Phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh Hà Tây

Mục lục Mục lục 1.3.5. Một số tỉnh Nam Định, Hải Dương 34 Chương 2:Thực trạng phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở hà tây 40 2.1. Tình hình phát triển các cụm, điểm công nghiệp ở Hà Tây 40 2.1.1. Đặc điểm điều kiện tự nhiên, tình hình kinh tế – xã hội và vấn đề phát triển công nghiệp ở Hà Tây 40 2.1.2. Khái quát thực trạng làng nghề ở Hà Tây 47 2.1.3. Định hướng phát triển cụm, điểm công nghiệp ở tỉnh Hà Tây 56 2.2. Những thuận lợi và khó k

doc104 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1315 | Lượt tải: 4download
Tóm tắt tài liệu Phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hăn 65 2.2.1. Thuận lợi, khó khăn và dự báo phát triển 65 2.2.2. Dự báo về thị trường tác động đến phát triển công nghiệp của Hà Tây 68 Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển cụm điểm công nghiệp ở tỉnh hà tây 71 3.1. Định hướng phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa 71 3.1.1. Phát triển công nghiệp và hệ thống các cụm, điểm công nghiệp 71 3.1.2. Phương thức phát triển và phân bố sản xuất công nghiệp và các khu công nghiệp tập trung, cụm, điểm công nghiệp và TTCN làng nghề 78 3.2. Giải pháp phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh hà tây 81 3.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô 88 3.2.2. Nhóm các giải pháp vi mô 84 3.2.3. Nhóm các giải pháp tạo môi trường điều kiện 86 3.2.4. Nhóm các giải pháp kỹ thuật 87 3.3. Tổ chức thực hiện 90 Kết luận 94 Tài liệu tham khảo 96 Ký hiệu các chữ viết tắt trong luận văn CTCP : Công ty cổ phần CT TNHH : Công ty Trách nhiệm hữu hạn CN : Công nghiệp CN-TTCN : Công nghiệp – tiểu thủ công nghiệp CCN : Cụm công nghiệp CĐCN : Cụm, điểm công nghiệp DNNN : Doanh nghiệp Nhà nước ĐCN : Điểm công nghiệp FDI : Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài KCN : Khu Công nghiệp KCX : Khu Chế xuất ODA : Vốn phát triển châu á TTCN : Tiểu thủ công nghiệp UBND : Uỷ Ban Nhân Dân USD : Đô la Mỹ VNĐ : Đồng Việt Nam GDP : Tổng sản phẩm quốc nội WTO : Tổ chức Thương mại thế giới Danh mục sơ đồ Số sơ đồ Tên sơ đồ Trang Sơ đồ 2.1 Về cơ cấu kinh tế ngành 67 Sơ đồ 3.1 Sơ đồ về cơ cấu kinh tế ngành của tỉnh Hà Tây 72 Danh mục bảng biểu TT Số biểu bảng Tên biểu bảng Trang 1 Bảng 1.1 Tình hình phát triển các cụm điểm công nghiệp làng nghề tại một số tỉnh 7 2 Bảng 2.1 Phát triển các làng nghề ở tỉnh Hà Tây đến năm 2005 và định hướng đến năm 2010 52 3 Bảng 2.2 Tổng hợp chi tiết phát triển làng nghề ở tỉnh Hà Tây giai đoạn 2001-2005 55 4 Bảng 2.3 Tổng hợp tình hình thu hút các dự án đầu tư vào các cụm, điểm công nghiệp ở tỉnh Hà Tây giai đoạn 2001-2006 63 5 Bảng 2.4 Tổng hợp quy hoạch phát triển CN – TTCN Hà Tây đến 2010, định hướng đến 2020 64 6 Bảng 2.5 Về chuyển dịch cơ cấu Công nghiệp - Xây dựng 66 7 Bảng 3.1 Kết quả sản xuất công nghiệp Hà Tây 2001-2005 71 Phần mở đầu 1. Tính cấp thiết của đề tài Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội của Đảng ta xác định: “Chúng ta phải tiếp tục nâng cao ý chí tự lực, tự cường, phát huy mọi tiềm năng, vật chất và trí tuệ của dân tộc đồng thời mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, tìm tòi bước đi, hình thức và biện pháp thích hợp xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội”. Để thực hiện được mục tiêu: Dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, điều quan trọng hàng đầu là phải cải tiến căn bản tình trạng nền kinh tế xã hội kém phát triển, chiến thắng những rào cản những lực lượng cản trở con đường và quá trình đi lên của nền kinh tế. Cương lĩnh xây dựng đất nước xác định: “Phát triển lực lượng sản xuất, công nghiệp hóa đất nước theo hướng hiện đại gắn liền với phát triển một nền nông nghiệp toàn diện là nhiệm vụ trung tâm nhằm từng bước xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, không ngừng nâng cao năng suất lao động xã hội và cải thiện đời sống nhân dân” ... “phù hợp với sự phát triển của lực lượng sản xuất, thiết lập từng bước quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa từ thấp đến cao với sự đa dạng về hình thức sở hữu”. Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X chỉ ra rằng: “Giải phóng mạnh mẽ và không ngừng phát triển sức sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân”. Đảng ta chủ trương “đẩy mạnh hơn nữa công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân”. Giai đoạn (2006 - 2010) những mục tiêu và nhiệm vụ chủ yếu là: Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển kinh tế tri thức, tạo nền tảng đưa nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020”. “Giải phóng và phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực tạo bước đột phá về xây dựng kết cấu hạ tầng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh, tăng tốc độ tăng trưởng kinh tế, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng của nước đang phát triển có thu nhập thấp”. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa với tốc độ tăng trưởng nhanh và bền vững, góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao chất lượng và hiệu quả, năng lực và sức cạnh tranh của nền kinh tế giữ vai trò quan trọng trong toàn bộ chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến 2020. Phát triển nhanh hơn công nghiệp - xây dựng cần chú ý mối quan hệ gắn kết hữu cơ giữa phát triển công nghiệp – xây dựng với phát triển dịch vụ, phát triển đô thị và phát triển về nông nghiệp hàng hóa bền vững. Đại hội X xác định: “Hoàn chỉnh quy hoạch phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp trên cả nước; hình thành các vùng công nghiệp trọng điểm; gắn việc phát triển sản xuất với bảo đảm các điều kiện sinh hoạt cho người lao động”. Như vậy, trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước thì vấn đề phát triển các cụm, điểm công nghiệp giữ vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Phát triển các cụm, điểm công nghiệp sẽ góp phần thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tiến bộ, thúc đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, giải quyết tốt, có hiệu quả đồng bộ vấn đề nông nghiệp, nông thôn, nông dân trong quá trình phát triển kinh tế – xã hội, sớm đưa nước ta trở thành nước công nghiệp vào năm 2020. Chính vì thế tỏc giả chọn đề tài: “Phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên địa bàn tỉnh Hà Tây” để nghiên cứu. 2. Tình hình nghiên cứu đề tài Trong thời gian qua đã có một số công trình nghiên cứu khoa học, luận án tiến sĩ, luận văn thạc sĩ nghiên cứu những vấn đề về công nghiệp hóa, hiện đại hóa; về công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; về các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam và ở một số địa phương khác. Nhìn chung các công trình nghiên cứu và các luận văn, luận án đã có nhiều đóng góp khoa học và tổng kết thực tiễn phong phú, những cách tiếp cận và phương pháp tiếp cận tập trung vào giải quyết các vấn đề cụ thể của công nghiệp hóa, hiện đại hóa; công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nông nghiệp nông thôn, những vấn đề về phát triển các khu công nghiệp, khu chế xuất. Tuy nhiên chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu và cụ thể về việc phát triển các cụm, điểm công nghiệp. ở đề tài nghiên cứu này chúng tôi tập trung nghiên cứu phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa theo hướng tiếp cận của kinh tế chính trị học. Đó là nghiên cứu những nguyên lý chung từ đó vận dụng vào việc phát triển cụm, điểm công nghiệp, gắn với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Từ góc độ kinh tế chính trị, hướng tiếp cận và nghiên cứu gồm: - Sự hình thành và phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Làm rõ mối quan hệ kinh tế; các thành phần kinh tế; huy động nguồn lực; huy động vốn đầu tư; các vấn đề về giải quyết việc làm; nhà ở; công tác quản lý đất đai... khi phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Thời gian nghiên cứu chủ yếu tập trung chủ yếu ở giai đoạn (2001 – 2006) từ đó chỉ ra phương hướng, giải pháp để phát triển các cụm, điểm công nghiệp vào năm sau. Địa điểm: Nghiên cứu trên địa bàn tỉnh Hà Tây. 4. Mục đích nghiên cứu - Làm rõ cơ sở lý luận về quá trình hình thành, phát triển các cụm công nghiệp, điểm công nghiệp; về công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Thực trạng về việc gắn phát triển cụm điểm công nghiệp với việc giải phóng tiềm năng sức lao động, vốn, tạo cơ sở vật chất – kỹ thuật; chuyển dịch cơ cấu kinh tế. - Phương hướng, giải pháp để tiếp tục phát triển cụm, điểm công nghiệp tại Hà Tây. 5. Phương pháp nghiên cứu - Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng và duy vật lịch sử là phương pháp chủ đạo. Ngoài ra chúng tôi còn kết hợp với các phương pháp khác như: Phương pháp điều tra, thống kê; phương pháp phân tích tổng hợp. 6. Những đóng góp của luận văn - Góp phần hệ thống hóa cơ sở lý luận đối với việc hình thành, phát triển các cụm, điểm công nghiệp như là một quá trình khách quan. - Làm sáng tỏ tính đặc thù của việc hình thành các cụm, điểm công nghiệp ở Việt Nam nói chung và Hà Tây nói riêng trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. - Phân tích thực trạng, làm rõ những nguyên nhân, kết quả; những yếu kém trong phát triển cụm, điểm công nghiệp. - Định hướng các giải pháp để hình thành và thúc đẩy phát triển cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (đặc biệt là ở Hà Tây). 7. Kết cấu luận văn: Luận văn gồm 3 chương Luận văn ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, một số biểu bảng số liệu, sơ đồ,… nội dung chính bao gồm khoảng 100 trang được kết cấu thành 3 chương, bao gồm: Chương 1 – Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hình thành phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta. Chương II – Thực trạng xây dựng và phát triển các cụm, điểm công nghiệp ở tỉnh Hà Tây Chương III – Phương hướng và giải pháp phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Hà Tây. Chương 1 Cơ sở lý luận và thực tiễn của sự hình thành và phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta 1.1. Lý luận chung về sự hình thành và phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa. 1.1.1. Khái niệm cụm, điểm công nghiệp Trong thời gian qua, các cơ sở công nghiệp của các nước đang phát triển phần lớn do hạn chế về vốn nên có quy mô vừa và nhỏ, phân bố phân tán, khả năng xử lý ô nhiễm và bảo vệ môi trường thấp. Đất đai hữu hạn, dân số ngày càng tăng. Thêm vào đó chi tiêu của Chính phủ cần phải tập trung vào việc phát triển hạ tầng cơ sở về cả hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội. Để đáp ứng yêu cầu trên, việc phát triển công nghiệp cần khuyến khích mọi thành phần kinh tế và phải tuân theo quy hoạch phát triển nhằm tiết kiệm trong đầu tư, tiết kiệm đất đai, có điều kiện để dễ dàng kiểm soát và có biện pháp bảo vệ môi trường một cách thuận lợi và hữu hiệu nhất. Bởi vậy, các nước cần tạo một môi trường thuận lợi cho các nhà đầu tư cả về môi trường pháp lý, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội để thu hút đầu tư theo quy hoạch phù hợp với phát triển kinh tế – xã hội trước mắt cũng như lâu dài của đất nước. Để thực hiện mục tiêu trên, các nước đang phát triển đã thành lập các khu vực đặc biệt với những ưu đãi về tài chính, thuận lợi về cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội để thu hút đầu tư, xuất phát từ mục tiêu đó đã dẫn tới sự hình thành các khu vực sản xuất tập trung và khái niẹm về khu, cụm, điểm công nghiệp ra đời. Cụm công nghiệp, điểm công nghiệp là khái niệm được sử dụng khá phổ biến và thường xuyên trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá của các nước tư bản, đặc biệt là sau cuộc cách mạng về khoa học công nghệ trên thế giới trong những năm 1970-1980 của thế kỷ trước. Với mô hình này đã cho phép hạ thấp chi phí sử dụng thị truờng, tạo điều kiện đổi mới các hàng hoá truyền thống và các quy trình truyền thống, Tại Việt Nam, trong quá trình phát triển của đất nước thì khái niệm cụm công nghiệp, điểm công nghiệp được ra đời từ khi có quyết định số 132/2000/QĐ-TTG ngày 24/11/2000 của Thủ Tướng chính phủ và một số ngành nông thôn. Đây là một hình thức mới với nước ta, cụm công nghiệp, điểm công nghiệp là một hình thức tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ, nó ra đời và gắn liền với quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn và đặc trưng nhất là tại các làng có nghề truyền thống. Như ta đã biết sản xuất công nghiệp được tổ chức theo ba loại hình chính đó là: theo ngành, theo thành phần kinh tế, theo lãnh thổ. Tổ chức theo ngành có nghĩa là hình thành và phát triển các chuyên ngành kinh tế – kỹ thuật thuộc các lĩnh vực khai thác chế biến và dịch vụ công nghiệp. Theo thành phần kinh tế thì được hình thành trên cơ sở các cơ sở sản xuất, kinh doanh công nghiệp tồn tại dưới các hình thức: doanh nghiệp Nhà nước, xí nghiệp liên doanh với nước ngoài, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, hợp tác xã, công ty cổ phần, CTTNHH, doanh nghiệp tư nhân, hộ kinh doanh cá thể. Theo lãnh thổ thì đó chính là việc hình thành các khu, các vùng lãnh thổ nơi tập hợp các cơ sở sản xuất kinh doanh công nghiệp. Đây chính là tiền đề để ra đời khái niệm về khu công nghiệp, cụm, điểm công nghiệp, .. Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì sản xuất theo lãnh thổ phát triển khá nhanh và có tác động tích cực chủ yếu như: - Tạo điều kiện tốt hơn để phát triển công nghiệp nhanh và bền vững nhờ: cải tiến kết cấu hạ tầng cơ sở kỹ thuật (đường xá, điện nước, thông tin liên lạc), giải quyết vấn đề môi trường do tách khu sản xuất công nghiệp với khu dân cư và có phương án xử lý chất thải công nghiệp một cách triệt để, có điều kiện ứng dụng khoa học kỹ thuật một các đầy đủ nhất. - Tạo ra sự phân bố công nghiệp đồng đều hơn, họp lý hơn giữa các vùng, các địa phưong của đất nước - Huy động được mọi nguồn lực của từng vùng, từng lãnh thổ vào phát triển công nghiệp. - Đây là loại hình tổ chức sản xuất đặc biệt phù hợp với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đến nay việc tổ chức sản xuất công nghiệp theo lãnh thổ chưa có tên gọi thống nhất giữa các địa phương, nơi gọi là cụm, điểm công nghiệp (tỉnh Hà Tây), nơi gọi là cụm công nghiệp huyện (tỉnh Nam Định), nơi gọi là cụm công nghiệp (thành phố Hà Nội)... Nhưng nói chung, khá thống nhất về quan niệm cho rằng là một địa điểm phân bố sản xuất công nghiệp tập trung bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ kinh tế gia đình nhằm khắc phục ô nhiễm môi trường, tạo kết cấu cơ sở hạ tầng tốt hơn cho phát triển sản xuất, kinh doanh công nghiệp, có ranh giới địa lý rõ ràng, có hệ thống kết cấu hạ tầng kỹ thuật chung được xây dựng đồng bộ và được thành lập theo quyết định của chính quyền địa phương (tỉnh hoặc huyện). Bảng 1.1: Tình hình phát triển các cụm điểm công nghiệp làng nghề tại một số tỉnh Tỉnh Số làng nghề của tỉnh Quy hoạch đến năm 2010 Diện tích (ha) Số cụm công nghiệp làng nghề đã xây dựng Diện tích (ha) Hà Nội 30 8 - 3 96,1 Hà Tây 201 400 10.000 157 - Bắc Ninh 62 21 460,87 15 - Nam Định 86 17 - 15 202,69 Như vậy, mục tiêu phát triển sản xuất, kinh doanh công nghiệp trên cơ sở giải quyết tốt vấn đề tạo ra kết cấu cơ sở hạ tầng kỹ thuật và môi trường. Đối tượng vào cụm điểm công nghiệp là cơ sở sản xuất, kinh doanh (doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ kinh doanh gia đình) ở làng nghề chuyển đến. Cụm, điểm công nghiệp đã Thực hiện sự tách biệt khu vực sản xuất khỏi khu vực dân cư sinh sống và được thành lập theo quyết định của Uỷ ban nhân dân địa phương (tỉnh, huyện). Trong quá trình nghiên cứu tại địa phương thì bản thân tác giả luận văn cho rằng với đặc thù là một tỉnh có số lượng làng nghề chiếm trên 20% số lượng làng nghề trên toàn quốc thì việc UBND tỉnh Hà Tây có quy định về tên gọi là cụm công nghiệp và điểm công nghiệp là khá phù hợp vói tình hình sản xuất công nghiệp của địa phương. Tóm lại, Cụm công nghiệp: là địa điểm tập trung sản xuất kinh doanh và dịch vụ phục vụ công nghiệp của các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, tách biệt với khu dân cư, có hệ thống các công trình hạ tầng kỹ thuật chung được xây dựng đồng bộ, bảo đảm đầy đủ các điều kiện để sản xuất thuận lợi, an toàn và bền vững. Cụm công nghiệp có thể nằm trong địa bàn một hoặc một số huyện do uỷ ban nhân dân tỉnh quyết định; khi lập quy hoạch xây dựng cụm công nghiệp phải bảo đảm việc kết nối đồng bộ giữa các công trình kỹ thuật hạ tầng trong và ngoài hàng rào, đảm bảo hiệu quả sử dụng đất và có một hệ thống hạ tầng xã hội tương ứng. Điểm công nghiệp: là địa điểm sản xuất và dịch vụ phục vụ cho sản xuất của các cơ sở ngành nghề ở địa phuơng (hộ gia đình, các cá nhân, tổ, nhóm hợp tác, hợp tác xã) và trong trưòng hợp cụ thể có thể có một số doanh nghiệp quy mô nhỏ tại địa phương đó các các ngành nghề phù hợp mục tiêu của điểm công nghiệp; tách bạch với khu dân cư, có hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật chung được xây dựng đồng bộ bảo đảm đầy đủ các điều kiện để sản xuất thuận lợi, an toàn và bền vững. Điểm công nghiệp chủ yếu trong địa bàn một xã (phường thị trấn), do uỷ ban nhân dân cấp huyện quyết định sau khi có ý kiến chấp thuận về chủ trương của UBND tỉnh. Phân biệt: cụm công nghiệp và điểm công nghiệp Nhìn vào 2 khái niệm về cụm công nghiệp và điểm công nghiệp, ta có thể thấy rằng giữa 2 khái niệm này có nét tương đồng, đó là: Về mục đích: cả cụm công nghiệp và cụm công nghiệp đều có mục đích là tập trung các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh công nghiệp vào một vùng có điều kiện hơn về chế độ vị trí để sản xuất kinh doanh, đảm bảo cho sự phát triển đúng định hưóng của chính quyền địa phương: quy hoạch vùng kinh tế, bảo vệ môi trường, giảm thiểu chi phí xã hội. Về cách thức tổ chức: Cụm công nghiệp và điểm công nghiệp đều có sự tách bạch vơi khu dân cư, đây cũng chính là sự cần thiết để đảm bảo ngươi dân có cuộc sống đầy đủ, không bị ảnh hưởng bởi các chất thải công nghiệp, hay ô nhiễm môi trường. Cụm điểm công nghiệp đều có một hệ thống hạ tầng kỹ thuật chung được xây dựng đồng bộ bảo đảm đầy đủ các điều kiện để các doanh nghiệp sản xuất thuận lợi nhất, an toàn nhất. Tuy nhiên bên cạnh đó thì giữa hai khái niệm này cũng có sự khác biệt: Về cấp quản lý: Cụm công nghiệp thì do UBND tỉnh ra quyết định thành lập, còn điểm công nghiệp thì đựoc phân cấp cho cấp huyện quản lý. Có thể thấy rằng, ở đây thì khái niệm cụm công nghiệp có thể nằm trên địa bàn nhiều huyện của một tỉnh do vậy do vậy cần có sự quản lý của UBND Tỉnh, còn điểm công nghiệp do chỉ nằm trên địa bàn các xã do vậy thì cấp quản lý gần nhất là UBND huyện. Về quy mô, số luợng: Cụm công nghiệp có quy mô lớn hơn diểm công nghiệp, do cụm công nghiệp tập trung các doanh nghiệp vừa và nhỏ, còn các điểm công nghiệp thì chủ yếu tập hợp các “hộ sản xuất” do vậy quy mô sẽ nhỏ hơn, Tuy nhiên thì số lượng của cụm công nghiệp lại ít hơn số lượng điểm công nghiệp, do quy mô nhỏ, mô hình gọn do vậy việc thành lập điểm công nghiệp cũng nhanh và dễ dàng hơn, điều kiện các cơ sở sản xuất kinh doanh được tham gia cũng đơn giản hơn rất nhiều. Qua sự phân biệt giữa cụm công nghiệp, điểm công nghiệp thì ta có thể thấy về cơ bản là hai loại hình tổ chức sản xuất công nghiệp này là tương đồng, có khác chăng chỉ là cấp độ và quy mô mà thôi. Điều này cũng hoàn toàn đúng vì trong phạm vi một tỉnh thì chỉ có UBND tỉnh mới có quyền có các chính sách đối với các cụm công nghiệp, điểm công nghiệp, cấp huyện và cấp xã đều phải căn cứ vào các quy định chung của tỉnh để thực hiện. Do vậy, trong luận văn chỉ tập trung đến khái niệm cụm, điểm công nghiệp để là rõ vai trò phát triển cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiẹn đại hoá. Phân biệt cụm, điểm công nghiệp với các khu công nghiệp, khu chế xuất. Khu chế xuất: Khu chế xuất có tính chất là khu vực chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, đứng ngoài chế độ mậu dịch và thuế quan của một nước được thành lập với những điều kiện, yếu tố thuận lợi về pháp lý, quản lý và kỹ thuật hạ tầng trên một địa bàn hạn chế để thu hút đầu tư của các nước phát triển đặc biệt là Công ty xuyên quốc gia. Khu chế xuất, ngày nay có các định nghĩa sau: Theo Điều lệ hợp đồng của WEPZA (Hiệp hội các Khu chế xuất thế giới) thì Khu chế xuất bao gồm tất cả các khu vực được Chính phủ các nước cho phép như cảng tự do, khu mậu dịch tự do, khu công nghiệp tự do hoặc bất kỳ khu vực ngoại thương hoặc khu vực khác được WEPZA công nhận. Định nghĩa này về cơ bản đồng nhất Khu chế xuất với khu vực WEPZA công nhận và Khu chế xuất khu vực miễn thuế. Theo Tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO), Khu chế xuất thì “Khu vực được giới hạn về hành chính, có khi về địa lý, được hưởng một chế độ thuế quan cho phép tự do nhập khẩu trang bị và sản phẩm mục đích sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Chế độ thuế quan được ban hành với những quy định luật pháp ưu đãi, chủ yếu về thuế nhằm thu hút đầu tư nước ngoài”. Với định nghĩa này, hoạt động chính trong Khu chế xuất là sản phẩm công nghiệp. Theo Qui chế KCN, KCX, – ban hành kèm theo Nghị định số 36/CP ngày 24 tháng 4 năm 1997, Khu chế xuất là “khu chuyên sản xuất hàng xuất khẩu, thực hiện các dịch vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập”. Như vậy, về cơ bản, Khu chế xuất ở Việt Nam cũng được hiểu theo như định nghĩa của UNIDO. Khu công nghiệp: Khu công nghiệp là mô hình kinh tế linh hoạt hơn, hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài – đối tượng đầu tư chủ yếu vào KCN vì họ hy vọng vào thị trường nội địa, một thị trường mới, có dung lượng lớn để tiêu thụ hàng hóa của mình. Hơn nữa, việc mở cửa thị trường nội địa cũng phù hợp với xu hướng tự do hoá mậu dịch trên thế giới và khu vực... Việc cho phép tiêu thụ hàng hóa tại thị trường trong nước không những tạo nên yếu tố kích thích cạnh tranh sản xuất trong nước, từ đó nâng cao khả năng xuất khẩu mà còn góp phần tích cực đẩy lùi và ngăn chặn hàng nhập khẩu lậu. Có hai quan niệm về khu công nghiệp, đó là: Thứ nhất, khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ rộng có nền tảng là sản xuất công nghiệp, đan xen với nhiều hoạt động dịch vụ, kể cả dịch vụ sản xuất công nghiệp, dịch vụ sinh hoạt, vui chơi giải trí, khu thương mại, văn phòng, nhà ở... Về thực chất mô hình này là khu hành chính – kinh tế đặc biệt như KCN Bat Tam, In-đô-nê-xi-a, công viên công nghiệp ở Đài Loan, Thái Lan và một số nước Tây Âu. Thứ hai, khu công nghiệp là khu vực lãnh thổ có giới hạn nhất định, ở đó tập trung các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ sản xuất công nghiệp, không có dân cư sinh sống. Mô hình này được xây dựng ở một số nước như Ma-lai-xi-a, In-đô-nê-xi-a, Thái Lan, Đài Loan. Còn theo Nghị định 36/CP thì: KCN là “khu tập trung các doanh nghiệp KCN chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống; do Chính phủ hoặc Thủ tướng chính phủ quyết định thành lập. Trong KCN có thể có doanh nghiệp chế xuất”. Như vậy, KCN ở Việt Nam được hiểu giống với định nghĩa thứ hai ở trên. Phân biệt: Đối chiếu với quy định của Nghị định 36/CP của chính phủ thì tác giả cho rằng cụm, điểm công nghiệp