Phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế (VIB)

LỜI MỞ ĐẦU Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế. Hoạt động của ngân hàng đang không ngừng phát triển. Sự phát triển của nó có thể được nhận thấy trên tất cả các phương diện, từ sự ra đời của các sản phẩm dịch vụ, cho tới sự xuất hiện của các tập đoàn ngân hàng có quy mô toàn cầu tạo ra làn sóng sáp nhập và hợp nhất. Nền kinh tế nước ta đang trong giai đoạn phát triển mạnh, cùng với việc Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Tổ chức Thươn

doc87 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1219 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế (VIB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g mại Thế giới thì các tổ chức, cá nhân trong nước sẽ cần nhiều vốn hơn nữa để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Cho nên, các ngân hàng có một vị trí rất cần thiết đối với kinh tế trong nước. Các ngân hàng không ngừng mở rộng mạng lưới, chi nhánh khắp các tỉnh và thành phố, tiếp tục cung cấp các sản phẩm dịch vụ tài chính đa dạng cho nhiều ngành nghề và lĩnh vực khác nhau, tích cực huy động các nguồn tiền gửi trong dân cư mở rộng cho vay ngắn, trung và dài hạn. Trong quá trình hoạt động ngân hàng có thể gặp phải nhiều rủi ro khác nhau, song rủi ro tín dụng đang là vấn đề mà các ngân hàng đang rất quan tâm. Hoạt động tín dụng là hoạt động mang lại nhiều lợi nhuận nhất cho các ngân hàng thương mại, tuy nhiên đó cũng là hoạt động có rủi ro cao nhất. Các ngân hàng đã đưa ra nhiều biện pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng để có thể quản lý một cách chặt chẽ các khoản tín dụng sau khi giải ngân và hạn chế đến mức thấp nhất nếu tổn thất xảy ra. Xuất phát từ thực trạng và từ thực tế của Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quốc tế (VIBank) nên em chọn đề tài “Phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Quốc tế” làm đề tài cho luận văn tốt nghiệp của mình. Kết cấu đề tài gồm: Chương I: Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại Chương II: Phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Quốc tế. Chương III: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Quốc tế. Để hoàn thành được luận văn tốt nghiệp, em đã nhận được sự hướng dẫn tận tình của TS. Trần Trọng Nguyên và sự giúp đỡ của các anh chị phòng giám sát tín dụng Hội sở Ngân hàng Quốc tế CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỂ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại 1.1.1.Khái niệm về ngân hàng thương mại Ngân hàng một trong những tổ chức tài chính quan trọng của nền kinh tế. Ngân hàng là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu dùng và hầu hết các cơ quan Chính quyền địa phương. Trên toàn thế giới, ngân hàng là loại hình tổ chức trung gian tài chính cung cấp các khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng với quy mô lớn nhất. Trong mọi thời kỳ, ngân hàng là một trong những thành viên quan trọng nhất trên thị trường tín phiếu và trái phiếu do chính quyền địa phương pháp hành để tài trợ cho các công trình công cộng. Có rất nhiều cách định nghĩa ngân hàng khác nhau, nhưng cách tiếp cận quan trọng nhất là có thể xem xét tổ chức này trên phương diện loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp do vậy ta có định nghĩa sau: “Ngân hàng là loại hình tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán - và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh trong nền kinh tế ”. 1.1.2.Đặc điểm hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại Trong thực tế thuật ngữ tín dụng có nhiều cách hiểu khác nhau, tuỳ theo bối cảnh cụ thể mà thuật ngữ tín dụng có một nội dung riêng. Tuy nhiên, tín dụng có thể hiểu theo một trong số cách sau đây: Trong quan hệ tài chính cụ thể, tín dụng là một giao dịch về tài sản trên cơ sở hoàn trả giữa hai chủ sở hữu. Chẳng hạn một công ty thương mại bán hàng trả chậm cho một công ty khác, trong trường hợp này người bán chuyển giao hàng cho bên mua và sau một thời gian nhất định theo thoả thuận bên mua phải thanh toán tiền cho bên bán. Phổ biến hơn cả là giao dịch giữa ngân hàng và các định chế tài chính cụ thể là ngân hàng cấp tiền vay cho bên đi vay sau một thời gian nhất định bên đi vay phải thanh toán toàn bộ vốn gốc và lãi. Tín dụng còn có nghĩa là tiền cho vay mà các định chế tài chính cung cấp cho khách hàng. Tóm lại dựa trên góc độ chức năng nhiệm vụ, hoạt động của ngân hàng, thì theo quan điểm của ngân hàng tín dụng được hiểu như sau: Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hoá) giữa bên cho vay (ngân hàng và các định chế tài chính khác) và bên đi vay (cá nhân, doanh nghiệp và các chủ thể khác), trong đó bên cho vay chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử dụng trong một thời gian nhất định theo thoả thuận, bên đi vay có trách nhiệm hoàn trả vô điều kiện vốn gốc và lãi cho bên cho vay khi đến hạn thanh toán. Việc cung cấp tín dụng là chức năng cơ bản của các NHTM nhất là trong nền kinh tế thị trường hiện nay mà xu thế hội nhập là tất yếu. Đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng chiếm 1/2 tổng tài sản và thu nhập từ tín nhiệm chiếm khoảng từ 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập. Khi ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Từ đó ta có các đặc điểm về hoạt động tín dụng của NHTM như sau: Tài sản trong quan hệ tín dụng của ngân hàng bao gồm hai hình thức là cho vay (bằng tiền) và cho thuê (bất động sản và động sản). Trong thời gian những năm 1960 trở về trước hoạt động tín dụng cũng chỉ cho vay bằng tiền. Chính vì thế, thuật ngữ tín dụng và cho vay đôi lúc đồng nhất với nhau. Nhưng ngày nay cho vận hành và cho thuê tài chính đã được các ngân hàng và các định chế tài chính khác cung cấp cho khách hàng. Đây là một sản phẩm kinh doanh của ngân hàng, một hình thức tín dụng bằng tài sản thực. Xuất phát từ nguyên tắc hoàn trả, vì vậy người cho vay khi chuyển giao tài sản cho người đi vay sử dụng phải có cơ sở để tin rằng người đi vay sẽ trả đúng hạn. Trên thực tế, một số cán bộ tín dụng trong quá trình xét duyệt tín cho vay đã căn cứ, chú trọng vào tài sản đảm bảo mà không đánh giá dựa trên mức độ tín nhiệm về khách hàng, chính điều này làm cho công tác nâng cao chất lượng tín dụng chưa được thực hiện một cách đầy đủ. Giá trị hoàn trả thông thường lớn hơn giá trị lúc cho vay, hay nói cách khác người đi vay phải trả thêm phần lãi ngoài vốn gốc. Để thực hiện được nguyên tắc này thông thường các ngân hàng thường phải xác định lãi xuất danh nghĩa, tuy nhiên điều này lại phụ thuộc vào điều kiện phát triển kinh tế của mỗi nước cũng như các chính sách tiền tệ của ngân hàng Trung Ương. Nói chung lãi xuất danh nghĩa phải lớn hơn tỷ lệ lạm phát, trong một số trường hợp cụ thể mà lãi suất danh nghĩa có thể thấp hơn lạm phát, ngoại lệ chỉ tồn tại trong thời gian ngắn. Trong quan hệ tín dụng ngân hàng, tiền vay được cấp trên cơ sở hoàn trả vô điều kiện.Về mặt pháp lý, những văn bản xác định quan hệ tín dụng như hợp đồng tín dụng, khế ước… thực chất là lệnh phiếu, trong đó bên đi vay cam kết hoàn trả vô điều kiện cho bên cho vay khi đến thời hạn thanh toán. 1.1.3.Phân loại hoạt động tín dụng của ngân hàng thương mại Căn cứ vào mục đích Dựa vào căn cứ này cho vay thường được chia ra làm các loại sau: Cho vay bất động sản là loại cho vay liên quan đến việc mua sắm và xây dựng bất động sản nhà ở, đất đai, bất động sản trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại dịch vụ. Cho vay công nghiệp và thương mại là loại cho vay ngắn hạn để bổ sung vốn lưu động cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại dịch vụ. Cho vay nông nghiệp là loại cho vay để trang trải các chí phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn gia súc, lao động, nhiên liệu… Cho vay cá nhân là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như mua sắm các vật dụng đắt tiền, ngày nay ngân hàng còn thực hiện các khoản vay để trang trải các chi phí thông thường của đời sống thông qua phát hành thẻ tín dụng. Thuê mua và các loại khác Căn cứ theo thời hạn cho vay Theo căn cứ này được chia ra làm 3 loại như sau: Cho vay ngắn hạn Loại cho vay này có thời hạn dưới 12 tháng và được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. Đối với ngân hàng thương mại tín dụng ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng cao nhất. Cho vay trung hạn Theo quy định hiện nay của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, cho vay trung hạn có thời hạn từ 1 năm đến 3 năm, đối với các nước trên thế giới loại cho vay này có thời hạn đến 7 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ thời gian thu hồi vốn nhanh. Trong nông nghiệp chủ yếu cho vay trung hạn để đầu tư vào các đối tượng sau: máy cày, máy bơm nước, xây dựng các vườn cây công nghiệp như cà phê, điều… Cho vay dài hạn Cho vay dài hạn là loại cho vay có thời hạn trên 3 năm đối với Việt Nam, còn các nước khác trên thế giới có thời hạn là 7 năm. Tín dụng dài hạn là loại tín dụng được cung cấp để đáp ứng các nhu cầu dài hạn như xây dựng nhà ở, các thiết bị, phương tiện vận tải có quy mô lớn, xây dựng các xí nghiệp mới. Ngày nay hầu hết các ngân hàng thương mại chuyển sang kinh doanh tổng hợp và một trong những nội dung đổi mới của ngân hàng là nâng cao tỷ trọng cho vay trung và dài hạn trong tổng số dư nợ của ngân hàng. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm đối với khách hàng Theo căn cứ này cho vay được chia làm 2 loại: Cho vay không đảm bảo là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc sự bảo lãnh của người thứ ba, mà việc cho vay chỉ dựa vào uy tín khách hàng. Đối với những khách hàng trung thực trong kinh doanh, có khả năng tài chính mạnh, quản trị có hiệu quả thì ngân hàng có thể cấp tín dụng dựa vào uy tín của bản thân khách hàng mà không cần một nguồn thu nợ thứ hai bổ sung. Cho vay đảm bảo là loại cho vay được ngân hàng cung ứng, phải có tài sản thế chấp hoặc phải có sự đảm bảo của người thứ ba. Đối với các khách hàng không có uy tín cao đối với ngân hàng, khi vay vốn đòi hỏi phải có tài sản đảm bảo. Sự đảm bảo này là căn cứ pháp lý để ngân hàng có thêm nguồn thu thứ hai, bổ sung cho nguồn thu thứ nhất thiếu chắc chắn. Căn cứ vào hình thái giá trị của tín dụng Theo căn cứ này cho vay được chia làm hai loại: Cho vay bằng tiền là loại cho vay mà hình thái giá trị của tín dụng được cấp bằng tiền. Đây là hình thức cho vay chủ yếu của các ngân hàng và việc thực hiện bằng các kỹ thuật khác nhau. Cho vay bằng tài sản là hình thức cho vay bằng tài sản rất phổ biến và đa dạng, riêng đối với ngân hàng cho vay bằng tài sản đảm bảo áp dụng phổ biến đó là tài trợ thuê mua. Căn cứ vào phương thức hoàn trả Theo căn cứ này cho vay được chia làm hai loại: Cho vay trả góp: là loại cho vay mà khách hàng phải hoàn trả vốn gốc và lãi theo định kỳ. Cho vay phi trả góp là loại cho vay được thanh toán một lần theo kỳ hạn đã thỏa thuận. Căn cứ vào xuất xứ tín dụng Theo căn cứ này cho vay được chia làm hai loại: Cho vay trực tiếp: ngân hàng cấp vốn trực tiếp cho người có nhu cầu, đồng thời người đi vay trực tiếp hoàn trả nợ vay cho ngân hàng. Cho vay gián tiếp: là khoản cho vay được thực hiện thông qua việc mua lại các khế ước hoặc chứng từ nợ đã phát sinh và còn trong thời hạn thanh toán. Các ngân hàng cho vay gián tiếp theo các loại sau: + Chiết khấu thương mại + Mua các phiếu bán hàng tiêu dùng và máy móc nông nghiệp trả góp + Mua các khoản nợ của doanh nghiệp 1.2. Rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại 1.2.1.Khái niệm rủi ro tín dụng ngân hàng Rủi ro tín dụng là khoản lỗ tiềm tàng vốn có được tạo ra khi cấp tín dụng cho một khách hàng. Tức là khả năng khách hàng không trả được nợ theo hợp đồng gắn liền với mỗi khoản tín dụng mà ngân hàng cấp cho họ. Hoặc nói một cách cụ thể hơn, rủi ro tín dụng là luồng thu nhập dự tính mang lại từ các tài sản có sinh lời của ngân hàng có thể không được hoàn trả đầy đủ xét cả về mặt số lượng và thời hạn. Trong điều kiện bình thường, phần lớn các tài sản tài chính do các doanh nghiệp phát hành và được đầu tư bởi chính ngân hàng đều được đảm bảo với mức xác suất cao, lãi thu được thường dưới dạng cố định. Nhưng khi có rủi ro xảy ra, mặc dù xảy ra với xác suất thấp, nhưng mức vốn có thể mất lại không giới hạn. Tuy nhiên nói một cách chính xác ta có thể định nghĩa rủi ro tín dụng như sau: “Rủi ro tín dụng là khả năng xảy ra những tổn thất cho ngân hàng do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi”. 1.2.2. Nguyên nhân và hậu quả của rủi ro tín dụng Những nguyên nhân bất khả kháng Những nguyên nhân bất khả kháng tác động đến người vay, làm họ mất khả năng thanh toán cho ngân hàng. Chẳng hạn như thiên tai, động đất, núi lửa, hoặc những điều thay đổi trong chính sách quản lý của nhà nước ở tầm vĩ mô… đã vượt quá tầm kiểm soát của cả người đi vay lẫn người cho vay. Những thay đổi này thường xuyên xảy ra sẽ có thể tạo thuận lợi hoặc ảnh hưởng trực tiếp hoặc gián tiếp tới người đi vay. Cũng có thể nhiều người có khả năng phân tích và dự đoán được những điều diễn ra trong tương lai, đã có những biện pháp kịp thời để giải quyết mọi khó khăn và tận dụng mọi thời cơ. Hoặc trong những trường hợp khác mặc dù gặp khó khăn gây ra tổn thất, song người đi vay vẫn có khả năng thanh toán đủ, đúng hạn cả gốc và lãi cho ngân hàng. Tuy nhiên, khi những nguyên nhân bất khả kháng xảy ra gây tổn thất thì tác động của chúng có thể rất nặng nề đối với người đi vay, khả năng trả nợ bị suy giảm, dẫn đến các ngân hàng cũng có khả năng gặp bất trắc vì không thu hồi được gốc đúng hạn cho nên khó khăn cho các ngân hàng trong việc huy động vốn cũng như trả nợ cho khách hàng khi đến hạn. Những nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh tế, kém nhanh nhạy để kịp thời phản ứng trước những thay đổi thị trường trong xu thế hội nhập kinh tế, yếu kém trong khâu quản lý, chủ ý lừa đảo cán bộ ngân hàng, chây ì, là nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng. Rất nhiều người vay họ bất chấp mọi mạo hiểm trong đầu tư, với kì vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn để ứng phó với ngân hàng như cung cấp thông tin sai mua chuộc cán bộ ngân hàng, để có thể vay được những khoản tín dụng lớn. Nhiều người vay đã không tính toán kĩ lưỡng hoặc không có khả năng tính toán kĩ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục những khó khăn trong kinh doanh. Trong trường hợp còn lại, người vay kinh doanh có lãi song vẫn không trả nợ cho ngân hàng đúng hạn. Họ chây ì với hi vọng có thể quỵt nợ hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. Nguyên nhân thuộc về ngân hàng Nhiều cán bộ trong ngân hàng không đủ trình độ đánh giá khách hàng, khả năng đánh giá khách hàng không tốt, hoặc cố tình làm sai… điều này dẫn đến chất lượng cán bộ của các ngân hàng nhìn chung còn yếu kém. Đó là một trong những nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Trên thực tế, khách hàng có thể hoạt động kinh doanh rất nhiều ngành nghề, thuộc các lĩnh vực khác nhau, ở các vùng khác nhau, các quốc gia khác nhau. Chính điều này đòi hỏi các cán bộ ngân hàng phải có trình độ chuyên môn cao, thật am hiểu về lĩnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường làm việc của khách hàng. Họ phải có khả năng dự đoán và phân tích những vấn đề này. Tóm lại cán bộ ngân hàng cần phải được đào tạo và đào tạo kỹ lưỡng về mọi mặt. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng không đủ trình độ để hiểu biết kỹ lưỡng thì rủi ro tín dụng luôn rình rập họ. Nhiều nhân viên ngân hàng sống trong môi trường tiền bạc đã không tránh khỏi những cám dỗ của đồng tiền. Họ tiếp tay cho khách hàng rút ruột ngân hàng. Khi điều đó xảy ra sẽ gây tổn thất lớn đối với ngân hàng, đánh mất niềm tin của khách hàng gửi tiền vào ngân hàng. Từ đó chỉ cần một tin xấu khiến cho khách hàng có thể ồ ạt đến rút tiền tại ngân hàng dẫn đến ngân hàng có thể có nguy cơ bị sụp đổ. Do vậy, trình độ và đạo đức không đảm bảo là nguyên nhân của rủi ro tín dụng. 1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá rủi ro tín dụng của ngân hàng thương mại Mặc dù rủi ro tín dụng là khách quan, song ngân hàng phải quản lý rủi ro tín dụng nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ đó ngân hàng đưa ra các chỉ tiêu cụ thể hoá như sau: 1.2.3.1.Nợ quá hạn Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ: Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả thuận trên hợp đồng tín dụng. Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ: Nợ khó đòi là khoản nợ quá hạn đã quá một kỳ gia hạn nợ. Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các độ rủi ro khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn mới chi trả tiền gửi cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho ngân hàng: Hi vọng thu lại tiền vay trở lên mong manh, ngân hàng cần có biện pháp hữu hiệu để giải quyết. Trên thực tế có nhiều quan điểm khác nhau và các cách tính toán khác nhau về kỳ hạn nợ và nợ quá hạn có thể làm cho các chỉ tiêu này biến dạng. Thứ nhất, do định kì hạn nợ không đúng: Nhiều cán bộ ngân hàng khi cho vay không quan tâm thích đáng đến chu kỳ hoạt động sản xuất kinh doanh của người vay, hoặc do nguồn vốn ngắn hạn là nguồn tài trợ chủ yếu, họ đặt kỳ hạn ngắn để hạn chế rủi ro. Kì hạn nợ không phù hợp với chu kỳ thu nhập của người vay. Đến kì hạn nợ người cho vay không trả được nợ, ngân hàng chuyển sang thành nợ quá hạn. Khoản nợ này trở thành mối đe dọa đối với chính người cho vay và nó cũng gây khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Người cho vay buộc phải trả thêm phụ phí để được gia hạn nợ, hoặc phải chịu lãi suất chịu phạt. Thứ hai, do đảo nợ, hoặc giãn nợ. Nhiều khoản nợ người vay không có khả năng hoàn trả có thể đảo nợ làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Do vậy để tránh sự kiểm soát của ngân hàng cấp trên hoặc không phải chịu lãi suất chịu phạt do không trả nợ đúng hạn nên họ thường thoả thuận với nhân viên ngân hàng vay khoản mới để trả khoản nợ cũ hoặc họ vay của các cá nhân hay tổ chức khác. Tuy nhiên, ngân hàng cũng có thể thực hiện giãn nợ đối với những khoản vay mà chắc chắn người vay có thể trả được. Chính vì lý do đó mà làm cho chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi không phản ánh đúng rủi ro tín dụng. Thứ ba, do chính sách cho vay: Có rất nhiều những khoản vay không thể thu hồi được bằng phát mại tài sản bởi các nguyên nhân như: Doanh nghiệp mà tài sản thuộc sở hữu nhà nước, người nghèo, tài sản không rõ ràng,…Với những khoản vay này thì phần lớn chúng đều được cho vay theo chỉ thị của Chính phủ, tuy nhiên, Chính phủ vẫn chưa cách giải quyết chính đáng cũng như các biện pháp để xử lý. Đến nay, những khoản nợ này vẫn còn tồn tại trên bảng cân đối kế toán của ngân hàng, trở thành tài sản ảo. Việc xử lý những khoản nợ này rất phức tạp. Nhiều ngân hàng loại chúng ra khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi, xếp vào nợ khoanh. Tuy nhiên, chúng thực sự đe doạ thu nhập của ngân hàng nếu Chính phủ không tìm được nguồn bù đắp. 1.2.3.2.Các chỉ tiêu khác Bên cạnh các chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi, thì các nhà quản lý ngân hàng cũng sử dụng các hình thức đo rủi ro tín dụng khác, gắn liền với chiến lược đa dạng hoá tài sản, lập hồ sơ khách hàng, trích quỹ dự phòng… Đặc điểm của khách hàng Thông qua phân tích tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả dự án… từ đó ngân hàng lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại cho điểm. Chẳng hạn khách hàng loại A rủi ro tín dụng thấp, khách hàng loại C rủi ro tín dụng cao. Các chỉ tiêu này được xây dựng dựa trên các dấu hiệu rủi ro mà ngân hàng xây dựng. Các khoản cho vay có vấn đề Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn, tuy nhiên trong thời gian theo dõi, nhân viên ngân hàng nhận thấy nhiều khoản vay có dấu hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ chuyển thành nợ quá hạn. Khoản vay có vấn đề được xây dựng dựa trên quy định của ngân hàng. Tính kém đa dạng của tín dụng Đa dạng hoá là biện pháp hạn chế rủi ro. Nếu chỉ tập trung vào tài trợ cho một khách hàng, của một ngành hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn nếu ngân hàng đa dạng hoá. Mất ổn định vĩ mô Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao, tình hình chính trị bất ổn định, thiên tai… tạo nên mất ổn định vĩ mô ảnh hưởng đến người vay. Do vậy, mất ổn định vĩ mô được ngân hàng coi là một nội dung phản ánh rủi ro tín dụng. 1.3.Các đảm bảo tín dụng 1.3.1.Đảm bảo cá nhân Đảm bảo cá nhân là loại đảm bảo bằng bảo lãnh của người thứ ba: Người thứ ba thực hiện các nghĩa vụ về tài chính đối với ngân hàng thay cho khách hàng khi khách hàng không thực hiện được. Đối với người bảo lãnh có uy tín ngân hàng chấp nhận bảo lãnh không cần tài sản đảm bảo ví dụ như: nhà nước, các tổ chức tài chính lớn, các công ty lớn. Tuy nhiên, trong một số trường hợp ngân hàng người bảo lãnh chưa có uy tín, ngân hàng đòi phải có tài sản đảm bảo. Các nhân tố ảnh hưởng gồm có: Uy tín của người bảo lãnh Tài sản đảm bảo của người bảo lãnh 1.3.2. Đảm bảo thực tế 1.3.2.1.Quyền cầm giữ tài sản Cầm giữ tài sản của ngân hàng là hình thức theo đó người nhận tài trợ của ngân hàng phải chuyển quyền kiểm soát tài sản đảm bảo sang cho ngân hàng trong thời gian cam kết. Cầm giữ tài sản chỉ thích hợp với những tài sản ngân hàng có thể kiểm soát và bảo quản tương đối chắc chắn, đồng thời việc nắm giữ không ảnh hưởng đến quá trình hoạt động của người nhận tài trợ, ví dụ các chứng khoán, các hợp đồng, sổ tiết kiệm, ngoại tệ mạnh, kim loại quý. Các tài sản này gọn nhẹ, dễ quản lý không chịu ảnh hưởng của các yếu tố môi trường tự nhiên. Ngân hàng cầm cố khi xét thấy việc khách hàng nắm giữ tài sản đảm bảo là không an toàn cho ngân hàng. Thường đó là các tài sản mà khách hàng dễ bán, dễ chuyển nhượng. Khi tài trợ dựa trên đảm bảo bằng cầm cố, ngân hàng kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ, an toàn của vật cầm cố như quyền sở hữu của khách hàng, khả chi trả của người cam kết đối với vật cầm cố, giá trị thị trường khi phát mại. Ngân hàng cùng với khách hàng định giá vật cầm cố, kí hợp đồng cầm cố, qui định quyền và nghĩa vụ đối với các đảm bảo cầm cố. 1.3.2.2. Thế chấp tài sản Là hình thức theo đó người nhận tài trợ phải chuyển các giấy tờ chứng nhận sở hữu (hoặc sử dụng) các tài sản đảm bảo sang ngân hàng nắm giữ trong thời gian cam kết. Nhiều tài sản của khách hàng trở thành đảm bảo cho các khoản tài trợ của ngân hàng song vẫn tham gia vào quá trình hoạt động. Những tài sản này không thể cầm cố. Như máy móc, trang thiết bị, nhà đất đang trong quá trình sử dụng, hàng đang trong quá trình luân chuyển. Vì vậy đảm bảo bằng thế chấp rất phổ biến đặc biệt là đối với doanh nghiệp và người tiêu dùng. Do giá trị tài sản đảm bảo thường lớn, cho nên doanh nghiệp thường