từ nhóm này lan sang nhóm khác. Tuy nhiên khoảng cách gần nhất không thấp hơn 12m - Số tiền bảo hiểm: Là giá trị tài sản được chấp nhận bảo hiểm ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm. Trong mọi trường hợp, đó là giới hạn trách nhiệm tối đa của DNBH đối với tài sản được bảo hiểm bị thiệt hại . - Tổn thất toàn bộ: a. Tổn thất toàn bộ thực tế: Tài sản được bảo hiểm bị phá huỷ hoàn toàn hoặc hư hỏng nghiêm trọng đến mức không thể phục hồi lại trạng thái ban đầu. b. Tổn thất toàn bộ ước tính: Tài sản được bảo hiểm bị phá huỷ hoặc hư hỏng đến mức nếu sửa chữa, phục hồi thì chi phí sửa chữa, phục hồi bằng hoặc lớn hơn số tiền bảo hiểm. 1.3.2. Đối tượng và phạm vi bảo hiểm a, Đối tượng bảo hiểm Đối tượng bảo hiểm là tất cả tài sản thuộc quyền sở hữu và quản lý hợp pháp của các đơn vị sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, các tài sản cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong xã hội. Tuy nhiên, đối tượng này rất rộng, nhà bảo hiểm đã tiến hành phân loại theo các nhóm đối tương bao gồm: - Nhà cửa, công trình xây dựng đã đưa vào sử dụng ( trừ đất đai) - Máy móc, thiết bị lao động phục vụ quá trình sản xuất kinh doanh - Vật tư hàng hoá dự trữ trong kho - Nguyên, vật liệu, sản phẩm dở dang, thành phẩm đang trên dây chuyền sản xuất - Các tài sản khác như: kho, bãi, chợ, cửa hàng, khách sạn… Vì mỗi nhóm đối tượng có tính chất vật lý, hoá học, môi trường… là khác nhau nên khả năng xảy ra hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là khác nhau, và khi rui ro xảy ra thì thiệt hại gây ra với mỗi nhóm cũng khác nhaum Vì thế, việc phân nhóm đối tương bảo hiểm như trên nhằm mục đích: - Để đánh giá rủi ro đối tượng bảo hiểm một cách chính xác và đưa ra phương án quản lý rủi ro phù hợp - Giúp cho việc tính phí bảo hiểm một cách chính xác - Để tổ chức giám định và thuê giám định bên ngoài được thuận lợi Như vậy, nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt có đối tượng bảo hiểm khá đa dạng và rộng, điều này cho thấy tiềm năng đối tượng tham gia là rất lớn b, Phạm vi bảo hiểm Phạm vi bảo hiểm là giới hạn các rủi ro được bảo hiểm và giới hạn trách nhiêm tối đa của công ty bảo hiểm. Trong bảo hiểm hoả hoạn và cá rủi ro đặc biệt, nhà bảo hiểm có trách nhiệm bồi thường những thiệt hại và chi phí sau: - Những thiệt hại do những rủi ro được bảo hiểm gây ra cho tài sản được ghi trong giấy chứng nhận bảo hiểm, đã được người tham gia đóng phí bảo hiểm và thiệt hại xảy ra trước 16 giờ ngày cuối cùng của thời hạn bảo hiểm - Chi phí hợp lý và cần thiết để hạn chế thiệt hại của tài sản được bảo hiểm trong và sau khi xảy ra rủi ro - Chi phí thu dọn hiện trường sau khi cháy nếu những chi phí này được ghi rõ trong hợp đồng là được bảo hiểm 1, Rủi ro được bảo hiểm Trong bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm bao gồm: - Rủi ro chính: Hoả hoạn ( rủi ro A ) Rủi ro này thực chất bao gồm: Cháy, nổ và sét + Cháy: Cháy sẽ được bảo hiểm nếu đủ ba yếu tố Phải thực sự có phát lửa Lửa đó không phải là lửa chuyên dùng (Nhất thiết phải có một cái gì đó trong đám lửa mà đáng lẽ thứ đó không được có trong đó) Về bản chất, đám lửa đó phải là bất ngờ hay ngẫu nhiên đối với người được bảo hiểm chứ không phải là cố ý, có chủ định của họ hoặc có sự đồng loã của họ. Tuy nhiên, hoả hoạn xảy ra do bất cẩn của người được bảo hiểm vẫn thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường Khi có đầy đủ 3 điều kiện đó và có thiệt hại về vật chất do những nguyên nhân được cho là hợp lý gây ra, những thiệt hại đó sẽ được bồi thường cho dù đó là do bị cháy hay do nhiệt hoặc khói gây ra + Nổ: Theo rủi ro A, phạm vi bảo hiểm chỉ bao gồm: Nồi hơi phục vụ sinh hoạt Hơi đốt phục vụ sinh hoạt, thắp sáng hoặc sưởi ấm, trong một ngôi nhà không phải là nhà xưởng làm các công việc sử dụng hơi đốt Các trường hợp nổ gây ra hoả hoạn đã nghiễm nhiên được bảo hiểm. Như vậy ở đây chỉ còn lại những thiệt hại do nổ mà không gây cháy. Vấn đề còn lại ở đây là: Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ nhưng không gây cháy thì không được bồi thường, trừ trường hợp nổ nồi hơi hoặc khí phục vụ sinh hoạt, với điều kiện là sự nổ đó không phải là do các nguyên nhân bị loại trừ Tổn thất hoặc thiệt hại do cháy xuất phát từ nổ thì được bồi thường, với điều kiện là sự nổ đó không phải là do các nguyên nhân bị loại trừ Tổn thất hoặc thiệt hại do nổ xuất phát từ cháy: thiệt hại ban đầu do cháy được bồi thường nhưng những tổn thất do hậu quả của nổ thì không + Sét: Người được bảo hiểm sẽ được bồi thường khi tài sản bị phá huỷ trực tiếp do sét hoặc sét đánh gây cháy. Nếu trong trường hợp sét đánh mà tài sản không bị phá huỷ trực tiếp hoặc không phát lửa thì không thuộc phạm vi bồi thường. Chú ý, khi sét đánh phá huỷ trực tiếp tài sản là thiết bị điện tử thì được bồi thường, còn nếu nó làm thay đổi dòng điện gây ra hư hỏng, thiệt hại cho thiết bị đó thì không được bồi thường - Rủi ro phụ ( Rủi ro đặc biệt ) Bên cạnh các rủi ro chính thì còn có các rủi ro phụ, nó chính là các rui ro đặc biệt đi kèm với các rủi ro chính và chỉ có thể được bảo hiểm khi đi kèm