là một hình thức biểu hiện của khu công nghiệp. Nó thích ứng với trình độ thấp của phát triển công nghiệp nông thôn ở Việt Nam hiện nay và khác hoàn toàn với khái niệm khu chế xuất – chủ yếu liên quan đến vấn đề nước ngoài. Khác với khu công nghiệp tập trung, Cụm, điểm công nghiệp có quy mô nhỏ hơn, sản xuất thường tập trung vào một loại sản phẩm mang tên của làng nghề, điều kiện và phương tiện xử lý môi trường, kết cấu cơ sở hạ tầng kém hơn và do chính quyền địa phương (tỉnh, huyện...) quyết định thành lập. Cụm, điểm công nghiệp khác với khu công nghiệp vừa và nhỏ ở chỗ: Khu công nghiệp vừa và nhỏ bao gồm các doanh nghiệp vừa và nhỏ được hình thành chủ yếu do phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ mới, do di chuyển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở thành phố, thị xã vào để khắc phục ô nhiễm môi trường. Còn cụm, điểm công nghiệp gồm các cơ sở có xuất xứ là các hộ kinh doanh gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở làng nghề. 1.1.2. Vai trò của cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa Việc thành lập cụm công nghiệp, điểm công nghiệp có tác động rất lớn đối với sự phát triển kinh tế – xã hội của đất nước, đặc biệt là đối với sự phát triển ngnàh công nghiệp của một quốc gia. Việc phát triên cụm điểm công nghiệp cho phép tổ chức cơ cấu lại kinh tế vùng lãnh thổ, bố trí dân cư, bảo vệ môi trường, nâng cao mức sống nhân dân, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật sản xuất và xã hội cho khu vực. Vai trò phát triển cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiẹp hoá, hiện dại hoá được thể hiện trên một số mặt sau đây: 1.1.2.1.Huy động vốn đầu tư phát triển Sự hình thành và phát triển cụm, điểm công nghiệp gắn liền với những mục tiêu thành lập cụm, điểm công nghiệp và mục tiêu của nhà đầu tư. Phân tích từ giác ngộ vĩ mô, có thể tóm tắt lại mục tiêu cơ bản và thống nhất như sau: - Thu hút vốn đầu tư để phát triển theo quy hoạch Đây là mục tiêu quan trọng nhất của cụm, điểm công nghiệp. Với tính chất là “vùng lãnh thổ” hoạt động trong môi trường đầu tư chung, cụm, điểm công nghiệp trở thành công cụ hữu hiệu thu hút vốn đầu tư, để mở mang hoạt động sản xuất kinh doanh cho các hộ gia đình và các doanh nghiệp sản xuất nhỏ. Đối với các hộ sản xuất thì vấn đề mặt bằng và vốn sản xuất luôn là hai vấn đề luôn bức súc nhất. Đây chính là cái vòng luẩn quẩn của sản xuất nhỏ, các doanh nghiệp, hộ sản xuất không có điều kiện về vốn để có thể mở rộng sản xuất, đi thuê mặt bằng. Trong đó khi muốn mở rộng sản xuất, tập trung vào phát triển các sản phẩm thì lại cần vốn lớn. Việc phát triển cụm điểm công nghiệp chính là để giải quyết vấn đề này. Như ta đã biết, sự phát triển công nghiệp cần phải tuân thủ quy hoạch vùng, lãnh thổ để tránh đầu tư phân tán, lãng phí đất đai, khó kiểm soát được môi trường. Với cụm điểm công nghiệp các doanh nghiệp có điều kiện tập trung vốn để phát triển. 1.1.2.2. Giải quyết việc làm lao động Mở rộng cụm, điểm công nghiệp để tạo ra nhiều hơn chỗ làm việc là một trong những mục tiêu quan trọng của các nước phát triển. Thực tiễn cho thấy, cụm, điểm công nghiệp là công cụ hữu hiệu thực hiện chiến lược lâu dài về toàn dụng lao động ở các nước đó. Với cụm điểm công nghiệp, việc giải quyết lao động nông nhàn tại chỗ là rất phù hợp. Các doanh nghiệp trong cụm, điểm công nghiệp là các doanh nghiệp xuất phát từ sản xuất nhỏ, hộ gia đình và đặc biệt là có yếu tố làng nghề. Việc phát triển, mở rộng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp này có liên quan rất nhiều đến vân đề nghề truyền thống tại địa phưong đó. Đây chính là điều kiện để các doanh nghiệp có thể huy động lực lượng lao động tại chỗ một cách hiệu quả mà vấn đề đào tạo nghề không quá khó khăn. Đối với người nông dân thì đây cũng chính là nơi mà họ rất muốn đến. 1.1.2.3. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế Tạo địa bàn hoạt động và thực hiện chiến lược phát triển lâu dài. Xây dựng cụm, điểm công nghiệp, theo quy hoạch phát triển tổng thể về kinh tế xã hội tại những địa điểm thuận lợi vận chuyển hàng hoá, tiêu thụ sản phẩm hoặc là những nơi quy hoạch phát triển thành đô thị, khu dân cư sau này. Do vậy sẽ tạo môi trường thuận lợi cho nhà đầu tư xây dựng chiến lược phát triển lâu dài Xây dựng cụm điểm công nghiệp nhằm tạo ra năng lực sản xuất mới, thu hút lao động, tạo liên kết với các doanh nghiệp trong nước thông qua các hợp đồng gia công, cung cấp nguyên liệu là thực tế diễn ra ở nhiều doan nghiệp trong các nước. Cụm , điểm công nghiệp phát triển sẽ tạo điều kiện dẫn dắt công nghiệp phụ trợ, các dịch vụ cần thiết từ dịch vụ công nghiệp, tài chính, ngân hàng, cung cấp nguyên liệu đến dịch vụ dân sinh phục vụ lao động trong các ụm điểm công nghiệp. Đồng thời, thu hút lao động vào các cụm điểm công nghiệp cũng sẽ tạo nên sự tập trung dân cư tác động đến việc phân bố lại dân cư, tại những vùng có cụm, điểm công nghiệp để hình thành các đô thị, thành phố công nghiệp. 1.1.2.4. ứng dụng khoa học –công nghệ - Du nhập kỹ thuật, công nghệ tiên tiến và học tập kinh nghiệm quản lý của các Công ty tư bản nước ngoài. Để tránh bị tụt hậu về kinh tế, đặc biệt là trong sản xuất công nghiệp và tăng sức cạnh tranh hàng xuất khẩu trên thị trường thế giới, các nước đang phát triển muốn mau chóng phát triển khoa học kỹ thuật của mình, nâng cao trình độ quản lý kinh tế đất nước. Xây dựng cụm điểm công nghiệp để thu hút vốn đầu tư, mỏ rộng sản xuất từ đó tạo điều kiện áp dụng khoa học kỹ thuật, công nghệ, học tập kinh nghiệm quản lý kinh tế. Đaay là diều rất cần thiết đối với các doanh nghiệp sản xuất nhỏ ở nước ta khi xuất phát điêm thấp và có trìh độ lạc hậu hơn so với các nước phát triển. - Làm cầu nối hội nhập nền kinh tế trong nước với kinh tế thế giới, thúc đẩy sự phát triển kinh tế trong nước, phát huy tác dụng lan toả, dẫn dắt của cụm, điểm công nghiệp 1.1.2.5. Nâng cao hiệu quả kinh tế Đối với nhà đầu tư, mục tiêu cao nhất là thu được lợi nhuận tối đa, chi phí đầu tư thấp nhất. Do vậy đầu tư vào cụm điểm công nghiệp, nhà đầu tư được hưởng những ưu đãi riêng của nhà nước đối với cụm, điểm công nghiệp và lợi ích từ các công trình hạ tầng kỹ thuật sẵn sàng thuận lợi cho thực hiện dự án. Với nhưng lợi thế như vậy các doanh nghiệp sẽ có điều kiện giảm thiẻu đến mức tối đa chi phí sản xuất. điều đó dẫn đến giảm giá thành sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm, đáp ứng được các yêu cầu, nhu cầu của thị trưòng, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. 1.2. Nhân tố tác động và sự cần thiết phát triển cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá 1.2.1. Những nhân tố tác động đến sự hình thành và phát triển các cụm điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá - Sự phát triển của lực lượng sản xuất Sự phát triển của lực lượng sản xuất có ảnh hưởng rất lớn đến việc hình thành và phát triển cụm điểm công nghiệp nói riêng cũng như quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung. Trình độ của lực lượng sản xuất là tiêu chuẩn chung nhất, cơ bản nhất của phát triển kinh tế xã hội. Sự phát triển của lực lượng sản xuất với mức độ nhất định đã quy định sự vận động đi lên của xã hội qua đó sự chuyển tiếp từ phương thức sản xuất này sang phưong thức sản xuất khác quy định trình độ của từng yếu tố bên trong chúng. Biểu hiện của trình độ của lực lượng sản xuất là trình độ kỹ thuật và năng suất của tu liệu sản xuất, ở trình độ lành nghề và tri thức chung của nguời lao động, ở trình độ phát triển của khoa họ ông nghệ và khả năng ứng dụng chúng trong kỹ thuật và công nghệ sản xuất. Phát triển sản xuất trong các cụm, đi._.ểm công nghiệp là một quá trình chuyển giao phương thức sản xuất, từ việc sản xuất manh mún, nhỏ lẻ sang sản xuất tập trung, có nang suất cao. Vậy khi chuyển sang một phương thức sản xuất mới tiến bộ hơn thì vấn đề đặt ra là trình độ phát triển của lực lượng sản xuất có theo kịp không, mà ta đa biết là trình độ của lực lượng sản xuất không dừng lại ở việc đánh giá trình độ phát tiển của từng yếu tố riền biệt của lục lượng sản xuất. - Sự phát triển của khoa học công nghệ Trong những năm gần đây, sự phát triển của khoa học công nghệ diễn ra với tốc độ ngày càng nhanh, chu kỳ sống của một công nghệ ngày càng bị rút ngắn, Nước ta là một nước nông nghiệp sản xuất manh mún, nhỏ lẻ, trình độ khoa học công nghệ lạc hậu, chưa có nền sản xuất hiện đại. Việc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi cần phai xây dựng được một nền san xuất hiện đại, hàm lượng công nghệ ngày càng cao. Hình thành các cụm công nghiệp làng nghề là chuyển từ sản xuất phân tán, manh mún sang sản xuất tập trung, do đó thúc đẩy và tạo điều kiện đổi mới công nghệ. Nhờ có cụm công nghiệp làng nghề nên có thể áp dụng các dây chuyền công nghệ mới, có công suất lớn hơn và hiện đại hơn. Do vậy, khoa học công nghệ ảnh hưởng mạnh mẽ đến hiệu quả hoạt động của các ụm điểm công nghiệp, nó quyết định đến sự thành công hay thất bại của mỗi cụm, điểm công nghiệp. - Tính đa dạng của sản xuất hàng hoá ở nước ta, quá trình phát triển nề kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa từ một nền sản xuất nhỏ, lạc hậu thì quá trình nâng cao trình độ xã hội hoá sản xuất là xu hướng tất yếu. Để thực hiện quá trình xã hội hoá sản xuất thì đòi hỏi phải thực hiện một số quy luật khách quan của nề sản xuất hàng hoá, đó là sự đa dạng về hình thức sở hữu, về các thành phần kinh tế và các hình thức kinh tế. Với tính đa dạng của sản xuất hàng hoá thì sản phẩm làm ra là kết quả lao động của nhiều người, nhiều ngành, thậm chí là nhiều nước. Điều này có tác động lớn đến việc phát triển và vấn đề phân công lao động trong các doanh nghiệp của nước ta. Đây là vấn đề các nhà hoạch định chính ách cần rất lưu ý trong ván đề định huớng phát triển Cụm, điểm công nghiệp sao cho sản xuất phải phù hợp vói các quy luật kinh tế khách quan của thị trường, tránh chủ quan, áp đặt trong việc phát triển sản xuất. - Vai trò của Nhà nước với các chính sách vĩ mô Chính sách là một loại quyết định quản lý mà tầm ảnh hưởng của nó rộng lớn hơn các quyết định tác nghiệp, đó là những quyết định chung, hướng dẫn đối tượng quản lý thực hiện mục tiêu quản lý. Để thực hiện mục tiêu phát triển cụm, điểm công nghiệp địa phương đều có những chính sách riêng cho việc xây dựng và phát triển cụm, điểm công nghiệp. Chính sách phát triển cụm, điểm công nghiệp là các quyết định về thu hút đầu tư theo quy hoạch xác định phù hợp với phát triển kinh tế của địa phương, đảm bảo sự phân bố hợp lý về lực lượng sản xuất, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực như vốn, đất đai, nguồn tài nguyên, lao động...để tạo điều kiện thuận lợi cho các hoạt động kinh tế nhằm thực hiện chủ trương phát triển công nghiệp thực hiện chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá, chuyển dịch cơ cấu kinh tế và hội nhập kinh tế khu vực và thế giới. Điều quan trọng là chính sách phát triển cụm, điểm công nghiệp phải đảm bảo đạt mục tiêu đề ra của cơ quan Nhà nước nhưng cũng đảm bảo tính hấp dẫn với nhà đầu tư. Cụm, điểm công nghiệp có thể do Nhà nước hoặc tư nhân sở hữu nhưng đều là đối tượng của quản lý nhà nước. Nhà nước thực hiện chính sách phát triển cụm, điểm công nghiệp với ba chức năng hoạch định, điều hành và tham gia trực tiếp vào quá trình hình thành và phát triển cụm, điểm công nghiệp. Với chức năng hoạch định, nhà nước quyết định chủ chương, quy hoạch chung phát triển cụm, điểm công nghiệp; mục tiêu, phương hướng hoạt động và qui mô của từng cụm, điểm công nghiệp trên cơ sở chiến lược chung kinh tế – xã hội và chiến lược phát triển công nghiệp của đất nước. Hiện nay, vấn đề giải phóng mặt bằng, vấn đề tạo việc làm cho nông dân sau khi Nhà nước thu hồi đất để xây dựng cụm điểm công nghiệp, vấn đề chính sách ưu đãi cho các doanh nghiệp ..