Phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre hiện nay

mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là chủ trương lớn của Đảng ta, đồng thời cũng là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng đầu và là nội dung cơ bản của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ trước đến nay, Đảng và Nhà nước ta luôn rất quan tâm đến sự phát triểon nông nghiệp, nông thôn và đã có những chủ trương, chính sách đúng đắn để đẩy nhanh sự phát triển của khu vực này. Trong nông nghiệp và nông thôn, vấn đề nông dân l

doc101 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1295 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
uôn có vị trí đặc biệt quan trọng và được Đảng ta xác định là vấn đề chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trải qua các giai đoạn cách mạng, nông dân đã có những đóng góp to lớn, góp phần cùng toàn dân làm nên thắng lợi vẻ vang trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. Ngày nay, trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nông dân vẫn là lực lượng đông đảo, nòng cốt và chủ yếu tham gia trực tiếp vào quá trình này. Những thành tựu đạt được trong quá trình thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn vừa qua là thành quả của toàn Đảng, toàn dân nhưng đặc biệt trong đó có một phần đóng góp đáng tự hào của nông dân. Bến Tre là một tỉnh nông nghiệp nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Cùng với xu thế chung của cả nước, Bến Tre cũng đã đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn một cách toàn diện, trong đó kinh tế thuỷ sản và kinh tế vườn được xác định là hai ngành kinh tế mũi nhọn, là khâu đột phá của tỉnh. Đến nay, quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre ngày càng đi đúng hướng và gặt hái được nhiều thắng lợi quan trọng. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, nông nghiệp và nông thôn Bến Tre vẫn còn một số tồn tại, hạn chế. Đặc biệt nông dân Bến Tre, mặc dù đóng một vai trò vô cùng to lớn trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhưng cho đến nay đời sống của đa số nông dân vẫn còn nghèo, vẫn còn gặp nhiều khó khăn, thiếu thốn. Để quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre đi vào chiều sâu, tiếp tục đạt được những thành tựu to lớn hơn nữa trong những năm đầu của thế kỷ XXI, đòi hỏi Bến Tre phải nỗ lực xây dựng, hoàn thiện một hệ thống những chủ trương, chính sách, phương hướng, giải pháp đồng bộ nhằm phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Với tư cách là chủ thể, là lực lượng nòng cốt và chủ yếu trực tiếp tham gia vào sự nghiệp này, điều quan trọng hơn hết là phải khơi dậy cho được sự cố gắng, lòng nhiệt tình, tính năng động, tích cực sáng tạo của nông dân Bến Tre. Bởi mỗi bước phát triển của nông nghiệp và nông thôn suy cho cùng cũng là nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống cho nông dân. Nông dân là mục tiêu, là động lực phát triển của nông nghiệp, nông thôn. Phát triển nông nghiệp và nông thôn là do nông dân và vì nông dân. Vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là vô cùng to lớn. Nhưng chỉ có một mình lực lượng nông dân không thôi thì vẫn chưa đủ làm nên một kỳ tích. Hơn nữa, quá trình thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn dưới tác động của nền kinh tế thị trường tất yếu buộc nông dân phải đối mặt với những thách thức không dễ gì tránh khỏi đó là hiện trạng nông dân không có đất hoặc thiếu đất sản xuất; hiện tượng phân hóa giàu nghèo, mất đoàn kết trong nội bộ nông dân; tình trạng ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội,... Đây là những vấn đề lớn đang ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống của người nông dân. Vì vậy, sức mạnh của nông dân chỉ có thể nhân đôi và phát huy mạnh mẽ khi có sự quan tâm sâu sát, sự hỗ trợ kịp thời và thường xuyên của các cấp, các ngành địa phương, của cả hệ thống chính trị. Chỉ với tinh thần như thế mới có thể "Phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre hiện nay", đây chính là một trong những vấn đề cấp thiết đang được đặt ra có ý nghĩa lý luận và thực tiễn đối với Bến Tre. 2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài Trong những năm qua, vấn đề CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và vấn đề nông dân luôn tạo được sự quan tâm, chú ý của nhiều cấp, bộ ngành, nhiều nhà khoa học. Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu của tập thể cũng như của các nhà khoa học về nông nghiệp, nông thôn và nông dân ở những góc độ khác nhau tiêu biểu như: + Các công trình khoa học của tập thể: - "Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta", Viện Nghiên cứu Chiến lược và Chính sách khoa học và công nghệ - Trung tâm Hỗ trợ khoa học và công nghệ phát triển nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1997. - Tài liệu tập huấn: Phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá (tập I và II), Hội khoa học kinh tế Việt Nam - Ban đào tạo và phổ biến kiến thức, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1998. - "Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam", Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương - Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Nhìn chung, các công trình khoa học này đã đề cập đến những nội dung như: vai trò của công nghiệp nông thôn trong quá trình CNH, HĐH nông thôn Việt Nam; thực trạng công nghiệp nông thôn Việt Nam; tổng kết những kinh nghiệm CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của một số nước và vùng lãnh thổ trên thế giới; hệ thống hóa những quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; những vấn đề đặt ra và đề xuất những phương hướng, giải pháp trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên, các công trình khoa học này mặc dù nghiên cứu về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nhưng chưa đi sâu vào vấn đề nông dân. - “Sản xuất và đời sống của các hộ nông dân không có đất hoặc thiếu đất ở đồng bằng sông Cửu Long. Thực trạng và giải pháp”, GS.TS Nguyễn Đình Hương (chủ biên), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999. Đây là công trình khoa học được nghiên cứu công phu do tập thể cán bộ khoa học Trường Đại học Kinh tế quốc dân chủ trì phối hợp cùng Hội Nông dân Việt Nam thực hiện theo Công văn số 6553/KTN ngày 20 - 12 - 1997 của Thủ tướng Chính phủ. Nội dung cuốn sách bước đầu cố gắng làm rõ thực chất, nguyên nhân cơ bản và sâu xa của tình trạng các hộ nông dân không có đất hoặc thiếu đất sản xuất. Trên cơ sở đó đề xuất và kiến nghị một số quan điểm và giải pháp nhằm bảo đảm công ăn việc làm và đời sống cho các hộ nông dân không có đất hoặc thiếu đất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long. Như vậy, công trình khoa học này nghiên cứu về hộ nông dân ở đồng bằng sông Cửu Long nhưng không nghiên cứu sâu về vai trò của nông dân và việc phát huy vai trò của nông dân trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. + Một số luận án tiến sĩ, thạc sĩ: - "Sự chuyển hướng của giai cấp nông dân trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam" của Nguyễn Đức Hướng, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 1991. - "Đặc điểm và xu hướng biến đổi của giai cấp nông dân nước ta trong giai đoạn hiện nay" của Bùi Thị Thanh Hương, Luận án tiến sĩ Triết học, Hà Nội, 2000... Các đề tài này bước đầu đi vào nghiên cứu sự phân hóa giàu nghèo, đặc điểm của giai cấp nông dân trong giai đoạn đổi mới đất nước, làm rõ xu hướng biến đổi khách quan của giai cấp nông dân Việt Nam trong thời gian tới, trình bày một số phương hướng đưa giai cấp nông dân Việt Nam phát triển theo hướng XHCN,... Các đề tài, luận án này tuy bàn đến đối tượng là nông dân nhưng chưa đi sâu vào vai trò của nông dân cũng như việc phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Gần đây có luận văn thạc sĩ Triết học: "Phát huy vai trò của nông dân Thái Bình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn" của Đặng Thị Phương Duyên, Hà Nội, 2001. Luận văn đã đề cập đến vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân Thái Bình trên con đường CNH, HĐH; thực trạng và giải pháp phát huy vai trò của nông dân trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Thái Bình. Tuy nhiên, vai trò của nông dân trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là như thế nào; những điều kiện để phát huy vai trò của nông dân trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói chung, ở một tỉnh nói riêng là vấn đề cần phải đi sâu hơn nữa. + ở Bến Tre có: - "Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VI " (5/1996). - "Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VII" (12/2000)... - Nghị quyết số 13 Ctr/TU của Tỉnh uỷ Bến Tre về "Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 15 - NQ/TW (Hội nghị Trung ương 5 - khóa IX) "Về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010"" (7/2002). Nhìn chung, các văn kiện, Nghị quyết này đều có đề cập đến vấn đề CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn và vấn đề nông dân, nhưng cho đến nay chưa có công trình nghiên cứu khoa học nào ở cấp tỉnh làm rõ vai trò của nông dân Bến Tre và việc phát huy vai trò của nông dân Bến Tre trong quá trình phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH. Vì vậy, vấn đề phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre hiện nay rất cần được quan tâm nghiên cứu. 3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu 3.1. Mục đích Phân tích, làm rõ vai trò của nông dân Bến Tre với tư cách là chủ thể, là lực lượng nòng cốt và chủ yếu trong quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre. Đánh giá thực trạng, từ đó đề xuất những quan điểm, giải pháp nhằm phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre hiện nay. 3.2. Nhiệm vụ - Khái quát tầm quan trọng và phương hướng của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong sự nghiệp đổi mới đất nước nói chung và ở Bến Tre nói riêng. - Phân tích làm rõ vai trò của nông dân với tư cách là chủ thể, là lực lượng nòng cốt và chủ yếu trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre. Đồng thời chỉ ra những nhân tố tác động và điều kiện để phát huy vai trò của nông dân trong CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre. - Phân tích những yêu cầu của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đối với nông dân Bến Tre trên cơ sở đối chiếu và đánh giá thực trạng nêu lên những vấn đề đặt ra cần được giải quyết trong giai đoạn trước mắt. - Đề xuất những quan điểm định hướng và giải pháp cơ bản phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Bến Tre. 3.3. Phạm vi nghiên cứu Nông nghiệp, nông thôn và nông dân là những vấn đề lớn và rất rộng. Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn, tác giả giới hạn ở đối tượng nghiên cứu là nông dân Bến Tre, nội dung nghiên cứu là xác định vai trò và việc phát huy vai trò của nông dân Bến Tre trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre. 4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu 4.1. Cơ sở lý luận Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh đặc biệt là nguyên lý của CNDVLS về vai trò của quần chúng nhân dân. 4.2. Phương pháp nghiên cứu Luận văn chủ yếu sử dụng phương pháp phân tích - tổng hợp, lịch sử - lôgíc; sử dụng tư liệu thực thế của các công trình nghiên cứu đã có nhất là của các cơ quan ban ngành tỉnh Bến Tre. 5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn - Làm rõ vai trò của nông dân Bến Tre trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre. - Đưa ra một số quan điểm định hướng, giải pháp cơ bản phát huy vai trò của nông dân Bến Tre trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. 6. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn Luận văn góp phần vào việc tạo được sự nhận thức đúng đắn về vai trò của nông dân Bến Tre. Từ đó giúp lãnh đạo địa phương đưa ra những chủ trương, giải pháp giúp cho việc phát huy vai trò của nông dân trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre hiện nay. Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong công tác giảng dạy ở trường Chính trị tỉnh, có thể dùng làm tài liệu nghiên cứu tham khảo ở các cấp uỷ đảng, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Hội Nông dân Việt Nam tỉnh Bến Tre. 7. Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 2 chương, 4 tiết. Chương 1 CÔNG NGHIệP HOá, HIệN ĐạI HOá NÔNG NGHIệP, NÔNG THÔN Và VAI TRò Của NÔNG DÂN Bến Tre Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân, trong đó có nông dân. Nhưng cách mạng là vấn đề rất rộng và rất lớn. ở mỗi giai đoạn lịch sử, vai trò của quần chúng nhân dân mà đặc biệt là nông dân luôn được khẳng định và thể hiện với những tính chất khác nhau. Ngày nay, cùng với xu thế chung của cả nước, Bến Tre đang ra sức đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn một cách toàn diện. ý nghĩa và tầm vóc của việc thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là vô cùng to lớn, yêu cầu đặt ra ngày một cao. Vì vậy, trong quá trình thực hiện sự nghiệp cách mạng này, lại một lần nữa không thể thiếu vai trò của nông dân. Bởi lẽ, vai trò của nông dân là một nhân tố đặc biệt quan trọng góp phần đảm bảo cho sự thành công của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre trong giai đoạn hiện nay. 1.1. Phương hướng phát triển nông nghiệp, nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.1.1.Tầm quan trọng của công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn trong giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới đất nước Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là một bộ phận hữu cơ và luôn có một vị trí đặc biệt quan trọng trong sự nghiệp CNH, HĐH của nước ta hiện nay. Thành tựu đạt được của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn như thế nào sẽ tác động, ảnh hưởng rất lớn đến thành tựu chung của cả quá trình CNH, HĐH đất nước. Xuất phát từ điều kiện khách quan nước ta vốn là một nước nông nghiệp lạc hậu gắn với nền sản xuất nhỏ, tự cung tự cấp, quá trình đi lên CNXH bỏ qua giai đoạn phát triển TBCN tất yếu đòi hỏi Đảng ta phải tiến hành CNH, HĐH đất nước. Chỉ có tiến hành CNH, HĐH chúng ta mới tạo dựng được một lực lượng sản xuất mới phát triển cao làm tiền đề vững chắc để phát triển KT-XH, cải thiện đời sống cho nhân dân. ở nước ta trong quá trình CNH, HĐH đất nước, một nhiệm vụ to lớn, có ý nghĩa cơ bản luôn phải được coi trọng là tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Bởi vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân luôn đóng một vai trò đặc biệt quan trọng. Vai trò của nông nghiệp được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định từ rất sớm, trong thư gửi điền chủ, nông gia Việt Nam ngày 11 - 4 - 1946, Người viết: “Việt Nam là một nước sống về nông nghiệp. Nền kinh tế nước ta lấy canh nông làm gốc. Trong công cuộc xây dựng nước nhà, Chính phủ trông mong vào nông dân, trông cậy vào nông nghiệp một phần lớn. Nông dân ta giàu thì nước ta giàu. Nông nghiệp ta thịnh thì nước ta thịnh” [35, tr.215]. Thật vậy, vai trò của nông nghiệp được thể hiện trong những mặt sau đây: Thứ nhất, nông nghiệp là ngành trực tiếp cung cấp lương thực, thực phẩm đáp ứng được nhu cầu ăn - một nhu cầu thiết yếu nhất của con người mà cho đến nay và trong tương lai vẫn chưa có ngành nào, lĩnh vực nào thay thế được vai trò của nông nghiệp. Chính vì thế, việc Đảng ta ngày nay xác định phải bảo đảm an ninh lương thực trong mọi tình huống là hoàn toàn có cơ sở. Thứ hai, nông nghiệp có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển các ngành kinh tế của đất nước, trong đó trước hết là công nghiệp. Bởi nông nghiệp là nơi cung cấp nguồn nguyên vật liệu cho hoạt động sản xuất công nghiệp, nhất là công nghiệp chế biến. Không có nông nghiệp với tính cách là nguồn cung cấp đầu vào thì công nghiệp chế biến không thể tồn tại và phát triển được. Thứ ba, nông thôn nước ta là một địa bàn rộng lớn với gần 80% dân số sẽ là thị trường to lớn cho việc tiêu thụ các sản phẩm quan trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ. Như vậy, đối với nước ta giữa nông nghiệp và công nghiệp luôn có một mối quan hệ hữu cơ chặt chẽ với nhau, luôn tác động và làm tiền đề cho nhau, “công nghiệp và nông nghiệp như hai chân của con người. Hai chân có mạnh thì đi mới vững chắc. Nông nghiệp không phát triển thì công nghiệp cũng không phát triển được. Ngược lại, không có công nghiệp thì nông nghiệp cũng khó khăn. Công nghiệp và nông nghiệp quan hệ với nhau rất khắng khít”[37, tr.619]. Bất kỳ một sự phát triển không tương xứng, cân đối, hài hoà giữa nông nghiệp và công nghiệp đều gây những khó khăn nhất định cho sự phát triển của nền kinh tế chung của đất nước. Xuất phát từ vai trò của nông nghiệp, Đảng ta trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng của mình luôn quan tâm đến phát triển nông nghiệp nước nhà. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI(1986) đánh dấu sự nghiệp đổi mới toàn diện của Đảng ta đã xác định: trước hết là đổi mới về kinh tế, thực hiện ba chương trình kinh tế lớn, nhấn mạnh vai trò hàng đầu của nông nghiệp trong việc đáp ứng những yêu cầu cấp bách về lương thực, thực phẩm, nguyên liệu sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Phấn đấu đưa nông nghiệp nước ta trở thành nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá XHCN. Văn kiện Đại hội chỉ rõ “trong những năm còn lại của chặng đường đầu tiên, trước mắt là trong kế hoạch 5 năm 1986 - 1990, phải thật sự tập trung sức người, sức của vào việc thực hiện cho được ba chương trình mục tiêu về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu”[9, tr.47]. Tiếp tục sự nghiệp đổi mới, Đại hội đại biểu lần thứ VII của Đảng với Báo cáo Chính trị, với "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội", với "Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế đến năm 2000" lại một lần nữa khẳng định rõ hơn quan điểm đó là “phát triển nông, lâm, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến; phát triển toàn diện nông thôn và xây dựng nông thôn mới là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để ổn định tình hình kinh tế - xã hội”[10, tr.63]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng là Đại hội quyết định chuyển sang thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước. Trong đó Nghị quyết Trung ương bốn và Nghị quyết sáu của Bộ Chính trị khoá VIII tiếp tục cụ thể hoá hơn về nội dung CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nghị quyết khẳng định phải đặc biệt coi trọng CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, chỉ rõ nội dung cơ bản của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong những năm còn lại của thập kỷ 90 là: Phát triển toàn diện nông, lâm, ngư nghiệp, hình thành các vùng tập trung chuyên canh, có cơ cấu hợp lý về cây trồng, vật nuôi, có sản phẩm hàng hoá nhiều về số lượng, tốt về chất lượng, bảo đảm an toàn về lương thực trong xã hội, đáp ứng được yêu cầu của công nghiệp chế biến và của thị trường trong và ngoài nước. Thực hiện thuỷ lợi hoá, điện khí hóa, cơ giới hóa, sinh học hóa,... phát triển công nghiệp chế biến nông, lâm, thuỷ sản với công nghệ ngày càng cao,... phát triển các ngành nghề, làng nghề truyền thống,... xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, từng bước hình thành nông thôn mới văn minh, hiện đại [11, tr.87]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng mà đặc biệt là Nghị quyết Trung ương năm (khoá IX) về “Đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010” đã tiếp tục làm rõ hơn nữa những quan điểm của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nghị quyết Trung ương năm đã đưa ra quan niệm tổng quát về CNH, HĐH nông nghiệp và CNH, HĐH nông thôn. Nhiệm vụ của CNH, HĐH nông nghiệp và CNH, HĐH nông thôn có quan hệ chặt chẽ và khăng khít, hoà quyện vào nhau. Trên cơ sở khẳng định rõ những thành tựu cũng như những khuyết điểm, yếu kém và nguyên nhân của những khuyết điểm, yếu kém đó, Nghị quyết Trung ương năm tiếp tục xác định các mục tiêu, phương hướng, quan điểm và nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nước ta lên một tầm cao mới, nhằm tạo ra một bước đột phá, nhảy vọt mạnh mẽ để khai thác hết mọi tiềm năng và nội lực của đất nước. Qua gần 20 năm đổi mới, tiến hành CNH, HĐH nền nông nghiệp nước ta về cơ bản đã chuyển sang sản xuất hàng hoá, phát triển tương đối toàn diện và có bước tăng trưởng khá. Công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn từng bước được phục hồi và phát triển; kết cấu hạ tầng KT-XH được quan tâm đầu tư xây dựng; đời sống nhân dân từng bước được cải thiện và nâng lên rõ rệt; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội trên địa bàn nông thôn được đảm bảo. Những thành tựu đạt được như thế rất đáng tự hào đã góp phần quan trọng vào sự ổn định và phát triển KT-XH, tạo tiền đề đẩy nhanh CNH, HĐH đất nước đi đến thắng lợi. Là một nước đi lên từ nông nghiệp, thế mạnh và tiềm năng lớn nhất đều nằm trong khu vực nông nghiệp và nông thôn. Thực tế trong những năm qua thành tựu đạt được của nông nghiệp nước ta rất đáng trân trọng. Tuy nhiên, nhìn chung trình độ sản xuất trong nông nghiệp hiện nay vẫn còn trong tình trạng lạc hậu, nông sản hàng hoá chưa đủ sức cạnh tranh trên thương trường quốc tế, thậm chí ngay trên "sân nhà", sức mua của nông dân vẫn còn thấp. Nông thôn Việt Nam hiện vẫn là địa bàn sinh sống của gần 80% dân số, gần 70% lực lượng lao động. Như vậy, lao động trong nông nghiệp vẫn còn chiếm tỷ lệ cao, trình độ lao động lại thấp, mới chỉ có 8% qua đào tạo. Vấn đề lao động nông nhàn và giải quyết việc làm cho lao động nông thôn đang là gánh nặng cho xã hội. Kinh tế nông nghiệp trong những năm qua tuy có bước tăng trưởng khá, song tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn còn chậm. Mặt khác, trình độ ứng dụng khoa học và công nghệ đặc biệt là công nghệ sinh học vẫn còn nhiều hạn chế. Do vậy năng suất, chất lượng, hiệu quả của nông sản hàng hoá chưa cao. Bên cạnh đó trình độ và mức độ cơ giới hoá trong nông nghiệp ở tất cả các khâu vẫn còn thấp. Mặt khác, vấn đề giải quyết đầu ra cho hàng hoá nông sản thiếu tính ổn định và còn nhiều bất cập bởi năng lực của công nghệ chế biến và tổ chức lưu thông còn nhiều hạn chế. Kết cấu hạ tầng KT-XH trên địa bàn nông thôn trong những năm qua được quan tâm đầu tư xây dựng nhưng trên thực tế vẫn còn yếu kém chưa trở thành động lực thúc đẩy cho quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tăng tốc mạnh mẽ. Xuất phát từ vị trí, vai trò và tầm quan trọng của nông nghiệp đối với nền kinh tế quốc dân, Đảng ta từ khi thành lập cho đến nay, xuyên suốt quá trình lãnh đạo cách mạng đã luôn coi trọng vấn đề phát triển nông nghiệp, nông thôn. Ngày nay, vai trò đó không những không mất đi mà càng được củng cố và khẳng định. Chính vì vậy CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn cần phải được tiếp tục quan tâm hàng đầu và nội dung của nó phải thật sự đi vào chiều sâu, phải có những bước bứt phá tăng tốc mạnh mẽ, góp phần to lớn vào sự nghiệp CNH, HĐH đất nước để phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại và vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. 