với các rủi ro chính. Tuỳ thuộc vào quyết định của người tham gia bảo hiểm có tham gia bảo hiểm các rủi ro phụ không, nếu người tham gia đồng ý thì trong hợp đồng sẽ có thêm bảo hiểm cho các rủi ro này và người tham gia phải nộp thêm phí. Một số các rủi ro phụ bao như: + Rủi ro B: Nổ không nằm trong rủi ro A, và được loại trừ: Tài sản được bảo hiểm bị phá huỷ hay hư hại do nồi hơi, thùng đun nước bằng hơi đốt, bình chứa, máy móc thiết bị mà áp suất bên trong hoàn toàn do hơi nước tạo ra bị nổ ( chứ không phải do cháy bắt nguồn từ nổ ) Bình chứa, máy móc thiết bị hay các chất liệu chứa bên trong dụng cụ đó bị phá huỷ hay hư hại do nổ các chất liệu đó( không áp dụng trong bảo hiểm cháy nổ xăng dầu ) + Rủi ro C: Máy bay và các phương tiện hang không hoặc các thiết bị trên các phương tiện đó rơi vào làm cho tài sản bị cháy, nổ + Rủi ro D: Gây rối, đình công, công nhân bế xưởng, hành động của những người tham gia bạo động gây ra thiệt hại cho tài sản, nhưng không mang tính chất chính trị + Rủi ro E: Thiệt hại do hành động ác ý + Rủi ro F: Động đất hay núi lửa phun, bao gồm cả lụt và nước biển tràn vào do hậu quả của động đất hay núi lửa phun + Rủi ro G: Giông và Bão …. 2, Rủi ro loại trừ Trong các nghiệp vụ bảo hiểm, đều có những rủi ro không được bảo hiểm. Trên thực tế có những rủi ro không thể bảo hiểm. Trong bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt các rủi ro loại trừ bao gồm: - Tổn thất của tài sản được bảo hiểm do hành động cố ý hoặc đồng loã của người được bảo hiểm gây ra - Tổn thất gây ra do chiến tranh, nội chiến, các hành động thù địch nước ngoài, gây hấn hoặc có tính chất chiến tranh, các hành động khủng bố - Những tổn thất bắt nguồn từ những nguyên nhân hoặc phát sinh từ những thảm hoạ hạt nhân, kể cả nhiễm phóng xạ từ chất thải hạt nhân - Những tổn thất về: + Hàng hoá nhận uỷ thác hay ký gửi, vàng bạc, kim loại quý hiếm, chứng khoán, tài liệu bản thảo, sổ sách kinh doanh, bản mẫu, văn bằng, khuôn mẫu, bản vẽ, tài liệu thiết kế trừ khi những hàng hoá đó được xác nhận trong giấy chứng nhận bảo hiểm là được bảo hiểm + Chất nổ nhưng không bao gồm nhiên liệu xăng, dầu + Những tài sản vào thời điểm xảy ra tổn thất được bảo hiểm theo đơn bảo hiểm hang hải trừ phần thiệt hại vượt quá số tiền được bồi thường hoặc lẽ ra được bồi thường theo đơn bảo hiểm hang hải + Tài sản bị cướp hay bị mất cắp + Những thiệt hại, mất mát mang tính chất hậu quả dưới bất kỳ hình thức nào, trừ thiệt hại về tiền thuê nhà được xác nhận trong đơn bảo hiểm là được bảo hiểm - Những thiệt hại về người, động vật, thực vật sống hay gây ra cho bên thứ ba - Những thiệt hại trong phạm vi mức miễn thường 1.3.3. Giá trị bảo hiểm và Số tiền bảo hiểm a, Giá trị bảo hiểm Giá trị bảo hiểm trong nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là giá trị của tài sản được bảo hiểm. Giá trị này là giá trị thực tế ( giá trị còn lại ) hoặc giá trị mua mới của tài sản Giá trị mua mới là tất cả những chi phí để mua hoặc xây dựng mới tài sản, bao gồm cả chi phí vận chuyển, khảo sát thiết kế, lắp đặt tài sản đó Giá trị thực tế là giá trị mới trừ đi khấu hao do sử dụng theo thời gian Tài sản được bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thường có giá trị lớn và rất khác nhau như: nhà cửa, máy moc thiết bị, hàn hoá vật tư, vì vậy khi xác định giá trị bảo hiểm ngưòi ta có thể xác định như sau: - Giá trị bảo hiẻm của nhà cửa, máy móc thiết bị và các loại tài sản cố định khác được xác định trên cơ sở giá mua mới hoặc giá trị còn lại - Giá trị bảo hiểm của thành phẩm và bán thành phẩm được xác định trên cơ sở giá thành sản xuất - Giá trị bảo hiểm của hang hoá mua về để trong kho, cửa hang được xác định theo giá mua cộng với chi phí vận chuyển b, Số tiền bảo hiểm Trong loại hình bảo hiểm tài sản nói chung và bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nói riêng, ngoài thuật ngữ giá trị bảo hiểm thì thuật ngữ số tiền bảo hiểm cũng được sử dụng phổ biến. Số tiền bảo hiểm là giới hạn bồi thường tối đa của nhà bảo hiểm cho bên tham gia bảo hiểm trong trường hợp tài sản được bảo hiểm xảy rủi ro trong phạm vi bảo hiểm và bị tổn thất toàn bộ. Số tiền bảo hiểm còn là căn cứ để tính phí bảo hiểm, chính vì thế việc xác định chính xác số tiền bảo hiểm có ý nghĩa rất quan trọng. Về nguyên tắc, số tiền bảo hiểm được xác định trên cơ sở giá trị bảo hiểm. Căn cứ vào giá trị bảo hiểm thì khách hàng có thể tham gia bảo hiểm dưới giá trị, trên giá trị hoặc ngang giá trị. Số tiền bảo hiểm bằng bao nhiêu % giá trị sẽ được ghi trong hợp đồng bảo hiểm và đơn bảo hiểm để khi tổn thất bộ phận xảy ra thì áp dụng bồi thường theo tỷ lệ Đối với các tài sản cố định, việc xác định số tiền bảo hiểm căn cứ vào giá trị bảo hiểm của tài sản được bảo hiểm Đối với tài sản lưu động, do quy mô ngày càng được mở rộng, thị trường ngày cang sôi động, vì thế giá trị thường xuyên biến động để phục vụ nhu cầu của thị trường, chính vì vậy việc xác định số tiền bảo hiểm với loại này là phức tạp hơn nhiều. Trong trường hợp này nhà bảo hiểm sử dụng._. hai phương án để xác định số tiền bảo hiểm: - Phương án thứ nhất, xác định theo giá trị trung bình của tài sản Nếu tính số tiền bảo hiểm theo phương án này, người được bảo hiểm ước tính và thông báo cho nhà bảo hiểm biết giá trị hang hoá trung bình có trong kho. Giá trị trung bình này sẽ được coi là số tiền bảo hiểm trong suốt thời hạn bảo hiểm. Khi không may rui ro xảy ra thì số tiền bồi thường của nhà bảo hiểm là thiệt hại thực tế và không vượt quá giá trị trung bình đã khai báo này - Phương án thứ hai, xác định theo giá trị tối đa của tài sản Nếu tính số tiền bảo hiểm theo phương án này, người được bảo hiểm ước tính và thông báo cho nhà bảo hiểm biết giá trị tối đa của số lượng hang hoá có thể đạt được vào một thời điểm nào đó trong thời hạn bảo hiểm. phí bảo hiểm được tính trên cơ sở giá trị tối đa này và thường được thu trước 75%. Tuy nhiên, đầu mỗi tháng hoặc mỗi quý tuỳ thuộc vào thoả thuận giữa hai bên , ngưòi được bảo hiểm thông báo cho nhà bảo hiểm biết giá trị tối đa thực có trong tháng, trong quý trước đó. Cuối thời hạn bảo hiểm, trên cơ sở các thông báo của bên tham gia, nàh bảo hiểm sẽ tính giá trị tối đa bình quân trong cả thời hạn bảo hiểm, xác định lại phí bảo hiểm theo giá trị tối đa bình quân này. Nếu số phí bảo hiểm tính lại này nhiều hơn số phí đã nộp thì nguời tham gia trả them số phí còn thiếu. Nếu không may trong thời hạn bảo hiểm, tổn thất xảy ra thuộc phạm vi bảo hiểm, nhà bảo hiểm bồi thường thiệt hại thực tế nhưng không vượt quá số tiền bảo hiểm. Trong trường hợp số tiền bồi thường vượt quá giá trị tối đa bình quân thì phí bảo hiểm được tính dựa trên số tiền bồi thường đã trả, lúc này số tiền bồi thường được coi là số tiền bảo hiểm Trong mỗi phương án tính số tiền bảo hiểm đều có những phức tạp riêng, nhưng nhìn chung tính số tiền bảo hiểm theo giá trị trung bình bao giờ cũng đơn giản hơn, dễ theo dõi hơn phương án tính số tiền bảo hiểm theo giá trị tối đa. Bởi vậy, giúp cho nhà bảo hiểm dễ tính toán phí bảo hiểm để đi đến ký kết hợp đồng bảo hiểm 1.3.4. Phí bảo hiểm Bảo hiểm là một sản phẩm dịch vụ, và được trao đổi mua bán trên thị trường, bên bán là nhà bảo hiểm còn bên mua là người tham gia, khi nhà bảo hiểm chấp nhận bảo hiểm thì bên tham gia sẽ phải trả một khoản phí bảo hiểm, và phí bảo hiểm chính là giá cả của dịch vụ bảo hiểm. Chính vì phí bảo hiểm là giá cả của sản phẩm dịch vụ bảo hiểm nên việc tính toán giá cả một cách chính xác, đảm bảo công bằng cho cả hai bên là rất cần thiết cho sự hoạt động của thị trường. Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt có đối tượng là tài sản rất đa dạng về chủng loại, giá trị và mức độ rủi ro của mỗi loại tài sản khác nhau do đó phí bảo hiểm cũng khác nhau. Vì thế, việc tính toán mức phí bảo hiểm vừa phải, phù hợp với yêu cầu và khả năng của khách hang, vừa đảm bảo hoạt động kinh doanh cho doanh nghiệp bảo hiểm là không đơn giản Phí bảo hiểm hoả hoạn được tính theo công thức: P = Sb x R Trong đó: Sb: Số tiền bảo hiểm R: Tỉ lệ phí bảo hiểm P: Phí bảo hiểm Như vậy phí bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt được tình bằng một tỷ lệ nhất định của số tiền bảo hiểm, cách tính này rất dễ dàng cho khách hàng để biết được số tiền mình phải nộp. Tỷ lệ phí bảo hiểm ở đây sẽ được quy định riêng cho từng rủi ro được lựa chọn. Như thế sẽ có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến biểu phí vì đối tượng bảo hiểm của bảo hiểm hoả hoạn và các rui ro đặc biệt là rất đa dạng về chủng loại, mức độ rủi ro. Mỗi đối tượng có mức đọ rủi ro khác nhau, vì thế không thể áp dụng chung một biểu phí cố định cho tất cả các đối tượng bảo hiểm như thế sẽ không công bằng cho những bên tham gia có tài sản có mức độ rủi ro thấp, công tác phòng cháy chữa cháy tốt. Nhà bảo hiểm cần xác định thật chính xác tỷ lệ phí áp dụng cho mỗi loại tài sản tham gia bảo hiểm Tỷ lệ phí bảo hiểm thường được chia làm hai bộ phận: R = R1 + R2 Trong đó: R1 - Tỷ lệ phí thuần R2 - Tỷ lệ phụ phí Thông thường nhà bảo hiểm áp dụng áp dụng tỷ lệ phí khác nhau cho tất cả các nghành sản xuất kinh doanh, tính toán sau đó lập thành một bảng tỷ lệ phí ứng với từng loại tài sản và từng nhóm tài sản. Quan trọng nhất đối với các nhà bảo hiểm là phải xác định chính xác tỷ lệ phí thuần, trên thực tế một số yếu tố cơ bản sau ảnh hưởng đến tỷ lệ phí thuần: - Vật liệu xây dựng dung để xây dựng len tài sản tham gia bảo hiểm, tuỳ theo các yếu tố kết hợp vật liệu xây dựng, căn cứ vào tiêu chuẩn kinh tế - kỹ thuật mà người ta chia vật lieu xây dựng thành 3 loại: + Vật liệu nặng, khó bắt lửa và có khả năng chiu lửa tốt như: Bêtông, đá, thép… + Vật liệu trung gian: là laọi vật liệu có nhiều chất hoá học trộn với vật liệu tự nhiên, khả năng chịu lửa kém + Vật liệu nhẹ: loại này dễ bắt lửa, không có khả năng chịu lửa - Các tầng nhà và kết cấu giữa các tầng nhà: sức chịu đựng của các tầng nhà khi rủi ro xảy ra tốt hay kém cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ phí thuần - Phòng cháy, chữa cháy: đây là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến việc tính tỷ lệ phí. Công tác phòng cháy, chữa cháy đối với các tài sản tham gia bảo hiểm tốt , hạn chế thấp nhất rủi