đã và đang ảnh hưởng rất lớn đến sự hình thành và phát triển của các cụm điểm công nghiệp - Sự phát triển của kinh tế thị trường Thực hiện công cuộc đổi mới được khởi xưóng từ Đại hội Đại biểu Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ VI, 1986, với những đổi mới căn bản về nhận thức và tư duy kinh tế mà trọng tâm là chủ trương chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường đã làm thay đổi cơ bản diện mạo các doanh nghiệp tại nước ta, các doanh nghiệp có sức cạnh tranh thấp sẽ bị đào thải theo quy luật khách quan của ơ chế thị trường, các doanh nghiệp hoạt động trong môi trường cạnh tranh tự do, bình đẳng, không phân biệt các loại hình doanh nghiệp. Cơ chế thị trường đã thực sự giúp các doanh nghiệp đứng trên “đôi chân” của mình. Trong nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay, một trong những nhân tố qun trọng hàng đầu giúp các doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh chính là chất lượng sản phẩm, trong lĩnh vực này thì cụm điểm công nghiệp có vai trò rất to lớn đối với sự phát triển của doanh nghiệp. Các dự án đầu tư trong các cụm điểm công nghiệp về cơ bản là những dự án đầu tư có tính chất chiều sâu: trang thiết bị được đổi mới, đồng bộ, chi phí được tinh giảm tới mức tối đa, phương pháp quản lý tiến bộ, tiếp cận dần với phương pháp quản lý hiện đại, phong cách của một nền sản xuất công nghiệp được hình thành. Với các lợi thế đó các san phẩm sản xuất ra có chất lượng ổn định và tốt hơn. Vì vậy đã giúp các doanh nghiệp cạnh tranh có hiệu quả trên thị trưòng và có chỗ đứng trong thị trường. Nói cách khác, với những ưu thế nhất định của mình thì các doanh nghiệp trong các cụm điểm công nghiệp có lợi thế cạnh tranh trên thị trường rõ nét hơn các doanh nghiệp ngoài hàng rào cụm điểm công nghiệp. - Quá trình hội nhập và tác động của hội nhập Quá trình hội nhập đã và đang có những tác động mãnh mẽ tới nền kinh tế Việt Nam, với chủ trương mở cửa nền kinh tế của Đảng và Nhà nước, đặc biệt là sự kiện việt Nam là thành viên thứ 150 của tổ chức thương mại thế giới WTO, việc mở cửa nền kinh tế đã đưa các doanh nghiệp nước ta đến những thời cơ mới, một thị trường mới, rộng lớn mở ra, Tuy nhiên bên cạnh đó, thì thách thức đối với nền kinh tế nước ta là rất lớn. Nước ta có xuất phát điểm thấp, các doanh nghiệp chưa có đủ năng lực thực sự để cạnh tranh trong môi trường toàn cầu, năng suất lao động còn thấp, hàm lượng khoa học công nghệ trong các sản phẩm còn yếu...Vậy một câu hỏi lớn được nêu ra là làm thế nào để các doanh nghiệp Việt Nam có thể đứng vững trong nền kinh tế thị trường trong điều kiện hội nhập mạnh mẽ hiện nay? Câu trả lời đó chính là ở các doanh nghiệp, ở sự hỗ trợ về chính sách của Nhà nước đối vói nền kinh tế. Chủ trương thành lập và phát triển các cụm, điểm công nghiệp là một chủ trương đúng, giúp các doanh nghiệp có điều kiện tốt hơn để nâng cao năng lực cạnh tranh trên thương trường, đồng thời qua đó giúp Nhà nuớc có thể có chính sách kinh tế hợp lý để có biện pháp vỹ mô đối với nền kinh tế. Đó là những định hướng vĩ mô về: ngành nghề, về thị trường, về lao động, về nguyên liệu đầu vào...Qua đó, mỗi cụm, điểm ông nghiệp sẽ phát huy được thế mạnh để có thể đưa sản phẩm của Việt Nam không những cacnhj tranh được môi trưòng trong nước mà còn vươn ra thị trưòng quốc tế. 1.2.2. Sự cần thiết phát triển cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa - Yêu cầu giải phóng sức sản xuất Trong những năm qua, với những kết quả đạt được trong việc phát triển cụm điểm công nghiệp thì nổi lên nhất chính là sức sản xuất được giải phóng, quá trình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp trong các cụm điểm công nghiệp liên tục được mở rộng, vơi qui mô ngày càng lớn. Sức cạnh tranh của các doanh nghiệp nâng cao đáng kể trong thời gian qua, thể hiện ở giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp cả nước tăng đều qua các năm từ 1996 trở lại đây (từ năm 1991 – 1996, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp cụm, điểm công nghiệp không đáng kể do các cụm, điểm công nghiệp và các doanh nghiệp mới hình thành và đi vào hoạt động. Tổng giá trị kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp, cụm, điểm công nghiệp thời kỳ kế hoạch 5 năm 1996 – 2000 đạt 6,2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 18%/năm; trong kế hoạch 5 năm 2001- 2006, giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp khu công nghiệp, cụm, điểm công nghiệp đạt trên 22,3 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 24%/năm – cao hơn tốc độ tăng trưởng bình quân giá trị xuất khẩu công nghiệp của cả nước (đạt bình quân khoảng 17%/năm). Tỷ trọng giá trị xuất khẩu của các doanh nghiệp khu công nghiệp và cụm, điểm công nghiệp trong tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước đã tăng lên từ mức khoảng 15% năm 2000 lên khoảng 20% năm 2005. Đặc biệt, giá trị xuất khẩu của các khu công nghiệp và cụm, điểm công nghiệp, doanh nghiệp chế xuất chiếm khoảng 10% tổng kim ngạch xuất khẩu của cả nước và đạt khoảng 2,9 tỷ USD trong năm 2005. Cùng với việc tăng tỷ trọng công nghiệp chế biến trong cơ cấu xuất khẩu, các doanh nghiệp còn góp phần tạo nguồn hàng để cung cấp cho nhu cầu trong nước, giảm bớt việc nhập khẩu hàng hóa từ bên ngoài. Tổng giá trị nhập khẩu của các doanh nghiệp khu công nghiệp, cụm, điểm công nghiệp thời kỳ2001 – 2005 đạt khoảng 27,3 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 32%/năm và tăng gấp 3,4 lần so với tổng giá trị nhập khẩu trong kế hoạch 5 năm 1996 – 2000. Các doanh nghiệp cụm, điểm công nghiệp bước đầu có đóng góp tích cực vào ngân sách Nhà nước, trong thời kỳ 2001 – 2005, tổng giá trị nộp ngân sách của các doanh nghiệp cụm, điểm công nghiệp tăng mạnh và đạt khoảng 2 tỷ USD, tăng bình quân khoảng 45 %/năm và gấp 6 lần so với kế hoạch 5 năm 1996 – 2000. - Yêu cầu nâng cao hiệu quả kinh tế Một trong những mục tiêu lớn nhất đối với các doanh nghiệp khi tham gia vào cụm, điểm công nghiệp là nâng cao hiệu quả kinh tế so với ngoài cụm, điểm công nghiệp. Việc phát triển cụm, điểm công nghiệp sẽ góp phần sử dụng ngày càng hiệu quả cơ sở hạ tầng và đẩy mạnh hợp tác sản xuất, tăng cường mối liên kết ngành trong phát triển kinh tế. Một trong những lợi thế thu hút đầu tư của các cụm, điểm công nghiệp là thuận lợi và sẵn có cơ sở hạ tầng kỹ thuật. Cùng với việc gia tăng diện tích thành lập mới và mở rộng hàng năm, trong thời gian qua các cụm, điểm công nghiệp đã thành lập và hoàn thành cơ sở hạ tầng, số lượng ngày càng tăng Hiệu quả sử dụng cơ sở hạ tầng gắn liền với đất của các cụm, điểm công nghiệp đang hoạt động ngày càng được nâng cao, thể hiện ở các chỉ tiêu: - Trong thời kỳ 2001 – 2005, các KCN, cụm, điểm công nghiệp cả nước đã cho thuê thêm được khoảng 7.000 ha đất công nghiệp, tỷ lệ lấp đầy các KCN, cụm, điểm công nghiệp đã vận hành tăng đều hàng năm từ 40% năm 1996 lên 50% năm 2000 và từ 55% năm 2001 lên 72% năm 2005. - Tính đến cuối tháng 12/2005, bình quân 1 ha đất công nghiệp của các KCN, cụm, điểm công nghiệp đã vận hành thu hút được 1,93 triệu USD tăng 60% so với năm 2001 (1,2 triệu USD/ha). - Giá trị sản xuất công nghiệp do 1 ha đất công nghiệp tạo ra tăng đều qua các năm từ 0,54 triệu USD/ha lên 0,76 triệu USD/ha; giá trị xuất khẩu bình quân hàng năm trong kế hoạch 2001 - 2005 đạt 0,33 USD/ha. Hiệu quả sử dụng đất cho phát triển các khu công nghiệp, cụm, điểm công nghiệp là rất rõ ràng. Cho đến thời điểm hiện nay (12/2005) theo số liệu điều tra, 1 ha đất nông nghiệp chỉ sử dụng khoảng 4-5 lao động, trong khi tại các khu công nghiệp số lượng lao động thu hút bình quân từ 80-100 người. Về giá trị sản xuất, 1 ha đất trồng trọt trung bình tạo ra khoảng 10 triệu đồng giá trị sản xuất trong khi 1 ha đất cụm, điểm công nghiệp đã cho thuê tạo ra khoảng 30 tỷ đồng. Việc hình thành các cụm, điểm công nghiệp đã góp phần tích cực làm cho nền kinh tế đất nước sống động hơn, biến tiềm năng đất đai, nguồn lực chưa được khai thác thành những của cải vật chất cụ thể, làm giàu cho đất nước, Không ít vùng nông thôn nghèo, đất đai sình lầy, hoang hóa, ít có khả năng sinh lợi, sau khi xây dựng cụm, điểm công nghiệp, thu hút được các nhà đầu tư kinh doanh, đã trở lên sầm uất, đời sống kinh tế - xã hội trong vùng như được “lột xác”. - Hướng phát triển và việc thành lập các cụm, điểm công nghiệp Định hướng phát triển kinh tế – xã hội đã góp phần quan trọng trong việc hình thành các cụm, điểm công nghiệp. Các cụm, điểm công nghiệp đã góp phần quan trọng trong việc giải quyết việc làm, nâng cao dân trí và thực hiện các chính sách xã hội. Trong điều kiện tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam còn cao và có xu hướng gia tăng như hiện nay, việc thu hút hàng chục vạn lao động vào các cụm, điểm công nghiệp trong đó có một phần đáng kể lao động nông thôn dư là một đóng góp lớn về mặt xã hội. Đóng góp của cụm, điểm công nghiệp vào giải quyết vấn đề lao động, việc làm thể hiện ở những khía cạnh sau: - Phát triển cụm, điểm công nghiệp, mở ra một không gian kinh tế rộng lớn, một kênh mới rất có tiềm năng để thu hút lao động, giải quyết việc làm cho lao động xã hội. Lực lượng lao động trong cụm, điểm công nghiệp gia tăng cùng với sự gia tăng các cụm, điểm công nghiệp thành lập mới và mở rộng các dự án hoạt động trong cụm, điểm công nghiệp. - Cụm, điểm công nghiệp là nơi sử dụng lao động có chuyên môn kỹ thuật phù hợp với công nghệ mới áp dụng vào sản xuất đạt trình độ khu vực và quốc tế. Do đó, cụm, điểm công nghiệp đóng góp rất lớn vào đào tạo nguồn nhân lực cho Việt Nam để hình thành đội ngũ lao động của nền công nghiệp hiện đại. - Phát triển cụm, điểm công nghiệp đồng nghĩa với hình thành và phát triển mạnh mẽ thị trường lao động, nhất là thị trường lao động trình độ trung bình ở nước ta. Hiện nay, lao động làm công ăn lương ở nước ta có khoảng 25,6% (khoảng 11 triệu lao động) thì 80% tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm, các thành phố lớn, KCN, cụm, điểm công nghiệp. Đây là một sự tác động rất lớn của khu công nghiệp, cụm, điểm công nghiệp đến phát triển thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong xu thế hội nhập ở nước ta. - Đây là môi trường rất tốt để đào tạo, chuyển giao khoa học quản lý cho đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp của Việt Nam để có thể tiếp cận cách thức, phương thức quản lý chuyên nghiệp Cụm, điểm công nghiệp đã góp phần nhất định vào việc bảo vệ môi trường sinh thái - Cụm, điểm công nghiệp là nơi tập trung các doanh nghiệp công nghiệp, do đó có điều kiện tập trung các chất thải do các doanh nghiệp thải ra để xử lý, tránh tình trạng khó kiểm soát hoạt động của các doanh nghiệp do phân tán về địa điểm sản xuất. - cụm, điểm công nghiệp góp phần thực hiện mục tiêu di dời các cơ sở sản xuất từ nội đô vào, do đó góp phần giải quyết ô nhiễm đô thị, xử lý tập trung ô nhiễm. - Thực tế cho thấy một số các cụm, điểm công nghiệp thực hiện rất tốt và hài hòa mục tiêu thu hút đầu tư với giải quyết vấn đề về môi trường, thực sự là những “công viên công nghiệp”, - Nhà nước tổ chức thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá Phát triển nền kinh tế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của Nhà nước là phương châm phát triển kinh tế xã hội nước ta. Vai trò định hướng của Nhà nước trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là rất quan trọng. đặc