có thể vay ngân hàng với quy mô lớn. Khi tài trợ dựa trên tài sản đảm bảo ngân hàng cần phải xem xét kĩ tài sản thế chấp. Do vậy, ngân hàng cần có các chuyên gia có chuyên môn đánh giá tài sản đảm bảo. Nếu đánh giá quá cao, qui mô tài trợ quá lớn sẽ gây rủi ro cho ngân hàng, còn nếu đánh giá quá thấp sẽ ảnh hưởng đến khả năng vay của khách hàng. CHƯƠNG II: PHÂN TÍCH VÀ ĐÁNH GIÁ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NGÂN HÀNG QUỐC TẾ 2.1. Khái quát chung về Ngân hàng Quốc tế 2.1.1. Lịch sử hình thành và phát triển Ngân hàng thương mại cổ phần Quốc Tế Việt Nam (tên gọi tắt là Ngân hàng Quốc tế - VIBank) được thành lập theo Quyết định số 22/QĐ/NH5 ngày 25/01/1996 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Cổ đông sáng lập Ngân hàng Quốc tế bao gồm Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam, các cá nhân và doanh nhân thành đạt tại Việt Nam và trên trường quốc tế. Từ khi bắt đầu hoạt động ngày 18/09/1996, Ngân hàng Quốc tế đang phát triển thành một trong những tổ chức tài chính dẫn đầu thị trường Việt Nam. Là một ngân hàng đa năng, Ngân hàng Quốc tế, với nền tảng công nghệ hiện đại, tiếp tục cung cấp một loạt các dịch vụ tài chính đa dạng, trọn gói cho khách hàng với nòng cốt là những doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động lành mạnh và những cá nhân, gia đình có thu nhập ổn định tại các vùng kinh tế trọng điểm trên khắp cả nước. Sau 10 năm hoạt động, đến ngày 31 tháng 12 năm 2006, vốn điều lệ của Ngân hàng Quốc tế là 1.000 tỷ đồng, gấp gần hai lần so với cuối năm 2005. Ngân hàng Quốc tế luôn chú trọng xây dựng niềm tin và coi đó là yếu tố quyết định cho sự thành công của Ngân hàng. Niềm tin ngày càng được nâng cao, thương hiệu VIBank từng bước khẳng định được vị thế mới. Danh hiệu “Thương hiệu mạnh Việt Nam” lần thứ hai liên tiếp Ngân hàng Quốc tế vinh dự nhận được là một minh chứng cho điều đó. Ngân hàng Quốc tế được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam xếp loại A theo tiêu chí đánh giá hệ thống Ngân hàng Việt Nam do Thống đốc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam ban hành trong nhiều năm liên tiếp và lần thứ hai được tập đoàn Citigroup trao tặng Danh hiệu “Ngân hàng hoạt động thanh toán xuất sắc”. Cuối năm 2006, ngoài Hội sở tại Hà Nội, Ngân hàng Quốc tế có 60 Chi nhánh, Phòng Giao dịch tại 9 tỉnh, thành phố Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Quảng Ninh, Đà Nẵng, Nha Trang, Đồng Nai, Bình Dương và Cần Thơ, Hải Dương, Vĩnh Phúc, An Giang, Vũng Tàu, Nghệ An. Trong năm qua, Các chi nhánh và Phòng Giao dịch của Ngân hàng Quốc tế đã duy trì tốt các chương trình hoạt động tại các địa bàn để kết hợp với hoạt động quảng bá thương hiệu, sử dụng tốt công cụ lãi suất, tạo hiệu quả huy động vốn dân cư tăng trưởng cao. Trong năm 2005, Ngân hàng Quốc tế bắt đầu triển khai Hệ thống ngân hàng đa năng SYMBOLS do System Access cung cấp – đây là giải pháp ngân hàng đa năng trọn gói cung cấp các chức năng cho các hệ thống nghiệp vụ Ngân hàng bán lẻ, Ngân hàng bán buôn, Ngân hàng Internet và hệ thống quản lý khách hàng. Hơn nữa hệ thống này có thể đáp ứng cho mọi quy mô của Ngân hàng từ ngân hàng có 7 chi nhánh đến ngân hàng có tới 1.200 chi nhánh. Năm 2005 cũng là thời điểm đề án tập trung hoá dữ liệu và giao dịch trực tuyến của Ngân hàng Quốc tế phát huy mạnh mẽ. Tính an toàn dữ liệu và khả năng đối chiếu các giao dịch đã tăng đáng kể. Cũng trong năm 2005, Ngân hàng Quốc tế chính thức ký hợp đồng mua hệ thống chuyển mạch tài chính và quản lý thẻ từ công ty Card Tech Limited (CTL). Với phương châm kinh doanh “Luôn gia tăng giá trị cho bạn”, cam kết của Ngân hàng Quốc tế trong năm 2006 và những năm tiếp theo là không ngừng gia tăng giá trị của khách hàng, của đối tác, của cán bộ nhân viên ngân hàng và của các cổ đông. 2.1.2. Tổ chức quản lý hệ thống của VIBank 2.1.2.1. Ban Kiểm soát Ban Kiểm soát thực hiện kiểm tra thường xuyên hoạt động tài chính, giám sát chấp hành chế độ hạch toán, hoạt động của hệ thống kiểm tra và kiểm toán nội bộ của VIBank. Ban Kiểm soát thẩm định báo cáo tài chính hàng năm, kiểm tra từng vấn đề cụ thể liên quan đến hoạt động tài chính khi xét thấy cần thiết hoặc quyết định của Đại hội Cổ đông hoặc theo yêu cầu của các cổ đông lớn. Ban Kiểm soát báo cáo Đại hội Cổ đông về tính chính xác, trung thực và hợp pháp của các chứng từ, sổ sách kế toán, báo cáo tài chính và hoạt động của hệ thống kiểm soát nội bộ. Ban Kiểm soát định kỳ ít nhất một lần và có thể được triệu tập họp bất thường để kịp thời giải quyết những công việc đột xuất. Ban Kiểm soát đã phối hợp tốt với Ban Điều hành để phát hiện, cảnh báo rủi ro, sai sót trong các hoạt động ngân hàng. Trong năm 2006, VIBank đạt tốc độ tăng trưởng cao và hoạt động kinh doanh vẫn được kiểm soát rất chặt chẽ. 2.1.2.2.Uỷ ban quản lý tài sản Nợ - Có Uỷ ban ALCO quản lý bảng cân đối kế toán của ngân hàng phù hợp với chính sách phát triển của Ngân hàng Quốc tế, quản lý rủi ro thanh khoản và rủi ro thị trường gắn liền với các hoạt động của VIBank, tối đa hoá thu nhập của bảng cân đối kế toán, gia tăng giá trị doanh nghiệp cho các cổ đông, đảm bảo sự tuân thủ các chính sách pháp luật về tỷ lệ an toàn trong hoạt động của tổ chức tín dụng. Trong năm 2006, uỷ ban ALCO đã thông qua nhiều chính sách góp phần đa dạng hoá cơ cấu nguồn vốn và tăng tính ổn định của nguồn vốn phục vụ yêu cầu kinh doanh của VIBank, đa dạng hoá sản phẩm, đa dạng hoá cơ cấu thu nhập và phân tán rủi ro. Chính sách lãi suất đã đảm bảo mức giá hợp lý cho khách hàng và tối đa hoá nguồn thu nhập của VIBank. Uỷ ban ALCO họp theo định kỳ hàng tháng và họp bất thường khi mà thị trường có biến động có thể mang lại cơ hội kinh doanh tốt hoặc ảnh hưởng xấu tới hoạt động ngân hàng. 2.1.2.3.Uỷ ban Tín dụng Uỷ ban Tín dụng phê duyệt định hướng và cơ cấu dư nợ của toàn hệ thống Ngân hàng Quốc tế theo mặt hàng, lĩnh vực, ngành nghề, địa bàn kinh doanh, quyết định chính sách tín dụng gồm có chính sách khách hàng dựa trên nguyên tắc về rủi ro, tăng trưởng và lợi nhuận cho VIBank, thông qua các chính sách về lãi vay, thông qua chính sách về lãi suất cho vay và các loại phí, quyết định các chính sách dự phòng rủi ro tín dụng và phê duyệt các khoản đầu tư tín dụng. 2.1.2.4. Ban điều hành Bộ máy hoạt động của VIBank chia làm 6 khối chức năng: Khối Chức năng Hội sở Khối Quản lý Tín dụng Khối Khách hàng Doanh nghiệp Khối Khách hàng Cá nhân Khối Nguồn vốn và Ngoại tệ Khối Chi nhánh và Dịch vụ Đứng đầu mỗi khối là Tổng Giám đốc hoặc một Phó Tổng Giám đốc. Các khối chức năng được phân theo định hướng khách hàng và thực hiện những nhiệm vụ chuyên môn riêng trong mục tiêu chung của Ngân hàng Quốc tế. Sự phân công này cho phép các khối nghiệp vụ chuyên môn hoá hoạt động của mình đảm bảo phát huy tối đa những kiến thức, kỹ năng và kinh nghiệm của đội ngũ nhân viên trong việc phục vụ khách hàng. Việc bố trí nhân sự trong từng khối được thực hiện trên cơ sở nguyện vọng và sự ưa thích công việc. 2.1.3. Tình hình hoạt động của VIBank 2.1.3.1. Hoạt động nguồn vốn Năm 2005, hoạt động huy động vốn của Ngân hàng Quốc tế đạt mức tăng trưởng kỷ lục. Tổng nguồn vốn tính đến 31/12/2005 đạt 8.967 tỷ đồng, tăng 117% so với năm trước và vượt 49,6% so với kế hoạch năm. Cơ cấu nguồn vốn được điều tiết một cách hợp tương thích với tỷ trọng của cơ cấu đầu tư tín dụng và đảm bảo an toàn cho hoạt động ngân hàng. Hoạt động kinh doanh nguồn vốn phát triển tốt, hiệu quả, đảm bảo khả năng thanh khoản và đủ vốn, ngoại tệ phục vụ khách hàng. Ngân hàng Quốc tế đã chủ động trong việc điều chỉnh cơ cấu nguồn vốn nhằm mang lại lợi ích tối