Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay

LỜI MỞ ĐẦU Kể từ khi thực hiện đường lối đổi mới kinh tế năm 1986, nền kinh tế Việt Nam đã có một sự chuyển mình đáng kể. Việc chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung sang nền kinh tế thị trường đã làm thay đổi nhận thức về tầm quan trọng của lĩnh vực dịch vụ trong nền kinh tế. Và cùng với những thành tựu về kinh tế nói chung, khu vực dịch vụ đã có những bước tăng trưởng vượt bậc trong vòng 20 năm qua. Nhìn chung, dịch vụ có bước tăng trưởng cả về quy mô, ngành nghề, thị trường và đạt được nhiều t

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1460 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iến bộ về hiệu quả, kết quả với sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng trên 7,5%/năm; giá trị tăng thêm khoảng 7%/năm, riêng năm 2005 giá trị tăng thêm đạt 8,5% tức là cao hơn mức tăng trưởng của GDP( 8,4%). Lĩnh vực dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ thương mại đóng góp tỷ trọng ngày càng lớn tổng thu nhập của quốc gia cũng như doanh thu của mỗi doanh nghiệp. Hơn nữa, trong cơ chế mới dịch vụ là một khu vực đầy tiềm năng phát triển, vì vậy khu vực này ngày càng thu hút được sự quan tâm, đầu tư của các nhà kinh doanh. Trước thềm WTO, Chính phủ đã xoá bỏ nhiều rào cản thương mại và hoàn thiện dần nhiều cơ chế, chính sách, luật để tạo điều kiện cho nền kinh tế hội nhập sâu, phát triển mạnh mẽ hơn nữa. Tiêu biểu là sự ra đời của luật Thương mại và luật này sẽ được áp dụng từ 1/1/2006 đã thể hiện sự quan tâm và nhận thức đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong lĩnh vực thương mại và dịch vụ thương mại. Bởi phát triển dịch vụ thương mại còn có tác dụng hỗ trợ và tạo điều kiện cho các ngành khác trong nền kinh tế phát triển. Hiện nay, lĩnh vực dịch vụ hoạt động rất nhộn nhịp, bởi quy mô ngày càng lớn, các thành phần kinh tế tham gia ngày càng đa dạng và các hình thức thì ngày càng phong phú hơn. Vấn đề đặt ra là phát triển các hình thức dịch vụ này đúng hướng cho phù hợp với thể chế kinh tế của nước ta và theo kịp xu thế của thời đại. Nhận thức được điều này em quyết định chọn đề tài :”Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam hiện nay” để nghiên cứu. Để hoàn thành đề án nay em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ và hướng dẫn tận tình của Tiến sỹ Nguyễn Thị Xuân Hương. Hà Nội, tháng 4/2006. CHƯƠNG I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ TRONG KINH DOANH THƯƠNG MẠI. I.Dịch vụ và vai trò của dịch vụ trong kinh doanh thương mại. 1. Khái quát về dịch vụ và sản phẩm dịch vụ. a. Khát quát về dịch vụ. Xã hội loài người tính đến nay đã trải qua năm hình thái kinh tế xã hội, bắt đầu từ thời kỳ công xã nguyên thuỷ, rồi đến thời kỳ chiếm hữu nô lệ, thời kỳ phong kiến, thời kỳ tư bản chủ nghĩa và hiện nay là thời kỳ xã hội chủ nghĩa. Và dễ thấy rằng, cùng với chiều dài phát triển của lịch sử thì các ngành kinh tế trong xã hội cũng phát triển theo với khối lượng hàng hoá ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Để tồn tại trong một nền kinh tế thị trường đầy biến động như hiện nay, buộc các doanh nghiệp phải khai thác tối đa nhu cầu của khách hàng cũng như tìm mọi cách đáp ứng tốt nhất các nhu cầu đó. Và chưa khi nào lĩnh vực dịch vụ thương mại lại có sự phát triển mạnh mẽ như hiện nay, doanh thu từ hoạt động dịch vụ đã đem lại nguồn lợi nhuận rất lớn cho những doanh nghiệp nào biết khai thác thị trường này và điều này đã biến dịch vụ thành một khu vực kinh tế năng động và hoạt động hiệu quả hiện nay. Bên cạnh những ngành dịch vụ truyền thống đã được biết đến thì ngày càng xuất hiện nhiều ngành dịch vụ mới. Vậy dịch vụ là gì? Dịch vụ là một khái niệm đã xuất hiện từ lâu và đã trở nên phổ biến trong nền kinh tế thị trường. Trong phân ngành kinh tế quốc dân ở Việt Nam cũng như thế giới người ta chia ra làm ba nhóm ngành lớn là nông nghiệp, công nghiệp và dịch vụ. Thế nhưng cho đến nay, khái niệm về dịch vụ vẫn chưa được hiểu thống nhất và do đó có nhiều khái niệm khác nhau, nhưng chưa có khái niệm nào được chấp nhận toàn cầu. Điều đó cũng thể hiện sự phức tạp của lĩnh vực này. Chính sự đa dạng và phức tạp của hoạt động dịch vụ cộng với sự phát triển phong phú, chưa được định hình rõ nét làm cho việc định nghĩa dịch vụ trở nên khó khăn, phức tạp và khó thống nhất. Về định nghĩa dịch vụ thì hiện nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau, dưới đây là một số định nghĩa tiêu biểu: Theo Philip Kotler định nghĩa thì Dịch vụ là một giải pháp hay lợi ích mà một bên có thể cung ứng cho bên kia, chủ yếu là vô hình và không dẫn đến chuyển quyền sở hữu, việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền hoặc không gắn liền với sản phẩm vật chất. Theo