biệt trong vấn đề cơ chế chính sách phát triển công nghiệp, vấn đề tổ chức cách thức sản xuất công nghiệp. Trong thời gian qua, với định hướng tổ chức của Nhà nước thì cụm, điểm công nghiệp có đóng góp không nhỏ vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế của các địa phương theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đa doanh nghiệp hóa ngành nghề, nâng cao trình độ công nghệ và khả năng cạnh tranh của sản phẩm, góp phần chuyển dịch cơ cấu và tăng trưởng kinh tế chung của cả nước và mở rộng mối quan hệ hợp tác quốc tế. Một trong những mục tiêu nhằm thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa là chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa trong phạm vi địa phương và trên cả nước. Trong những năm qua, các KCN, cụm, điểm công nghiệp đã là một công cụ hữu hiệu để Nhà nước và chính quyền địa phương thu hút các doanh nghiệp công nghiệp và dịch vụ công nghiệp để thực hiện mục tiêu này. Thúc đẩy quá trình tập trung hoá sản xuất Hoạt động của các cụm, điểm công nghiệp mặc dù mới được 15 năm nhưng bước đầu đã có những tác động lan tỏa tích cực ở một số mặt cụ thể như: - Cụm, điểm công nghiệp mở rộng mối liên kết ngành và liên kết vùng tập trung xung quanh cụm, điểm công nghiệp. Liên kết ngành trong cụm, điểm công nghiệp bước đầu đã có những kết quả nhất định thực hiện trong phạm vi nội bộ cụm, điểm công nghiệp bởi những ngành nghề bổ trợ lẫn nhau, đặc biệt là các doanh nghiệp đầu tư trong cụm, điểm công nghiệp đã tạo điều kiện cho các ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào cho các doanh nghiệp cụm, điểm công nghiệp hoặc bản thân các doanh nghiệp trong các cụm, điểm công nghiệp có điều kiện tiêu thụ sản phẩm tại các cơ sở kinh doanh xung quanh cụm, điểm công nghiệp. - Các cụm, điểm công nghiệp ra đời đã tạo nên pnhững vùng công nghiệp tập trung, tác động rất tích cực tới việc phát triển các cơ sở nguyên liệu, thúc đẩy phát triển các loại hình dịch vụ phục vụ công nghiệp, nâng cao giá trị nông sản hàng hóa, nâng cao hiệu quả tổng hợp của các ngành sản xuất. Hiệu quả này đặc biệt rõ nét ở các cụm, điểm công nghiệp thuộc vùng đồng bằng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long, các doanh nghiệp chế biến tại KCN tại Nam Định, Hà Nam, Bắc Giang, Cần Thơ... góp phần tiêu thụ nông sản của các hộ gia đình, cơ sở nông nghiệp ở vùng nông thôn xung quanh, cải thiện một bước đời sống nông dân. Trong quá trình thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, đặc biệt là trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay, cụm, điểm công nghiệp với vai trò thu hút và đa dạng hóa các nguồn lực đầu tư đã thực sự có đóng góp không nhỏ trong việc huy động nguồn lực vào thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. 1.2.3. Nội dung quản lý Nhà nước với sự phát triển cụm điểm công nghiệp Xây dựng chiến lược phát triển cụm, điểm công nghiệp Trên cơ sở kế hoạch phát triển kinh tế – xã hội của địa phương, chiến lược phát triển vùng, lãnh thổ, chiến lược phát triển công nghiệp, chiến lược mậu dịch quốc tế, địa phuơng xây dựng chiến lược phát triển cụm, điểm công nghiệp. Bởi vậy khi xây dựng chiến lược phát triển cụm, điểm công nghiệp phải nghiên cứu tổng hợp các điều kiện tự nhiên và xã hội trong chiến lược phát triển kinh tế chung. Xây dựng chiến lược phát triển cụm, điểm công nghiệp phải tạo được bước đi phù hợp với khả năng của vùng về tài chính, thu hút đầu tư của từng thời kỳ. Phát triển cụm, điểm công nghiệp cũng phải tính đến sự phân bố lực lượng sản xuất, trên lãnh thổ nhằm đảm bảo sử dụng có hiệu quả các nguồn và bảo vệ môi trường, môi sinh. Đồng thời phát triển cụm, điểm công nghiệp cũng cần xem xét đến tính cân đối trong phát triển khu vực, lãnh thổ và tính phát triển bền vững. Phát triển cụm, điểm công nghiệp cũng cần phải tính đến sự phát triển hài hoà giữa các vùng, lãnh thổ, tận dụng được lợi thế so sánh giữa các vùng, lãnh thổ để đảm bảo sự phát triển cân đối hợp lý chung của cả nước. Hệ thống biện pháp ưu đãi về kinh tế Việc xây dựng và áp dụng các biện pháp ưu đãi kinh tế xuất phát từ lợi ích của nước nhà và lợi ích lâu dài của nhà đầu tư. Các biện pháp ưu đãi kinh tế áp dụng tại cụm, điểm công nghiệp phải đảm bảo tính cạnh tranh cao đối với ngoài cụm, điểm công nghiệp; bình đẳng, các bên cùng có lợi, được thể chế hoá về mặt pháp lý. Đồng thời các biện pháp này cũng được điều chỉnh linh hoạt để theo kịp những biến động, thay đổi tình hình chính trị, kinh tế – xã hội. Các ưu đãi về kinh tế hấp dẫn, tính cạnh tranh cao nhưng cũng cần phải đảm bảo tính ổn định lâu dài để đảm bảo quyền lợi của nhà đầu tư. Các biện pháp ưu đãi kinh tế đối với cụm, điểm công nghiệp bao gồm: - ưu đãi thuế so với doanh nghiệp ngoài cụm, điểm công nghiệp và ổn định. - Hỗ trợ về tài chính như vay vốn ưu đãi, thuê đất, thuê hoặc mua nhà xưởng với giá thấp, khấu hao tài sản nhanh, ngoại đối... - Giá cả hợp lý, ổn định. Phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội Khi chọn địa điểm thực hiện dự án, nhà đầu tư cũng thường quan tâm đến cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội của khu vực vì nó đảm bảo cho các hoạt động kinh tế sau này. Công trình hạ tầng kỹ thuật bao gồm công trình trong hàng rào và ngoài hàng rào cụm, điểm công nghiệp. Công trình hạ tầng kỹ thuật ngoài hàng rào là công trình phụ thuộc vào quy hoạch phát triển vùng, lãnh thổ và đòi hỏi vốn lớn. Vì vậy, nhà nước thường phải sử dụng ngân sách để đầu tư hoặc phải có cơ chế để huy động vốn các thành phần kinh tế khác tham gia như phương thức BOT, BO, BT... Đối với công trình hạ tầng kỹ thuật trong hàng rào cụm, điểm công nghiệp, thông thường huy động các nguồn vốn của các doanh nghiệp và tư nhân. Đây thực chất là doanh nghiệp đất đai và bất động sản dễ thu lợi nhuận cao nhưng lại phụ thuộc vào khả năng thu hút đầu tư nên rủi ro cũng lớn. Việc cho doanh nghiệp tiến hành kinh doanh cơ sở hạ tầng cụm, điểm công nghiệp là biện pháp huy động các nguồn vốn trong xã hội để san sẻ gánh nặng cho ngân sách và tận dụng vốn và khả năng kêu gọi đầu tư của các nhà đầu tư phát triển hạ tầng. Phát triển cụm, điểm công nghiệp có tác dụng lan toả về kinh tế và xã hội của vùng, lãnh thổ như áp lực lên hệ thống cơ sở hạ tầng kỹ thuật, tạo nên hiện tượng tập trung lao động, làm hạt nhân hình thành đô thị công nghiệp... Cũng như các công trình hạ tầng ngoài hàng rào, công trình hạ tầng kỹ thuật phải được nhà nước thực hiện trước một bước và đảm bảo cho sự phát triển lâu dài của cụm, điểm công nghiệp và của vùng, lãnh thổ Chính sách quản lý thích hợp, thuận lợi cho nhà đầu tư Cho nhà đầu tư luôn mong muốn hoạt động trong môi trường có thủ tục đơn giản, được giải quyết nhanh chóng thuận lợi. Nếu hoạt động trong môi trường có cơ chế quản lý rườm rà, chậm chạp, quan liêu, giấy tờ, phiền nhiễu, tốn kém thời gian sẽ có làm cho các nhà đầu tư nản lòng vì họ có thể mất đi cơ hội trong kinh doanh, tốn kém thời gian, tiền bạc. Đối với cụm, điểm công nghiệp việc xây dựng một cơ chế quản lý đặc biệt, khác với cơ chế quản lý thông thường là một trong những nội dung quan trọng trong việc xây dựng môi trường đầu tư. Quản lý nhà nước đối với phát triển cụm, điểm công nghiệp được xây dựng tuỳ thuộc vào thể chế, điều kiện của mỗi địa phuơng trong từng thời kỳ. Bộ máy quản lý cụm, điểm công nghiệp gọn nhẹ, tinh giản, có đầy đủ chức năng, quyền hạn để đưa ra những quyết định kịp thời trước những yêu cầu của các nhà đầu tư trong các hoạt động kinh tế, đồng thời cũng có thể giám sát, quản lý một cách có hiệu quả các hoạt động kinh tế trong cụm, điểm công nghiệp hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng can thiệp trực tiếp của nhiều cơ quan nhà nước. Bộ máy quản lý đòi hỏi phải có đội ngũ công chức có tinh thần trách nhiệm, có năng lực chuyên môn phù hợp với nhiệm vụ và xu thế phát triển chung. Chính sách về xúc tiến và vận động đầu tư Nhà đầu tư không mong muốn đầu tư vào một địa bàn không ổn định chính trị, có chính sách, luật pháp thay đổi tuỳ tiện bất lợi, không cởi mở, không chân thành, thiếu thiện ý và bất bình đẳng. Công tác xúc tiến và vận động đầu tư là quá trình có ý nghĩa hết sức quan trọng với mục đích giới thiệu môi trường đầu tư, hệ thống pháp luật, ưu đãi và các điều kiện đầu tư vào cụm, điểm công nghiệp nhằm rút ngắn thời gian tìm hiểu, đi lại của nhà đầu tư. Nhà nước phải chủ động và tạo mọi điều kiện về cơ sở vật chất và tài chính cho hoạt động này. Trong công tác vận động, xúc tiến đầu tư, nhà nước cũng cần có sách lược như lựa chọn đối tác, khu vực nhằm có thể tranh thủ tối đa nguồn vốn, công nghệ và thị trường tiêu thụ sản phẩm đáp ứng nhu cầu phát triển của vùng. 1.3. Kinh nghiệm phát triển về khu, cụm, điểm công nghiệp 1.3.1. Chính sách phát triển khu, cụm, điểm công nghiệp ở Đài Loan Nhằm thực hiện chính sách phát triển công nghiệp và quản lý môi trường, trong thời gian đầu, Đài Loan phát triển các khu chế xuất, tiếp theo là các khu công nghiệp, cụm công nghiệp. Năm 1960, Chính phủ Đài Loan ban hành Bộ Luật khuyến khích đầu tư và tiếp sau đó là Bộ luật nâng cấp sản nghiệp. Hơn 30 năm qua, Đài Loan đã có 95 KCN, CĐCN được hoạch định với tổng diện tích hơn 13000 ha đã được hoàn thành và 19 KCN,CCN với tổng diện tích hơn 19800 ha đang trong quá trình xây dựng. Riêng các KCN,CĐCN đã hoàn thành, thu hút được gần 9.400 nhà máy với hơn 35 vạn lao động trực tiếp đã là nguồn động lực quan trọng cho sự tăng trưởng sản xuất công nghiệp ở Đài Loan. Nói đến thành công về KCN, CĐCN, KCX ở Đài Loan phải kể đến sự thành công của các KCX Cao Hùng (60ha), Nam Tử (98ha), Đài Trung (25ha). Sau 27 năm hoạt động, 3 KCX này đã thu được 20 tỷ USD lợi nhuận và tạo việc làm cho 96000 lao động. Các doanh nghiệp đầu tư vào KCN, CĐCN, KCX được hưởng những ưu đãi về tài chính và quản lý. Cơ quan quản lý KCX ở Đài Loan thực hiện việc quản lý KCX theo cơ chế dịch vụ một cửa từ việc xét duyệt đầu tư, cho thuê mặt bằng đến việc cung cấp các dịch vụ. Tuy nhiên, do vấn đề lao động, công nghệ và ô nhiễm môi trường hiện nay trong các KCN, CĐCN, KCX đã thúc đẩy các nhà đầu tư di chuyển cách ngành đòi hỏi nhiều lao động, công nghiệp thấp, dễ gây ô nhiễm sang các nước khác để phát triển những ngành có hàm lượng chất xám cao, công nghiệp cao,sản xuất các sản phẩm có giá trị kinh tế cao. 1.3.2. Chính sách phát triển KCN, CĐCN ở Thái Lan Thái Lan phát triển mô hình KCN, CĐCN, KCX từ năm 1970. Mô hình KCN, CĐCN, KCX của Thái Lan là mô hình KCN, CĐCN tập trung tổng hợp, bao gồm KCN, CĐCN, KCX và các khu dịch vụ. Cho đến cuối năm 2000, Thái Lan có 55 KCN, CĐCN tập trung với tổng diện tích hơn 14000 ha. Khu công nghiệp của Thái Lan được phân bố theo ba vùng. Vùng I, bao gồm Bangkok và 5 tỉnh lân cận, có 11 KCN, CĐCN được thành lập với tổng diện tích gần 2800 ha. Vùng II, bao gồm 12 tỉnh tiếp theo có19 KCN, CĐCN được thành lập có tổng diện tích 5300ha. Vùng III, bao gồm 58 tỉnh còn lại, có 25 KCN, CĐCN được thành lập với tổng diện tích 5900ha. Trong số KCN Maptaphut là KCN lớn nhất với diện tích 1180ha; bên cạnh đó cũng có KCN, CĐCN có quy mô diện tích nhỏ vài chục ha. Các KCN, CĐCN Thái Lan có thể do Nhà nước, tư nhân sở hữu hoặc thông qua một Tổng Công ty Nhà nước là Industrial Estates Authority of Thailand (IEAT) hoặc Cơ quan đầu tư Thái Lan – Board of Investment (BOI); hoặc thuộc Bộ Công nghiệp Thái Lan hoặc liên doanh với IEAT. Do vậy, phương thức đầu tư xây dựng kinh doanh cơ sở hạ tầng cũng đa dạng. Nhà đầu tư thứ cấp mua đất có thời hạn hoặc thuê đất trong KCN, CĐCN đã phát triển hạ tầng. Đầu tư vào các KCN, CĐCN Thái Lan, các nhà đầu tư được hưởng ưu đãi về thuế, phí, giá và cơ chế quản lý một cửa. Các ưu đãi về tài chính được xác định theo vùng ưu đãi đầu tư. Vùng III là vùng ưu đãi nhất. Đồng thời, Thái Lan cũng quy hoạch ngành theo vùng ưu đãi đầu tư. Nhiều ngành công nghiệp không được phép đầu tư vào Vùng I mà chỉ được phép đầu tư vào vùng II hoặc vùng III. Ví dụ như ngành sản xuất các sản phẩm cao su, caramic, sứ, kính và chế tạo dụng cụ... phải đặt ở vùng II hoặc vùng III; ngành sản xuất thức ăn gia súc, dầu thực vật, nước uống coca, đường ăn, sản phẩm may mặc thông thường, lưới đánh cá... phải đặt ở vùng III. Nhìn chung các ngành cần nhiều lao động giản đơn, dễ gây ô nhiễm, cần sử dụng nguyên liệu ngành nông nghiệp được quy hoạch xa Băng Cốc và 5 tỉnh lân cận. Đây cũng là kinh nghiệm đối với Việt Nam trong việc thu hút đầu tư theo quy hoạch và bố trí các cơ sở công nghiệp. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hoạt động, Thái Lan cũng áp dụng mô hình quản lý dịch vụ “một cửa” đối với KCN, CĐCN. Các doanh nghiệp đầu tư vào KCN xin ưu đãi và các thủ tục liên quan tại EAIT, EAIT có đại diện của các Bộ, Ngành tham gia và có cơ quan thường trú đóng tại các vùng, các KCN. EAIT như một doanh nghiệp Nhà nước có nhiệm vụ đầu tư xây dựng và kinh doanh đất đai, cơ sở hạ tầng, đồng thời có chức năng theo luật được cấp chứng nhận ưu đãi cho doanh nghiệp, hướng dẫn đầu tư, chịu tn xúc tiến kêu gọi đầu tư vào KCN, CĐCN. Hiện nay, cơ chế này hoạt động rất có hiệu quả. 1.3.3. Chính sách phát triển KCN, CĐCN, khu thương mại tự do ở Malaixia Thực hiện chính sách phát triển theo quy hoạch, Chính phủ Malaixia cũng phát triển mô hình KCN, CĐCN từ năm 1970. Tính đến năm 1997, đã có 206 KCN, CĐCN và 14 khu tự do được thành lập với tổng diện tích hơn 30 nghìn ha. Chính phủ Malaixia cũng khuyến khích khu vực tư nhân phát triển các KCN, CĐCN (24 khu). Hầu hết các ngành sản xuất công nghiệp đều tập trung trong các KCN, CĐCN. Việc quy hoạch phát triển KCN, CĐCN do các cơ quan Trung ương đảm nhận. Cụ thể là Bộ tài chính quyết định địa điểm xây dựng KCN, CĐCN. Về phát triển cơ sở hạ tầng, mỗi bang của Malaixia thành lập tổng Công ty phát triển (SEDC) có nhiệm vụ không chỉ mua đất xây dựng hạ tầng trong các KCN, CĐCN để bán hoặc cho thuê lại mà còn có nhiệm vụ xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực và kinh doanh các công trình khác như nhà ở, khu vui chơi giải trí, bến cảng, hệ thống cấp điện, cấp nước. Với phương thức này, việc phát triển hạ tầng tuân thủ theo quy hoạch được thực hiện tốt và đồng bộ. Về quản lý Nhà nước, để quản lý hoạt động của các KCN, CĐCN, Khu thương mại tự do, Chính quyền địa phương các Bang được giao nhiệm vụ quản lý toàn diện các hoạt động của doanh nghiệp. Chủ đầu tư đăng ký thành lập doanh nghiệp tại Bộ Công thương; xin giấy phép đầu tư tại Uỷ ban đầu tư (MIDA) và xin hưởng ưu đãi về thuế tại Bộ Tài chính, nhưng các cơ quan này có đại diện thường trú ở các Bang. Sản phẩm sản xuất tại các khu thương mại tự do được phép bán vào nội địa một tỷ lệ nhất định (khoảng 20%) và phải nộp thuế như hàng hóa nhập khẩu. 1.3.4. Chính sách phát triển đặc khu kinh tế ở Trung Quốc Chính phủ Trung Quốc chủ trương phát triển kinh tế vùng ven biển bằng việc xây dựng các đặc khu kinh tế. Ngoài ra, Trung Quốc cũng chủ trương phát triển kinh tế biên mậu. Từ năm 1997 đến nay, Trung Quốc đã xây dựng 5 đặc khu kinh tế là ở Thâm Quyến (327,5km2), Chu Hải (15,2km2), Sán Dầu (52,6km2), Hạ Môn (131km2) và sau đó Hải N._.ã Tản Hồng, Ba Vì), Nhị Khê (Thường Tín), Chàng Sơn (Thạch Thất), Làng nghề mộc mỹ nghệ (Vạn Điểm), Làng nghề sơn khảm Ngọ Hạ (Phú Xuyên), Làng nghề đồ gỗ Chanh Thôn (Phú Xuyên), Làng nghề sơn mài mỹ nghệ Duyên Thái (Thường Tín), Làng nghề khảm trai (Phú Xuyên). - Các làng nghề cơ khí: Làng nghề rèn Đa Sỹ (Thị xã Hà Đông), Làng nghề sản xuất kim khí Phùng Xá (Thạch Thất), Thanh Thùy (Thanh Oai). - Làng nghề chế biến nông sản: Minh Khai (Hoài Đức), Liên Hiệp (Phúc Thọ), chế biến miến dong ở Cự Đà, Cự Khê (Thanh Oai). - Làng nghề may, da giầy: Làng nghề may Vân Tứ (Phú Xuyên), giầy da Giã Hạ (Phú Xuyên). - Làng nghề mây tre đan: Làng nghề nón Chuông (Thanh Oai), Minh Châu (Ba Vì), Làng nghề đan lồng chim Chan Hoạch (Thanh Oai), Làng nghề đan lát mây tre Ninh Sở (Thường Tín). - Phát triển các nghề chế biến trái cây như chế biến ô mai, nước mơ, rượu mơ, xi rô mơ từ cây mơ Hương Tích. 3.2. Giải pháp phát triển các cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh hà tây 3.2.1. Nhóm giải pháp vĩ mô Quy hoạch phải đi trước một bước: kết hợp ngành với lãnh thổ, phù hợp với định hướng chiến lược phát triển kinh tế xã họi của địa phương - Thường xuyên nắm bắt các quy hoạch, chương trình của Chính phủ, Bộ Công nghiệp và các Bộ ngành Trung ương, của vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ, vùng Thủ đô Hà Nội, các ngành, địa phương liên quan trong tỉnh và nhu cầu thực tế để thường xuyên nghiên cứu rà soát bổ sung điều chỉnh cho phù hợp với thực tế. Xây dựng các quy hoạch, chương trình, kế hoạch, dự án chuyên ngành với tiến độ cụ thể để triển khai thực hiện. - Tập trung xây dựng hoàn chỉnh trong năm 2006 – 2007 khu công nghiệp Bắc Phú Cát và giai đoạn I khu công nghệ cao Hòa Lạc và 19 cụm công nghiệp, 52 điểm công nghiệp – TTCN làng nghề đã và đang xây dựng; trong đó hoàn thiện mô hình thí điểm một số cụm, điểm công nghiệp – TTCN làng nghề như cụm công nghiệp thị trấn Phùng, cụm công nghiệp Thanh Oai, các điểm công nghiệp Phùng Xá, La Phù, Vạn Điểm... để nhân ra diện rộng. Triển khai mới một số cụm công nghiệp như: Phụng Hiệp, Châu Can, Bắc Vân Đình. Xác định mốc giới các khu, cụm, điểm chưa triển khai để đưa vào kế hoạch sử dụng đất và không chuyển mục đích sử dụng khác. Chuẩn bị các điểm mới cho các cụm công nghiệp chuyên ngành của các tập đoàn thuộc Trung ương, Hà Nội và nước ngoài, nghiên cứu thí điểm các khu liên hợp công nghiệp đô thị và thương mại để áp dụng cho các khu chưa xây dựng. Hoàn thiện cơ chế chính sách, tăng cường sự phối hợp hoạt động giữa các cơ quan chức năng - Vận dụng linh hoạt các chính sách của Trung ương, của tỉnh để hướng dẫn các địa phương, các cơ sở sản xuất, các làng nghề xây dựng chiến lược phát triển CN-TTCN và kế hoạch thực hiện phù hợp với từng giai đoạn cụ thể. - Phối hợp với ngành Nông nghiệp và các ngành hữu quan quy hoạch các vùng nuôi, trồng nguyên liệu cung cấp cho sản xuất công nghiệp – TTCN trong tỉnh, quan tâm đến công nghiệp chế biến nông sản thực phẩm, sản phẩm lâm nghiệp, hàng thủ công mỹ nghệ. - Xây dựng cơ chế khuyến khích các hộ nông dân, các hợp tác xã, nông trường... tham gia phát triển vùng nguyên liệu, đảm bảo thống nhất về chủng loại, đủ về số lượng cung cấp cho sản xuất công nghiệp – TTCN ở các làng nghề trên cơ sở quy hoạch phát triển công nghiệp – TTCN để đảm bảo sản xuất ổn định, duy trì được các làng nghề truyền thống. - Tăng cường kinh phí khuyến nông và sử dụng có hiệu quả nguồn kinh phí này vào công tác hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp, mở các lớp đào tạo, nhân, cấy truyền nghề. - Tổ chức ký kết hợp tác cấp tỉnh, cấp huyện với các tỉnh bạn, đồng thời xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích các tổ chức, cá nhân thu mua nguyên liệu của tỉnh bạn, cung cấp cho các ngành nghề CN-TTCN, xây dựng kế hoạch nhập khẩu nguyên, vật liệu khác đáp ứng cho các làng nghề SXCN-TTCN. Đổi mới chính sách: khuyến khích mọi thành phần kinh tế, Tăng cường thu hút đầu tư, nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng các công cụ tài chính - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống các cơ chế chính sách, các quy định hiện hành có liên quan của tỉnh; trong đó có chính sách khuyến công, chính sách khuyến khích thu hút đầu tư, đổi mới thiết bị, công nghệ; quy chế quản lý đầu tư phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp, quy chế quản lý sau đầu tư... - Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 14 NQ/TU ngày 4/6/2005 của Tỉnh ủy về nâng cao năng lực cạnh tranh về môi trường đầu tư; Nghị quyết của Tỉnh ủy về đẩy mạnh cải cách hành chính, thực hiện triệt để cơ chế “một cửa”, đảm bảo thông thoáng, ít phiền hà, giải quyết công việc nhanh gọn, hiệu quả; phấn đấu môi trường đầu tư thuận lợi hơn xung quanh Hà Nội. - Xây dựng danh mục các mặt hàng công nghiệp chủ yếu của tỉnh để tập trung khuyến khích hỗ trợ phát triển và thu hút đầu tư. - Hoàn thiện danh mục các dự án kêu gọi đầu tư để tuyên truyền thường xuyên trên các diễn đàn, phương tiện thông tin trong và ngoài nước, tổ chức phân công theo dõi nắm bắt kịp thời các nhu cầu đầu tư và di dời của Trung ương, Hà Nội và nước ngoài. Để đáp ứng được phần lớn nhu cầu về vốn cho đầu tư phát triển Công nghiệp – TTCN của tỉnh, cần có biện pháp tích cực sau đây: - Lập kế hoạch chi tiết về tiến độ xây dựng và thu hút đầu tư trong nước và nước ngoài và các khu, cụm, điểm công nghiệp; Khuyến khích các doanh nghiệp bỏ vốn đầu tư, kinh doanh hạ tầng các khu, cụm, điểm công nghiệp theo các hình thức BT, BOT. - Đảm bảo vốn từ ngân sách Nhà nước (từ ngân sách Trung ương, ngân sách địa phương, bao gồm cả từ nguồn đấu giá sử dụng ở địa phương có khu, cụm, điểm công nghiệp và vốn ODA) cho các nhu cầu nghiên cứu khảo sát lập các dự án, chương trình và xây dựng các công trình ngoài hàng rào, hỗ trợ lãi xuất đầu tư cụm, điểm công nghiệp; Từng bước bảo đảm hỗ trợ cho công tác giải phóng mặt bằng và xây dựng một số hạng mục công trình hạ tầng thiết yếu trong các cụm, điểm công nghiệp. - Nâng cao chất lượng hoạt động, chủ động phát triển thị trường vốn, các dịch vụ tài chính của các tổ chức Ngân hàng, Tài chính; Chỉ đạo các cơ sở, ban, ngành hữu quan tổng hợp thông báo, và xác nhận nhu cầu mua thiết bị công nghệ mới hoặc xây dựng hạ tầng cụm, điểm công nghiệp... để các Ngân hàng, Quỹ tín dụng, Ngân hàng phát triển chi nhánh tỉnh Hà Tây và Quỹ hỗ trợ đầu tư của Trung ương có cơ sở xem xét cho các chủ dự án vay vốn. - Thành lập Qũy bảo lãnh tín dụng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ theo Nghị định 90 CP của Chính phủ. - Đẩy mạnh cải cách hành chính để thu hút các nguồn vốn đầu tư của các doanh nghiệp: đầu tư nước ngoài, các doanh nghiệp cần di dời từ Hà Nội và các vùng lân cận; Nguồn vốn đầu tư từ nhân dân. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài; + Vận động và kêu gọi nguồn vốn ODA và FDI; tạo điều kiện thuận lợi, thông thoáng cho đầu tư nước ngoài trực tiếp hoặc liên doanh vào tỉnh. + Tranh thủ vốn của Việt Kiều, của các tổ chức phi chính phủ thông qua các hình thức viện trợ, vay lãi suất thấp... 3.2.2. Nhóm các giải pháp vi mô Doanh nghiệp tự chủ, tự chịu trách nhiệm Luật doanh nghiệp ra đời đã góp phần đáng kể vào việc hình thành và phát triển các loại hình doanh nghiệp của nền kinh tế, chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước đang được thực hiện một cách mạnh mẽ đã tạo điều kiện cho các doanh nghiêp có quyền quyết định số phận của mình. Nhà nước quản lý nền kinh tế, các doanh nghiệp Nhà nước sau khi cổ phần hoá hoạt động tự chủ, tự chịu trách nhiệm trước pháp luật. Để thực hiện được chu trưong này thì trong thời gian tới tỉnh Hà Tây cần đẩy mạnh hơn nữa, nhanh hơn nữa quá trình cổ phần hoá các DNNN trên địa bàn tỉnh Hà Tây do tỉnh Hà Tây quản lý, có như vậy sẽ tạo điều kiện để các doanh nghiệp hoạt động theo cơ chế thị trường và chịu sự điều tiết của các quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường Tạo môi trường cạnh tranh bình đẳng giữa các doanh nghiệp, gắn hoạt động doanh nghiệp với thị trường Bên cạnh các biện pháp thu hút sự đầu tư của các doanh nghiệp, các loại hình sản xuất kinh doanh vào các cụm điểm công nghiệp, Tỉnh cần có các biện pháp tạo sự cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp. Trong thời gian qua, vấn đề “trải thảm đỏ” thu hút đầu tư của tỉnh đã có những kết quả đáng khích lệ, tuy nhiên nó tạo ra các tiền lệ không tốt cho các doanh nghiệp không được “Trải thảm đỏ” và các doanh nghiệp còn lại. Bên cạnh đó thì các doanh nghiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh tại các CĐCN cần xác định rằng việc sản xuất kinh doanh vẫn do các doanh nghiệp tự quyết, Nhà nước vẫn tạo mọi cơ chế công bằng cho mọi doah nghiệp, mọi thành phần kinh tế - Tăng cường xúc tiến thương mại để ổn định thị trường hiện có, mở rộng và phát triển thị trường mới (bao gồm cả thị trường trong nước và thị trường xuất khẩu); có chính sách hỗ trợ xây dựng và quản lý thương hiệu hàng hóa, sở hữu công nghệ..., khuyến khích, khen thưởng các doanh nghiệp có giá trị hàng hóa xuất khẩu cao. - Đối với thị trường trong nước, tiếp tục mở rộng các hình thức đại lý, các trung tâm bán buôn, để tăng cường khả năng giao dịch và lưu thông hàng hóa giữa thành thị với nông thôn; từng bước hình thành được những hợp đồng dài hạn giữa các doanh nghiệp chế biến với người nuôi, trồng các vùng nguyên liệu; mở rộng hình thức liên kết với địa phương, ngân hàng để bán hàng hóa trả chậm những loại vật tư, máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp; khai thác tốt hơn các loại thị trường như thị trường vốn, thị trường sức lao động, thị trường khoa học công nghệ... để làm tăng thêm khả năng phát triển sản xuất. - Xây dựng kế hoạch mở rộng thị trường, hỗ trợ tiêu thụ các mặt hàng thu hút nhiều lao động như: may mặc, giầy da..., tăng cường hoạt động xuất khẩu trực tiếp, liên doanh liên kết với các đơn vị có thế mạnh trong nước và ngoài nước nhằm tiếp thu trình độ quản lý và thu hút công nghệ mới và giảm tỷ lệ xuất khẩu thô. Đa dạng hóa các ngành hàng, đồng thời đầu tư nâng cao chất lượng các mặt hàng có thế mạnh của tỉnh. - Xây dựng thí điểm 10 làng nghề truyền thống kết hợp với du lịch và bảo vệ môi trường. 3.2.3. Nhóm các giải pháp tạo môi trường điều kiện Hoàn thiện hệ thống chính sách, nâng cao hơn nữa vai trò của Nhà nước - Tăng cường hơn nữa vai trò quản lý Nhà nước của Sở công nghiệp và các Sở, ngành hữu quan, đơn vị với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn là các cơ quan chuyên môn giúp UBND tỉnh quản lý Nhà nước về công nghiệp trên địa bàn tỉnh. - Đẩy mạnh và mở rộng hoạt động của Trung tâm khuyến nông và tư vấn phát triển công nghiệp; Trung tâm xúc tiến đầu tư; Trung tâm xúc tiến thương mại; Tổ chức mạng lưới khuyến công viên đến các xã và các làng nghề. - Đối với các huyện, thị xã cần nhanh chóng lựa chọn, bố trí cán bộ đủ về số lượng, đảm bảo năng lực cho tổ chức mới được thành lập là Phòng Công nghiệp – TTCN trên địa bàn; Ban hành quy định về quản lý, theo dõi sự phát triển tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn hành chính cấp xã; bổ sung cán bộ theo dõi về công nghiệp đối với các xã có CN-TTCN, làng nghề phát triển. - Công tác quản lý thị trường, thanh kiểm tra cần được tiến hành có hiệu quả, nhằm đảm bảo an toàn, vệ sinh công nghiệp và ngăn ngừa, hạn chế tình trạng sản xuất hàng giả, hàng nhái, hàng kém phẩm chất, gian lận thương mại... và những biểu hiện thiếu lành mạnh trong sản xuất kinh doanh. Đẩy nhanh công tác đền bù, giải phóng mặt bằng, công tác Xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, điện đường trường trạm.. - Đẩy nhanh việc nâng cấp các cơ sở hạ tầng giao thông, thông tin, điện nước phục vụ vào các khu, cụm, điểm công nghiệp và các làng nghề trọng điểm. 3.2.4. Nhóm các giải pháp kỹ thuật Về phát triển nguồn nhân lực - Phát triển nguồn nhân lực là nhân tố có tính quyết định đối với phát triển sản xuất công nghiệp – TTCN, vì vậy tập trung: - Đối với cán bộ công chức, viên chức Nhà nước, trên cơ sở quy hoạch và tiêu chuẩn hóa cán bộ, tạo điều kiện để cán bộ công chức được học tập nâng cao trình độ về mọi mặt; Có chính sách thỏa đáng để phát huy khả năng của đội ngũ cán bộ hiện có và thu hút các chuyên gia giỏi từ bên ngoài. - Hỗ trợ cán bộ quản lý doanh nghiệp tiếp cận những tiến bộ về quản lý, khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới, có khả năng đánh giá, dự báo thị trường để chủ động trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Thường xuyên tổ chức hội thảo, báo cáo chuyên đề nhằm nâng cao tri thức cho cán bộ công chức, viên chức. - Tổ chức khảo sát, xây dựng và triển khai quy hoạch đào tạo nhân lực ngành nghề nông thôn, đào tạo lại thành nghệ nhân cho các làng nghề. - Thực hiện đa dạng hóa các hình thức đào tạo (hướng nghiệp, dạy nghề các lớp đào tạo ngắn hạn, dài hạn, kèm cặp trực tiếp, truyền nghề, nhân cấy nghề...) để nâng cao trình độ tay nghề và chuyên môn nghiệp vụ cho đông đảo người lao động. - Tăng cường phối hợp, tận dụng năng lực của các trường đào tạo của Trung ương trên địa bản tỉnh; Đầu tư xây dựng mới trường dạy nghề trọng điểm của tỉnh tại Xuân Mai có quy mô 1.500 học viên/năm, trường dạy nghề Phú Xuyên, trường dạy nghề Thạch Thất và mở rộng quy mô các Trung tâm hướng nghiệp dạy nghề trong tỉnh, đảm bảo đáp ứng đủ nhu cầu tại chỗ. - Khuyến khích các thành phần kinh tế, các tổ chức, đơn vị tham gia công tác đào tạo nghề cho thanh niên, học sinh khu vực nông thôn nhằm chuyển dịch cơ cấu lao động từ nông nghiệp sang sản xuất công nghiệp và dịch vụ. - Có chính sách thu hút cán bộ khoa học kỹ thuật, sinh viên người Hà Tây đang công tác ở tỉnh bạn, đang theo học ở các trường Đại học và các trường Dạy nghề sau khi tốt nghiệp trở về tỉnh làm việc. - Hằng năm, các huyện, thị xã xây dựng kế hoạch đào tạo, mở lớp truyền, nhân cấy nghề phù hợp với kế hoạch phát triển CN-TTCN và làng nghề của địa phương; phối hợp với các Sở, Ban ngành liên quan triển khai thực hiện đáp ứng nhu cầu trước mắt cũng như lâu dài nguồn nhân lực cho các làng nghề. - Thường xuyên xem xét phong tặng nghệ nhân, giáo viên giỏi cấp tỉnh, khen thưởng, động viên kịp thời các cá nhân, tập thể có nhiều thành tích đào tạo, truyền, nhân cấy nghề cho các cơ sở sản xuất, các địa phương trong tỉnh. - Xây dựng cơ chế khuyến khích cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật giỏi, công nhân lành nghề, thợ bậc cao phát huy tính sáng tạo trong lao động sản xuất kinh doanh; thực hiện tốt công tác tôn vinh nghệ nhân, doanh nhân, doanh nghiệp... Tăng cường công tác chuyển giao công nghệ - Hỗ trợ các doanh nghiệp hiện có đẩy mạnh việc áp dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật, các tiêu chuẩn quốc tế và khu vực, đổi mới công nghệ, đi thẳng vào công nghệ tiên tiến, hiện đại, tạo ra những sản phẩm có chất lượng đạt tiêu chuẩn quốc tế, có khả năng cạnh tranh cao trên thị trường xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế; phấn đấu có tốc độ đổi mới công nghệ khoảng 20 – 25%/năm; đến năm 2010 đổi mới được trên 60% công nghệ. - Tập trung các đề tài nghiên cứu phục vụ những ngành có lợi thế cạnh tranh như ngành dệt may, Công nghiệp chế biến, phục vụ nông nghiệp nông thôn, công nghiệp cơ khí, điện tử, công nghệ thông tin, tự động hóa; áp dụng công nghệ sinh học, công nghệ vi sinh trong chế biến thực phẩm đồ uống, công nghệ gen trong tuyển chọn giống cây, con làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến. - Đẩy mạnh hợp tác quốc tế về khoa học công nghệ để nâng cao hiệu quả nghiên cứu khoa học, phát triển công nghệ, đào tạo cán bộ, triển khai công tác xây dựng tiêu chuẩn ngành, tiêu chuẩn Việt Nam phù hợp tiêu chuẩn quốc tế chuẩn bị hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. - Có chính sách hỗ trợ ứng dụng khoa học công nghệ mới vào phát triển sản xuất trong các làng nghề, hộ gia đình, phát huy phương pháp sản xuất truyền thống kết hợp với máy móc và công nghệ hiện đại để tăng năng suất chất lượng sản phẩm, cải tiến mẫu mã nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường xuất khẩu. Bảo vệ môi trường là một mục tiêu của quá trình xây dựn các CĐCN - Khuyến khích hỗ trợ đối với các dự án xử lý môi trường, xử lý chất thải công nghiệp trên địa bàn tỉnh, khuyến khích các đề tài nghiên cứu tái chế rác thải công nghiệp, xử lý chất thải bằng công nghệ vi sinh, các dự án sản xuất bao gói bằng vật liệu tự hủy... - Từng bước giải quyết tình trạng ô nhiễm ở các làng nghề, đầu tư xây dựng các làng nghề truyền thống kết hợp với du lịch đảm bảo vừa mang tính hiện đại, vừa mang tính cổ truyền Hiện đại hoá hệ thống cung cấp thông tin trong tỉnh, trong các CĐCN - Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong các khâu sản xuất, quản lý kinh doanh, nâng cao hàm lượng công nghệ thông tin trong quá trình hiện đại hóa ngành công nghiệp. - Tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, trách nhiệm về phát triển công nghiệp – TTCN của tỉnh trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đến các cấp, các ngành, cán bộ, Đảng viên và nhân dân trong tỉnh hiểu rõ và thực hiện. Các cơ quan thông tin đại chúng tuyên truyền về pháp luật như Luật doanh nghiệp, Luật thuế, quyền sở hữu về công nghiệp... và các cơ chế, chính sách thu hút đầu tư về phát triển công nghiệp – TTCN nhằm phát huy vai trò của doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội và các hộ sản xuất công nghiệp – TTCN. - Tăng cường áp dụng công nghệ thông tin vào công tác quản lý Nhà nước và hỗ trợ các doanh nghiệp ứng dụng các phương thức quản lý mới theo tiêu chuẩn quốc tế phù hợp với từng lĩnh vực ngành nghề sản xuất. 3.3. Tổ chức thực hiện 1. Sở Công nghiệp thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về CN-TTCN trên địa bàn là cơ quan chủ trì, phối hợp với các Sở, ngành liên quan về các huyện, thị xã, các cơ quan thông tin đại chúng, tổ chức phổ biến, tuyên truyền công khai, sâu rộng về quy hoạch phát triển công nghiệp của tỉnh đến 2010. 2. Sở Tài nguyên và Môi trường hướng dẫn trình tự, thủ tục cho thuê đất đối với các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp; hướng dẫn cấp huyện điều chỉnh, bổ sung quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phù hợp với quy hoạch phát triển công nghiệp. - Xây dựng kế hoạch xử lý môi trường ở các làng nghề, xây dựng cơ chế khuyến khích, ưu đãi các dự án đầu tư vào lĩnh vực xử lý môi trường, xử lý chất thải công nghiệp, các quy định về chất thải công nghiệp đối với các dự án đầu tư mới. 3. Sở Nội vụ phối hợp với Sở Công nghiệp đề xuất củng cố hệ thống tổ chức bộ máy quản lý CN-TTCN, đảm bảo có đủ năng lực quản lý, tư vấn phát triển công nghiệp, đề xuất phương án tổ chức đủ năng lực quản lý các khu, cụm, điểm công nghiệp. 4. Các Sở ngành có liên quan căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn tổ chức thực hiện các chương trình, mục tiêu và giải pháp của ngành, đảm bảo các yêu cầu về thị trường, công nghệ, lao động và vùng nguyên liệu..., góp phần đẩy mạnh phát triển CN-TTCN trên địa bàn. 5. UBND các huyện, thị xã cụ thể hóa các nội dung của quy hoạch và quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế xã hội và các chương trình phát triển CN-TTCN của địa phương; Xây dựng kế hoạch, các phương án, dự án đầu tư cho từng giai đoạn cụ thể để triển khai thực hiện. Quá trình triển khai thực hiện phản gắn với đảm bảo an ninh, trật tự, an toàn xã hội và vệ sinh môi trường, kết hợp kinh tế với quốc phòng. 