đa cho các cổ đông nhưng vẫn đảm nguôn vốn khi mở rộng cho vay trung và dài hạn và nhu cầu rút tiền gửi không kỳ hạn. Vốn chủ sở hữu đạt 529.789 tỷ đồng, tăng 104,7% so với cuối năm 2004. Vốn điều lệ tăng lên 510 tỷ đồng vào năm 2005 và đến cuối năm 2006 tăng lên 1000 tỷ đồng khôn._.g những tạo thêm nguồn vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh của Ngân hàng Quốc tế, đặc biệt là nguồn vốn trung và dài hạn và đảm bảo tỷ lệ an toàn vốn khi mở rộng kinh doanh, mà còn tạo điều kiện để đầu tư cơ sở vật chất và công nghệ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Ngân hàng Quốc tế. Vốn huy động từ các tổ chức tài chính tại thời điểm 31/12/2005 đạt 2.852,872 tỷ bằng 176,6% so với đầu năm và chiếm 31,7% tổng nguồn vốn. Vốn huy động từ các tổ chức kinh tế và dân cư đạt 5.268,617 tỷ đồng, bằng 163% so với đầu năm và chiếm 58% tổng nguồn vốn. Đây là một kết quả rất đáng khích lệ trong điều kiện Ngân hàng Quốc tế phải đối mặt với sự cạnh tranh ngày càng tăng từ các ngân hàng thương mại khác. Kết quả đáng khích lệ trên có được là nhờ Ngân hàng Quốc tế đã thực hiện chính sách lãi suất linh hoạt, mở rộng mạng lưới hoạt động đến gần khách hàng hơn và tung ra nhiều sản phẩm huy động có sức thu hút ra thị trường. 2.1.3.2. Hoạt động tín dụng Trên cơ sở mạng lưới hoạt động được mở rộng, cơ sở khách hàng tăng mạnh và tốc độ huy động vốn rất tốt nên hoạt động tín dụng tiếp tục tăng trưởng trong năm 2005. Dư nợ tín dụng đến thời điểm 31/12/2005 đạt 5.255 tỷ đồng tăng 236% so với đầu năm và vượt 24,3% so với kế hoạch trong năm.Trong đó, tín dụng ngắn hạn đạt 3.570,7 tỷ đồng, chiếm 67,9% tổng dư nợ và tín dụng trung và dài hạn đạt 1.707,9 tỷ đồng, chiếm 32,1% tổng dư nợ. Ngân hàng Quốc tế nhìn nhận các doanh nghiệp vừa và nhỏ hoạt động trên nhiều lĩnh vực phát triển, chiếm số lượng lớn nhất và giàu tiềm năng nhất trong cộng đồng doanh nghiệp nhưng hiện nay phần lớn đều gặp khó khăn về nguồn vốn tín dụng. Chính sách của Ngân hàng Quốc tế đã giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ tiếp cận được nguồn vốn với chi phí hợp lý để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, tăng năng suất lao động, tăng năng lực cạnh tranh. Ngoài ra trong năm 2005, Ngân hàng Quốc tế tiếp tục đẩy mạnh cho vay tài trợ hoạt động xuất nhập khẩu hàng như cho vay để doanh nghiệp sản xuất, thu mua hàng hoá xuất khẩu, cho vay chiết khấu toàn bộ chứng từ hàng xuất khẩu. Dư nợ tín dụng doanh nghiệp tại thời điểm 31/12/2005 là 3.904 tỷ, tăng 152% so với đầu năm và vượt 29,7% so với kế hoạch năm. Năm 2005, Ngân hàng Quốc tế tập trung đẩy mạnh cho vay tiêu dùng cá nhân bằng việc tung ra và đổi mới một loạt các sản phẩm tín dụng cá nhân bám sát nhu cầu của khách hàng như cho vay mua, sửa chữa nhà đất, căn hộ chung cư, cho vay mua ô tô, cho vay du học, cho vay mua sắm vật dụng gia đình. Dư nợ tín dụng cá nhân tại thời điểm 31/12/2005 là 1.351 tỷ, tăng 106% so với đầu năm. Chất lượng tín dụng luôn được kiểm soát tốt do hoạt động được tổ chức chặt chẽ, tuân thủ các quy định của pháp luật và các quy định, quy trình nghiệp vụ của Ngân hàng Quốc tế. Tỷ lệ nợ quá hạn tính đến thời điểm cuối năm chỉ chiếm 0,87% tổng dư nợ, giảm so với mức 1,11% của năm 2004. 2.1.3.3. Hoạt động dịch vụ Trong năm 2005, song song với việc gia tăng các hoạt động huy động vốn và tín dụng, hoạt động dịch vụ đã được quan tâm đặc biệt và được quán triệt từ Hội sở chính đến từng đơn vị trong hệ thống Ngân hàng Quốc tế cả về chất lượng. Tổng thu dịch vụ tăng 11,89% và tổng thu thuần dịch vụ tăng gấp 4 lần so với năm 2004. Năm 2005, hoạt động thanh toán được tăng cường theo cả chiều rộng lẫn chiều sâu qua việc bổ sung nhân sự cho Phòng tài trợ Thương mại tại Hội sở, cho các chi nhánh và mở các chi nhánh có khả năng thu hút khách hàng xuất khẩu. Trong năm 2005, Ngân hàng Quốc tế đã mở 1.467 L/C nhập khẩu, đạt tổng giá trị 162 triệu USD, tăng 209% về mặt số lượng và 219% về mặt giá trị so với năm 2004. Số lượng L/C xuất khẩu được thông báo cũng tăng 278% so với năm 2004. Chất lượng L/C nhập khẩu được đảm bảo tốt, các khoản tiền thanh toán đều được thực hiện đúng hạn cho các ngân hàng nước ngoài. Doanh số nhờ thu nhập khẩu và xuất khẩu cũng tăng lần lượt là 159% và 89% về mặt số lượng, 172% và 152% về mặt giá trị so với năm 2004. Doanh thu dịch vụ thanh toán toàn bộ hệ thống tăng tới 218,5% so với năm 2004. Các đơn vị đóng góp nhiều nhất vào kết quả chung của hoạt động tài trợ thương mại trong năm qua là Hội sở, Chi nhánh VIBank Hồ Chí Minh, Chi nhánh VIBank Hải Phòng, Chi nhánh VIBank Hà Nội và Chi nhánh VIBank Ba Đình. Các chi nhánh mới thành lập cũng đã có bước phát triển nhất định. Dịch vụ chuyển tiền kiều hối đã phát triển. Trong năm 2005, Ngân hàng Quốc tế hợp tác với nhiều công ty chuyển tiền quốc tế như Travelex, RIA, Anelik, Xoom để cung cấp dịch vụ chuyển tiền quốc tế phục vụ những khách hàng là Việt kiều và những người đi hợp tác lao động nước ngoài. Dịch vụ phát hành và thanh toán thẻ cũng bắt đầu đẩy mạnh qua Ngân hàng Quốc tế hợp tác với Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam phát hành thẻ tín dụng quốc tế MasterCard Cội nguồn và chấp nhận thanh toán các loại thẻ MasterCard, Visa, Diner Club,… Hoạt động phát hành thẻ ghi nợ nội địa Values cũng được đẩy mạnh qua việc phát triển một đội ngũ đông đảo, xây dựng một mạng lưới chấp nhận thẻ rộng khắp và một hệ thống ngành hàng ưu đãi cho chủ thể phong phú. Các giá trị mang lại giá trị gia tăng cho khách hàng cũng được đầu tư phát triển. Trên nền tảng công nghệ hiện đại, Ngân hàng Quốc tế bắt đầu đưa ra những tiện ích tạo thuân lợi cho khách hàng khi giao dịch vơi ngân hàng như Mobile Banking và Internet Banking. 2.2 Phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay tại Ngân hàng Quốc tế 2.2.1 Các mô hình sử dụng trong phân tích 2.2.1.1. Mô hình định tính a. Phân tích tín dụng Người cho vay có thể được tín nhiệm không? Câu hỏi này để trả lời đòi hỏi phải xem xét 6 khía cạnh của người xin vay cụ thể như sau: Tư cách của người vay: Cán bộ tín dụng phải chắc chắn người xin vay có mục đích tín dụng rõ ràng và có thiện chí trả nợ khi đến hạn. Khi mục đích xin vay là rõ ràng thì cán bộ tín dụng vẫn cần phải xem xét điều này có phù hợp với chính sách tín dụng hiện hành của ngân hàng không? Mặc dù mục đích xin vay của khách hàng là tốt, thì cán bộ tín dụng cũng phải xem xét người xin vay có sử dụng vốn vay đúng không? Rồi thiện chí và nỗ lực của người xin vay trong việc hoàn trả gốc và lãi khi đến hạn. Nếu thấy người vay giả dối trong kế hoạch sử dụng nợ và trả nợ, thì cán bộ tín dụng từ chối cho vay để tránh rủi ro tín dụng xảy ra sẽ gây tổn thất cho ngân hàng. Năng lực của người vay: Cán bộ tín dụng cần phải biết chắc chắn người xin vay phải có đủ năng lực hành vi và năng lực pháp lý đối với hợp đồng tín dụng. Đồng thời cán bộ tín dụng cần phải biết chắc chắn rằng người đại diện cho công ty ký hợp đồng phải là người được ủy quyền hợp pháp của công ty. Một hợp đồng tín dụng mà được ký kết bởi người không được ủy quyền có thể không thu hồi được nợ, tiềm ẩn rủi ro cho ngân hàng. Thu nhập của người cho vay: Tiêu chí thu nhập người vay tập trung vào câu hỏi: Người cho vay có khả năng tạo ra đủ tiền để trả nợ? Nhìn chung, người vay có ba khả năng để tạo tiền, đó là: luồng tiền từ doanh thu bán hàng, bán thanh lý tài sản, tiền từ phát hành chứng khoán nợ hay chứng khoán vốn. Bất cứ nguồn thu nào từ ba khả năng này đều có thể sử dụng để trả nợ cho ngân hàng. Tuy nhiên, nguồn thu thứ nhất được ngân hàng ưu tiên nhất và coi đây là nguồn thu đầu tiên, là căn bản để trả nợ cho ngân