định nghĩa này thì chúng ta đã được cung ứng sản phẩm dịch vụ khi chúng ta đi xem phim, sửa xe máy, đi du lịch, đi cắt tóc hay đi xem các buổi biểu diễn của các ca sĩ chuyên nghiệp… Cách định nghĩa này cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về sản phẩm dịch vụ trong việc so sánh nó với các sản phẩm vật chất khác. Ngoài ra, còn có một cách định nghĩa khác về dịch vụ, đó là quan điểm do Các Mác đưa ra, ông cho rằng: Dịch vụ là con đẻ của nền sản xuất hàng hoá và khi nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông trôi chảy, thông suốt và liên tục để thoả mãn các nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ phát triển. Vậy là dưới một góc độ khác, Các Mác đã cho chúng ta thấy sự ra đời của dịch vụ, bắt nguồn từ sản xuất hàng hoá và sự phát triển của nó gắn chặt với sự phát triển của nền kinh tế” khi nền sản xuất hàng hoá phát triển mạnh … thì dịch vụ phát triển”. Tiến sỹ Lê Thiền Hạ (Viện Nghiên cứu Thương mại) đưa ra định nghĩa sau về dịch vụ: Dịch vụ là khái niệm để chỉ các ngành kinh tế mà quá trình sản xuất của nó không tạo ra hàng hoá thông thường nhưng lại tạo ra dịch vụ (hàng hoá đặc biệt) bằng cách đáp ứng nhu cầu của con người (cho người khác) ngoài nhu cầu về hàng hoá do nông nghiệp và công nghiệp cung cấp. Hiện nay, khi mà ngành dịch vụ thể hiện vai trò ngày càng quan trọng trong nền kinh tế thì lại càng có nhiều quan niệm khác nhau về dịch vụ dưới nhiều góc độ khác nhau. Sau đây chúng ta sẽ xem xét dịch vụ theo lý thuyết kinh tế học. Theo lý thuyết này thì dịch vụ là một loại sản phẩm kinh tế nhưng không phải là vật phẩm, mà là công việc của con người dưới hình thái lao động thể lực, kiến thức, kỹ năng chuyên nghiệp, khả năng tổ chức và thương mại. Ngoài ra, ta còn có thể hiểu về dịch vụ theo một cách chung nhất như sau: Theo nghĩa rộng thì lĩnh vực dịch vụ được coi là lĩnh vực kinh tế thứ ba trong nền kinh tế, tức là các hoạt động dịch vu bao gồm toàn bộ các hoạt động kinh tế nằm ngoài hai ngành công nghiệp và nông nghiệp. Ở nước ta, GDP không được tính theo cách này tức là GDP của nước ta không bao gồm giá trị của ngành xây dựng. Điều này khác hẳn với cách tính GDP ở các nước phát triển, họ tính GDP theo cách hiểu này vì vậy tỉ trọng dịch vụ của họ đã cao lại càng cao hơn, thường chiếm tới trên 60 % GDP hoặc GNP. Còn theo nghĩa hẹp, dịch vụ là những hoạt động hỗ trợ cho quá trình kinh doanh (bao gồm các hỗ trợ trước, trong và sau khi bán), là phần mềm của sản phẩm được cung ứng cho khách hàng. b. Những đặc điểm của sản phẩm dịch vụ. Về cơ bản có những sự khác biệt rất lớn giữa sản phẩm dịch vụ và sản phẩm vật chất, chính sự khác biệt này sẽ ảnh hưởng quyết định đến việc xây dựng các chiến lược marketing cũng như việc tuyển chọn nhân viên của các nhà kinh doanh hoạt động trong lĩnh vực này. -Tính vô hình hay phi vật chất: Dễ thấy tất cả các sản phẩm dịch vụ đều vô hình, do vậy người ta không thể biết được chất lượng của dịch vụ trước khi tiêu dùng chúng. Không những thế ngay cả chất lượng của dịch vụ cũng rất khó đánh giá, vì nó chịu nhiều tác động của các yếu tố khác nhau như người bán, người mua và cả thời điểm mua bán dịch vụ đó. Do vậy, để giảm bớt tính không chắc chắn khi tiêu dùng dịch vụ, người mua thường tham khảo ý kiến của những người đã tiêu dùng dịch vụ, hay họ có thể căn cứ vào địa điểm, nhân viên, trang thiết bị, thông tin, biểu tượng hay giá cả. Do vậy, tính vô hình của sản phẩm dịch vụ ảnh hưởng lớn đến việc tuyển chọn nhân viên cũng như việc hoạch định chiến lược marketing của doanh nghiệp. Nhân viên làm dịch vụ không những phải giỏi chuyên môn nghiệp vụ mà còn phải có khả năng nhạy bén với thị trường, và hơn hết là phải làm cho khách hàng tin tưởng vào chất lượng của sản phẩm dịch vụ do doanh nghiệp cung cấp, không những thế họ còn có thể làm tăng chất lượng của sản phẩm dịch vụ. Mặt khác, vì là sản phẩm vô hình nên nó có sự khác biệt rất lớn về chi phí so với các sản phẩm vật chất, do vậy cơ sở để đánh giá chất lượng cũng như tính toán giá thành của dịch vụ là rất khó. -Tính không thể tách rời ra khỏi nguồn gốc: Tức là các sản phẩm dịch vụ có quá trình sản xuất và tiêu thụ diễn ra đồng thời. Do vậy, khác với sản phẩm vật chất, sản xuất xong mới tiêu thụ được mà ở sản phẩm dịch vụ quá trình này phải diễn ra đồng thời. Dịch vụ không thể tách rời ra khỏi nguồn gốc của nó cho dù đó là người hay máy móc. Đây cũng là một điểm hạn chế của doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ, vì vậy cần có những quan điểm chiến lược khắc phục sự hạn chế này, ví dụ như nhân viên cung ứng dịch vụ có thể học cách làm việc với những nhóm đông khách hàng, nhà cung ứng có thể tìm cách làm giảm thời gian cung ứng dịch vụ hoặc mở rộng mạng lưới phân phối bằng cách đào tạo