ro xảy ra thì tỷ lệ thấp và ngược lại. Vị trí nguồn nước dùng để phòng cháy chữa cháy, môi trường xung quanh và địa điểm tài sản tham gia bảo hiểm cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ phí bảo hiểm - Cách phân chia các đơn vị rủi ro: theo khoảng cách phân chia thì các đơn vị rủi ro càng gần nhau thì thì tỷ lệ phí càng cao và ngược lại - Bao bì đóng gói, chủng loại, cách thức sắp xếp hàng hoá Khi xác định tỷ lệ phí thuần thương phải căn cứ vào số liệu thống kê của một số năm trước đó( thường là 5 năm ) như: tổng số đơn vị rủi ro tham gia bảo hiểm, số đơn vị rủi ro tham gia bảo hiểm bị xảy ra tổn thất, tổng số tiền bảo hiểm, tổng số tiền bồi thường tổn thất…trường hợp này thường được áp dụng cho các công ty bảo hiểm đã triển khai nghiệp vụ được một số năm nhất định, còn các công ty bảo hiểm mới triển khai thì dựa vào biểu phí bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt ở nước ngoài sau đó áp dụng và điều chỉnh cho phù hợp ∑ Số đơn vị tham gia bảo hiểm bị hoả hoạn R1 = —————————————————— X 100% ∑ Số đơn vị rủi ro tham gia bảo hiểm ∑Số tiền bồi thường R1 = ───────────────── X 100% ∑Số tiền tham gia bảo hiểm Trong thực tế, khi xác định tỷ lệ phí thuần có rất nhiều các vấn đề phức tạp do kết cấu của mỗi loại tài sản tham gia bảo hiểm là khác nhau, mức độ rủi ro là khác nhau. Trong khi khách hang bao giờ cũng muốn tham gia bảo hiểm trọn gói, vì vậy nhà bảo hiểm có 2 phương pháp xác định tỷ lệ phí thuần sau: Phương pháp 1, Xác định tỷ lệ phí thuần theo phân loại Phương pháp này kết hợp các đơn vị rủi ro có thể so sánh với nhau vào cùng một loại, sau đó tính tỷ lệ phí cho mỗi loại. Phương pháp này phù hợp cho những loại tài sản tương đối đồng nhất như: nhà ở, các công trình xây dựng… khi tính theo phương pháp này cần phải tính đến các yếu tố tác động: + Vật liệu xây dụng + Khả năng phòng cháy chữa cháy + Người sử dụng tài sản + Những đồ vật, dụng cụ bố trí bên trong và ngoài… Phương pháp 2, Xác định tỷ lệ phí thuần theo danh mục Các bước cơ bản để xác định tỷ lệ phí thuần của phương pháp này: Bước 1: Rà soát lại các danh mục tài sản tham gia bảo hiểm, sau đó phân ra từng loai tài sản theo danh mục khác nhau Bước 2, Căn cứ vào ngành nghề sản xuất kinh doanh để chọn một tỷ lệ phí thích hợp trong bảng tỷ lệ phí có sẵn Bước 3, Điều chỉnh tỷ lệ phí đã chọn theo các yếu tố tăng giảm Việc điều chỉnh này phải căn cứ vào: Vật liệu xây dựng, khả năng phòng cháy chữa cháy… thường được quy định như sau: + Loại D: tài sản được làm bằng vật liệu nặng, có khả năng chịu lửa tốt như bêtông, cốt thép… Loại này giảm tối đa 10% phí bảo hiểm trong biểu phí + Loại N: được sử dụng vật liệu trung gian. Loại này giữ nguyên tỷ lệ phí + Loại L: làm bằng vật liệu nhẹ. Loại này tăng tối đa 10% phí bảo hiểm trong biểu phí Các yếu tố trên sẽ làm ảnh hưởng tới khả năng làm thiệt hại khi rủi ro xảy ra. Các công ty bảo hiểm cũng cần phải quan tâm tới các yếu tố làm giảm mức độ rủi ro như: trang thiết bị phòng cháy, chữa cháy; công tác kiểm tra canh gác; môi trưòng xung quanh … Tuy nhiên, tổng mức giảm phí về các phương tiện, thiết bị phòng cháy chữa cháy của mỗi đơn vị rủi ro không quá 45% Trong nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn còn áp dụng mức miễn thường. Tuỳ theo từng loại tài sản được bảo hiểm mà mức miễn thường được quy định khác nhau. Thông thường mức khấu trừ tối thiểu là 2%Số tiền bảo hiểm nhưng khong dưới 100USD và tối đa không quá 2000USD trên mỗi vụ tổn thất. Đây là mức miễn thường bắt buộc không được giảm phí, nếu người tham gia bảo hiểm muốn được giảm phí thì hai bên sẽ thoả thuận về mức miễn thường và tỷ lệ giảm phí Thời gian nộp phí sẽ do hai bên thoả thuận nhưng thông thường trong nghiệp vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thì bên tham gia sẽ tiến hành nộp phí bảo hiểm ngay sau khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, và nhà bảo hiểm sẽ trích lại một phần cho công tác đề phòng hạn chế tổn thất 1.3.5. Giám định và bồi thường tổn thất a, Giám định tổn thất Giám định tổn thất là cơ sở để xác định chính xác số tiền bồi thường. Để việc giám định tổn thất được tiến hành nhanh chóng, thuạn lợi và chính xác thì tất cả các bên liên quan đều phải có trách nhiệm - Trách nhiệm của người tham gia bảo hiểm: khi tổn thất xảy ra, người tham gia phải chịu trách nhiêm thông báo ngay cho nhà bảo hiểm. Nội dung phải đảm bảo: + Thời gian, địa điểm xảy ra thiệt hại + Đối tượng bị thiệt hại + Nguyên nhân xảy ra rủi ro - Trách nhiệm của nhà bảo hiểm: sau khi nhận được thông báo thì nhà bảo hiểm phải cử ngay nhân viên có trách nhiệm đến hiện trường để tiến hành giám định tổn thất, nếu tái bảo hiểm thì cần phải kết hợp với những nhà tái bảo hiểm để tiến hành giám định. Nội dung giám định thường bao gồm: + Xác định chính xác thời điểm bắt đầu, kết thúc rủi ro xảy ra + Nhanh chóng làm rõ nguyên nhân + Thống kê nhanh chóng, kịp thời, chính xác số lương, chủng loại tài sản bị thiệt hai, tính toán sơ bộ mức độ thiệt hại thực tế + Lập biên bản giám định sơ bộ có xác nhận của các bên Sau khi hoàn thành biên bản giám định nhà bảo