hàng. Cán bộ tín dụng cần đánh giá luồng tiền của khách hàng cụ thể: Khách hàng có mức tăng trưởng của thu nhập phải ổn định trong quá khứ và phải duy trì chắc chắn trong tương lai. Bảo đảm tiền vay: Cán bộ tín dụng cần tìm hiểu để biết người vay có sở hữu một tài sản nào có giá trị, có chất lượng cao để hỗ trợ cho khoản vay. Tuy nhiên, cán bộ tín dụng cần phải chú ý tới các yếu tố khác như: tuổi thọ, điều kiện, mức độ chuyên dụng của tài sản người vay đặc biệt chú ý đến khía cạnh công nghệ. Cán bộ tín dụng và nhà phân tích tín dụng cần phải biết được xu hướng hiện hành về công việc kinh doanh và ngành nghề của người vay, cũng như điều kiện kinh tế xã hội có ảnh hưởng như thế nào đến khoản tín dụng. Để làm được điều này đòi hỏi ngân hàng cần phải duy trì các phai dữ liệu thông tin liên quan đến khách hàng như mẫu báo cáo có liên quan, các bài tạp chí, các báo cáo nghiên cứu. Kiểm soát: Nói chung cần tập trung vào các vấn đề như những thay đổi trong pháp luật và quy chế có ảnh hưởng xấu đến người vay và yêu cầu tín dụng của người vay có đáp ứng được tiêu chuẩn của ngân hàng về quản lý chất lượng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải được kí kết đúng đắn và hợp lệ Cán bộ tín dụng phải có trách nhiệm và làm thoả mãn yêu cầu đồng thời của hai đối tượng là người vay và chủ nợ của ngân hàng. Điều này đòi hỏi hợp đồng tín dụng phải đáp ứng được nhu cầu vốn của người vay theo một kế hoạch trả nợ thuận lợi. Đồng thời cán bộ tín dụng phải có khả năng cố vấn tài chính cho khách hàng, đồng thời hướng dẫn khách hàng hoàn thành đơn xin vay. Một hợp đồng tín dụng hợp lệ phải bảo vệ được quyền lợi của ngân hàng bằng cách quy định những điều khoản giới hạn hoạt động của người vay, nếu các hoạt động này đe dọa khả năng thu hồi vốn của ngân hàng. Ngân hàng có thể đòi nợ thuận lợi bằng tài sản đảm bảo Trong khi những công ty lớn và khách hàng có hệ số tín nhiệm cao không cần có đảm bảo tín dụng. Những khách hàng còn lại thường được yêu cầu phải có biện pháp bảo đảm tín dụng như cầm cố, thế chấp tài sản hay bảo lãnh trả nợ của người thứ ba. Khi nhận đảm bảo tín dụng, ngân hàng phải xác định rõ ràng và chính xác những tài sản nào là đối tượng có thể gán nợ và có thể bán được, đồng thời phải chứng minh được văn bản cho các chủ nợ khác biết rằng mình là người hợp pháp có quyền chiếm đoạt tài sản khi người vay không trả được nợ. Các loại đảm bảo tín dụng thông thường: Tài khoản phải thu: Ngân hàng nhận đảm bảo tín dụng bằng quy định tỷ lệ % giá trị của tài khoản phải thu (bán hàng chịu, hay tín dụng thương mại) theo số liệu trên bảng cân đối tài chính. Khi khách hàng của người vay thanh toán tiền hàng mua chịu, thì số tiền này được dùng để trả nợ cho ngân hàng. Bao thanh toán: Ngân hàng có thể mua tài khoản phải thu của người vay theo tỷ lệ % nhất định theo giá trị ghi sổ. Tỷ lệ này phụ thuộc chất lượng và thời hạn của khoản phải thu. Bởi vì ngân hàng đã mua các khoản phải thu (chuyển giao quyền sở hữu), nên ngân hàng sẽ thông báo cho khách hàng của người vay là khoản tiền thanh toán mua hàng chịu sẽ trả trực tiếp cho ngân hàng. Hàng tồn kho: Ngân hàng cũng có thể nhận hàng tồn kho, nguyên liệu của người vay làm tài sản cầm cố. Khoản đảm bảo tín dụng này, thông thường ngân hàng chỉ cho vay một tỷ lệ % nhất định trên giá trị thị trường hiện hành của tài sản cầm cố, nhằm phòng ngừa hàng hoá giảm giá. Tài sản cầm cố có thể do người vay sở hữu hoàn toàn, nhưng giấy tờ sở hữu phải do ngân hàng nắm giữ. Thế chấp tài sản cố định: Các ngân hàng cũng có thể chấp nhận bảo đảm tín dụng bằng tài sản cố định như đất đai, công trình gắn liền với đất đai… Bảo lãnh của bên thứ ba: Khi người vay không có đảm bảo tín dụng thì phải có một bên thứ ba đứng ra bảo lãnh. Nghĩa là bên thứ ba cam kết với bên cho vay là sẽ thực hiện nghĩa vụ trả nợ thay cho người vay, nếu người vay không trả được nợ khi đến hạn. b. Kiểm tra tín dụng Các điều kiện cấp tín dụng thường thay đổi theo thời gian, có ảnh hưởng đến điều kiện tài chính của người vay và khả năng hoàn trả nợ của khách hàng. Rồi những biến động trong nền kinh tế làm suy yếu một số công ty và làm tăng tín dụng một số công ty khác. Do vậy cán bộ tín dụng phải nhạy cảm với những diễn biến như vậy và định kỳ kiểm tra tất cả các khoản tín dụng cho đến khi chúng đến hạn. Những nguyên lý chung đang được áp dụng tại hầu hết các ngân hàng bao gồm: Tiến hành kiểm tra định kỳ tất cả các loại tín dụng theo định kỳ nhất định, ví dụ định kỳ 30, 60, hay 90 ngày đối với khoản tín dụng nhỏ và vừa; còn đối với những khoản tín dụng lớn hơn phải thường xuyên hơn. Xây dựng kế hoạch, chương trình, nội dung quá trình kiểm tra một cách thận trọng và chi tiết, bảo đảm rằng những khía cạnh quan trọng nhất của mỗi khoản tín dụng phải được kiểm tra bao gồm: xem xét kế hoạch trả nợ của khách hàng, chất lượng và điều kiện tài sản đảm bảo tín dụng, tính đầy đủ và hợp lệ của hợp đồng tín dụng, đánh giá điều kiện tài chính và những dự báo về người vay, đánh giá xem khoản tín dụng có tuân thủ chính sách cho vay của ngân hàng không? Kiểm tra thường xuyên các khoản tín dụng lớn, bởi vì nếu các khoản tín dụng lớn mà xảy ra gây tổn thất có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến điều kiện tài chính của ngân hàng. Quản lý chặt chẽ và thường xuyên các khoản tín dụng có vấn đề, tăng cường kiểm tra giám sát khi phát hiện những dấu hiệu không lành mạnh liên quan đến khoản tín dụng của ngân hàng. Tăng cường kiểm tra tín dụng khi nền kinh tế có những biểu hiện đi xuống, hoặc những ngành nghề sử dụng nhiều tín dụng của ngân hàng có biểu hiện những vấn đề nghiêm trọng trong phát triển. c. Xử lý tín dụng có vấn đề Các khoản tín dụng có vấn đề thường bao gồm các trường hợp: Người vay không thể trả đúng hạn một hay nhiều kỳ, tài sản đảm bảo tín dụng giảm đáng kể. Do vậy các chuyên gia xử lý tín dụng của ngân hàng cần phải có các biện pháp hạn chế và xử lý nhằm hạn chế rủi ro tín dụng như: Tận dụng tối đa để thu hồi đầy đủ nợ đã cho vay. Khẩn trương khám phá và báo cáo kịp thời mọi vấn đề thực chất liên quan đến tín dụng, mọi chậm trễ đều làm cho tình hình tín dụng xấu hơn. Trách nhiệm xử lý tín dụng có vấn đề phải độc lập với chức năng cho vay nhằm tránh những xung đột có thể xảy ra với quan điểm của cán bộ tín dụng trực tiếp cho vay. Chuyên gia xử lý tín dụng cần hội ý khẩn với khách hàng về các giải pháp có thể, đặc biệt là tinh giảm chi phí, tăng nguồn thu, và tăng cường công tác quản lý. Dự tính những nguồn thu có thể dùng để thu nợ có vấn đề. Chuyên gia cần tiến hành nghiên cứu nghĩa vụ thuế và những tranh chấp xem khách hàng còn nghĩa vụ tài chính nào chưa thực hiện. Đối với doanh nghiệp, chuyên gia cần đánh giá chất lượng, năng lực và sự nhất quán trong quản lý, đồng thời trực tiếp tiến hành khảo sát các hoạt động và các tài sản của doanh nghiệp. Chuyên gia phải cân nhắc mọi phương án có thể hoàn thành việc thu hồi nợ có vấn đề, bao gồm cả việc thoả thuận gia hạn nợ tạm thời nếu khách hàng chỉ gặp khó khăn trước mắt, hoặc tìm kiếm giải pháp nhằm tăng cường lưu chuyển tiền tệ cho khách hàng. d. Hệ thống chỉ tiêu tài chính đánh giá khách hàng Nhóm chỉ tiêu thanh khoản Chỉ tiêu thanh toán nhanh hay tức thời: là khả năng chuyển tài sản lưu động thành tiền một cách nhanh chóng, người ta sử dụng chỉ tiêu thanh toán theo một trong hai cách sau: Chỉ tiêu thanh toán tức thời Các tài sản lưu động chuyển thành tiền tức thời Chỉ tiêu thanh toán tức thời = -------------------------------------------------------- Nợ ngắn hạn Chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn Tài sản lưu động Chỉ tiêu thanh