nhiều người cung ứng dịch vụ hơn. -Tính không ổn định và khó xác định chất lượng: Thực ra đây là vấn đề chúng ta thường gặp phải đối với rất nhiều sản phẩm, song với sản phẩm dịch vụ thì đặc điểm này biểu hiện rõ nét hơn cả. Vì chất lượng dịch vụ dao động trong một khoảng rất rộng, nó còn tuỳ thuộc vào hoàn cảnh tạo ra dịch vụ, ví dụ như nhân viên, thời gian và địa điểm cung ứng dịch vụ. Đơn giản như trường hợp đối với một người thợ cắt tóc, anh ta không thể đảm bảo cắt tóc cho tất cả mọi người đều đẹp như nhau bởi điều đó phụ thuộc vào khả năng của anh ta, phụ thuộc vào tâm trạng của anh ta lúc cắt tóc cũng như phụ thuộc vào cảm nhận của từng khách hàng … -Tính không lưu giữ được: Dịch vụ không thể được cất trữ trong kho để làm phần đệm cho sự thay đổi nhu cầu thị trường như các sản phẩm vật chất khác. Chính vì vậy sản phẩm dịch vụ tuy không mất chi phí bảo quản trong kho nhưng bên cạnh đó đặc điểm này còn gây nên nhiều hạn chế khác. Sẽ không có gì đáng nói nếu nhu cầu về dịch vụ ổn định và dự đoán đựơc chính xác nhưng nếu nhu cầu dịch vụ thay đổi thất thường thì doanh nghiệp kịnh doanh dịch vụ sẽ gặp khó khăn rất lớn về khả năng huy động cơ sở vật chất kỹ thuật và nhân lực. Do vậy, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ cần xây dựng kế hoạch vè nhu cầu thị trường thật chính xác để có các phương án thích hợp khi nhu cầu thị trường thay đổi hoặc tăng cao. Giống như trong đợt tết vừa qua hãng Hàng không Việt Nam đã phải thực hiện hàng loạt chuyến bay không tải từ miền Nam ra miền Bắc, bởi nhu cầu đi một chiều từ miền Bắc vào miền Nam sau tết tăng quá cao. Tất cả các đặc điểm trên đã tạo nên những nét đặc thù cho các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ. Nếu như trong tiêu chí kinh doanh của mình các doanh nghiệp sản xuất cần 4Ps gồm Product, Price, Place, Promotion thì doanh nghiệp dịch vụ cần tới 5Ps , gồm cả bốn chữ P ở trên cộng với chữ P thứ năm đó là People (con người). Điều này càng cho thấy rõ tầm quan trọng của nhân tố con người trong lĩnh vực dịch vụ và nó cũng cho thấy vấn đề này đã nhận được sự quan tâm đúng mức từ phía nhà quản trị doanh nghiệp. 2.Vai trò của dịch vụ thương mại. Như Các Mác đã định nghĩa thì dịch vụ là “con đẻ của nền sản xuất hàng hoá” và khi sản xuất hàng hoá phát triển thì dịch vụ phát triển theo. Ngày nay, khi nền sản xuất hàng hoá đã chuyển sang nền kinh tế thị trường thì dịch vụ và các hình thức của nó cũng phát triển dưới nhiều hình thức khác nhau vô cùng phong phú. Điều đó thể hiện ảnh hưởng của hoạt động dịch vụ ngày càng lớn trong cả đời sống và trong kinh doanh. Như vậy, dịch vụ chính là các loại hình hoạt động có mục đích nhằm phục vụ cho các nhu cầu của dân cư, hoặc trợ giúp, hoàn thiện, tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh. Tất nhiên mục đích của hoạt động dịch vụ là để thu lợi nhuận thông qua việc thoả mãn nhu cầu khách hàng. Dịch vụ thương mại chỉ là một nhánh của hoạt động dịch vụ. Dịch vụ thương mại bao gồm tất cả các hoạt động nhằm hỗ trợ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, bao gồm hỗ trợ trước, trong và sau khi bán, có thể đi kèm sản phẩm hoặc không. Trong các doanh nghiệp sản xuất bên cạnh quy trình công nghệ đã có theo thiết kế ban đầu đã xuất hiện thêm nhiều hoạt động phụ trợ để thúc đẩy quá trình tiêu thụ và tạo thương hiệu cho sản phẩm. Đó chính là các loại hình dịch vụ của người sản xuất như bao gói, ghép đồng bộ, quảng cáo sản phẩm, cung cấp phụ tùng hay đến tận nơi để lắp đặt sản phẩm…Tuy nhiên hiện nay khi chuyển sang cơ chế thị trường các doanh nghiệp sản xuất thường có xu hướng chuyển một hoặc toàn bộ số hoạt động dịch vụ trên cho các doanh nghiệp thương mại. Do vậy, doanh nghiệp thương mại ngoài việc bán hàng còn thực hiện quá trình tiếp tục sản xuất trong khâu lưu thông và sự chuyên môn hoá này ngày càng tỏ ra hiệu quả. Chính điều này đã tạo nên một xu hướng dịch vụ tập trung trong khâu lưu thông. Và dịch vụ thương mại ngày càng có cơ hội phát triển song song với sự phát triển nhanh chóng của nền sản xuất vật chất. Vậy dịch vụ thương mại có vai trò rất lớn đối với các đơn vị sản xuất vật chất, ngoài ra thực hiện tốt hoạt động dịch vụ còn giúp cho các doanh nghiệp thúc đẩy đựơc hoạt động bán hàng diễn ra nhanh hơn do rút ngắn thời gian ra quyết định của khách hàng. Vì vậy, nó giúp đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hóa tiển tệ, kinh doanh đạt hiệu quả cao hơn xét cả ở tầm vĩ mô và vi mô. Ngoài ra, đẩy nhanh hoạt động dịch vụ thương mại còn giúp doanh nghiệp tạo được rào chắn vững chắc ngăn cản sự xâm nhập của đối thủ cạnh tranh vào khu vực thị trường của mình, giúp việc phát triển thị trường cho các doanh nghiệp và giữ thị trường này phát triển ổn định. Dịch vụ ngày càng chiếm vị trí