6. Đài phát thanh – Truyền hình tỉnh, Báo Hà Tây và các cơ quan, đoàn thể quần chúng tích cực tuyên truyền công khai, rộng rãi về quy hoạch phát triển công nghiệp tới mọi tầng lớp nhân dân, vận động cán bộ nhân dân trong tỉnh ủng hộ chủ trương phát triển Công nghiệp của tỉnh. 3.4. Đề xuất, kiến nghị - Đề nghị các Bộ, Ngành Trung ương: Công nghiệp, Thương mại, Khoa học – công nghệ, Tài nguyên và Môi trường, Lao động – thương binh xã hội, Tài chính, Kế hoạch và Đầu tư cần xây dựng hệ thống các văn bản hướng dẫn đặc thù hoặc liên bộ về các cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp – TTCN làng nghề, ngành nghề nông thôn, cụ thể hóa các cơ chế đãi ngộ nghệ nhân, thợ giỏi. - Đề nghị Chính phủ, Bộ Công nghiệp, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn cùng các ngành Mặt trận, Đoàn thể ở Trung ương, các tổ chức kinh tế quốc tế có thêm các chương trình dự án, giúp đỡ và tạo điều kiện cho các địa phương tăng cường quản lý và phát triển công nghiệp – TTCN làng nghề, ngành nghề nông thôn bằng những chính sách, cơ chế, kinh tế quốc tế. Hướng dẫn các ngành hữu quan của tỉnh về mọi mặt để tăng cường vai trò quản lý Nhà nước, thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. - Đề nghị Bộ Thương mại nghiên cứu, ban hành cơ chế chính sách xúc tiến thương mại và tổ chức hỗ trợ tiêu thụ sản phẩm cho sản xuất công nghiệp – TTCN trong nước, nhất là cho các sản phẩm từ làng nghề, ngành nghề nông thôn, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các ngành nghề nông thôn, khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế tìm kiếm thị trường, tiêu thụ sản phẩm. - Đề nghị ban hành cơ chế, chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp chế biến thực hiện mô hình Công ty cổ phần – nông – thương, có như vậy mới tạo được vùng nguyên liệu tập trung cho công nghiệp chế biến. - Đề nghị Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân tỉnh: + Có cơ chế hỗ trợ đặc biệt cho doanh nghiệp đầu tư vào việc xây dựng mô hình Công ty cổ phần công – nông – thương, vì vốn đầu tư vào mô hình này rất lớn, thời gian thu hồi vốn dài. + Chỉ đạo các Sở chuyên ngành phối hợp bố trí quỹ đất để quy hoạch vùng nguyên liệu cho CN chế biến... + Có chính sách hỗ trợ cho người lao động được đi đào tạo nâng cao trình độ và tay nghề. + Tiếp tục thực hiện triệt để cơ chế “một cửa” trong tiếp nhận đầu tư, có cơ chế riêng và đơn giản hóa thủ tục hành chính đối với lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), vì đây là một trong những thành phần kinh tế có vốn đầu tư lớn, có trình độ công nghệ và quản lý tiên tiến, thu hút nhiều lao động và khả năng thu nộp ngân sách lớn cho địa phương. + Có chế độ ưu đãi đặc biệt nhằm khuyến khích thu hút các chuyên gia thợ giỏi về làm việc trong tỉnh, xây dựng kế hoạch và đa dạng hóa các loại hình đào tạo nguồn nhân lực (bao gồm các cán bộ kỹ thuật, cán bộ quản lý, công nhân kỹ thuật, thợ thủ công), đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp trong từng thời kỳ. + Có chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế đổi mới công nghệ, thay đổi quy trình sản xuất, giảm thiểu nguồn gây ô nhiễm môi trường, có biện pháp đình chỉ các cơ sở sản xuất không có biện pháp xử lý nguồn gây ô nhiễm; Khuyễn khích hỗ trợ các hoạt động nghiên cứu, các dự án đầu tư xử lý chất thải gây ô nhiễm trong quá trình sản xuất công nghiệp như: miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, hoặc cho vay lãi suất thấp... nhằm xử lý chất thải phát sinh trong quá trình sản xuất, bảo đảm cho phát triển một cách bền vững. + Hàng năm, dành một phần kinh phí đáng kể từ ngân sách cho phát triển CN-TTCN: Tăng kinh phí khuyến nông, vốn cho công tác quy hoạch và đầu tư phát triển công nghiệp..., đặc biệt là các dự án đầu tư phát triển các khu, cụm, điểm công nghiệp. Kết luận Sau hơn 10 năm hình thành và phát triển, vai trò của việc xây dựng và phát triển hệ thống các cụm điểm công nghiệp đối với sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, đặc biệt là trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn đã được khẳng định. Trong khuân khổ luận văn thạc sỹ này, tác giả đã sử dụng các phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, phương pháp phân tích hệ thống và thống kê so sánh, đồng thời, kết hợp sử dụng những kết qua của các công trình nghiên cứu khoa học cũng như các kinh nghiệm từ thực tiễn quá trình xây dựng của tỉnh Hà tây để khảo sát giải quyết các vấn đề đặt ra với cụm, điểm công nghiệp Luận văn đã khai quát vai trò, vị trí và những vấn đề có tính quy luật của việc hình thành và phát triển các cụm điểm ông nghiệp trên thế giới và tại Việt Nam, đồng thời, đã nghiên cứu quá trình hình thành phát triển một số mô hình cụm, điêm công nghiệp ở các tỉnh khác để rút ra những ưu điểm, nhược điểm trên cơ sở phân tích đánh giá sự phát triển các cụm, điểm công nghiệp Hà Tây trong điều kiện KT-XH toàn tỉnh trong những năm qua, liên hệ với những vấn đề có tính quy luật chung và bài học rút ra từ phát triển các Cụm, điểm công nghiệp ở các tỉnh đã lựa chọn. Luận văn cũng đưa ra dự báo về việc phát triển các CĐCN Hà Tây trong tương lai sẽ thúc đẩy tỉnh Hà Tây trở thành tỉnh công nghiệp trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Với những định hướng đó, luận văn đề xuất các nhóm giải pháp chủ yếu để hoàn thiện CĐCN trong giai đoạn truớc mắt từ nay đến năm 2010, vừa tạo tiền đề để bổ sung phát triển nâng cao và hoàn thiện CĐCN Hà Tây vào các giai đoạn sau. Luận văn cũng nêu lên một số kiến nghị để các cơ quan chức năng co thể nghiên cứu bổ sung sửa đổi các quy định pháp luật hiện hành liên quan đến vấn đề quản lý các CĐCN được hoàn thiện hơn. Tuy nhiên luận văn chưa có điều kiện đi sâu vào luận giải chi tiết cho tưng vấn đề nêu nên chưa hệ thống và khái quát hoá bằng các phương pháp định lượng, phương pháp mô hình hoá… Vấn đề xây dựng cụm, điểm công nghiệp trong quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước là vấn đề mới, đặc biệt là đối với tỉnh Hà Tây còn phức tạp đang trong giai đoạn hình thành. Trong điều kiện có hạn và trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ kinh tế chắc chắn không tránh khỏi một số hạn chế, khiếm khuyết, tác giả luận văn hy vọng nhận được nhiều góp ý chân thành của các nhà khoa học, các thầy cô giáo và các bạn quan tâm đến đề tài. Tài liệu tham khảo Vũ Đình Bách (1998), Các giải pháp thúc đẩy tăng trưởng kinh tế ở Việt nam, NXB Chính trị quốc gia. Vũ Đình Bách, Ngô Đình Giao (1998), Phát triển các thành phần kinh tế và các tổ chức kinh doanh ở nước ta, NXB chính trị quốc gia. Ban quản lý đầu tư phát triển các cụm điểm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp tỉnh Hà Tây, Báo cáo thực trạng đề xuất giải pháp xây dựng các cụm, điểm công nghiệp trên địa bàn tỉnh Hà Tây Ban Tư tưởng Văn hoá Trung ương; Tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu học tập các nghị quyết hội nghị lần thứ năm ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII, IX, X, NXB chính trị quốc gia, HN 1997, 2002. 2006 David Berg (1997), Kinh tế học Nxb Giáo dục, Hà Nội Bộ Kế hoạch và đầu tư, 2006, Báo cáo tổng kết 15 năm xây dựng và phát triển Khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam, Báo cáo sơ kết hoạt động của các khu kinh tế ở Việt Nam Bộ Giáo dục và đào tạo, Giáo trình kinh tế chính trị Mác –Lênin, NXB Chính trị quốc gia, Hn 2002 PGS.TS Nguyễn Thị Cành; “Quan điểm và chính sách phát triển kinh tế tư nhân trong thời kỳ quá độ lên CNXH”, Tạp chí phát triển kinh tế tháng 7 năm 2002 Các Nghị định của Thủ tướng Chính phủ về việc phát triển khu, cụm, điểm công nghiệp Cục thống kê Hà Tây, Niêm giám thống kê các năm 2000 - 2006, NXB Thống kê, Hà Nội Nguyễn Sinh Cúc, Kinh tế thị trường định hướng XHCN, NXB Thống kê, HN. 1995. Nguyễn Sinh Cúc, Quốc tế hoá: từ ý tưởng của Mác - Ăngghen đến hiện thực của thế giới hiện đại, Cộng sản số 6/3-1998, 21-2 Đảng Cộng Sản Việt nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, IX, X, NXB chính trị quốc gia, HN 1996, 2001. 2006 Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2006, Vấn đề Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam và các nước trên thế giới, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, khoa kinh tế chính trị; Giáo trình kinh tế chính trị Mác –Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH, NXB chính trị quốc gia, HN 2001 Hồ Chí Minh, Toàn tập, NXB ST, H. 1985 Hồng Hạnh (2007), “Các cụm công nghiệp ở Italia – chiều hướng và chiến lược chính”, Trang tin điện tử Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam, ngày 07/02/2007. PGS.TS Bach Minh Huyền; Chính sách tài chính của Việt Nam trong tiến trình hội nhập, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 6, 2003. PGS.TS Bạch Thị Minh Huyền; Chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhỏ và vừa, Tạp chí Tài chính doanh nghiệp, số 8, 2003 Một số vấn đề lý luận KTCT và phát triển kinh tế Việt Nam, Trung tâm thông tin tư liệu Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, H. 1995. Mười vấn đề lớn của kinh tế hiện đại, Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương, Trung tâm thông tin tư liệu, H. 1995. TS Nguyễn Đăng Nam; Thực hiện Luật Doanh nghiệp Nhìn từ góc độ các giải pháp tài chính; Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 2003 Nông thôn Việt Nam sau mười năm đổi mới, Thông tin chuyên đề, Học viện CTQG Hồ Chí Minh 8/1996 Vũ Đình Ngọc (2006), “Tập trung đầu tư phát triển hợp lý các cụm công nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn”, Trang tin điện tử Tạp chí Khu công nghiệp Việt Nam, ngày 24/12/2006 V.I Lênin, Về Nhà nước XHCN, NXB Thông tấn xã Nôvôsti, M. 1977. Lịch sử Việt Nam Tập 1, NXB Đại học và giáo dục chuyên nghiệp H. 1991. Lịch sử các học thuyết kinh tế, NXB Thống kê H. 1996 Th.s Trần Đức Lộc; Giải pháp nào để huy động có hiệu quả vốn của doanh nghiệp tư nhân và dân cư; Tạp chí Tài chính, tháng 2/2004. TS. Nguyễn Văn Phúc, 2004, Công nghiệp Nông thôn Việt Nam thực trạng và phát triển, Nxb chính trị quốc gia, Hà Nội GS,TS Nguyễn Đình Phan (2007), “Phát triển cụm công nghiệp làng nghề”, Trang tin điện tử Tạp chí Việt Nam đất nước con người, ngày 19/04/2007 ThS, KTS Vũ Hồng Sơn (2007), “Quản lý quy hoạch xây dựng các cụm công nghiệp nông thôn”, Tạp chí Quy hoạch xây dựng, số 21 P. Samuelson, Kinh tế học (1997), Nxb Giáo dục, Hà Nội Sở công nghiệp tỉnh Hà Tây, Báo cáo rà soát điều chỉnh bổ sung quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp Hà Tây đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 Nguyễn Văn Thức; Sở hữu- Lý luận và vận dụng ở Việt nam; NXB Khoa học xã hội, Hn 2004. Tổng cục thống kê; Niên giám thống kê 2001,2002, 2003,2004,2005,2006, NXB thống kê, HN Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Nai, Tổng kết Quá trình xây dựng các khu công nghiệp và thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Đồng Nai (1991-2004), Nxb Tổng Hợp Đồng Nai, Đồng Nai Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh Nam Định, Tổng kết Quá trình xây dựng các khu công nghiệp và thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Nam Định, Nam Định Tỉnh ủy, ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương, Tổng kết Quá trình xây dựng các khu công nghiệp và thu hút đầu tư trên địa bàn tỉnh Hải Dương, Hải Dương Vũ Quốc Tuấn và Hoàng Thu Hà; Phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa: Kinh nghiệm của nước ngoài và phát triển DNNVV ở Việt nam, NXB thống kê 2001 ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tây, Báo cáo kết quả thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế xã hội các năm 2002,2002, 2003,2004,2005, 2006 ủy ban Nhân dân tỉnh Hà Tây(2006), Báo cáo tổng hợp quy hoạch phát triển kinh tế xã hội tỉnh Hà Tây đến năm 2020. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThS-T14.doc
Tài liệu liên quan