toán ngắn hạn = --------------------- Nợ ngắn hạn Chỉ tiêu vốn lưu động ròng Chỉ tiêu vốn lưu động ròng = Tài sản lưu động - Nợ ngắn hạn Nhóm chỉ tiêu hoạt động Nhóm chỉ tiêu hoạt động đo lường mức độ hiệu quả trong việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp. Có ba chỉ tiêu chính về hoạt động của doanh nghiệp: Vòng quay hàng tồn kho Giá vốn hàng bán Vòng quay hàng tồn kho = ------------------------------ Hàng tồn kho bình quân Kỳ thu nợ bình quân Tài khoản phải thu bình quân Kỳ thu nợ bình quân = ------------------------------------------------- Doanh số bán chịu hàng ngày bình quân Vòng quay tổng tài sản Doanh thu hàng năm Vòng quay tổng tài sản = ---------------------------- Tổng tài sản Nhóm chỉ tiêu đòn bẩy Nhóm chỉ tiêu đòn bẩy phản ánh quy mô nợ so với vốn cổ phần của doanh nghiệp, đồng thời là bằng chứng về khả năng hoàn trả các khoản nợ của doanh nghiệp trong dài hạn. Tỷ số nợ trên tổng tài sản Tổng dư nợ Tỷ số nợ = ------------------- Tổng tài sản Khả năng trả lãi tiền vay Lợi nhuận trước thuế và lãi vay Khả năng trả lãi tiền vay = ---------------------------------------- Chí phí lãi vay Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời Tỷ lệ sinh lời trên doanh thu Lợi nhuận sau thuế Tỷ lệ sinh lời của doanh thu = ------------------------- Doanh thu Tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu Lợi nhuận sau thuế ROE = --------------------------- Vốn chủ sở hữu Tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản Lợi nhuận sau thuế ROA = ------------------------- Tổng tài sản 2.2.1.2. Mô hình định lượng TLt: chuỗi số liệu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của thời kỳ t KNMVt: chuỗi số liệu khả năng mất vốn thời kỳ t Nợ quá hạn không có khả năng thu hồi Khả năng mất vốn = ----------------------------------------------- dư nợ quá hạn. Trong mục này, ta sử dụng các mô hình trong kinh tế lượng Mô hình ARIMA Xét chuỗi thời gian Trường hợp đặc biệt quá trình tự hồi quy AR(p) bậc p có dạng như sau: Trong đó : là các chuỗi thời gian các thời kỳ trễ t-1, t-2, ….t-p. là nhiễu trắng Điều kiện để quá trình AR(p) hội tụ là Và trường hợp đặc biệt quá trình trung bình trượt bậc q có dạng: , t =1, 2,…n Trong đó là nhiễu trắng Điều kiện để MA(q) hội tụ là Mô hình tổng quát ARIMA là: Mô hình ARCH Mô hình tổng quát Biểu diễn như sau: có phân bố i.i.d nghĩa là , , thông thường người ta hay dùng có phân bố chuẩn hoá hoặc phân bố T được chuẩn hoá. là chuỗi số liệu tỷ lệ nợ quá hạn (TL) hoặc chuỗi số liệu khả năng mất vốn (KNMV). biểu diễn thành 2 phần: : Kỳ vọng thông thường biểu diễn ARMA(p,q) : phương sai Yếu tố ngẫu nhiên là tập hợp tất cả các thông tin ở thời kỳ t-1 Điều kiện: Mô hình ARCH(1) có phân bố i.i.d tức là , , Điều kiện: Dự báo Giả sử rằng ở thời điểm h có mô hình Thời kỳ h + 1 Thời kỳ h + 2 Thời kỳ l Mô hình GARCH Mô hình tổng quát có phân bố i.i.d tức là , , Điều kiện: và Mô hình GARCH(1,1) có phân bố i.i.d tức là, , Điều kiện: và Mô hình IGARCH Mô hình tổng quát có phân bố i.i.d tức là , , Từ mô hình GARCH tổng quát ta có suy ra: Với Giả thiết: , khi đó ta sẽ có mô hình IGARCH Ta có mô hình IGARCH(1,1) Điều kiện: Mô hình GARCH – Mean Mô hình GARCH – Mean có phân bố i.i.d tức là , , Trong đó: c là hằng số Mô hình GARCH – Mean ngụ ý rằng chuỗi số liệu có tương quan chuỗi, tự tương quan này có thể do 2 lý do gây ra: Do chuỗi gây ra Một cú sốc nào đó thông qua gây ra Các mô hình ARCH không đối xứng Mô hình TGARCH có phân bố i.i.d tức là , , 0: tin tức bình thường (tốt) dt = 1 : tin tức xấu 0: d t= 1: Khi đó ta sẽ có mô hình TGARCH như sau: + nghĩa là tin tốt không ảnh hưởng đến phương sai + hoặc khi đó mô hình sẽ có dạng: + nghĩa là phương sai tăng do vậy có hiện tượng hiệu ứng đòn bẩy dù tin tức tốt hoặc tin tức xấu (cú sốc âm) đều làm cho phương sai ở thời kỳ t tăng. + có nghĩa là ảnh hưởng của các cú sốc là bất đối xứng, tin xấu có ảnh hưởng, tin tốt không ảnh hưởng. Ta có mô hình tổng quát TGARCH (m,s) Mô hình EGARCH Trong mô hình trên có dạng mũ thể hiện ảnh hưởng không có tính chất đối xứng của yếu tố ngẫu nhiên đối với phương sai.Trong mô hình xem xét ảnh hưởng của cả tin tức xấu và tin tức tốt. Nếu , thì mô hình EGARCH có dạng: + Nếu , thì mô hình EGARCH có dạng: + 2.3 Ứng dụng mô hình kinh tế lượng phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của VIBank Trong mục này, ta sử dụng số liệu là chuỗi tỷ lệ nợ quá hạn (TL) và khả năng mất vốn (KNMV) theo tháng, từ tháng 12 năm 2001 đến tháng 12 năm 2006 để phân tích và đánh giá rủi ro tín dụng tại VIBank. Dựa vào đồ thị của chuỗi TL ở phần phụ lục 1, ta thấy chuỗi TL là chuỗi dừng không có yếu tố xu thế nhưng có hệ số chặn. Dựa vào đồ thị của chuỗi KNMV ở phần phụ lục 2, ta thấy chuỗi KNMV là chuỗi dừng, có yếu tố xu thế và có hệ số chặn. 2.3.1 Mô hình ARIMA Đối với chuỗi TL Kiểm định tính dừng của chuỗi TL Sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị để kiểm định tính dừng của chuỗi TL Dickey – Fuller đưa ra tiêu chuẩn kiểm như sau: Chuỗi là không dừng Chuỗi dừng Theo bảng 1 ở phần phụ lục ta có , , ta thấy nên bị bác bỏ. Do vậy, chuỗi TL là chuỗi dừng. Vấn đề tiếp theo, ta xác định các tham số p, q. Dựa vào lược đồ tương quan, ta thấy hệ số tương quan AC(4) và hệ số tương quan riêng PAC(4) khác không, ta có mô hình ARIMA(p,q, d) tương ứng p = 4 và q = 4, d = 0. Sau đó, ta ghi lại phần dư từ mô hình ước lượng được ở bảng 2 với tên là e1. Sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị để kiểm định tính dừng của phần dư, với cặp giả thiết tương tự như ở trên. Theo bảng 3 ở phần phụ lục ta có , , ta thấy nên bị bác bỏ. Do vậy, chuỗi e1 là chuỗi dừng. Mặt khác dựa vào lược đồ tương quan cho ta biết phần dư của mô hình ở bảng 11 là nhiễu trắng. Như vậy mô hình ta có cho chuỗi TL là ARIMA (p,q,d) với p = 4, q = 4, d = 0. Đối với chuỗi KNMV Kiểm định tính dừng của chuỗi KNMV Với các giả thiêt tương tự như trên, theo bảng 9 ở phần phụ lục 2 ta có , , ta thấy nên giả thiết bị bác bỏ, chấp nhận đối thiết . Do vậy, chuỗi KNMV là chuỗi dừng. Vấn đề tiếp theo, ta xác định các tham số p, q. Dựa vào lược đồ tương quan ở phần phụ lục 2, ta thấy hệ số tương quan AC(1) và hệ số tương quan riêng PAC(1) khác không nên ta có mô hình ARIMA(p,q, d) = ARIMA(p,q,0) tương ứng p =1, q =1, d = 0. Sau đó, ta ghi lại phần dư từ mô hình ước lượng được ở bảng 10 với tên là e2. Sử dụng kiểm định nghiệm đơn vị để kiểm định tính dừng của phần dư, với cặp giả thiết tương tự như ở trên. Theo bảng 11 ở phần phụ lục ta có , , ta thấy nên bị bác bỏ. Do vậy, chuỗi e2 là chuỗi dừng. Từ lược đồ tương quan ở phần phụ lục cho biết phần dư của mô hình ở bảng 10 là nhiễu trắng. Như vậy, mô hình ta có cho chuỗi KNMV là ARIMA (p,q,d) với p = 1, q = 1, d = 0 2.3.2 Mô hình ARCH Mô hình ARCH(1) Kiểm định sự phù hợp của mô hình ARCH, ta đi kiểm định các giả thiết của mô hình đối với từng chuỗi số liệu như sau: Đối với chuỗi TL Với mức ý nghĩa , dựa vào bảng 4 ở phần phụ lục ta có , , ta thấy nên bị bác bỏ. Với mức ý nghĩa , dựa vào bảng 4 ở phần phụ lục ta có , , ta thấy nên không có cơ sở bác bỏ . Theo kiểm định Wald Test ta đi kiểm định cặp giả thiết: Wald Test: Equation: Untitled Null Hypothesis: C(5) =0 F-statistic 0.271081 Probability 0.604817 Chi-square 0.271081 Probability 0.602607 Với mức ý nghĩa , theo bảng kết quả ở trên thống kê F có giá trị p-value = 0.6048 và thống kê có giá trị p-value =0.6026. Ta thấy thống kê F và thống kê có giá trị , nên không có cơ sở bác bỏ . Như vậy, độ biến động của các yếu tố khác ngoài tỷ lệ nợ quá hạn ở thời kỳ (t-1) không ảnh hưởng đến độ biến động của tỷ lệ nợ quá hạn ở