trọng yếu trong từng nền kinh tế quốc dân và là yếu tố quan trọng đóng góp vào mức tăng trưởng của kinh tế thế giới. Năm 2001 ngành dịch vụ đã tạo nên 72% GDP cho các nước phát triển và gần 52% GDP cho các nước đang phát triển. Nhà nước ta hiện nay đang có nhiều chủ trương chính sách nhằm phát triển khu vực dịch vụ, để khu vực này sẽ tạo động lực cho các khu vực khác, tạo bước nhảy vọt về phát triển kinh tế trong thời kỳ tới. Điều này cũng cho thấy tầm quan trọng rất lớn của lĩnh vực dịch vụ đối với nền kinh tế quốc dân. Ngành dịch vụ phát triển khá nhanh và thu hút nhiều lao động trong xã hội, tuy nhiên theo đánh giá lao động nước ta hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ chỉ chiếm 25%. Hiện nay sức ép mỗi năm Việt Nam cần tạo ra khoảng 1.7 triệu việc làm mới, nhưng ngành nông nghiệp và công nghiệp mỗi năm chỉ tạo ra tối đa khoảng 1.1 triệu việc làm nên áp lực tăng trưởng của ngành dịch vụ là rất lớn. Ngoài ra, ngành dịch vụ hay dịch vụ thương mại ohát triển còn có tác dụng là tạo ra môi trường phát triển tốt cho các ngành khác trong nền kinh tế, bởi hiện tại chi phí dịch vụ viễn thông, vận chuyển …của nước ta vẫn còn cao so với các nước trong khu vực và trên thế giới. II. Các loại hình dịch vụ thương mại và các nhân tố ảnh hưởng đến dịch vụ thương mại. Cùng với sự phát triển của sản xuất hàng hóa thì dịch vụ thương mại cũng phát triển rất đa dạng, phong phú cả về quy mô và hình thức. Nó xuất hiện ở tất cả các khâu của quá trình tiêu thụ sản phẩm, cả trước, trong và sau khi bán hàng. Trước khi bán hàng, đó là quá trình dịch vụ thương mại làm công việc chuẩn bị thị trường tiêu thụ, khuyếch trương thanh thế gây sự chú ý của khách hàng. Còn dịch vụ trong khi bán hàng nhằm chứng minh sự hiện hữu của doanh nghiệp với khách hàng, thể hiện sự tôn trọng với khách hàng cũng như xây dựng niềm tin với khách hàng, khẳng định chất lượng và giá trị của sản phẩm đã cung cấp. Dịch vụ sau khi bán hàng nhằm tái tạo nhu cầu cho khách, bảo vệ thương hiệu cho sản phẩm cũng như các dịch vụ chăm sóc khách hàng, đây chính là khâu giữ khách hàng và biến họ trở thành khách hàng trung thành cho doanh nghiệp của mình. Sau đây là một số loại hình dịch vụ thương mại chủ yếu thường gặp. a.Dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông bổ sung (mang tính sản xuất). -Bán hàng và vận chuyển hàng theo yêu cầu của khách: Đây là những hoạt động bình thường của một doanh nghiệp thương mại, song ở Việt Nam hoạt động vận chuyển hàng vẫn chưa được chú trọng nhiều, nó chưa tạo ra nguồn thu chủ yếu cho doanh nghiệp như ở các nước phát triển mà chủ yếu chỉ là cung cấp dịch vụ vận chuyển hỗ trợ quá trình bán hàng của doanh nghiệp mình. Điều này ngược hẳn so với ở các nước phát triển, hình thức dịch vụ bán và vận chuyển hàng theo yêu cầu của khách rất phát triển tạo ra nguồn thu chủ yếu tới 80% doanh thu cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Trong nền kinh tế thị trường, mỗi đơn vị sản xuất kinh doanh là một đơn vị hạch toán độc lập, tự tổ chức quản lý hoạt động kinh doanh của mình. Do vậy, trong nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp thì hoạt động bán hàng khâu quan trọng mấu chốt nhất. Bởi chỉ có bán được hàng thì doanh nghiệp mới có thể thu hồi được vốn kinh doanh, thực hiện các mục tiêu kinh doanh và tiếp tục mở rộng sản xuất kinh doanh. Dịch vụ này của doanh nghiệp thương mại sẽ tạo nên sự chuyên môn hoá cao trong sản xuất và cung ứng dịch vụ. Nó giúp cho doanh nghiệp sử dụng hợp lý sức lao động cũng như phương tiện vận tải, góp phần làm giảm chi phí lưu thông do chuyên môn hoá cao và tác phong chuyên nghiệp trong hoạt động dịch vụ. Thực hiện hoạt động này doanh nghiệp cung ứng dịch vụ cũng có thể thực hiện công tác nghiên cứu thị trường. -Chuẩn bị hàng hoá trước khi bán và đưa vào sử dụng: Đây là khâu hậu cần trong hoạt động thương mại bởi có rất nhiều sản phẩm trước khi đưa vào sử dụng hay bán thì phải qua giai đoạn chuẩn bị cho thích dụng với nhu cầu tiêu dùng. Ví dụ, với một số loại rau quả cao cấp trước khi đưa ra thị trường thì người sản xuất hoặc doanh nghiệp thương mại phải đóng gói và cân sẵn. Dịch vụ này cho phép tiết kiệm trong tiêu dùng do hàng hóa đã được chuẩn bị cho phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng nên tiết kiệm thời gian và công sức của khách hàng, hơn nữa năng suất lao động cũng được nâng cao, góp phần hạ giá thành, giúp cho vận chuyển và thanh quyết toán được đơn giản hơn. -Dịch vụ kỹ thuật khách hàng: Đây là dịch vụ giới thiệu hàng, hướng dẫn khách hàng mua và bảo dưỡng máy móc thiết bị… Dịch vụ này góp phần tạo sự tin tưởng cho khách hàng vào sản phẩm mà doanh nghiệp kinh doanh thông qua chế độ bảo hành, bảo dưỡng…Thực hiện tốt hoạt động này doanh nghiệp không