1.1.2. Phương hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre trong giai đoạn hiện nay Bến Tre là một tỉnh nằm trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long tiếp giáp biển Đông với 65km chiều dài bờ biển. Địa hình Bến Tre bị chia cắt mạnh bởi bốn nhánh sông Cửu Long đó là các sông Tiền, Ba Lai, Hàm Luông và Cổ Chiên với tổng chiều dài hơn 300 km. Từ đó tạo nên vùng đất Bến Tre thành ba dải cù lao: cù lao Bảo, cù lao Minh và cù lao An Hoá. Với một mạng lưới sông ngòi chằng chịt, trải qua nhiều thế kỷ những dòng sông đã cần mẫn chuyên chở phù sa từ thượng nguồn của dòng MêKông hùng vĩ để tạo nên vùng đất Bến Tre ngày nay phì nhiêu, màu mỡ với những cánh đồng bát ngát, những vườn cây ăn trái sum suê, những vườn dừa bạt ngàn. Có thể nói những dòng sông đi qua địa phận Bến Tre đã và đang giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong đời sống kinh tế, văn hoá của nhân dân trong tỉnh đó là cung cấp nước ngọt cho sinh hoạt và sản xuất nông nghiệp, cung cấp nguồn lợi thuỷ sản phong phú và đa dạng, đồng thời góp phần làm tươi đẹp cảnh quan, điều hoà khí hậu của một vùng đất cù lao bốn bề sông nước. Mặt khác, khí hậu Bến Tre mang tính chất nhiệt đới gió mùa có một chế độ nhiệt độ cao quanh năm ít khi biến động và có hai mùa rõ rệt là mùa mưa và mùa khô. Nhìn chung, thời tiết ở Bến Tre ổn định ít biến động thất thường rất thích hợp cho phát triển sản xuất nông nghiệp bởi ánh sáng, nhiệt độ, độ ẩm, lượng mưa rất thuận lợi cho sự sinh trưởng của các loại cây trồng, vật nuôi. Trở ngại đáng kể trong sản xuất nông nghiệp là vào mùa gió chướng nước biển thường xâm nhập sâu vào trong đất liền làm một số vùng bị nhiễm mặn, ảnh hưởng đến năng suất cây trồng cho nhà nông. “Độ mặn xâm nhập trên ba dải cù lao Bến Tre trong xu hướng ngày càng lên cao đã tác động làm thay đổi giống cây trồng của tỉnh, cần được khảo sát và lãnh đạo kịp thời để tránh thiệt hại” [15, tr.44 - 45]. Hơn nữa, trong những năm chiến tranh, Bến Tre là tỉnh bị tàn phá khốc liệt và nặng nề nhất so với các tỉnh khác ở miền Tây Nam bộ. Không những các cơ sở kinh tế bị tàn phá mà ngay cả cơ sở vật chất của địch để lại sau ngày giải phóng dường như không có gì. Ngoài những cơ sở dịch vụ sửa chữa cơ khí nhỏ và vài xưởng sửa xe cơ giới, cùng một ít phương tiện giao thông vận tải thuỷ bộ cũ kỹ, không có một cơ sở sản xuất nào đáng kể. Bởi lẽ, dưới mắt kẻ thù, Bến Tre là một mảnh đất không an toàn nên chúng không đầu tư xây dựng một cơ sở sản xuất nào trong suốt hơn hai mươi năm chiến tranh. Như vậy, từ những điều kiện tự nhiên và lịch sử đã quy định Bến Tre là một tỉnh lấy nông nghiệp làm chủ yếu. Cho nên trong giai đoạn hiện nay để xây dựng và phát triển KT-XH của tỉnh nhà, Bến Tre không còn con đường nào khác hơn là phải xuất phát từ nông nghiệp, đi lên từ nông nghiệp nhưng không phải là một nền nông nghiệp lạc hậu, tự cấp, tự túc, khép kín, sản xuất nhỏ lẻ như trước đây mà phải là một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn tức là phải tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Chỉ có thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn mới phá thế biệt lập giữa Bến Tre với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, mới có thể đưa nông nghiệp tỉnh nhà thoát khỏi tình trạng trì trệ; diện mạo nông thôn mới trở nên khởi sắc qua đó rút ngắn khoảng cách giữa thành thị với nông thôn, làm cho nông thôn ngày càng văn minh, tiến bộ, đặc biệt đời sống của dân cư nông thôn ngày một trở nên sung túc, khá giả hơn. Trước đây Bến Tre có phong trào Đồng khởi trong chống Mỹ cứu nước đi vào lịch sử mở ra bước ngoặt mới chuyển cách mạng miền Nam từ thế bị động phòng ngự sang thế chủ động tiến công trên khắp các chiến trường Nam bộ như cố Tổng bí thư Lê Duẩn đã viết “làn sóng Đồng khởi như nước vỡ bờ lan ra toàn tỉnh Bến Tre và khắp các tỉnh Nam bộ, Tây Nguyên và Trung trung bộ” [7, tr.397]. Ngày nay tiếp nối truyền thống năm xưa, Tỉnh uỷ Bến Tre đã đề ra Nghị quyết 08 vào cuối năm 1999 phát động phong trào “Đồng khởi mới” - một phong trào Đồng khởi phát huy mọi tiềm lực, mọi sức mạnh của các tầng lớp nhân dân để tiến công vào mặt trận phát triển KT-XH, quyết tâm xây dựng quê hương Bến Tre ngày một giàu đẹp, từng bước thu hẹp khoảng cách với các tỉnh trong khu vực. Với tinh thần cách mạng tiến công, ý chí quyết tâm chiến thắng nghèo nàn lạc hậu, Đảng bộ và nhân dân Bến Tre trong những năm qua luôn chú trọng đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn một cách toàn diện. Văn kiện Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Bến Tre lần thứ VI (5/1996) khẳng định: Bến Tre là tỉnh nông nghiệp, trong những năm trước mắt phải rất quan tâm đến công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Phát triển toàn diện nông, ngư nghiệp gắn với công nghiệp chế biến nông, thuỷ sản; xây dựng có chọn lọc công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; mở rộng thương nghiệp, du lịch, dịch vụ ở các thành thị và nông thôn [15, tr.48]. Thành tựu đạt trong những năm đầu thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là rất căn bản, đã tạo dựng nền tảng ban đầu cho những bước phát triển tiếp theo. Nên trong phương hướng của Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ Bến Tre lần thứ VII (12/2000) đã tiếp tục khẳng định: Cần tiếp tục đầu tư phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng thâm canh, chuyên canh, xen canh thích hợp, tận dụng mặt đất, mặt nước làm tăng giá trị trên một đơn vị sản xuất, tăng hiệu quả cạnh tranh của nông sản hàng hoá. Từng bước công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Phấn đấu tạo mức tăng trưởng bình quân từ 5,5% - 6%/năm. Tập trung đầu tư khai thác hai thế mạnh: kinh tế thuỷ sản và kinh tế vườn, tạo những bước đột phá mới thúc đẩy nền kinh tế phát triển [16, tr.52]. Từ phương hướng đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn mà Nghị quyết của Đại hội của Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VI, VII đã khẳng định và tiếp tục được cụ thể hoá trong các Nghị quyết tiếp theo, có thể khái quát CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn của Bến Tre với những nội dung sau đây: Một là, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre là quá trình phát triển toàn diện chuyển từ nền nông nghiệp lạc hậu tự cấp, tự túc khép kín, sản xuất nhỏ sang nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá lớn đem lại hiệu quả kinh tế cao; phá thế biệt lập của một tỉnh cù lao, mở ra cơ hội giao lưu, hội nhập với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long và của cả nước. Hai là, quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre là quá trình không ngừng đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ nhất là công nghệ sinh học đem lại năng suất, chất lượng cao; là quá trình đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, điện khí hoá đặc biệt là đẩy nhanh tốc độ cơ giới hoá. Đến năm 2010, phấn đấu cơ giới hoá 100% khâu làm đất và tuốt lúa, tưới tiêu bằng máy 90% diện tích lúa và 80% diện tích cây ăn trái ở các vùng sản xuất tập trung. Từng bước cơ giới hoá khâu gieo trồng, gặt lúa và bảo vệ cây trồng; cải tiến phần lớn thiết bị chế biến đường thủ công, thiết bị sản xuất chỉ xơ dừa trong tỉnh [17, tr.5]. Ba là, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng “nâng dần tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng nông - lâm - thuỷ sản trong GDP của tỉnh để đến năm 2005 còn 55% và năm 2010 còn 45%” [17, tr.2]. Gắn kết chặt chẽ giữa công nghiệp, dịch vụ với nông nghiệp. Chú trọng công nghiệp và phát triển công nghiệp cơ khí phục vụ nông nghiệp, đảm bảo đầu ra cho nông sản hàng hoá. Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển nhiều loại dịch vụ ở nông thôn, trước hết là các dịch vụ kỹ thuật, tín dụng, thương mại, dịch vụ phục vụ đời sống, phát triển mạnh du lịch nhất là du lịch sinh thái để tạo nhiều việc làm tăng thu nhập cho nông dân. Bốn là, phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở huy động mạnh mẽ các nguồn lực để đẩy mạnh đầu tư, đến năm 2000 giải quyết cơ bản các yêu cầu về thuỷ lợi, giao thông nhất là giao thông nông thôn, về cấp nước sinh hoạt nông thôn và vệ sinh môi trường, về phát triển hệ thống mạng lưới điện,... Nội dung này được cụ thể hoá xây dựng thành chương trình lớn “Phát triển kết cấu hạ tầng kỹ thuật chủ yếu trên địa bàn nông thôn tỉnh Bến Tre giai đoạn 2001 - 2005”. Dự kiến đến năm 2005 có 80% dân cư nông thôn được hưởng thụ những thành quả do chương trình này mang lại. Từ đó tạo bước đột phá hình thành nên động lực mới thúc đẩy làm biến đổi về chất đối với s._.ự phát triển KT-XH nhằm đạt mục tiêu chung là khắc phục sự tụt hậu về kinh tế, xoá đói giảm nghèo. Từng bước tạo dựng một diện mạo nông thôn mới ngày càng văn minh, hiện đại, phát triển bền vững nhưng vẫn giữ được nét văn hoá độc đáo riêng của miền quê sông nước. 1.2. Vai trò của nông dân trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre Sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre trong giai đoạn hiện nay là một quá trình đầy khó khăn và không kém phần gian khổ. Để đảm bảo cho việc thực hiện thành công sự nghiệp cách mạng này đòi hỏi phải khai thác tối đa tất cả các nguồn lực hiện có; phải có sự tham gia tích cực, đầy trách nhiệm của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân trong tỉnh. Trong đó vai trò của nông dân Bến Tre với tính cách là chủ thể tham gia trực tiếp, là lực lượng nòng cốt tham gia vào quá trình này phải được khẳng định một cách rõ nét và sâu sắc nhất. 1.2.1. Các nguồn lực của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre Nguồn lực bên ngoài Khi đề cập đến nguồn lực bên ngoài thực chất là đề cập đến các nguồn vốn đầu tư của Trung ương, của các doanh nghiệp trong nước và ngoài nước. Đối với Bến Tre trong quá trình tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thì một trong những vấn đề được quan tâm hàng đầu là cần có nguồn vốn lớn phục vụ cho đầu tư và sản xuất. Trong những năm qua, Bến Tre luôn mời gọi vốn đầu tư từ nhiều nguồn khác nhau góp phần đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong đó đặc biệt là nhanh chóng phát triển hai thế mạnh kinh tế thuỷ sản và kinh tế vườn. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh 3 năm qua tăng liên tục cả thời kỳ đạt 8.642 tỷ đồng: năm 2002 đạt 1.912 tỷ đồng, năm 2003 đạt 2.867 tỷ đồng, năm 2004 đạt 3.863 tỷ đồng. Trong cơ cấu vốn đầu tư thì đầu tư của dân cư và khu vực ngoài quốc doanh chiếm tỷ trọng và có mức tăng trưởng cao nhất; nếu năm 2002 là 811 tỷ đồng bằng 42%, năm 2003 là 1.595,5 tỷ đồng bằng 56% thì năm 2004 là 2.674 tỷ đồng bằng 69%. Riêng đối với đầu tư nước ngoài, so với thời kỳ 1996 - 2000 thì khu vực này có bước tăng trưởng đáng kể, năm 2002 đạt 45,1tỷ đồng, năm 2003 đạt 90 tỷ đồng và năm 2004 đạt 123 tỷ đồng. Trong đó lĩnh vực được quan tâm đầu tư nhiều nhất là nuôi trồng chế biến thuỷ sản, công nghiệp chế biến sản phẩm từ dừa, sản xuất và kinh doanh cây giống, cây cảnh,... Hằng năm có trên một trăm đoàn doanh nghiệp, nhà đầu tư trong và ngoài nước (kể cả Việt kiều) đến Bến Tre để tìm cơ hội đầu tư. Tính đến nay, toàn tỉnh có 6 dự án của FDI còn hiệu lực với tổng vốn đầu tư là 18,49 triệu USD, kể cả 2 dự án đầu tư 100% vốn nước ngoài với tổng vốn đăng ký 7,9 triệu USD được cấp phép đầu tư cuối năm 2004 và đầu năm 2005. Hiện có 8 dự án sử dụng vốn ODA đang triển khai trên địa bàn tỉnh với tổng vốn cam kết tài trợ 31,9 triệu USD, đã giải ngân tính đến cuối tháng 6/2004 là 11,4 triệu USD tương đương 35,7% tổng vốn cam kết tài trợ. Các dự án ODA được thực hiện chủ yếu trong các lĩnh vực như cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông thôn, chăm sóc sức khoẻ cộng đồng, y tế, giáo dục, xây dựng giao thông thuỷ lợi trên địa bàn nông thôn. Bên cạnh đó nguồn vốn hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGOs) huy động hàng năm đều tăng, trung bình thu hút từ khoảng 200.000 đến 300.000 USD/năm đã góp phần đáng kể vào các hoạt động xoá đói, giảm nghèo, chăm sóc sức khoẻ và giáo dục trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn. Ngoài ra còn có vốn liên doanh, liên kết, ngoài dự án của cầu Rạch Miễu đang triển khai theo hình thức BOT trong nước với tổng vốn đầu tư ước khoảng 800 tỷ đồng, còn lại tập trung vào một số lĩnh vực như: gia công chế biến hạt điều, nuôi thuỷ sản, xây dựng chợ nông thôn, chế biến bột cá,.... ước tính trên 200 tỷ đồng. Nhìn chung tổng vốn đầu tư toàn xã hội trên địa bàn tỉnh các năm qua tăng liên tục. Cơ cấu nguồn vốn huy động ngày càng được cải thiện theo hướng tăng tỷ trọng đầu tư nước ngoài và liên doanh, liên kết ngoài tỉnh. Bên cạnh những kết quả đạt được, tình hình thu hút vốn đầu tư của Bến Tre thời gian qua chưa thật sự tương xứng với tiềm năng của tỉnh. Nguyên nhân là do: kết cấu hạ tầng KT-XH còn nhiều yếu kém, ngay cả các khu công nghiệp cũng chưa được chuẩn bị tốt về hạ tầng, nguồn nhân lực thiếu và yếu, chính sách ưu đãi đối với nhà đầu tư đã ban hành và thực tiễn còn có một khoảng cách, quỹ đất dành cho nhà đầu tư chưa được chuẩn bị sẵn, chưa quan tâm đúng mức đến công tác hỗ trợ sau giấy phép đầu tư, sự phối hợp giữa các ngành, các cấp trong tỉnh còn nhiều bất cập,... Để tiếp tục đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư, khai thác các lợi thế sẵn có góp phần đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn Bến Tre cần thực hiện ngay các biện pháp như: đẩy mạnh đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH; tập trung đầu tư cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo; thực hiện mạnh mẽ công tác cải cách hành chính; điều chỉnh các chính sách đầu tư theo hướng thông thoáng hơn, cụ thể hơn ở từng địa bàn và lĩnh vực; đẩy mạnh tiếp thị về chính sách và môi trường đầu tư đến các nhà đầu tư trong và ngoài nước, trong đó chú trọng giới thiệu chính sách ưu đãi và danh mục dự án cụ thể, không kêu gọi chung chung và tập trung thực hiện thật tốt những cam kết với nhà đầu tư. Nguồn lực bên trong + Điều kiện tự nhiên và tài nguyên thiên nhiên: Bến Tre là một trong 13 tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Nhìn trên bản đồ, tỉnh Bến Tre có hình rẻ quạt mà đầu nhọn nằm ở thượng nguồn, còn các nhánh sông lớn giống như nan quạt xoè rộng ra về phía Đông. Diện tích tự nhiên của tỉnh là 2.232 km2 , phía Bắc giáp tỉnh Tiền Giang có ranh giới chung là sông Tiền, phía Tây và Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và tỉnh Trà Vinh có ranh giới chung là sông Cổ Chiên, phía Đông giáp biển với 65 km chiều dài bờ biển. Là một tỉnh bốn bề sông nước bao bọc, Bến Tre có một hệ thống đường giao thông thuỷ rất phức tạp. Ngoài bốn con sông chính chảy vào địa phận Bến Tre tạo nên ba dải cù lao, Bến Tre còn có một mạng lưới sông, rạch, kênh đào chằng chịt nối liền nhau với tổng chiều dài khoảng 6000 km. Trung bình đi dọc theo các sông chính, cứ cách khoảng 1 đến 2 km là có một con rạch hay kênh. Bến Tre có hàng trăm sông, rạch và kênh trong đó có trên 60 con sông, rạch, kênh rộng từ 50 - 100m [39, tr.147]. Với một mạng lưới sông ngòi chằng chịt đan vào nhau như những mạch máu chảy khắp ba dải cù lao rất thuận lợi cho giao thông vận tải đường thuỷ cũng như cung cấp một lượng nước dồi dào cho sản xuất nông nghiệp. Bên cạnh đó, đất đai ở Bến Tre khá đa dạng và phong phú chủ yếu bao gồm các nhóm đất như: đất cát, đất phù sa, đất phèn, đất mặn. Nhìn chung, Bến Tre là tỉnh có tiềm năng dồi dào về đất đai, trên 66% diện tích thuộc loại thuận lợi, hoặc ít hạn chế đối với các loại cây trồng chính. Các loại đất có nhiều hạn chế đối với một số cây trồng như: lúa, dừa, cây công nghiệp ngắn ngày chỉ chiếm 19%, trong đó số diện tích có hạn chế quan trọng thực sự chỉ khoảng 10%. Do tiếp giáp với biển lại có nhiều sông ngòi bồi đắp phù sa nên đất Bến Tre hình thành nên ba vùng tự nhiên: vùng nước ngọt chiếm 37% diện tích, vùng nước lợ chiếm 27% diện tích và vùng nước mặn chiếm 36% diện tích. Mỗi một vùng đất có một lợi thế nhất định và đều có vai trò quan trọng trong phát triển một nền nông nghiệp toàn diện. Đối với vùng có nước ngọt quanh năm đất đai phì nhiêu màu mỡ rất thuận lợi cho phát triển vùng chuyên canh cây ăn trái như huyện Châu Thành, Chợ Lách, Thị xã. Đối với vùng nước mặn lại có tiềm năng rất lớn cho phát triển nuôi thuỷ sản nhất là nuôi tôm công nghiệp. Từ điều kiện về tự nhiên thì tài nguyên của Bến Tre đó chính là các loại cây trồng vật nuôi mà Bến Tre có tiềm năng và lợi thế để phát triển. Đối với các chủng loại cây trồng ở Bến Tre thì cây dừa không thể không được nhắc đến đầu tiên bởi ca dao có câu “Thấy dừa thì nhớ Bến Tre”. Từ lâu, Dừa không chỉ trở thành biểu tượng của Bến Tre trong văn học mà còn thật sự là một thế mạnh trong phát triển kinh tế nông nghiệp của tỉnh nhà. Cho đến nay, Bến Tre vẫn là tỉnh dẫn đầu cả nước về dừa trên cả hai mặt diện tích và sản lượng. Tính đến cuối năm 2004 diện tích vườn dừa ở Bến Tre là 35.885 ha với sản lượng ước khoảng 241,66 triệu quả [5, tr.78]. Các giống dừa trồng phổ biến ở địa phương có dừa ta, dừa dâu, dừa lửa, dừa nhiếm, dừa xiêm, dừa cỏ, dừa Tam quan. Do biên độ sinh trưởng khá rộng, dừa có khả năng phát triển ở cả ba vùng sinh thái: ngọt, lợ, mặn. Riêng vùng nước lợ đã tỏ ra có ảnh hưởng tốt đến việc sinh trưởng của cây dừa và hàm lượng dầu của quả. Từ cây dừa đã mở ra triển vọng rất lớn cho ngành công nghiệp chế biến và tiểu thủ công nghiệp, các sản phẩm từ dừa như: sản xuất dầu dừa, bột sữa dừa, thạch dừa, than thiêu kết, than hoạt tính, chỉ xơ dừa và hàng thủ công mỹ nghệ từ cọng lá dừa, thân dừa,... Do nền công nghiệp chế biến còn non trẻ, nên việc chế biến các sản phẩm từ quả dừa ở Bến Tre thời gian qua còn nhiều hạn chế. Cho nên rất cần sự đầu tư hơn nữa mới tạo được nhiều sản phẩm hàng hoá từ dừa với chất lượng cao đáp ứng nhu cầu tiêu dùng nội địa và xuất khẩu. Song song với cây dừa, Bến Tre còn nổi tiếng về cây ăn trái tập trung ở các huyện Chợ Lách, Châu Thành và một phần Thị xã, đặc biệt là huyện Chợ Lách. Đây là vùng nước ngọt quanh năm, đất đai phì nhiêu màu mỡ. ở đây, nông dân đã tạo nên những vườn cây ăn trái có năng suất cao, giàu về chủng loại, có nhiều loại trái cây có chất lượng cao đã được khẳng định trong ca dao “sầu riêng, măng cụt Cái Mơn” như là thương hiệu riêng có của Bến Tre. Nói chung, nửa phần đất phía trên của cù lao Bảo như Giồng Trôm, Thị xã, Châu Thành và cù lao Minh như Mỏ Cày, Chợ Lách, đều thích hợp với cây ăn trái. Có các loại cây trồng chủ yếu với giá trị kinh tế cao như sầu riêng, măng cụt, bưởi da xanh,... trên một diện tích tính đến cuối năm 2004 là 40.451 ha với sản lượng là 375.147 tấn. Từ việc chăm trồng cây ăn trái những người làm vườn nhất là ở Chợ Lách đã tạo nên một nghề mới - nghề chiết ghép cây, ghép cành, lai tạo các giống cây mới, các giống hoa, cây cảnh, bon sai. Do vậy, Bến Tre không chỉ là nơi cung cấp những loại trái cây quý và ngon mà còn là nơi sản xuất cây giống cho các tỉnh Tây Nam bộ, Đông Nam bộ và Tây Nguyên. Cùng với kinh tế vườn thì thuỷ sản cũng là ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh. Với 65 km bờ biển cộng với mạng lưới sông ngòi chằng chịt là môi trường lý tưởng cho sự sinh trưởng của 208 loài động vật thuỷ sản, trong đó có 122 loài cá, 18 loài tôm và 24 loài giáp xác, nhuyển thể 2 mảnh vỏ có giá trị kinh tế cao. Như vậy, đối với Bến Tre đây là tiềm năng vô cùng to lớn cho việc nuôi trồng, đánh bắt thuỷ sản trên cả ba vùng nước ngọt, nước mặn và nước lợ. Do điều kiện tự nhiên đa dạng nên nuôi trồng thuỷ sản cũng phải phù hợp với điều kiện sinh thái của từng vùng. Đối với vùng nước ngọt rất thuận lợi cho việc nuôi tôm càng xanh trong mương vườn và các loại cá nước ngọt có giá trị kinh tế cao [39, tr.478]. Đối với vùng mặn và lợ lại thuận lợi cho việc hình thành các khu vực nuôi tôm công nghiệp tập trung. Đến nay diện tích nuôi thuỷ sản đạt 42.371 ha với tổng sản lượng là 140.692 tấn [46]. + Cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng KT-XH: Phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH là tiền đề, điều kiện quan trọng không thể thiếu trong quá trình thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Riêng đối với Bến Tre, việc phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH lại càng có ý nghĩa to lớn, không chỉ là động lực thúc đẩy quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tiến nhanh hơn mà còn nhằm nâng cao các phúc lợi xã hội cho dân cư nông thôn, bởi lẽ một nông thôn hiện đại thì người dân sẽ có nhiều điều kiện thuận lợi và cơ hội để sản xuất và sinh hoạt tốt hơn. Về thuỷ lợi: trong những năm qua, Bến Tre bước đầu đã xây dựng được hệ thống các công trình thuỷ lợi quan trọng như cống đập Ba Lai, Cầu Sập, hệ thống đê biển Bình Đại, đê bao Chợ Lách,... Nhìn chung, các công trình thuỷ lợi khi đưa vào hoạt động đều phát huy tác dụng trong việc ngăn mặn, chống lũ, dẫn ngọt phục vụ sản xuất nông nghiệp, mở rộng diện tích thâm canh tăng vụ, cải tạo vườn tạp, tăng năng suất cây trồng, cung cấp nước sinh hoạt và kết hợp với giao thông nông thôn. Đến nay các công trình thuỷ lợi sẵn có đã phục vụ tưới tiêu cho 77.290 ha và ngăn mặn cho 66.988 ha đất nông nghiệp. Tuy nhiên, hệ thống thuỷ lợi ở Bến Tre hiện nay vẫn còn nhiều hạn chế đó là sự không đồng bộ đặc biệt là thiếu hệ thống thuỷ lợi nội đồng hoàn chỉnh và nhìn chung là chưa ngang tầm với yêu cầu của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đang đặt ra. Về giao thông: đối với Bến Tre mạng lưới vận tải đường thuỷ so với các tỉnh trong khu vực là một thế mạnh do được thiên nhiên ưu đãi với cả một hệ thống sông ngòi chằng chịt. ở thị xã Bến Tre có thể di chuyển đến các huyện, xã, thậm chí đến các xóm ấp bằng phương tiện sà lan hoặc ghe thuyền có trọng tải từ 100 - 200 tấn; từ Bến Tre có thể đi đến các tỉnh miền Tây Nam bộ bằng đường thuỷ. đối với mạng lưới giao thông đường bộ bao gồm quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện, đường xã có tổng chiều dài 4.037 km. Trong đó có 2 tuyến đường quốc lộ với chiều dài 131 km, 6 tuyến đường tỉnh với chiều dài 170,6 km, 28 tuyến đường huyện với chiều dài 419,9 km, đường vào UBND xã, đường xã và đường trong xóm ấp có tổng chiều dài 3.309 km. Đến nay các đường quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện đều được thông suốt. Đường xã và liên xã về cơ bản đã được nhựa hoá, bê tông hoá nhưng vẫn còn 5 xã chưa có đường giao thông đến trung tâm xã. Tuy nhiên do địa hình Bến Tre có rất nhiều sông rạch chia cắt, cho nên giao thông đường thuỷ thuận lợi bao nhiêu thì giao thông đường bộ khó khăn bấy nhiêu. Vì vậy, muốn có một hệ thống giao thông đường bộ thông suốt thì phải có một hệ thống cầu nối liền đường bộ tương ứng. Vì vậy, hiện nay, việc xây cầu Rạch Miễu vượt sông Tiền và tiếp theo xây cầu Hàm Luông thay thế các bến phà hiện hữu nhằm phá thế biệt lập giữa Bến Tre với các tỉnh trong khu vực; đồng thời quá trình xoá cầu khỉ ở vùng nông thôn thay thế bằng cầu thép không gian, cầu treo cho cả hệ thống sông, kênh rạch khắp địa bàn nông thôn Bến Tre đang là một thách thức đối với Bến Tre trong phát triển KT-XH, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Về điện lực: Để CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhu cầu về điện là cực kỳ quan trọng. Từ cơ sở vật chất nghèo nàn lạc hậu tiếp quản từ chế độ cũ, sau 30 