hiểm sẽ tiến hành trao đổi trục tiếp với khách hàng. Nếu khách hàng chấp nhận thì biên bản đó cũng là biên bản chính thức và làm cơ sở để bồi thường. Nếu khách hàng thắc mắc, khiếu nại thì nhà bảo hiểm cần tổ chức giám định lại theo đúng quy trình để đi đến thống nhất, nhưng nếu giám định lại mà không có gì thay đổi thì toàn bộ chi phí giám định lại người tham gia phải gánh chịu, ngược lại nhà bảo hiểm phải gánh chịu Nhà Bảo hiểm có thể sử dụng cán bộ của mình và cũng có thể thuê giám định độc lập b, Bồi thường tổn thất Căn cứ vào biên bản giám định tổn thất cuối cùng, nhà bảo hiểm tiến hành bồi thường tổn thất cho người tham gia bảo hiểm. Đây cũng là trách nhiệm chủ yếu của công ty bảo hiểm khi rủi ro xảy ra, công ty bảo hiểm sẽ xét bồi thường theo một trong hai cách sau: Cách thứ nhất, Bồi thường theo quy tắc tỷ lệ Số tiền bảo hiểm Trong bảo hiểm tài sản nói chung và trong bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt nói riêng, việc tham gia bảo hiểm với số tiền bảo hiểm lớn hay nhỏ phụ thuộc vào sự thoả thuận giữa hai bên. Nhưng khi rủi ro xảy ra, trong quá trình bồi thường xảy ra rất nhiều phức tạp vì tại thời điểm rủi ro xảy ra giá trị bảo hiểm có thể bằng, lớn hơn hay nhỏ hơn Số tiền bảo hiểm(STBH). Bồi thường theo quy tắc này tránh cho công ty bảo hiểm những phiền toái về khiếu nại và tránh trục lợi bảo hiểm. Việc bồi thường được quy định: - Nếu thời điểm xảy ra tổn thất STBH nhỏ hơn giá trị trị thực tế của tài sản thì số tiền bồi thường(STBT) sẽ là: STBH STBT = Giá trị tổn thất thực tế X ———————————— Giá trị thực tế tài sản - Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất STBH bằng giá trị thực tế tài sản đó thì số tiền bồi thường bằng giá trị tổn thất thực tế - Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất giá trị thực tế của tài sản được đánh giá trên thị trường là lớn hơn giá trị tài sản khi tham gia bảo hiểm thì STBT sẽ là: Giá trị TS khi tham gia bảo hiểm STBT = Giá trị tổn thất thực tế X —————————————— Giá trị TS tại t.điểm xảy ra tổn thất - Nếu tại thời điểm xảy ra tổn thất số tài sản bị thiệt hại ; ại được tham gia bảo hiểm tại một hợp đồng bảo hiểm khác thì nhà bảo hiểm sẽ bồi thương theo trong giới hạn trách nhiệm của mình phân bổ cho hợp đồng mà mình bảo hiểm. STBT sẽ là: STBT = Giá trị tổn thất thực tế X Tỷ lệ bảo hiểm hoả hoạn Cách thứ hai, Bồi thường theo quy tắc tỷ lệ phí Trong bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, số tiền bảo hiểm mà khách hàng tham gia thường rất lớn vì thế số tiền phí bảo hiểm phải đóng là cao, bởi vậy có một số trường hợp khách hàng không nộp đủ một lần mà nộp phí làm nhiều lần. Trong trường hợp này, khi tổn thất xảy ra nhà bảo hiểm tiến hành bồi thường theo quy tắc tỷ lệ phí: Số phí đã nộp STBT = Giá trị tổn thất thực tế X ———————— Số phí lẽ ra phải nôp Trong mọi trường hợp, khi tổn thất xảy ra thì số tiền bồi thường của nhà bảo hiểm đóng vai trò rất quan trọng cho việc khôi phục, ổn định lại cuộc sống cũng như sản xuất kinh doanh. Vì thế, nhà bảo hiểm cần phải thực hiện công tác giám định, bồi thường tổn thất một cách nhanh chóng, chính xác, kịp thời, tạo điều kiện hỗ trợ tốt nhất cho khách hang, vừa đảm bảo uy tín của nhà bảo hiểm, vừa giúp ổn định cuộc sống, sản xuất kinh doanh của khách hang, đúng như mục đích đề ra khi triển khai nghiệp vụ 1.3.6. Hợp đồng bảo hiểm Hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt là một cam kết giữa khách hàng và công ty bảo hiểm, trong đó thể hiện quyền lợi và nghĩa vụ của các bên đối với dịch vụ bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, rủi ro về hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt sẽ được chuyển giao cho nhà bảo hiểm, đổi lại khách hàng sẽ phải nộp một khoản phí cho nhà bảo hiểm. Một hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thường bao gồm những nội dung cơ bản sau: - Thông tin chung: + Bên bảo hiểm + Bên tham gia bảo hiểm - Phạm vi bảo hiểm - Thời hạn, hiệu lực của hợp đồng - Số tiền bảo hiểm, Phí bảo hiểm và các nội dung liên quan + Địa điểm bảo hiểm + Giá trị tài sản bảo hiểm + Số tiền bảo hiểm + Mức khấu trừ + Phí bảo hiểm - Điều kiện bổ sung và loại trừ - Phương thức thanh toán - Thủ tục khiếu nại, giải quyết bồi thường, trách nhiệm các bên - Cam kết của các bên Trong bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt có thể sử dụng giấy chứng nhận bảo hiểm thay cho hợp đồng bảo hiểm. Giấy chứng nhận baỏa hiểm là chứng nhận về hợp đồng, là cơ sở đảm bảo về mặt hiệu lực pháp lý cho một hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực Thòi hạn của hợp đồng bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thường là một năm, nhưng trên thực tế thời hạn này có thể ngắn hoặc dài hơn. Sau khi kết thúc thời hạn bảo hiểm, khách hàng có thể tiếp tục đóng phí bảo hiểm và yêu cầu nhà bảo hiểm tiến hành tái tục hợp đồng Hợp đòng bảo hiểm sẽ bị huỷ bỏ khi: - Một trong hai bên thông báo bằng văn bản cho bên kia biết về việc huỷ bỏ hợp đồng trước 30 ngày - Có những thay đổi làm tăng mức độ rủi ro của tài sản được bảo hiểm, trừ khi những thay đổi đó được nhà bảo hiểm