chỉ tăng doanh thu mà doanh số bán hàng cũng tăng lên. Dịch vụ này ở nước ta đang ngày càng được chú trọng và đầu tư trong các doanh nghiệp thương mại, nó góp phần làm thay đổi diện mạo của nền thương mại nước nhà, làm tăng tính chuyên nghiệp của hoạt động thương mại và bán hàng. -Dịch vụ cho thuê máy móc thiết bị : Hình thức dịch vụ này chỉ thích hợp với các cơ quan nghiên cứu khoa học, kỹ thuật, thiết kế, xây dựng thi công…Ở các cơ quan này cần dùng đến nhiều loại máy móc, thiết bị có giá trị cao nhưng thời gian sử dụng lại ít nên họ thường sử dụng dịch vụ này. Hiện nay ở nước ta xuất hiện một hình thức cho thuê tài sản máy móc dưới dạng cho thuê tài chính. Dịch vụ này mới được triển khai hoạt động ở nước ta nhưng tỏ ra rất khả quan và đem lại hiệu quả kinh tế cao. Về cơ bản ta có thể hiểu là: Cho thuê tài chính là một hoạt động tín dụng trung, dài hạn thông qua việc cho thuê máy móc thiết bị và các động sản khác. Các công ty cho thuê tài chính sẽ mua hàng, tài sản theo yêu cầu của doanh nghiệp thuê và sở hữu đối với tài sản cho thuê trong suốt thời hạn thuê. Bên thuê phải trả vốn gốc và lãi thuê trong suốt thời gian thuê theo hợp đồng. Khi hết hạn thuê, doanh nghiệp thuê tài chính được chuyển quyền sở hữu đối với tài sản đã thuê. -Dịch vụ giao nhận hàng: Dịch vụ này có sự khác biệt rất lớn so với dịch vụ vận chuyển hàng theo yêu cầu của khách, nếu dịch vụ giao nhận hàng là dịch vụ kèm theo của bán hàng thì dịch vụ này là một loại hình dịch vụ độc lập. Trong đó, người cung cấp dịch vụ chỉ chịu trách nhiệm nhận hàng từ người gửi rồi tổ chức vận chuyển, lưu kho, làm các thủ tục giấy tờ và các dịch vụ khác có liên quan để giao hàng cho người nhận theo sự uỷ thác của chủ hàng, của người vận tải (của khách hàng). Hiện nay ở Việt Nam đã xuất hiện hệ thống dịch vụ logistics, tuy mới xuất hiện nhưng nó đã thể hiện ưu thế vượt trội hơn so với các dịch vụ vận tảỉ thông thường. Có khá nhiều cách hiểu về dịch vụ này, nhưng theo cách tiếp cận của Hội đồng quản lý Logistics (The Council of Logistics Management CLM in the USA), khái niệm này được hiểu như sau: Logistics là một bộ phận của dây chuyền cung ứng, tiến hành lập ra kế hoạch, thực hiện và kiểm soát công việc chu chuyển và lưu kho hàng hoá, cùng các dịch vụ và thông tin có liên quan từ địa điểm xuất phát (0) đến nơi tiêu dùng (D) một cách hiệu quả nhằm đáp ứng những yêu cầu của khách hàng. Cách định nghĩa khái niệm “Logistics” như vậy hiện nay được tiếp nhận một cách rộng rãi, bởi vì với cách tiếp cận này đã liên kết chặt chẽ nhiều lĩnh vực của Logistics với thị trường, mà điều quan trọng nhất là đã thừa nhận khách hàng là “thượng đế”. Trước đây, muốn vận chuyển hàng hoá đi từ nước này sang nước khác để bán thì những hàng hoá này phải qua tay người vận tải và nhiều phương thức vận tải khác nhau. Do vậy, xác suất rủi ro mất mát đối với hàng hoá là rất lớn, người gửi hàng phải ký nhiều hợp đồng vận tải riêng biệt đối với từng người vận tải thực sự, trách nhiệm của mỗi người vận tải theo đó chỉ giới hạn trong chặng đường, hay dịch vụ do anh ta đảm nhiệm mà thôi. Cách mạng container hoá trong vận tải vào những năm 60, 70 của thế kỷ XX đã đảm bảo độ an toàn và độ tin cậy trong vận chuyển hàng hoá, đây chính là tiền đề cho việc vận chuyển hàng hoá đa phương thức. Do yêu cầu của thực tế, khách hàng cần một tổ chức có thể thực hiện toàn bộ các công đoạn để tiết kiệm chi phí, tối thiểu hoá hao phí thời gian, từ đó nâng cao lợi nhuận. Những người thực hiện dịch vụ này không chỉ làm giao nhận mà còn làm luôn cả công tác lưu kho, dán nhãn hiệu, đóng gói bao bì, bảo hiểm cho chủ hàng nữa. Ngày nay, dịch vụ logistics được thực hiện với sự chuyên môn hoá rất cao, đó là do các công ty giao nhận kho vận đã nhận thức được rằng: chi phí của hoạt động lập kế hoạch, sắp xếp và chuẩn bị mọi mặt cho hàng hóa để sẵn sàng chuyên chở và chi phí vận chuyển đơn thuần có mối quan hệ chặt chẽ, tác động với nhau trên nhiều khía cạnh. Nếu biết công nghệ tin học để tổ chức tốt và chặt chẽ các khâu này, thì giá thành hàng hoá sẽ giảm đáng kể, do vậy năng lực cạnh tranh được nâng cao. Vì vậy, logistics không phải là một dịch vụ đơn lẻ (do vậy thuật ngữ này luôn ở dạng số nhiều Logistics, dù là danh từ hay động từ không bao giờ người ta viết Logistic). Logistics luôn là một chuỗi các dịch vụ về giao nhận hàng hoá như: làm các thủ tục giấy tờ, tổ chức vận tải, bao bì đóng gói, ghi nhãn hiệu, lưu kho lưu bãi, phân phát hàng hoá tới các địa chỉ khác nhau, chuẩn bị cho hàng hóa luôn trong sẵn sàng nếu có yêu cầu của khách. Từ sự phân tích ở trên ta dễ nhận thấy rằng dịch vụ logistics thực chất là sự phát triển ở giai đoạn cao của các khâu dịch vụ giao nhận kho vận, trên cơ sở tận dụng các ưu điểm của công nghệ tin học để