năm củng cố và xây dựng ngành điện lực Bến Tre không ngừng phấn đấu nỗ lực vượt qua khó khăn từng bước phát triển mạng lưới điện cao thế, trung thế, hạ thế trên cả ba dải cù lao. Với sản lượng điện sản xuất không ngừng tăng nhanh. Nếu năm 1980 sản lượng điện sản xuất chỉ đạt 6,4 triệu KWh thì năm 1985 là 17,25 triệu KWh; năm 1990 là 33,3 triệu KWh; năm 1995 là 60,7 KWh; năm 2000 là 140 triệu KWh và tính đến cuối năm 2004 sản lượng điện đạt tới 267 triệu KWh. Đến nay Bến Tre là một trong những tỉnh ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long sớm hoàn thành mục tiêu đưa điện lưới quốc gia phủ khắp 100% xã, phường và hiện có 81% số hộ sử dụng điện. Việc thực hiện tốt quá trình điện khí hoá nông thôn sẽ là động lực to lớn góp phần thúc đẩy sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn tăng tốc nhanh hơn. Nhìn chung cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng KT-XH ở Bến Tre nhiều năm qua luôn được chú trọng đầu tư và bước đầu đã đạt được những kết quả đáng trân trọng. Tuy nhiên xét về tổng thể cơ sở vật chất, kết cấu hạ tầng ở Bến Tre hiện nay vẫn còn trong tình trạng yếu kém, chưa thật sự trở thành động lực thúc đẩy phát triển CNH, HĐH, nhất là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, khó thu hút được các nhà đầu tư. Vì vậy, vấn đề đầu tư xây dựng, phát triển kết cấu KT-XH ở Bến Tre hiện nay vẫn là vấn đề mang tính sống còn, cần được ưu tiên hàng đầu. + Nguồn nhân lực: Trong tất cả các nguồn lực cùng tác động đến quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thì nguồn nhân lực (nguồn lực về con người) có vị trí đặc biệt quan trọng luôn giữ vai trò quyết định và là nguồn lực của các nguồn lực. ở nước ta khái niệm nguồn lực con người được sử dụng tương đối rộng rãi kể từ đầu thập niên 90 của thế kỷ XX. Tuy nhiên trong Từ điển Bách khoa Việt Nam cũng như các Từ điển Tiếng Việt chưa thấy đưa ra định nghĩa về nguồn lực con người. Dù vậy, các nhà khoa học Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về nguồn lực con người. GS.VS.TS Phạm Minh Hạc cho rằng: "Nguồn lực con người là số dân và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực và phẩm chất" [22, tr.328]. GS.TS Hoàng Chí Bảo cũng cho rằng: "Nguồn lực con người là sự kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng - hiệu quả hoạt động và triển vọng mới phát triển của con người" [2, tr.14]. Theo tác giả Hoàng Chí Bảo, "Ngoài thể lực và trí lực, cái làm nên nguồn lực con người là kinh nghiệm sống, đặc biệt là những kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con người, là nhu cầu và thói quen vận dụng tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của mình, của cộng đồng vào việc tìm tòi, cách tân các hoạt động, sáng tạo ra các giải pháp mới đối với công việc như một sự sáng tạo văn hóa" [2, tr.15]. Xét theo ý nghĩa đó, nguồn lực con người bao hàm trong đó toàn bộ sự phong phú, sự sâu sắc, đổi mới thường xuyên các năng lực trí tuệ, năng lực thực hành, tổ chức và quản lý,... Trong quan niệm này, tác giả nhấn mạnh đến kết cấu bên trong của nguồn lực con người. Trong bài phát biểu khai mạc Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VIII) nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định: Nguồn lực con người là quý báu nhất. Nguồn lực đó là người lao động có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học - công nghệ hiện đại. Quan niệm này nêu lên một cách toàn diện những yếu tố cần có của người lao động - nguồn lực quan trọng nhất của quốc gia. Từ một số cách tiếp cận và những nội dung đã dẫn trên, có thể hiểu: Nguồn lực con người là phạm trù dùng để chỉ số dân, cơ cấu dân số, đặc biệt là chất lượng người với tất cả những tiềm năng, năng lực và phẩm chất làm nên sức mạnh của nó trong sự phát triển xã hội. Với cách hiểu này, khái niệm nguồn lực con người có nội dung rộng, đề cập tới những mặt cơ bản sau: - Thứ nhất, nguồn lực con người được biểu hiện ra là người lao động, là lực lượng lao động (với con người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động), là người lao động (đội ngũ lao động hiện có và sẽ có). Nói đến nguồn lực con người còn nói đến quy mô dân số và tốc độ tăng dân số trong một thời kỳ nhất định của một quốc gia, một địa phương. - Thứ hai, nguồn lực con người phản ánh cơ cấu dân cư, nhất là cơ cấu lao động trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế,... - Thứ ba, nguồn lực con người chủ yếu nói lên chất lượng dân số, đặc biệt là chất lượng của lực lượng lao động trong hiện tại và tiềm năng trong tương lai. - Thứ tư, nguồn lực con người còn bao hàm cả sự liên hệ tác động lẫn nhau giữa các yếu tố nội tại cấu thành nó cũng như sự tác động qua lại giữa nguồn lực con người với các nguồn lực khác và với môi trường xung quanh. Bến Tre trong quá trình phát triển một nền nông nghiệp toàn diện theo hướng CNH, HĐH có được thuận lợi là dân số đông. Tính đến cuối năm 2004 dân số Bến Tre là 1.345.637 người, trong đó dân cư chủ yếu sinh sống ở nông thôn lên đến 1.215.110 người. Dân số đông đã giúp cho Bến Tre có nguồn lao động dồi dào, đến cuối năm 2004 số người trong độ tuổi lao động là 893.670 người (trong đó số người lao động trong lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản là 539.706 người, còn lại là ở các lĩnh vực khác) [5, tr.16-19]. Xét về cơ cấu nguồn nhân lực, hiện nay ở Bến Tre còn nhiều bất cập. Để quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre đạt được nhiều thành tựu to lớn đòi hỏi phải có đội ngũ đông đảo cán bộ làm công tác quản lý, công tác khoa học và công tác chuyên môn có trình độ cao. Thế nhưng hiện nay ở Bến Tre lực lượng này còn quá mỏng. Trong số cán bộ làm công tác quản lý, công tác khoa học và công tác chuyên môn có tăng lên hàng năm. Trong 5 năm (2000-2005) đã đào tạo, bồi dưỡng 17.909 cán bộ các loại, trong đó có 2 tiến sĩ, 176 thạc sĩ, 1.697 người có trình độ đại học, cử nhân, cao đẳng [20, tr.4]. Riêng Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tỉnh Bến Tre với chức năng, nhiệm vụ của mình đã và đang giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc đưa nền nông nghiệp tỉnh nhà phát triển toàn diện theo hướng CNH, HĐH. Nhưng hiện nay đội ngũ cán bộ trong toàn ngành chỉ có 457 người. Trong đó số cán bộ có trình độ sau đại học chỉ có 2 người (0,43%). Số cán bộ có trình độ đại học là 140 người (30,63%). Trình độ trung cấp là 152 người (32,26%). Số còn lại là sơ cấp. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ khoa học ở Bến Tre còn nhiều bất cập, ít về số lượng, yếu về chất lượng, chưa đủ sức làm đầu tàu thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Tình trạng thiếu và yếu trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh và nhất là cán bộ khoa học - công nghệ là một thực tế. Đây lại là lực lượng nòng cốt tham gia vào quá trình hoạch định chiến lược, đề ra mục tiêu, phương hướng, giải pháp cũng như tổ chức, triển khai CNH, HĐH nói chung và CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng. Có thể nói, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm, hiệu quả cao hay thấp một phần phụ thuộc vào năng lực của đội ngũ cán bộ này. Trong những năm gần đây Bến Tre rất quan tâm đến việc trọng dụng nhân tài được thể hiện bằng những chính sách, chế độ đãi ngộ cao, tạo sự hấp dẫn thu hút, mời gọi người tài từ các địa phương khác đến Bến Tre công tác theo tinh thần của Quyết định số 4051/2001/QĐ-UB của UBND tỉnh Bến Tre "Về việc ban hành Quy định về chính sách trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức có trình độ, năng lực tốt". Nhưng do Bến Tre là tỉnh cù lao, biệt lập với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, kết cấu hạ tầng KT-XH kém phát triển, nên không có nhiều cơ hội để phát huy tài năng. Vì vậy, hiện nay số cán bộ có trình độ cao từ các nơi khác đến Bến Tre công tác là rất ít. Cho nên, để có nguồn cán bộ chất lượng cao, đáp ứng được yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH, nhất là CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, Bến Tre cần hướng vào việc lựa chọn số cán bộ ưu tú đang công tác tại địa phương tiếp tục đưa đi đào tạo nâng cao trình độ chuyên môn. Bằng tình yêu và sự gắn bó với quê hương cộng với năng lực chuyên môn được nâng lên rõ rệt, đây sẽ là lực lượng quan trọng đưa Bến Tre có bước phát triển mạnh mẽ về KT-XH. - Đối với đội ngũ công nhân lao động trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng trên toàn tỉnh đến cuối năm 2004 chỉ có 47.128 người chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo, số lao động qua đào tạo có tay nghề cao chiếm một tỷ lệ rất thấp năm 2004 chỉ có 22%. Số lượng đội ngũ công nhân đã ít, chất lượng lao động lại thấp thể hiện ở trình độ tay nghề, tác phong,... Điều này phần nào cho thấy nền công nghiệp ở Bến Tre hiện nay vẫn còn rất non trẻ, quy mô nhỏ bé chưa đủ sức làm đầu tàu trong nền kinh tế của tỉnh nhà. - Trong khi đó số người trong độ tuổi lao động trên địa bàn nông thôn tham gia sản xuất trong các lĩnh vực nông, lâm, thuỷ sản là rất cao 539.706 người (năm 2004). Thực chất đây chính là nông dân. Như vậy có thể thấy, trong nguồn lực con người để tiến hành CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre hiện nay thì nông dân đóng vai trò đặc biệt quan trọng. Bởi chính nông dân là lực lượng lao động hùng hậu để sản xuất ra một khối lượng hàng hoá nông sản đồ sộ tạo ra giá trị rất cao cho nền kinh tế của tỉnh nhà: năm 2004 chiếm 60,82% GDP; trong khi đó giá trị sản xuất của ngành công nghiệp và xây dựng chỉ chiếm có 15,65%, dịch vụ là 23,53% [5, tr.29]. Hạn chế lớn nhất hiện nay đối với nông dân Bến Tre đó chính là trình độ dân trí. Mặt bằng dân trí thấp đã và đang gây khó khăn cho nông dân trong việc nhận thức về Nghị quyết, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; cũng như trong việc tiếp cận, ứng dụng các tiến bộ của khoa học và công nghệ trong quá trình sản xuất. Rõ ràng qua thực tế cho thấy sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là do quyết tâm của toàn Đảng, toàn dân Bến Tre, là sự huy động tối đa các nguồn lực nhưng trong đó nguồn lực con người là đặc biệt quan trọng. Trong nguồn lực con người tham gia vào quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thì nông dân Bến Tre trong hiện tại và tương lai vẫn là nguồn nhân lực cơ bản nhất giữ vai trò nòng cốt quyết định sự thành công của CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. 