chấp nhận bằng văn bản - Thay đổi quyền sở hữu hay quyền quản lý đối với tài sản được bảo hiểm Hiệu lực của hợp đồng thường được bắt đầu khi người tham gia nộp phí bảo hiểm lần đầu tiên, và kết thúc vào 16h ngày cuối cùng của thời hạn bảo hiểm. Trong thời hạn bảo hiểm, nếu tài sản được bảo hiểm di chuyên ra ngoài khu vực được bảo hiểm thì hợp đồng bảo hiểm cũng mất hiệu lực 1.4. Tái Bảo hiểm 1.4.1. Sự cần thiết của Tái bảo hiểm Kinh doanh Bảo hiểm là kinh doanh rủi ro thông qua việc xác định phí bảo hiểm bán trước dự tính theo số liệu thống kê trong quá khứ. Tuy nhiên nhà bảo hiểm có thể đối diện với những rủi ro của chính mình. Khi xác suất rủi ro dự tính không đúng với xác suất thực tế dẫn đến phí bảo hiểm thu được không đáp ứng được khả năng chi trả bồi thường. Vì thế để bảo vệ cho mình thì các công ty bảo hiểm đã sử dụng các hình thức phân tán rủi ro như Đồng bảo hiểm và Tái bảo hiểm Với nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt, việc xác suất rủi ro dự tính không đúng với xác suất rủi ro thực tế sẽ rất nguy hiểm , vì đối với nghiệp vụ này khi rủi ro không may xảy ra thì thiệt hại sẽ rất lớn nên nếu thực tế cao hơn tính toán thì các Công ty bảo hiểm sẽ chịu thiệt hại lớn, ảnh hưởng đến khả năng tài chính 1.4.2. Bản chất của Tái bảo hiểm Khái niệm Tái bảo hiểm: - Tái bảo hiểm là sự phân tán rủi ro mà người bảo hiểm phải gánh chịu cho những người bảo hiểm khác - Tái bảo hiểm là bảo hiểm cho những rủi ro mà nhà bảo hiểm phải gánh chịu cho những nhà bảo hiểm khác - Tái bảo hiểm là sự bảo hiểm mới được thực hiện bởi một hợp đồng mới là hợp đồng tái bảo hiểm cho những rủi ro đã được bảo hiểm trước đó nhằm chi trả, bồi thường cho những cam kết đã được thực hiện trước và cả hai hợp đồng diễn ra trong cùng một thời gian Bản chất của Tái bảo hiểm được thể hiện: - Tái bảo hiỉm là sự phân tán rủi roc ho nhà bảo hiểm thay vì một nhà bảo hiểm phải gánh chịu tất cả tổn thất xảy ra đối với đối tượng bảo hiểm thì sẽ có nhiều nhà bảo hiểm khác cùng chia sẻ tổn thất đó vì vậy giá trị tổn thất của mỗi nhà bảo hiểm phải gánh chịu được giảm đi nhiều lần - Tái bảo hiểm hoạt động dựa trên quy luật số lớn nhằm phân chia rủi ro giữa các nhà bảo hiểm với nhau - Hoạt động Tái bảo hiểm có tính chất quốc tế cao 1.4.3. Tác dụng của Tái bảo hiểm Để đảm bảo ổn định kinh doanh và đề phòng hiện tượng phá sản các Doanh nghiệp Bảo hiểm phải thực hiện Tái bảo hiểm. Hoạt động Tái bảo hiểm trong các Doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm hai mảng là: Nhượng Tái bảo hiểm và Nhận Tái bảo hiểm, tác dụng của các mảng này là: - Đối với Doanh nghiệp Bảo hiểm Doanh nghiệp nhượng Tái bảo hiểm: + Tái bảo hiểm góp phần phân tán rủi ro cho nhà nhượng tái, từ đó giúp họ đảm bảo khả năng thanh toán khi gặp phải tổn thất đặc biệt là tổn thất lớn + Các công ty Bảo hiểm đặc biệt là các công ty nhỏ thông qua Tái bảo hiểm có thể nhận được những hợp đồng bảo hiểm lớn, vừa tuân thủ pháp luật vừa không phải từ chối khách hàng + Tái bảo hiểm là công cụ quản trị rủi ro quan trọng của chính những nhà bảo hiểm + Nhà nhận tái bảo hiểm có thể hỗ trợ cho công ty bảo hiểm gốc trong việc giải quyết bồi thường một cách nhanh chóng Doanh nghiệp nhận Tái bảo hiểm: + Nhận tái bảo hiểm giúp cho các Doanh nghiệp nhận Tái bảo hiểm tăng thêm được doanh thu phí bảo hiểm từ những Hợp đồng tái bảo hiểm, giúp tăng lợi nhuận của doanh nghiệp + Nhận tái bảo hiểm giúp cho doanh nghiệp tăng cường được các mối quan hệ với các công ty bảo hiểm khác trên thị trường, tăng cường uy tín thương hiệu của doanh nghiệp - Đối với khách hàng: Do bảo hiểm là một dịch vụ đặc thù, cam kết bồi thương trên cơ sở phí bảo hiểm đóng trước, nên khi có Tái bảo hiểm thì khách hàng cảm thấy yên tâm hơn trong việc đảm bảo khả năng thanh toán của các Công ty bảo hiểm, vì lúc đó không chỉ có một công ty bảo hiểm cho khách hàng - Đối với xã hội và nền kinh tế Tái bảo hiểm không chỉ giảm rủi ro cho những nhà bảo hiểm mà còn là sự phân tán rủi ro giữa các quốc gia với nhau. Vì vậy các rủi ro lớn hoàn toàn có thể được chia sẻ với số lượng đông người tham gia bảo hiểm. Tái bảo hiểm cũng tăng cường mối quan hệ giữa các quốc gia Với nghiệp vụ Bảo hiểm hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt thì tài sản tham gia bảo hiểm thường rất lớn, vì thế việc xem xét thu xếp tái bảo hiểm có ý nghĩa rất quan trọng giúp cho doanh nghiệp bảo hiểm chia sẻ được những rủi ro cho hợp đồng bảo hiểm gốc, đảm bảo ổn định tài chính, ổn định hoạt động kinh doanh. Các công ty bảo hiểm tuỳ vào điều kiện của mình mà có thể tham gia tái bảo hiểm theo các hình thức: Tái bảo hiểm tạm thời, Tái bảo hiểm cố định, Tái bảo hiểm mở sẵn. Và các phương thức: Tái bảo hiểm theo tỷ lệ (Tái bảo hiểm theo số tiền bảo hiểm), Tái bảo hiểm phi tỷ lệ (Tái bảo hiểm theo số tiền bồi thường) Thông thường, hàng năm Bảo hiểm AAA sẽ kí các hợp đồng Tái bảo hiểm cố định hàng năm với các Công ty Tái bảo hiểm, thoả thuận các điều kiện, điều khoản cho các nghiệp vụ bảo hiểm cần phải có tái bảo hiểm. Với hợp đồng tái bảo hiểm cố định này, các hợp đồng bảo hiểm của AAA trong năm