thời kỳ t. Khi đó, ta có phương sai trong dài hạn . Do phương sai không đổi vì hệ số không có ý nghĩa thống kê, nên ta không dùng mô hình ARCH(1) để dự báo tỷ lệ nợ quá hạn trong thời gian tới. Đối với chuỗi KNMV Ta có các cặp giả thiết sau đây: Với mức ý nghĩa , dựa vào bảng 12 ở phần phụ lục ta có , , ta thấy nên bị bác bỏ. Với mức ý nghĩa , dựa vào bảng 12 ở phần phụ lục ta có , , ta thấy nên không có cơ sở bác bỏ . Theo kiểm định Wald Test ta đi kiểm định cặp giả thiết: Wald Test: Equation: Untitled Null Hypothesis: C(4) =0 F-statistic 0.111365 Probability 0.739842 Chi-square 0.111365 Probability 0.738595 Với mức ý nghĩa , theo bảng kết quả trên thống kê F có giá trị p-value = 0.7398 và thống kê có giá trị p-value =0.7386 nên không có cơ sở bác bỏ . Như vậy, độ biến động của các yếu tố khác ngoài khả năng mất vốn ở thời kỳ trễ (t-1) không ảnh hưởng đến độ biến động của khả năng mất vốn ở thời kỳ t. Khi đó,ta có phương sai trong dài hạn . Do phương sai không đổi vì hệ số không có ý nghĩa thống kê, nên ta không dùng mô hình ARCH(1) để dự báo khả năng mất vốn trong thời gian tới. 2.3.3 Mô hình GARCH Mô hình GARCH(1,1) Kiểm định sự phù hợp của mô hình, ta đi kiểm định các giả thiết đối với từng chuỗi số liệu như sau: Đối với chuỗi TL Với mức ý nghĩa , dựa vào bảng 5 ở phần phụ lục ta có , , ta thấy nên không có cơ sở bác bỏ . Mặt khác theo kiểm định Wald Test ta có cặp giả thiết sau: Wald Test: Equation: Untitled Null Hypothesis: C(4) =0 F-statistic 0.160349 Probability 0.690508 Chi-square 0.160349 Probability 0.688835 Với mức ý nghĩa theo bảng kết quả trên thống kê F có giá trị p-value = 0.6905 còn thống kê khi bình phương có giá trị p-value = 0.6883. Ta thấy thống kê F và thống kê có giá trị nên không có cơ sở bác bỏ . Với mức ý nghĩa , dựa vào bảng 5 ở phần phụ lục ta có , , ta thấy nên không có cơ sở bác bỏ . Mặt khác theo kiểm định Wald Test ta có cặp giả thiết sau: Wald Test: Equation: Untitled Null Hypothesis: C(5) =0 F-statistic 0.288464 Probability 0.593542 Chi-square 0.288464 Probability 0.591207 Với mức ý nghĩa , theo bảng kết quả ở trên thì thống kê F có giá trị p-value =0.5935 còn thống kê có giá trị p-value =0.5912. Ta thấy hai thống kê này có giá trị , nên không có cơ sở bác bỏ . Như vậy độ biến động của các yếu tố ngoài yếu tố tỷ lệ nợ quá hạn ở thời kỳ trễ (t-1) không ảnh hưởng đến độ biến động của tỷ lệ nợ quá hạn ở thời kỳ t. Với mức ý nghĩa , dựa vào bảng 5 ở phần phụ lục ta có , , ta thấy nên không có cơ sở bác bỏ . Theo kiểm định Wald Test ta có cặp giả thiết sau: Wald Test: Equation: Untitled Null Hypothesis: C(6) =0 F-statistic 0.020953 Probability 0.885478 Chi-square 0.020953 Probability 0.884907 Với mức ý nghĩa , theo bảng kết quả trên thì thống kê F có giá trị p-value = 0.8854 và thống kê có giá trị p-value =0.8849. Ta thấy thống kê F và thống kê có giá trị nên bị bác bỏ. Điều này có nghĩa là độ biến động của tỷ nợ quá hạn ở thời kỳ trễ (t-1) không ảnh hưởng đến độ biến động của tỷ lệ nợ quá hạn ở thời kỳ t. Wald Test: Equation: Untitled Null Hypothesis: C(5) +C(6) =1 F-statistic 0.164189 Probability 0.687023 Chi-square 0.164189 Probability 0.685329 Với mức ý nghĩa , theo bảng trên thống kê F có giá trị p-value = 0.6870 còn thống kê có giá trị p-value = 0.6853. Ta thấy thống kê F và thống kê đều có giá trị , do đó không có cơ sở bác bỏ . Như vậy, các điều kiện của mô hình GARCH không thoả mãn nên ta không lựa chọn mô hình GARCH để dự báo tỷ lệ nợ quá hạn trong thời gian tới. Đối với chuỗi KNMV Với mức ý nghĩa , dựa vào bảng 13 ở phần phụ lục ta có , , ta thấy nên không có cơ sở bác bỏ . Mặt khác theo kiểm định Wald Test ta có cặp giả thiết sau: Wald Test: Equation: Untitled Null Hypothesis: C(3)=0 F-statistic 0.052711 Probability 0.819264 Chi-square 0.052711 Probability 0.818412 Với mức ý nghĩa theo bảng kết quả trên thống kê F có giá trị p-value = 0.8192 còn thống kê khi bình phương có giá trị p-value = 0.8184. Ta thấy thống kê F và thống kê có giá trị nên không có cơ sở bác bỏ . Với mức ý nghĩa , dựa vào bảng 13 ở phần phụ lục ta có , , ta thấy nên bị bác bỏ. Như vậy, độ biến động của các yếu tố ngoài khả năng mất vốn ở thời kỳ trễ (t-1) ảnh hưởng đến độ biến động của khả năng mất vốn ở thời kỳ t và ảnh hưởng ngược chiều. Với mức ý nghĩa , dựa vào bảng 13 ở phần phụ lục ta có , , ta thấy nên không có cơ sở bác bỏ . Theo kiểm định Wald Test ta có cặp giả thiết sau: Wald Test: Equation: Untitled Null Hypothesis: C(5) =0 F-statistic 1502.610 Probability 0.000000 Chi-square 1502.610 Probability 0.000000 Với mức ý nghĩa , theo bảng kết quả trên cả thống kê F và thống kê đều có giá trị p-value =0.0000. Ta thấy hai thống kê trên có giá trị , nên bị bác bỏ. Điều này có nghĩa là , nên độ biến động của khả năng mất vốn ở thời kỳ trễ (t-1) ảnh hưởng đến độ biến động của khả năng mất vốn ở thời kỳ t và ảnh hưởng cùng chiều. Wald Test: Equation: Untitled Null Hypothesis: C(4) + C(5) =1 F-statistic 0.696797 Probability 0.407473 Chi-square 0.696797 Probability 0.403862 Với mức ý nghĩa , theo bảng trên thống kê F có giá trị p-value = 0.4074 còn thống kê có giá trị p-value = 0.4038. Ta thấy hai thống kê này có giá trị , nên không có cơ sở bác bỏ . Như vậy, các điều kiện của mô hình GARCH không thoả mãn nên trong trường hợp này em không lựa chọn mô hình GARCH để dự báo khả năng mất vốn trong thời gian tới. 2.3.4 Mô hình GARCH – Mean Kiểm định sự phù hợp của mô hình, ta đi kiểm định các giả thiết đối với từng chuỗi số liệu như sau: Đối với chuỗi TL Với mức ý nghĩa , dựa vào bảng 6 ở phần phụ lục ta có , , ta thấy do đó không có cơ sở bác bỏ . Mặt khác theo kiểm định Wald test ta có cặp giả thiết sau: Wald Test: Equation: Untitled Null Hypothesis: C(5) =0 F-statistic 2.79E+08 Probability 0.000000 Chi-square 2.79E+08 Probability 0.000000 Với mức ý nghĩa , theo bảng kết quả trên thì cả thống kê F và thống kêđều có giá trị p-value =0.0000. Ta thấy thống kê F và thống kêcó giá trị nên bị bác bỏ. Điều này có nghĩa là hệ số . Với mức ý nghĩa , dựa vào bảng 6 ở phần phụ lục ta có , , ta thấy nên không có cơ sở bác bỏ . Mặt khác theo kiểm định Wald Test ta có cặp giả thiết sau: Wald Test: Equation: Untitled Null Hypothesis: C(6) =0 F-statistic 37.79321 Probability 0.000000 Chi-square 37.79321 Probability 0.000000 Với mức ý nghĩa , theo bảng kết quả ở trên thì cả thống kê F và thống kê đều có giá trị p-value =0.0000. Ta thấy hai thống kê này có giá trị nên bị bác bỏ. Điều này có nghĩa là nên độ biến động của các yếu tố ngoài yếu tố tỷ lệ nợ quá hạn ở thời kỳ trễ (t-1) ảnh hưởng đến độ biến động của tỷ lệ nợ quá hạn ở thời kỳ t và ảnh hưởng cùng chiều. Với mức ý nghĩa , dựa vào bảng 6 ở phần phụ lục ta có , , ta thấy do đó không có cơ sở bác bỏ . Mặt khác theo kiểm định Wald test ta có cặp giả thiết sau: Wald Test: Equation: Untitled Null Hypothesis: C(7) =0 F-statistic 688.4028 Probability 0.000000 Chi-square 688.4028 Probability 0.000000 Với mức ý nghĩa thì cả thống kê F và thống kê đều có giá trị p-value =0.0000. Ta thấy hai thống kê này có giá trị nênbị bác bỏ Điều này có nghĩa là nên độ biến động của tỷ nợ quá hạn ở thời kỳ trễ (t-1) ảnh hưởng đến độ biến động của tỷ lệ nợ quá hạn ở thời kỳ t và ảnh hưởng cùng chiều. Wald Test: Equation: Untitled Null Hypothesis: C(6) +C( 7)=1 F-statistic 1287.930 Probability 0.000000 Chi-square 1287.930 Probability 0.000000 Với mức ý nghĩa , theo bảng kết quả trên cả thống kê F và thống kê đều có giá trị p-value = 0.0000. Ta thấy hai thống kê này có giá trị , do vậy bị bác bỏ ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36614.doc
Tài liệu liên quan