điều phối hàng hoá từ khâu tiền sản xuất tới tận tay người tiêu dùng. Do ưu điểm của dịch vụ này đối với nền kinh tế cũng như đời sống xã hội mà ngày càng có nhiều công ty dịch vụ logistics ra đời cũng như có các công ty hoạt động trong lĩnh vực giao nhận kho vận đổi tên thành công ty cung cấp dịch vụ Logistics. Tóm lại, để hiểu rõ hơn về dịch vụ Logistics ta có thể hiểu như sau: Dịch vụ logistics (hay dịch vụ tiếp vận) là dịch vụ thương mại. Theo đó, người làm dịch vụ này, trên cơ sở sự uỷ thác của chủ hàng, người vận tải, hoặc làm dịch vụ tiếp vận khác (gọi chung là khách hàng) tổ chức thực hiện một hoặc một số, hoặc tất cả các công việc về vận chuyển, lưu kho, lưu bãi, làm các thủ tục hải quan, lập các chứng từ và làm các dịch vụ khác có liên quan tới hàng hoá, kể cả đóng gói bao bì, ghi mã số mã hiệu và phân phối hàng hoá trong quá trình từ khâu sản xuất đến tay người tiêu dùng cuối cùng. b. Dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông thuần tuý ( thương mại thuần tuý). -Chào hàng: Đây là hình thức dịch vụ mà các doanh nghiệp thương mại thực hiện thông qua việc tổ chức các điểm bán hàng hoá trực tiếp cho khách hàng hoặc tổ chức một đội ngũ nhân viên chuyên đi chào hàng giới thiệu sản phẩm. Hình thức chào hàng thì có nhiều song mục đích chào hàng thì chỉ có một, đó là tạo sự biết đến của khách hàng với sản phẩm của doanh nghiệp, sau đó là sự ưu thích và khuyến khích sự tiêu dùng hàng hoá này của khách hàng. Chào hàng có vị trí rất quan trọng trong hoạt động chiêu thị của doanh nghiệp vì nó sử dụng lực lượng lao động nhàn rỗi hiện nay trong các doanh nghiệp thương mại, của xã hội nói chung. Và nó góp phần đưa hàng hoá tới gần nơi tiêu dùng, không những thế so với các hoạt động chiêu thị khác hoạt động này có chi phí thấp hơn nhưng hiệu quả đạt được lại rất cao. Tuy nhiên, để chào hàng có hiệu quả cao thì nhân viên chào hàng phải được đào tạo bài bản và đạt hiệu quả cao trong hoạt động chiêu thị. -Dịch vụ quảng cáo: Quảng cáo là hoạt động tuyên truyền giới thiệu về hàng hoá thông qua các phương tiện khác nhau trong khoảng thời gian và không gian nhất định. Trong kinh doanh hiện nay, không chỉ có sự cạnh tranh bằng sản phẩm mà còn có sự cạnh tranh bằng quảng cáo. Điều đó cho thấy hoạt động quảng cáo đạt hiệu quả rất cao và là phương tiện hữu hiệu để các doanh nghiệp đạt được các mục tiêu kinh doanh của mình. Quảng cáo được thực hiện thông qua nhiều hình thức khác nhau nhưng chủ yếu là qua báo chí, đài phát thanh, vô tuyến truyền hình, áp phích, tờ rơi hay thông qua bao bì nhãn mác của hàng hoá, thậm chí là thông qua đường bưu điện. .. đây là các hình thức quảng cáo bên trong mạng lưới thương mại. Ngoài ra, còn có các hình thức quảng cáo bên ngoài mạng lưới thương mại như thông qua biển đề tên cơ sở kinh doanh (biển quảng cáo), tủ kính quảng cáo, bày hàng ở nơi bán, quảng cáo qua người bán hàng… Tuỳ theo hàng hoá kinh doanh và loại hình doanh nghiệp, mà các doanh nghiệp quyết định sử dụng loại quảng cáo nào cho đạt hiệu quả. Như đối với doanh nghiệp sản xuất thì sử dụng các hình thức quảng cáo bên trong mạng lưới thương mại là quan trọng và đem lại hiệu quả cao, nó góp phần nâng cao doanh số bán, đẩy mạnh hoạt động tiêu thụ sản phẩm. Còn đối với các doanh nghiệp thương mại thì các hình thức quảng cáo bên ngoài mạng lưới thương mại lại được đầu tư và đem lại hiệu quả kinh tế cao hơn. -Hội chợ, triển lãm thương mại: Theo luật Thương mại thì “Hội chợ, triển lãm thương mại là hoạt động xúc tiến thương mại được thực hiện tập trung trong một thời gian dài và tại một thời điểm nhất định để thương nhân trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ nhắm mục đích thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội giao kết hợp đồng mua bán hàng hoá, hợp đồng dịch vụ”. Đây thường là hoạt động diễn ra thường niên, nó giúp cho các nhà sản xuất, nhà thương mại quảng cáo hàng hoá, thăm dò thị trường, ký kết hợp đồng kinh tế… Hội chợ rất thích hợp đối với các loại hàng hóa mới và hàng hoá bị ứ đọng. Cùng với sự phát triển kinh tế xã hội thì các hội chợ, triển lãm đã từng bước thu hút được sự quan tâm của người tiêu dùng, sự đầu tư của các nhà sản xuất, các doanh nghiệp. Và nó trở thành phương tiện giúp các nhà sản xuất giới thiệu quảng bá sản phẩm, ký kết hợp đồng kinh tế với các doanh nghiệp trong nước cũng như với các doanh nghiệp nước ngoài. Với ý nghĩa đó, hội chợ triển lãm không đơn thuần là sự kiện xúc tiến thương mại, mà còn là cơ hội để xúc tiến quảng bá thu hút đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam. -Dịch vụ tư vấn, ghép mối: Đây là hoạt động do các doanh nghiệp thương mại hay các doanh nghiệp kinh doanh lớn mở ra để ghép mối hợp lý giữa người sản xuất với người tiêu dùng trên cơ sở sự