đó nằm trong hạn mức tái mặc nhiên sẽ được bảo hiểm. Trường hợp các giới hạn bảo hiểm vượt mức của hợp đồng tái bảo hiểm thì AAA sẽ thu xếp tái bảo hiểm với các công ty Tái bảo hiểm trong nước cũng như quốc tế như: Vinare, Munich Re, Swiss Re… Nhằm đảm bảo mức độ an toàn cao nhất cho khách hàng của mình CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI BẢO HIỂM HOẢ HOẠN VÀ CÁC RỦI RO ĐẶC BIỆT TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN BẢO HIỂM AAA 2.1. Khái quát về công ty Cổ phần bảo hiểm AAA Công ty Cổ phần Bảo hiểm AAA được thành lập ngày 28/02/2005 theo Quyết Định số 30GP/KDBH cuả Bộ Tài Chính. Sau khi có đơn và hồ sơ xin cấp giấy phép thành lập và hoạt động của công ty cổ phần Bảo hiểm AAA ngày 5 tháng 4 năm 2004. Chủ đầu tư: do 10 chủ đầu tư góp vốn thành lập là các tổ chức cá nhân: - Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam Ngân hàng thuơng mại cổ phần Quân Đội Công ty trách nhiệm hữu hạn Thái Bình Công ty cổ phần tơ tằm Á châu Bà: Đỗ Thị Kim Liên Ông: Nguyễn Ngọc Anh Ông: Nguyễn Trọng Bảy Bà: Trương Thị Quốc Khánh Ông: Lê Việt Thành Ông: Ngô Quang Dũng Hình thức pháp lý: Công ty cổ phần Bảo hiểm Để kinh doanh Bảo hiểm theo quy định của Luật kinh doanh Bảo hiểm, các văn bản hướng dẫn thi hành Luật kinh doanh Bảo hiểm, các quy định khác của pháp luật Doanh nghiệp Bảo hiểm có tư cách pháp nhân, có con dấu riêng và mở tài khoản tại Ngân hàng theo các quy định của pháp luật Việt Nam Sau 3 năm thành lập và hoạt đông công ty cổ phần bảo hiểm AAA đã có những bước phát triển nhanh và mạnh mẽ,cụ thể là: Vốn điều lệ của công ty khi thành lập là 80.000.000 đồng, sau đó quyết định tăng vốn điều lệ lên 380.000.000 đồng tại công văn số 0758/CV/07-AAA ngày 7/09/2007 và được Bộ Tài Chính chấp thuận theo Quyết định số 30/GPDC8/KDBH của Bộ Tài chính. Đến ngày 18/10/2007 công ty lại có phương án tăng vốn điều lệ từ 380.000.000 đồng lên 1.500.000.000 đồng tại công văn số 891/CV/07-AAA gửi Bộ Tài Chính và được Bộ tài Chính chấp thuận về nguyên tắc tại công văn số 15828/BTC-BH ngày 22/11/2007. Với việc tăng vốn điều lệ từ 80.000.000 đồng lên 1.500.000.000 đồng đã khẳng định cam kết phát triển của Công ty, đảm bảo khả năng hoạt động và cho tháy tiềm năng phát triển mạnh mẽ. Từ một công ty mới thành lập thì hiện nay AAA đã trở thành một trong những công ty bảo hiểm phi nhân thọ lớn trên thị trường bảo hiểm Việt Nam Hệ thống chi nhánh trên toàn quốc đã tăng nhanh chóng từ 9 chi nhánh khi thành lập hiện nay đã tăng lên hơn 50 văn phòng, chi nhánh, trung tâm giao dịch trải rộng khắp các khu vực Miền Bắc, Miền Trung, Miền Đông Nam Bộ, Miền Tây Nam Bộ, với 500 nhân viên có trình độ chuyên môn cao. Việc gia tăng nhanh chóng mạng lưới chi nhánh của mình, Công ty cổ phần Bảo hiểm AAA cho thấy sự vươn lên mạnh mẽ và nhằm triển khai các nghiệp vụ của công ty rộng khắp cả nước, phục vụ khách hàng tốt hơn và nhanh chóng, thuận tiện hơn Sản phẩm: Công ty cổ phần bảo hiểm AAA nhận thức được tầm quan trọng của việc đa dạng sản phẩm nên không ngừng nghiên cứu, phát triển và cho ra đời các sản phẩm mới nhằm đáp ứng nhu cầu của thị trường. Gần đây nhất ngày 8/1 Công ty cổ phần bảo hiểm AAA đã công bố triển khai một sản phẩm bảo hiểm mới tại thị trương Việt Nam: dịch vụ “ Bảo hiểm tổn thất toàn bộ và mất cắp mô tô, xe máy ” theo đó chiếc mô tô, xe máy đã mua dịch vụ bảo hiểm mà bị tổn thất toàn bộ( trên 75% ) hoặc bị mất cắp thì khách hàng sẽ được bồi thường tiền hoặc phục hồi thay thế một chiếc xe khác có cùng nhà sản xuất, kiểu giáng và năm dử dụng. trong trường hợp khách hàng bị cướp hoặc gặp tai nạn do yếu tố thời tiết thì khách hàng vẫn được đền bù theo quy định. Cổ đông của công ty cổ phần bảo hiểm AAA hiện nay đã có thêm một số nhà đầu tư lớn khác như: Tập đoàn Bankinvest – Đan Mạch, Ngân hàng EximBank…Các cổ đông mới này sẽ giúp đảm bảo về vốn và tăng cường uy tín cho công ty. Với sự sôi động của thị trường Bảo hiểm Việt Nam đặc biệt là sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương mại Thế giới WTO, đối mặt với nhiều thách thức ở phía trước, thông qua quá trình thành lập và phát triển của công ty cổ phần Bảo hiểm AAA cho thấy sự chuẩn bị kỹ lưỡng và sự tự tin để khẳng định thương hiệu AAA trên thị truờng Bảo hiểm Việt Nam. Lĩnh vực kinh doanh: B ảo hiểm phi nhân thọ Các nghiệp vụ được phép tiến hành kinh doanh: + Kinh doanh Bảo hiểm gốc: Bảo hiểm sức khoẻ và bảo hiểm tai nạn con người Bảo hiểm tai nạn và bảo hiểm thiệt hại Bảo hiểm hàng hoá bằng đường biển, đường bộ, dường sắt, đường sông và đường không Bảo hiểm xe cơ giới Bảo hiểm cháy, nổ Bảo hiểm than tàu và trách nhiệm dân sự của chủ tàu Bảo hiểm trách nhiệm chung Bảo hiểm tín dụng và rủi ro tài chính Bảo hiểm thiệt hại kinh doanh Bảo hiểm nông nghiệp + Kinh doanh Tái bảo hiểm: Nhận và nhượng Tái bảo hiểm đối với tất cả các nghiệp vụ Bảo hiểm phi nhân thọ + Tiến hành các hoạt động đầu tư theo quy định của pháp luật + Các hoạt động khác theo quy định của pháp luật Địa bàn hoạt động: Công ty Cổ phần bảo hiểm AAA được phép hoạt động trên phạm vi cả nước Đối tượng khách hàng: là các tổ chức , cá nhân trong và ngoài nước sinh sống, học tập và làm việc trên lãnh thổ Việt Nam Là một công ty bảo hiểm mới đi vào hoạt động trên thị trường, công ty bảo hiểm AAA cần thực hiện thật tốt chiến lược khai thác để có thể bắt nhịp được với thị trường. Tận dụng tốt lợi thế của mình, công ty Cổ phần bảo hiểm AAA chủ yếu khai thác qua các kênh: + Khai thác qua kênh Ngân hàng Hiện nay Công ty cổ phần bảo hiểm AAA đang kết hợp với một số Ngân hàng thương mại để khai thác bảo hiểm như: Ngân hàng thương mại cổ phần Quân đội, Ngân hàng thương mại cổ phần Phương Nam, Ngân hàng EximBank… + Khai thác qua đại lý Công ty Cổ phần bảo hiểm AAA đang không ngừng mở rộng hệ thống đại lý bảo hiểm trên cả nước, để có thể đạt hiệu quả khai thác cao và phục vụ tốt hơn nhu cầu của khách hàng + Khai thác trực tiếp qua các văn phòng và nhân viên khai thác AAA xây dựng một đội ngũ nhân viên chuyên nghiệp, có năng lực nghiệp vụ để có thể dễ dàng tư vấn phục vụ khi khách hàng có nhu cầu Bảng 1: Kết quả hoạt động kinh doanh sau 2 năm thành lập (Đơn vị: đồng) Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Doanh thu phí bảo hiểm gốc 5.080.510.379 48.576.240.474 Doanh thu phí nhận tái bảo hiểm 268.125.996 2.812.964.358 Doanh thu thuần hoạt động kinh doanh bảo hiểm 2.053.924.272 27.213.155.442 Tổng chi trực tiếp hoạt động kinh doanh bảo hiểm 2.040.100.198 17.406.883.638 Lợi nhuận gộp hoạt động kinh doanh bảo hiểm 463.824.074 9.806.271.804 Lợi nhuận chiu thuế thu nhập doanh nghiệp 4.350.609.317 19.608.578.155 ( Nguồn: Công ty cổ phần bảo hiểm AAA ) Qua bảng cho ta thấy kết quả hoạt động kinh doanh năm 2006 có những thay đổi to lớn so với năm 2005, cụ thể ở một số chỉ tiêu như: phí bảo hiểm gốc tăng xấp xỉ gấp 9 lần Doanh thu Doanh thu thuần hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng gấp ~ 13 lần Lợi nhuận gộp hoạt động kinh doanh bảo hiểm tăng ~ 20 lần lợi nhuận trước thuế tăng ~ 4.5 lần… 6 tháng đầu năm 2007 Bước sang năm thứ ba hoạt động kinh doanh bảo hiểm được triển khai, với sự tăng trưởng mạnh mẽ của năm 2006, trên đà phát triển ấy thì trong vòng 6 tháng đầu năm 2007 kết quả đạt được của hoạt động kinh doanh đã vượt qua cả năm 2006. Cụ thể: Tổng số nghiệp vụ bảo hiểm được triển khai là 43 nghiệp vụ Thu phí bảo hiểm gốc đạt hơn 55.080.000.000 đồng Doanh thu thuần hoạt động kinh doanh bảo hiểm là: 37.533.974.279 đồng Tổng chi trực tiếp hoạt động kinh doanh bảo hiểm: 22.841.152.168 đồng Lợi nhụân gộp hoạt động kinh doanh bảo hiểm: 14.692.822.111 đồng Lợi nhuận chịu thuế thu nhập doanh nghiệp: 43.004.475.384 đồng Chi nhánh bảo hiểm AAA Hà Nội Chi nhánh bảo hiểm AAA Hà Nội là một đơn vị của Công ty cổ phần bảo hiểm AAA. Ra đời vào đầu năm 2006 trong chiến lược mở rộng quy mô hoạt động của công ty. Chi nhánh AAA có trụ sở đặt tại số 155 Láng hạ, Phường Láng hạ. Chi nhánh AAA Hà Nội trực tiếp quản lý các hoạt động kinh doanh trên khu vưc thành phố Hà Nội, có 5 đơn vị trực thuộc là các phòng kinh doanh từ số 1 đến số 5, trực tiếp điều hành chi nhánh là giám đốc chi nhánh AAA Hà Nội ông Trần Ngọc Vinh. Chi nhánh AAA Hà Nội hoạt động trên nguyên tắc chung của toàn công ty Cổ phần bao hiểm AAA và được hạch toán độc lập với các đơn vị khác, vì thế chi nhánh AAA Hà Nội cũng như là một công ty Bảo hiểm AAA thu nhỏ 2.2. Phân tích tình hình triển khai Bảo hiểm Hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt tại công ty Cổ phần bảo hiểm AAA - Chi nhánh Hà Nội Để phân tích, đánh giá tình hình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm Hoả hoạn và các rủi ro đặc biệt một cách chính xác và toàn diện, chúng ta xem xét, đánh giá tất cả các bước triển khai. Thông thường một sản phẩm bảo hiểm được đánh giá triển khai theo các khâu: + Khai thác + Đề phòng hạn chế tổn thất + Giám định bồi thường tổn thất + Đánh giá kết quả, hiệu quả kinh doanh Cả bốn khâu trên có quan hệ chặt chẽ với nhau, và hình thành nên một quy trình thực hiện bảo hiểm Sơ đồ quy trNắm bắt thông tin, tiếp cận khách hàng Chuẩn bị phương án bảo hiểm, hồ sơ dự thầu Nộp hồ sơ dự thầu, chào phí Thương thảo hợp đồng và cấp đơn bảo hiểm Quản lý đơn bảo hiểm Tổn Thất Tiếp nhận, thu thập thông tin về tổn thất Giám định, xác định mức độ tổn thất Giải quyết bồi thường Kết thúc hợp đồng bảo hiểm ình thực hiện Bảo hiểm 2.2.1. Tình hình khai thác Khai thác là việc công ty bảo hiểm thực hiện công tác tuyên truyền quảng cáo, giói thiệu và vận động tham gia bảo hiểm, sử dụng tất cả các phương pháp nhằm đạt mục đích cuối cùng là ký kết hợp đồng bảo hiểm. Vì thế, đây là một khâu rất quan trọng đối với sự tồn tại và hoạt động của doanh nghiệp bảo hiểm, khâu khai thác mang lại nguồn thu phí bảo hiểm từ phía khách hàng đến cho doanh nghiệp bảo hiểm. Việc khai thác thành công sẽ giúp công ty tạo lập được nguồn quỹtài chính đủ lớn nhằm bồi thường cho khách hàng khi rủi xảy ra, trên nguyên tắc số đông bù số ít, ngoai ra nó đem lai lợi nhuân cho công ty Công tác khai thác thường bao gồm các bước: Bước 1, Tuyên truyền quảng cáo, giới thiệu bảo._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33172.doc
Tài liệu liên quan