1.2.2. Vai trò của nông dân Bến Tre với tính cách là nguồn nhân lực cơ bản nhất Trong những năm kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, vùng đất Bến Tre là địa bàn trọng điểm đánh phá ác liệt luôn bị bom đạn của kẻ thù cày xới, tàn phá nặng nề. Tuy nhiên, nhân dân Bến Tre trong đó đặc biệt là nông dân luôn có niềm tin vững chắc vào Đảng, một lòng một dạ theo Đảng làm cách mạng. Với tinh thần một tấc không đi, một li không rời nhân dân Bến Tre đã bám đất, bám làng, là lá chắn vững chắc bảo vệ các cơ sở cách mạng. Bản thân nhân dân Bến Tre luôn đi đầu trong các phong trào cách mạng đấu tranh trực diện với kẻ thù, bằng sự cống hiến và hy sinh vô cùng to lớn với 35.000 liệt sĩ, 21.000 thương binh, 2.067 mẹ Việt Nam anh hùng. Đặc biệt với phong trào Đồng khởi năm 1960 của nhân dân Bến Tre đã đánh dấu cho việc mở ra một bước ngoặt lịch sử quan trọng như lời Đại tướng Hoàng Văn Thái đã viết “Phong trào Đồng khởi Bến Tre đã mở đầu cho một cuộc tấn công và nổi dậy lần thứ nhất của cách mạng miền Nam, mở đầu cho cuộc khủng hoảng triền miên của chính quyền Mỹ Diệm. Rõ ràng phong trào Đồng khởi ở Bến Tre đã đi vào lịch sử như một ngọn cờ đầu, nó đã có một vị trí xứng đáng trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước ở miền Nam và xứng đáng được gọi là “Quê hương Đồng khởi” với tất cả nội dung và tính chất của nó... ”[39, tr.1091]. Sau ngày đất nước thống nhất, hoà chung không khí nô nức, phấn khởi của cả dân tộc trong ngày vui đại thắng, nhân dân Bến Tre tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, ý chí tự lực tự cường, tư tưởng tiến công cách mạng quyết tâm xây dựng lại quê hương. Tuy nhiên, thực tế đã cho thấy vùng đất nào trong chiến tranh kiên cường, cách mạng nhất thì trong thời bình xây dựng, phát triển KT-XH luôn gặp khó khăn trở ngại nhiều nhất; nhân dân Bến Tre mà đặc biệt là nông dân, trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước từng được Trung ương cục và Quân uỷ Miền năm 1968 tuyên dương tám chữ vàng “Anh dũng đồng khởi, thắng Mỹ diệt nguỵ”, là lực lượng cách mạng nhất thì trong thời bình cũng gặp nhiều thiệt thòi nhất. Thật vậy, sau ngày giải phóng, Đảng bộ và nhân dân Bến Tre bắt tay vào xây dựng lại cuộc sống mới từ một xuất phát điểm rất thấp. Nền công nghiệp hoàn toàn không có. Nền nông nghiệp đầy rẫy những khó khăn bởi sau mấy chục năm chiến tranh nhà cửa, đất đai, ruộng vườn đã bị bom đạn, chất độc hoá học của kẻ thù tàn phá nghiêm trọng lên đến 30.000 ha. Trong khi đó Bến Tre lại bị hạn hán mất mùa liên tục trong 3 năm 1977 - 1979 đã làm cho đời sống của nhân dân đã khó khăn lại càng khó khăn hơn, một bộ phận nhân dân bị đói. Không cam chịu đói nghèo, toàn Đảng, toàn dân Bến Tre đoàn kết một lòng quyết tâm xây dựng lại quê hương tiến công vào mặt trận mới, một mặt trận không có tiếng súng nhưng không vì thế mà kém phần gian khổ, đó chính là mặt trận kinh tế, là sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. ý Đảng hợp lòng dân. Nông dân Bến Tre với tinh thần cách mạng, tiếp nối truyền thống năm xưa đã khẳng định được vai trò to lớn của mình thể hiện ở việc chi phối và quyết định sự thành bại của cả quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Trong sự nghiệp cách mạng này vai trò của nông dân được thể hiện trên các mặt sau: - Thứ nhất, nông dân Bến Tre là lực lượng vật chất có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc biến những chủ trương, Nghị quyết của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thành hiện thực đi vào cuộc sống. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn là chủ trương lớn của Đảng. Để thực hiện thành công sự nghiệp này đòi hỏi phải phát huy tối đa sức mạnh của tất cả các nguồn lực khác nhau. Trong đó nông dân Bến Tre với tư cách là một bộ phận quan trọng của nguồn lực con người, là lực lượng cơ bản, nòng cốt và chủ yếu trực tiếp tham gia vào quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, đang hàng ngày, hàng giờ biến chuyển những chủ trương, Nghị quyết của Đảng thành những việc làm cụ thể, sống động. Nhưng để thực hiện được điều này, bản thân các chủ trương, Nghị quyết của Đảng phải đáp ứng được những điều kiện: Một là, các chủ trương, Nghị quyết của Đảng phải đúng đắn, cách mạng và khoa học. Hai là, các chủ trương, Nghị quyết của Đảng phải đem lại những lợi ích thiết thực cho nhân dân, nhất là nông dân. Chỉ khi nào thỏa mãn được hai điều kiện này thì khi đó chủ trương, Nghị quyết của Đảng mới thực sự có sức sống. Ngày nay, nông dân Bến Tre với tinh thần cách mạng, với ý chí không cam chịu đói nghèo, ý chí vươn lên vượt khó là tiền đề cho việc triển khai có hiệu quả chủ trương, Nghị quyết của Đảng, nhất là phát huy một cách mạnh mẽ sức mạnh của tất cả các nguồn lực khác trong suốt quá trình thực hiện sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nói khác đi, tất cả các nguồn lực, tiềm năng, lợi thế của tỉnh nhà có được khơi dậy, phát huy một cách tối đa, triệt để hay không phải xuất phát từ chính bản thân nội tại của nó mà phải qua hoạt động của nông dân với tư cách là chủ thể tham gia trực tiếp vào quá trình lao động sản xuất. Cho nên, quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre hiện nay có thành công hay không, thành công ở mức độ nào, nhanh hay chậm phần lớn do chính người nông dân quyết định. Với một lực lượng đông đảo, không ai khác hơn chính nông dân là thành phần nòng cốt trực tiếp tham gia lao động sản xuất trong lĩnh vực nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới, tạo ra một khối lượng của cải vật chất to lớn cho xã hội và làm thay đổi diện mạo của nông thôn ngày càng văn minh, tiến bộ. Nhưng chính bản thân người nông dân nếu không có ý chí vươn lên vượt khó “lấy sức ta mà giải phóng cho ta” để làm giàu cho chính mình, cho gia đình và cho xã hội, mà lại lười biếng trong lao động, thờ ơ với thời cuộc, ỷ lại trông chờ vào chính quyền và sự trợ cấp của xã hội, thì dù có đường lối đúng đắn tới đâu, tiềm năng nguồn lực về đất đai._.n kinh doanh của ngành mình. Đặc biệt là nên tập trung ưu tiên vốn vào các vùng đang trong quá trình chuyển đổi cơ cấu cây trồng vật nuôi, vùng phát triển hàng hoá tập trung nhất là các hộ có đủ điều kiện vay vốn và làm ăn có hiệu quả như các hộ làm kinh tế trang trại. Hiện nay kinh tế trang trại ở Bến Tre có bước phát triển khá mạnh. Tính đến thời điểm ngày 01-07-2004 toàn tỉnh có 3.206 trang trại sử dụng 11.508 lao động [6, tr.1]. Các trang trại của tỉnh phát triển đa dạng về loại hình, phong phú về chủng loại sản phẩm nên đã phát huy được lợi thế của từng địa phương. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của các trang trại là thiếu vốn cho đầu tư mở rộng quy mô sản xuất. Cho nên nếu tập trung ưu tiên vốn cho các hộ làm kinh tế trang trại sẽ có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo ra nhiều việc làm, tăng thu nhập, khuyến khích làm giàu chính đáng đi đôi với xoá đói giảm nghèo và phát triển một nền nông nghiệp bền vững. Ngoài hệ thống các ngân hàng, cần chủ động tạo ra các nguồn vốn khác cho nông dân vay như quỹ hỗ trợ việc làm của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội, đặc biệt là quỹ hỗ trợ nông dân của các cấp Hội Nông dân trong tỉnh. Sẽ là rất đúng và có hiệu quả khi huy động nguồn vốn của nông dân cho nông dân vay mà đối tượng được vay là các hộ nghèo gặp nhiều khó khăn trong sản xuất và cuộc sống. Hình thức vay là tín chấp với lãi suất cực thấp. Tuy số vốn được vay cho mỗi lượt không nhiều nhưng có ý nghĩa lớn tạo điều kiện cho nông dân đầu tư sản xuất, từng bước xoá đói giảm nghèo. Đồng thời qua đó củng cố, thắt chặt hơn nữa tình làng nghĩa xóm, tinh thần tương trợ giúp đỡ nhau trong nông dân. Thứ hai, cần đẩy mạnh công tác xuất khẩu, xúc tiến thương mại, bao tiêu sản phẩm sau thu hoạch cho nông dân. Đảm bảo được đầu ra cho nông sản hàng hoá của nông dân cũng là hướng đi quan trọng giúp cho nông dân có nhiều việc làm ổn định, tăng thu nhập và cải thịên cuộc sống. Cũng như nông dân cả nước, ngày nay nông dân Bến Tre sản xuất ra các nông sản hàng hoá nhằm để tiêu thụ trên thị trường trong nước và đặc biệt là xuất khẩu ra nước ngoài. Tuy nhiên, khó khăn lớn nhất của nông dân sau thu hoạch là việc tiêu thụ nông sản. Trong khi đó nông dân chỉ sản xuất ra nông sản còn việc tìm kiếm thị trường, tự đảm đương công việc xuất khẩu là vấn đề quá khó khăn và dường như không thể thực hiện được. Cho nên, ở đây nông dân rất cần đến sự hỗ trợ của các doanh nghiệp và xuất khẩu, của các ngành chức năng hữu quan cùng phối hợp hoạt động trong việc bao tiêu sản phẩm sau thu hoạch và xuất khẩu. Cả quá trình lao động sản xuất vất vả của nông dân thật sự chỉ có ý nghĩa khi trông chờ vào một vụ mùa bội thu bán được ngay và bán được với giá cao. Nhưng điều này thì nông dân không thể tự quyết định được mà phụ thuộc vào các doanh nghiệp chế biến - xuất khẩu. Nhưng đến lượt các doanh nghiệp này lại phụ thuộc vào các thị trường xuất khẩu. Để giải quyết bài toán đầu ra cho nông sản hàng hoá của nông dân, các doanh nghiệp chế biến - xuất khẩu cần chủ động tiến hành công tác xúc tiến thương mại, củng cố các thị trường cũ, tìm kiếm mở rộng các thị trường mới. Nâng cao năng lực sản xuất của các nhà máy hiện có bằng việc đầu tư chiều sâu và mở rộng như nâng cấp nhà xưởng, đổi mới công nghệ và trang thiết bị. Hiện nay với các cơ sở công nghiệp chế biến hiện có đã phần nào đáp ứng được khả năng tiêu thụ các nông sản hàng hoá của nông dân vào những dịp chính vụ. Nhưng về lâu dài tỉnh cần đầu tư xây dựng thêm nhiều nhà máy mới tập trung vào lĩnh vực chế biến các sản phẩm từ nguồn nguyên liệu là dừa, thuỷ sản,... Đồng thời, nông dân cũng cần được sự hỗ trợ của các Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Khoa học và Công nghệ trong việc đẩy mạnh công tác khuyến nông, khuyến ngư, hướng dẫn nông dân sản xuất với những giống cây, giống con đảm bảo về chất lượng xuất khẩu. Với chương trình hành động “Chương trình phát triển xuất khẩu tỉnh Bến Tre thời kỳ 2001 - 2005” [45, tr.137] đã đem lại nhiều thành tựu quan trọng trong lĩnh vực xuất khẩu. Tổng kim ngạch xuất khẩu trong 5 năm (2001 - 2005) ước đạt 357 triệu USD [20, tr.2] và đang tiếp tục mở ra những cơ hội mới, tạo đà cho những bước phát triển tiếp theo. Cần tiếp tục phát triển mạnh các phong trào của nông dân và thực hiện tốt chính sách về động viên khen thưởng. Nông dân cả nước nói chung, nông dân Bến Tre nói riêng do đặc thù của tập quán sản xuất nên cuộc sống của người dân nông thôn qua bao đời vẫn giữ được nét đẹp văn hoá đó chính là tính cộng đồng làng xã. ở Bến Tre trong những năm gần đây, thông qua vai trò của Hội Nông dân các cấp trong tỉnh đã xây dựng và phát động nhiều phong trào quần chúng trong nông dân tạo điều kiện cho nông dân được tham gia sinh hoạt cộng đồng ngày một tốt hơn. Đây là cách làm hay, nên trong những năm tiếp theo cần tiếp tục phát triển mạnh hơn nữa các phong trào cách mạng trong nông dân điển hình là phong trào nông dân thi đua sản xuất kinh doanh giỏi và xoá đói giảm nghèo, phong trào nông dân xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, phong trào nông dân tham gia phát triển văn hoá - xã hội, quốc phòng an ninh,... Với các phong trào này đây là cơ hội cho nông dân có dịp học tập, trao đổi phổ biến kinh nghiệm, hỗ trợ lẫn nhau trong sản xuất kinh doanh, động viên, thuyết phục nhau cùng giữ gìn và phát huy những nét đẹp văn hoá của địa phương, xây dựng nông thôn mới ngày một văn minh, giàu đẹp. Trong các phong trào thi đua này, việc động viên khen thưởng kịp thời cả về vật chất lẫn tinh thần đối với các cá nhân và tập thể điển hình tiên tiến sẽ có sự tác động và sức lay chuyển rất lớn đối với nông dân. Được động viên khen thưởng sẽ giúp cho nông dân thêm nhiều phấn khởi và tự tin hơn. Từ đó ra sức phấn đấu, nổ lực nhiều hơn nữa trong lao động sản xuất để không phụ lòng tin yêu của mọi người và xã hội. Thực tế cho thấy trong tất cả các gương điển hình tiên tiến năm 2004 sau khi được khen thưởng như anh Nguyễn Văn Re (ấp Phước Hoà, xã Thạnh Phước, Bình Đại), anh Nguyễn Thanh Hùng (ấp An Bình 2, xã An Hoà Tây, Ba Tri), chị Nguyễn Thị Nguyệt Thu (ấp Tây Lộc, xã Vĩnh Thành, Chợ Lách),... là 3 trong 10 nông dân được Trung ương Hội Nông dân Việt Nam tặng bằng khen đã tiếp tục phát triển cơ nghiệp của mình lên rất mạnh, vừa làm giàu chính đáng cho bản thân vừa tạo ra nhiều việc làm ổn định cho các lao động ở địa phương. - Tập trung mọi nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, các dự án ưu tiên trên địa bàn nông thôn Do điều kiện địa hình tự nhiên nhiều bất lợi nhất là mạng lưới sông ngòi chằng chịt đã chia cắt manh mún địa hình Bến Tre hình thành nên ba dải cù lao và từ lâu đã làm cho Bến Tre luôn trong thế biệt lập với các tỉnh trong khu vực. Chính vì thế, nhiều năm qua, Bến Tre là một trong những tỉnh có hiện trạng kết cấu hạ tầng