hiểu biết về thị trường cũng như khả năng, nhu cầu của cả hai bên. Sản phẩm dịch vụ tư vấn, ghép mối là sản phẩm hỗ trợ cho quá trình kinh doanh của doanh nghiệp, vì là sản phẩm dịch vụ nên nó có đầy đủ các đặc trưng như tính không lưu giữ được, tính khó đánh giá chất lượng…nhưng khác với các dịch vụ khác, dịch vụ này có tầm quan trọng và ảnh hưởng lớn đối với khách hàng. Bởi dịch vụ này có thể giúp cho một doanh nghiệp phát triển mạnh mẽ, nhưng cũng có thể tạo ra bước đi sai lầm khiến cho doanh nghiệp đi tới chỗ phá sản, kinh doanh thua lỗ, giảm hiệu quả hoạt động…Do vậy, các doanh nghiệp khi sử dụng dịch vụ này thường rất thận trọng. Chính điều này đã đặt ra yêu cầu rất cao cho chất lượng dịch vụ tư vấn, ghép mối. Đây là điều lý giải tại sao các doanh nghiệp Việt Nam thường có xu hướng sử dụng các dịch vụ tư vấn nước ngoài hơn là sử dụng dịch vụ của các nhà cung cấp trong nước. Điều này đỏi hỏi các doanh nghiệp trong nước cần cố gắng hơn nữa trong việc nâng cao chất lượng dịch vụ và đào tạo đội ngũ nhân viên tư vấn để đáp ứng các nhu cầu của khách hàng. -Dịch vụ giám định hàng hóa: Đây là hoạt động dịch vụ thương mại, do một tổ chức giám định độc lập thực hiện để xác định tình trạng thực tế của hàng hoá theo yêu cầu của các bên. Giám định hàng hoá bao gồm giám định về số lượng, chất lượng, quy cách bao bì, giá trị hàng hoá, vệ sinh an toàn và các yêu cầu khác… CHƯƠNG II THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY I.Sự phát triển thương mại Việt Nam trong thời gian qua Thương mại Việt Nam đã có truyền thống và lịch sử hình thành từ lâu, nó luôn gắn liền với những cuộc đấu tranh oanh liệt giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốcvà xây dựng CNXH. Quá trình này cũng gắn liền với quá trình dựng nước của dân tộc trong suốt mấy ngàn năm lịch sử, đó là quá trình xây dựng và phát triển nền kinh tế nước ta từ một nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, kém phát triển, hiệu quả và sức cạnh tranh thấp trở thành một nền kinh tế năng động, hoạt động hiệu quả theo cơ chế thị trường. Trong lịch sử dân tộc thì mầm mống của thương mại đó là các hoạt động trao đổi hàng hoá đã xuất hiện từ thời các vua Hùng dựng nước. Nó tồn tại và gắn liền với nền văn hoá nông nghiệp qua các thời kỳ Bắc thuộc, thời kỳ Đại Việt và thời kỳ Tây thuộc. Thời kỳ phong kiến, nền kinh tế nước ta là một nền kinh tế tự cấp tự túc, hoạt động thương mại nhỏ bé và phân tán. Triều đình không những giữ độc quyền trong hoạt động ngoại thương mà còn giữ độc quyền trong nội thương trong việc buôn bán một số mặt hàng như sắt, đồng, thiếc, chì, diêm… Qua nhiều thế kỷ, đến thế kỷ thứ XVII, XVIII, XIX thương mại trong nước đã có bước phát triển hơn nhờ sự phát triển của sản xuất hàng hoá và hoạt động ngoại thương, ._.quan hệ hàng hoá tiền tệ đã phát triển thêm một bước. Từ năm 1862, thực dân Pháp nhảy vào xâm chiếm nước ta, biến nước ta thành một nước thuộc địa của chúng. Thương mại nước ta kể từ đó trở thành thương mại của một nước nửa thuộc địa, nửa phong kiến. Từ đó, các công ty của Pháp đã nắm độc quyền trong cả ngoại thương và nội thương. Dưới chế độ này, Việt Nam trở thành một vùng đất trù phú mà thực dân Pháp tha hồ khai thác và bóc lột, thương mại trong giai đoạn này kém phát triển về cả quy mô, mặt hàng và thị trường. Từ năm 1890 đến năm 1939, khi chiến tranh thế giới thứ hai bùng nổ, ba nước Đông Dương trong đó chủ yếu là Việt Nam đã xuất khẩu 57,8 triệu tấn gạo; 397 ngàn tấn cao su; 28 triệu tấn than. Hai mặt hàng gạo và cao su chiếm tới 70 đến 80% kim ngạch xuất khẩu, hàng thủ công nghiệp chiếm tỷ trọng không đáng kể. Hàng nhập khẩu chủ yếu là hàng tiêu dùng và một số nguyên liệu như xăng dầu, bông, vải, máy móc, thiết bị (nhưng số lượng rất ít) …Thực dân Pháp còn ban hành luật Đồng hoá thuế quan (trước năm 1939) và Thuế quan tự trị (sau năm 1939) nhằm có lợi cho chúng. Từ sau Cách Mạng tháng Tám năm 1945, tình hình đất nước có nhiều thay đổi quan trọng, mà mốc son đáng nhớ nhất đó là việc Nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà chính thức ra đời. Nhưng độc lập chưa được bao lâu thì Pháp quay trở lại xâm lược Việt Nam, rồi đế quốc Mỹ lại hất cẳng Pháp để chen chân vào nước ta. Vì vậy, trong suốt giai đoạn từ 1945 đến 1954 thương mại Việt Nam bị tách ra làm hai, một là vùng tự do hai là vùng địch tạm chiếm. Và tất nhiên thị trường vùng địch tạm chiếm bị thu hẹp trong những thành phố và thị trấn lớn ở các đầu mối giao thông do đế quốc Mỹ và Pháp trực tiếp kiểm soát thông qua các công ty của chúng. Ngành dịch vụ là ngành phát triển nhất trong khu vực này do nó thoả mãn nhu cầu của bọn đế quốc, tay sai và một phần dân cư đô thị. Ngược lại hẳn với vùng bị tạm chiếm, thương mại vùng tự do lại có những tính chất khác