KT-XH thuộc loại kém phát triển nhất ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Cho nên phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH hiện là yêu cầu luôn được đặt ra trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Nhận thức được tầm quan trọng của kết cấu hạ tầng đối với sự phát triển KT-XH của tỉnh nhà, Đại hội Đại biểu tỉnh Đảng bộ Bến Tre lần thứ VII đã khẳng định: Khai thác mọi nguồn lực, đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế của tỉnh nhà nhanh và bền vững hơn; tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, trước nhất là công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn với đẩy nhanh xây dựng kết cấu hạ tầng; nâng cao hiệu quả xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân [16, tr.47]. Như vậy, phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn là điều kiện quan trọng nhằm nâng cao phúc lợi xã hội, cải thiện cuộc sống cho dân cư nông thôn, là nền tảng cho sự vươn lên mạnh mẽ và tạo được sức hấp dẫn của Bến Tre trong việc thu hút các nguồn vốn đầu tư. Trong đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng KT-XH để đem lại hiệu quả tốt nhất cho người nông dân nông thôn, trong phạm vi luận văn này tác giả chỉ xin đề cập đến các vấn đề quan trọng như sau: Thứ nhất, về vấn đề thuỷ lợi: công tác thuỷ lợi là một khâu không thể thiếu trong sản xuất nông nghiệp. Hệ thống các công trình thuỷ lợi luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy kinh tế nông nghiệp, nông thôn phát triển toàn diện về trồng trọt, chăn nuôi và dịch vụ ở nông thôn. Tạo điều kiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn, hình thành các vùng chuyên canh, thâm canh và cung cấp nước sinh hoạt cho dân cư nông thôn. Trong những năm qua, Bến Tre đã tập trung đầu tư nhiều công trình thuỷ lợi trong đó có những công trình lớn như cống đập Ba Lai; hệ thống thuỷ lợi Cầu Sập, Qưới Điền, đê biển Bình Đại,... Việc đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi có quy mô lớn là cần thiết và mang tính chiến lược. Nhưng đối với Bến Tre do địa hình khá phức tạp có quá nhiều sông rạch, lại giáp biển, mức độ triều cường và khả năng xâm nhập mặn là rất lớn. Cho nên chỉ với vài công trình thuỷ lợi lớn điển hình như cống đập Ba Lai không thôi thì vẫn chưa đủ sức đem lại những hiệu quả cao nhất phục vụ cho sản xuất nông nghiệp. Muốn khắc phục được tình trạng trên đòi hỏi phải có một hệ thống các công trình thuỷ lợi lớn và đồng bộ. Nhưng để xây dựng được các công trình thuỷ lợi quy mô lớn này cần phải có thời gian và nhất là phải có vốn. Vì vậy, theo tác giả, trong điều kiện như hiện nay tỉnh và các huyện nên theo hướng đầu tư xây dựng các công trình thuỷ lợi với quy mô vừa và nhỏ phục vụ cho từng tiểu khu, từng vùng cục bộ như hệ thống thuỷ lợi Cây Da, Vàm Hồ (Ba Tri), hệ thống thuỷ lợi Hương Mỹ (Mỏ Cày), cụm thuỷ lợi phục vụ kinh tế vườn tập trung ở các huyện Chợ Lách, Châu Thành, Giồng Trôm và Bắc Mỏ Cày. Thực tế cho thấy các công trình thuỷ lợi này sau khi xây dựng xong đưa vào vận hành khai thác đã phát huy tác dụng rất cao: ngăn mặn, trữ ngọt, chống lũ, cải thiện môi trường, cung cấp nước sinh hoạt đặc biệt là đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng tích cực nhất là giúp thâm canh, tăng vụ từ 2 - 3 vụ/năm năng suất bình quân đạt 40,68 tạ/ha [5, tr.62]. Có những vùng trong hệ thống thuỷ lợi Cây Da làm 3 vụ lúa/năm đạt năng suất 60 tạ/ha. Ngoài việc trồng lúa, các công trình thuỷ lợi này còn tạo điều kiện tốt cho việc chăn nuôi gia súc gia cầm, tôm cá,... Qua đó, đời sống của nông dân trong vùng có các công trình thuỷ lợi này đã được cải thiện nâng lên đáng kể. Thứ hai, về vấn đề giao thông: mạng lưới giao thông ở Bến Tre bao gồm giao thông đường bộ và giao thông đường thuỷ. Trong đó mạng lưới giao thông đường thuỷ của Bến Tre là một thế mạnh mà thiên nhiên ưu đãi, nhưng mạng lưới giao thông đường bộ lại có nhiều khó khăn. Để tạo điều kiện cho nông dân có nhiều thuận lợi trong sản xuất và đi lại, hiện nay và trong những năm tiếp theo, tỉnh tập trung phát triển giao thông nông thôn cần lưu ý các vấn đề sau: Một là, cần có tính đồng bộ trong đầu tư xây dựng mạng lưới giao thông toàn tỉnh, vừa đầu tư xây dựng các công trình giao thông trọng điểm như cầu Rạch Miễu vượt sông Tiền, cầu Hàm Luông, quốc lộ 60,... vừa chú ý xây dựng các công trình giao thông nhỏ. Trong đó nên chú trọng đến hoàn thiện hệ thống giao thông nội tỉnh nhất là giao thông nông thôn; làm cho mạng lưới giao thông trở nên hoàn chỉnh, thông suốt từ tỉnh đến huyện, xã. Để khi các công trình giao thông trọng điểm đặc biệt là cầu Rạch Miễu hoàn thành đi vào hoạt động, về cơ bản phá được thế biệt lập với các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long, lúc đó sẽ kết nối với mạng lưới giao thông trong tỉnh tạo được sự hài hoà, đồng bộ, nhịp nhàng và như vậy sẽ phát huy được hiệu quả tốt hơn trong phát triển KT-XH. Hai là, hiện nay ngoài những bến phà hiện hữu như Rạch Miễu, Hàm Luông, Cầu Ván, Tân Phú, trong những năm tiếp theo để tạo sự liên kết giao thông chặt chẽ, thông suốt giữa các dải cù lao, giữa các cù lao với các cồn trên sông giúp bà con nông dân sinh sống trên các cồn phá thế “biệt lập của biệt lập”, tỉnh cần đầu tư xây dựng các bến phà như: - Bến phà Hưng Phong: vượt một nhánh sông Hàm Luông đến cồn Hưng Phong nối liền xã Phước Long với Hưng Phong, Giồng Trôm. - Bến phà Tam Hiệp: vượt một nhánh sông Tiền đến cồn Tam Hiệp nối liền xã Phú Thuận với xã Tam Hiệp, Bình Đại. - Bến phà Mỹ Hưng: vượt sông Hàm Luông nối liền xã Mỹ Hưng (Thạnh Phú) với xã Tân Hưng (Ba Tri). - Bến phà Sơn Định: vượt sông Tiền nối liền xã Sơn Định (Chợ Lách) với huyện Cai Lậy (Tiền Giang). Đây là những vùng đặc biệt khó khăn. Trong điều kiện hiện nay khi tỉnh chưa có khả năng xây cầu nối liền giữa đất liền (cù lao) với các cồn trên sông thì việc xây dựng các bến phà này làm phương tiện vận tải thay thế các bến đò ngang vừa nhỏ vừa không đảm bảo an toàn là giải pháp hữu hiệu nhất. Có các bến phà, bà con sẽ đi lại được dễ dàng, thuận lợi hơn, qua đó rút ngắn sự cách biệt về mọi mặt cho nông dân ở các vùng này. Ba là, tiếp tục phát động mạnh hơn nữa phong trào toàn dân tham gia xây dựng giao thông nông thôn trên phạm vi toàn tỉnh. Phong trào này trong những năm qua đã tỏ ra rất có hiệu quả được đông đảo nhân dân mà nhất là nông dân đồng tình hưởng ứng. Cơ bản là vì qua phong trào này đã đem lại những lợi ích thiết thực nhất cho người dân. Hiện nay, xây dựng giao thông nông thôn cần hướng vào các việc sau: nhựa hoá, bê tông hoá các tuyến đường liên xã, liên ấp; xoá cầu khỉ thay bằng cầu bê tông và cầu thép không gian. Đây là phong trào của nhân dân nên địa phương có thể huy động sức dân là chính. Trước đây khi thực hiện phong trào này, Bến Tre đã áp dụng phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm” với tỷ lệ góp vốn 50/50. Khi phong trào đã phát triển khá mạnh, tạo được sự hưởng ứng đồng tình trong nhân dân thì cần chuyển sang phương thức mới “Nhân dân làm, Nhà nước hỗ trợ” với tỷ lệ góp vốn 80/20 và sắp tới khi phong trào này phát triển tốt hơn nữa thì sẽ chuyển sang phương thức “Nhân dân làm, Nhà nước thưởng” tức là nhân dân chủ động đứng ra huy động vốn, tổ chức thi công, tự giám sát. Đến lúc công trình hoàn thành Nhà nước thưởng 10% giá trị công trình. Đây là hướng đi hay, bởi lẽ nhân dân tự đứng ra làm thì chất lượng công trình sẽ tốt hơn. Thực hiện tốt điều này càng chứng tỏ Đảng đã phát huy được vai trò của nhân dân nói chung, nông dân nói riêng trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Thứ ba, về vấn đề cấp nước sinh hoạt nông thôn và vệ sinh môi trường: Mục đích của quá trình CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là nhằm nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc sống của dân cư nông thôn, trong đó vấn đề cấp nước sinh hoạt và vệ sinh môi trường ở nông thôn phải được quan tâm nhiều hơn, phải thật sự được xem là chương trình mục tiêu quốc gia. Đối với Bến Tre là tỉnh có nhiều sông rạch, bốn bề sông nước, nhưng một nghịch lý đang tồn tại hiện nay ở Bến Tre là tỷ lệ người dân nông thôn sử dụng nước sạch trong sinh hoạt khá thấp, tính đến cuối năm 2004 là 33% [46, tr.6]. Trong khi đó, nguồn nước ở các sông, rạch, ao, hồ ngày càng bị ô nhiễm do người dân vẫn còn thói quen xả chất thải trực tiếp trên sông rạch, do dư lượng thuốc trừ sâu. Để giảm thiểu các bệnh do sử dụng nguồn nước không hợp vệ sinh gây ra, nâng tỷ lệ dân cư nông thôn sử dụng nước sạch góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống, cải thiện điều kiện sinh hoạt thì việc triển khai xây dựng các cơ sở cấp nước sinh hoạt cho địa bàn nông thôn là rất cần thiết. Xây dựng các cơ sở này cần đầu tư đa dạng cho phù hợp với điều kiện từng vùng từ tỉnh đến huyện, xã, xóm, ấp và nhà dân như nhà máy nước, trạm cấp nước, hệ nối mạng, giếng khoan, bể chứa, lu hũ. Để cho việc đầu tư xây dựng các công trình cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường được thực hiện tốt, theo tác giả, ngoài nguồn vốn của địa phương, tỉnh cần tranh thủ các nguồn tài trợ của các tổ chức phi chính phủ, của Trung ương và đặc biệt là nên xã hội hoá trong việc cung cấp nước sinh hoạt ở nông thôn như khuyến khích tư nhân bỏ vốn đầu tư xây dựng và kinh doanh nước sạch, từng bước xây dựng hệ thống xử lý rác thải ở các thị trấn, thị tứ. Song song đó, chính quyền cơ sở thông qua hoạt động của Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động nhân dân ăn sạch, ở sạch, xây dựng các hố xí hợp vệ sinh, hướng tới một môi trường nông thôn xanh, sạch, đẹp. kết luận Bến Tre là vùng đất địa linh nhân kiệt. Trải qua cả một quá trình lâu dài, qua bao biến thiên của lịch sử, vùng đất ba dải cù lao xanh thẳm vườn dừa luôn khắc sâu, in đậm công lao của những con người - nông dân Bến Tre. Bất kỳ trong hoàn cảnh nào, nông dân Bến Tre cũng luôn là lực lượng nòng cốt đi đầu trong các phong trào cách mạng. Từ buổi đầu khai hoang, lập ấp nơi hoang vu rừng thiêng nước độc, qua bao khó khăn, gian khổ đã tạo dựng nên một vùng đất trù phú, đó là do bàn tay của nông dân làm nên. Trong đấu tranh cách mạng và nhất là trong cuộc chống Mỹ cứu nước, gần như tay không nổi lên Đồng khởi, chuyển ngoặt tình hình, đấu tranh chính trị bằng “Đội quân tóc dài” độc nhất vô nhị xưa nay với sự hy sinh to lớn 35.000 liệt sĩ, 21.000 thương binh, 2.067 Mẹ Việt Nam anh hùng. Đau thương và anh hùng, ngang nhau. Công lao vĩ đại đó cũng thuộc về nông dân. Ngày nay, với truyền thống cách mạng, lại một lần nữa nông dân Bến Tre tiếp tục khẳng định vai trò to lớn của mình là lực lượng cơ bản, chủ yếu trong phong trào “Đồng khởi mới” tiến công vào mặt trận phát triển KT-XH nhất là đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Vai trò to lớn của nông dân Bến Tre được thể hiện tập trung trên các mặt sau: Thứ nhất, nông dân Bến Tre là lực lượng vật chất có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc biến các Nghị quyết, chủ trương của Đảng về CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn thành hiện thực đi vào cuộc sống. Thứ hai, nông dân Bến Tre với tính cách là nguồn nhân lực cơ bản nhất trong sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn luôn khẳng định vai trò của mình ở chỗ là người trực tiếp tiếp thu, ứng dụng những thành tựu khoa học - kỹ thuật và công nghệ vào trong lĩnh vực sản xuất nông nghiệp; luôn gắn bó chặt chẽ, là bạn đồng hành với nhà khoa học vì sự nghiệp chung phát triển CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Thứ ba, vai trò của nông dân Bến Tre còn được thể hiện ở chỗ nông dân là người gắn bó với đất đai, với nông nghiệp. Nên không ai khác hơn chính nông dân là người có kinh nghiệm trong khai thác và sử dụng tiềm năng đất đai một cách hợp lý, hữu ích nhất. Sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn chỉ có thể thành công khi vai trò của nông dân được khơi dậy và phát huy đúng mức. Nhận thức được điều này, trong nhiều năm qua Đảng bộ Bến Tre đã có những chủ trương,chính sách đúng đắn và kịp thời; qua đó phát huy được tính tích cực, năng động, sáng tạo của nông dân góp phần đưa sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Nhưng cũng chính trong quá trình thực hiện sự nghiệp này đã và đang đặt ra những yêu cầu mới đòi hỏi nông dân phải đáp ứng trong một nền kinh tế nông nghiệp hàng hoá đó là sự cần thiết phải thay đổi trong nhận thức và tập quán sản xuất, là trình độ tri thức phải được nâng lên,... Hơn nữa, thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trong bối cảnh của nền kinh tế thị trường tất yếu buộc nông dân phải đối mặt với những thách thức không dễ gì tránh khỏi đó là hiện trạng nông dân không có đất hoặc thiếu đất sản xuất; hiện tượng phân hoá giàu nghèo, chia rẽ nội bộ, mất đoàn kết trong nông dân; là vấn đề lao động việc làm; là tình trạng ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội như cơn đại dịch đang từng ngày từng giờ xâm hại đến làng quê nông thôn vốn rất thanh bình và giàu nét văn hoá. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn không có mục đích tự thân. Thực hiện sự nghiệp này là nhằm góp phần phát triển KT-XH và nhất là phải đem lại những lợi ích thiết thực cho nông dân. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn phải do nông dân và vì nông dân. Là người trực tiếp tham gia vào quá trình này, hơn ai hết chính bản thân nông dân Bến Tre phải nỗ lực phấn đấu vươn lên vượt qua những rào cản tâm lý, tập quán cũ kỹ và lạc hậu, luôn nêu cao tinh thần cách mạng tiến công, không ngừng tự bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hoá đáp ứng ngày một tốt hơn yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp phát triển một nền nông nghiệp toàn diện theo hướng CNH, HĐH. Điều quan trọng hơn, để phát huy được vai trò to lớn của nông dân đó còn là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị cùng cộng đồng trách nhiệm, phối hợp chặt chẽ hướng về địa bàn nông thôn, lấy nông dân làm đối tượng cần được quan tâm, chia sẻ. Hơn lúc nào hết, tinh thần quyết tâm làm cho đời sống của nông dân Bến Tre ngày càng được cải thiện và nâng cao cả về vật chất lẫn tinh thần, nông thôn Bến Tre ngày càng văn minh tiến bộ phải được thể hiện bằng những chương trình hành động, bằng những việc làm cụ thể. Trong đó không ngừng nâng cao trình độ dân trí, phát triển GD - ĐT, hướng nghiệp dạy nghề, giải quyết việc làm cho nông dân là giải pháp căn bản làm nền tảng cho việc phát huy vai trò của nông dân. Bên cạnh đó, việc đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn một cách hợp lý theo hướng CNH, HĐH; việc phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH nông thôn; việc nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xã hội nghề nghiệp của nông dân cũng như những hoạt động hỗ trợ nông dân trong suốt quá trình lao động sản xuất cũng đều là những giải pháp rất cần thiết và quan trọng. Mỗi giải pháp đều có ý nghĩa, vị trí và sức tác động khác nhau đến việc phát huy vai trò của nông dân Bến Tre. ở đây, theo tác giả, Bến Tre nên tập trung mọi nguồn lực đầu tư, xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng KT-XH. Thực hiện tốt giải pháp này sẽ là cú hích quan trọng để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân Bến Tre nói chung, trong đó có nông dân. Đây cũng là mơ ước ngàn đời của nhân dân Bến Tre. Vì vậy, đây là giải pháp, đồng thời cũng là nhiệm vụ cấp bách cần được ưu tiên quan tâm, coi trọng. Sự nghiệp CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre đang trên đà tăng tốc về đích. Thành công của sự nghiệp này có phần đóng góp to lớn của nông dân. Lịch sử đã cho thấy, trong mọi trường hợp biết dựa vào nông dân, biết phát huy và phát huy có hiệu quả sức mạnh của nông dân là chìa khoá của mọi thành công. Là chủ thể tham gia trực tiếp vào quá trình này, hơn lúc nào hết, nông dân Bến Tre với truyền thống cách mạng vốn có hãy tăng cường "Đoàn kết - Thi đua - Sáng tạo" xây dựng nông thôn Bến Tre ngày càng giàu đẹp. Trong luận văn này, tác giả cũng xin được kiến nghị: Vai trò của nông dân Bến Tre là rất to lớn và được khẳng định qua các thời kỳ. Hiện nay đã đến lúc Bến Tre cần thực hiện một công trình nghiên cứu khoa học cấp tỉnh về vai trò của nông dân Bến Tre một cách công phu và nghiêm túc. Qua đó góp phần không nhỏ cho việc hoạch định các chính sách phát triển KT-XH ở địa phương, nhất là làm cơ sở lý luận cho việc phát huy vai trò của nông dân trong những năm tiếp theo được tốt hơn. Danh mục tài liệu tham khảo Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương - Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn (2002), Con đường công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hoàng Chí Bảo (1993), "ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy nguồn lực con người", Triết học, (1), tr.14 - 15. Bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường. Viện Nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học và công nghệ (1996), Chiến lược công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và cách mạng công nghệ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (chủ biên) (2002), Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam. Lý luận và thực tiễn, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Cục Thống kê Bến Tre (2005), Niên giám thống kê 2004. Cục Thống kê Bến Tre (2004), Kết quả điều tra kinh tế trang trại năm 2004. Lê Duẩn (1985), Thư vào Nam, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đặng Thị Phương Duyên (2001), Phát huy vai trò của nông dân Thái Bình trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, Luận văn thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Dự thảo các văn kiện trình Đại hội X của Đảng (Tài liệu sử dụng tại Đại hội Đảng cấp huyện, cấp tỉnh và tương đương). Đảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh uỷ Bến Tre (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VI. Đảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh uỷ Bến Tre (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VII. Đảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh uỷ Bến Tre (2002), Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 15 - NQ/TW (Hội nghị Trung ương năm khóa IX) về đẩy nhanh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001 - 2010. Đảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh uỷ Bến Tre (2003), Báo cáo kiểm điểm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII Đảng bộ tỉnh giữa nhiệm kỳ (8/2003). Đảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh uỷ Bến Tre (2004), Kết luận Hội nghị Tỉnh uỷ lần thứ 18 (khóa VII) về tiếp tục thực hiện Nghị quyết 03 của Tỉnh uỷ (khóa VI). "Phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre 1996-2000-2010". Đảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh uỷ Bến Tre (2005), Đề cương tóm tắt Báo cáo Chính trị tại Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII (nhiệm kỳ 2006 - 2010). Ngô Đình Giao (chủ biên) (1996), Suy nghĩ về công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta (một số vấn đề lý luận và thực tiễn), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh (2004), Tâm lý xã hội trong quá trình thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hội Khoa học kinh tế Việt Nam. Ban Đào tạo và phổ biến kiến thức (1998), Tài liệu tập huấn phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, (tập I, II), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hội Nông dân Việt Nam tỉnh Bến Tre (2003), Báo cáo của Ban Chấp hành Hội Nông dân tỉnh Bến Tre nhiệm kỳ V tại Đại hội đại biểu Hội Nông dân tỉnh lần thứ VI (2003 - 2008). Hội Nông dân Việt Nam tỉnh Bến Tre (2004), Bản tin nông thôn Bến Tre, (số đặc biệt chào mừng Đại hội đại biểu tỉnh Bến Tre lần thứ VI thành công tốt đẹp). Hội Nông dân Việt Nam tỉnh Bến Tre (2004), Bản tin nông thôn Bến Tre, số 04. Hội Nông dân Việt Nam tỉnh Bến Tre (2005), Kỷ yếu nông dân sản xuất kinh doanh giỏi tỉnh Bến Tre lần thứ III năm 2004. Bùi Thị Thanh Hương (2000), Đặc điểm và xu hướng biến đổi giai cấp nông dân nước ta trong giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. Nguyễn Đình Hương (chủ biên) (1999), Sản xuất và đời sống của các hộ nông dân không có đất hoặc thiếu đất ở đồng bằng sông Cửu Long. Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Nguyễn Đức Hướng (1991), Sự chuyển hướng của giai cấp nông dân trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 7, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. C.Mác - Ph.Ăngghen (1995), Toàn tập, tập 8, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (2002), Toàn tập, tập 4, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đỗ Mười (1997), Về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Thạch Phương - Đoàn Tứ (chủ biên) (2001), Địa chí Bến Tre, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Nguyễn Văn Sáu, Trần Xuân Sầm, Lê Doãn Tá (đồng chủ biên), (2002), Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trong thời kỳ đổi mới đất nước. Vấn đề và kinh nghiệm, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội. Phan Xuân Sơn (chủ biên), (2002), Các đoàn thể nhân dân với việc bảo đảm dân chủ ở cơ sở hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Đàm Văn Thọ - Vũ Hùng (1997), Mối quan hệ giữa Đảng và dân trong tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia. Viện Kinh tế học, Đỗ Hoài Nam (chủ biên) (2003), Một số vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre. Sở Khoa học và Công nghệ (2003), Kỷ yếu hoạt động khoa học và công nghệ, tập 1, tập 2. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre (2004), Niên giám Bến Tre 2001 - 2003, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre (2004), Báo cáo tình hình thực hiện Nghị quyết Hội đồng nhân dân tỉnh về phát triển kinh tế - xã hội năm 2004 và phương hướng nhiệm vụ năm 2005. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre (2005), Báo cáo tổng kết chương trình nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, dạy nghề - giải quyết việc làm và chăm sóc sức khỏe nhân dân - giai đoạn 2001 - 2005. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre (2005), Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội VII tỉnh Đảng bộ về giáo dục - đào tạo. Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre, Thanh tra tỉnh (2005), Báo cáo tình hình tiếp dân, nhận đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân (từ năm 1999 đến ngày 30/12/2004). Uỷ ban nhân dân tỉnh Bến Tre, Thanh tra tỉnh (2005), Báo cáo tình hình tiếp dân, nhận đơn thư và giải quyết khiếu nại, tố cáo công dân (từ năm 1999 đến 30/12/2004). Viện Nghiên cứu chiến lược và chính sách khoa học và công nghệ. Trung tâm hỗ trợ khoa học và công nghệ phát triển nông thôn (1997), Vấn đề phát triển công nghiệp nông thôn ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Viện Nghiên cứu con người, Hỗ Sĩ Quý (chủ biên) (2003), Con người và phát triển con người trong quan niệm của C.Mác - Ph.Ăngghen, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương. Ban Nghiên cứu chính sách phát triển nông thôn, Chu Tiến Quang (chủ biên) (2005), Huy động và sử dụng các nguồn lực trong phát triển kinh tế nông thôn. Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLA2624.doc
Tài liệu liên quan