hẳn. Đó là do nó hướng vào phục vụ và thoả mãn những nhu cầu của dân cư và kháng chiến. Tất nhiên thương mại đều do Nhà nước quản lý và điều hành. Nhà nước đã thực hiện việc cải tạo hệ thống tư thương, tư sản thương nghiệp. Hệ thống phân phối của Nhà nước do các cơ sở quốc doanh đảm nhận phát triển nhanh chóng, phát huy tác dụng chủ đạo trên thị trường tự do phục vụ đắc lực cho kháng chiến và cho sự nghiệp Cách mạng Dân tộc Dân chủ. Song, khi miền Bắc hoàn thành cuộc Cách mạng này, chuyển sang Cách mạng XHCN, thị trường vùng tự do và vùng tạm chiếm hợp thành một thị trường thống nhất thì thương nghiệp quốc doanh chưa phát huy hết vai trò của mình và mới chỉ chiếm 18,1% tổng ngạch bán buôn và 19,2% tổng ngạch bán lẻ. Về ngoại thương thì do điều kiện chiến tranh và điều kiện lịch sử nên trong giai đoạn này chúng ta chỉ có quan hệ thương mại với một số quốc gia XHCN và khối lượng hàng hóa buôn bán cũng rất hạn chế. Sang đến thời kỳ 1954-1975, đất nước bị chia cắt làm hai miền và có hai chế độ chính trị khác nhau nên thương mại cũng phát triển theo hai hướng khác nhau. Trong thời kỳ này, miền Bắc thực hiện cơ chế quản lý kế hoạch tập trung cao độ để huy động sức người , sức của cho cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Còn miền Nam, các hoạt động thương mại dịch vụ phát triển theo cơ chế thị trường và chỉ tập trung chủ yếu ở các thành phố lớn. Ở miền Bắc mọi hoạt động kinh tế đều chịu sự chi phối của kế hoạch của Nhà nước Thời kỳ này Đảng và Nhà nước đã chủ trương chấn chỉnh thương nghiệp, tài chính để xây dựng nền móng cho thương nghiệp XHCN nhằm phục vụ tốt cho đời sống của nhân dân. Sang đến năm 1975, trong hoàn cảnh đất nước đã hoàn toàn độc lập, hai miền được thống nhất cùng phát triển theo định hướng XHCN hoạt động thương mại có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển song cũng tồn tại nhiều khó khăn, thách thức cần phải vượt qua. Trước tình hình đó, Đảng và Nhà nước đã để ra nhiều biện pháp để khôi phục và phát triển kinh tế trong đó có hoạt động thương mại. Tuy nhiên, việc Nhà nước can thiệp quá sâu vào những hoạt động kinh tế lại tạo ra những kết quả ngược lại, đó là sản xuất hàng hoá kém phát triển, động lực trong kinh doanh bị triệt tiêu. Hơn nữa, việc thực thi cơ chế kế hoạch hoá tập trung một cách quá mức khiến nó trở lên quan liêu và gây ra nhiều tác dụng tiêu cực lên nền kinh tế.Và cao điểm là các cuộc khủng khoảng kinh tế xã hội xảy ra gay gắt, lạm phát lên đến ba con số như năm 1986 lạm phát là 774,7% và chủ trương điều chỉnh tổng giá năm 1985 không thành công khiến nền kinh tế nước ta đối mặt với những thách thức nghiêm trọng. Trước tình hình đó, Đại hội lần thứ VI của Đảng đã thẳng thắn chỉ ra những thiếu sót: -“Sản xuất có tăng, nhưng tăng chậm so với khả năng sẵn có và công sức bỏ ra, so với yêu cầu nhanh chóng ổn định đời sống của nhân dân… -Lưu thông không thông suốt, phân phối rối ren, vật giá tăng tác động tiêu cực đến sản xuất, đời sống và xã hội. -Những mất cân đối lớn trong nền kinh tế giữa cung và cầu về lương thực, thực phẩm, năng lượng, nguyên liệu, vận tải… giữa thu và chi, xuất khẩu và nhập khẩu chưa được thu hẹp, có mặt còn gay gắt hơn…” Thực tế trên đã đặt ra yêu cầu cấp bách là làm thế nào để đổi mới nền kinh tế nói chung và lĩnh vực thương mại nói riêng một cách hiệu quả và tích cực. Báo cáo Chính trị của Ban chấp hành TW Đảng tại Đại hội đã nêu rõ: Sử dụng hợp lý quan hệ hàng hoá tiền tệ, “sản xuất phải gắn với thị trường, mọi hoạt động phải so sánh chi phí với hiệu quả, các đơn vị kinh tế phải tự bù đắp chi phí, có lãi để sản xuất mở rộng”. Xoá bỏ cơ chế tập trung, quan liêu, bao cấp, xây dựng nền kinh tế mới phù hợp với quy luật khách quan và trình độ phát triển của nền kinh tế. Đến nay, công cuộc đổi mới đã thực hiện được 20 năm nền kinh tế nước ta đã có những bước chuyển vững chắc và đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Sự đổi mới đã làm thay đổi hẳn bộ mặt của đất nước và những quan niệm đánh giá của bạn bè nước ngoài về chúng ta. Trong lĩnh vực thương mại, 20 năm qua là những chặng đường đầy biến động và có nhiều đổi mới, thể hiện rõ nét nhất trên ba lĩnh vực : thị trường nội địa, xuất khẩu và hội nhập kinh tế quốc tế. a, Về thị trường nội địa: -Về cơ bản đã xoá bỏ cơ chế lưu thông cũ chuyển sang cơ chế thị trường lưu thông mới, khắc phục tình trạng “ngăn sông, cấm chợ” như trước, hình thành thị trường thống nhất, khá ổn định và thông suốt trong cả nước. Với chính sách tự do hoá thương mại, tự do hoá hoạt động lưu thông đã làm cho hàng hóa đựơc giao lưu thông suốt giữa các vùng miền trong cả nước, góp phần khai thác tiềm năng thế mạnh của từng vùng trong cả nước và dần dần đã hình thành ra nhiều cấp độ thị trường. Thị trường thành thị là nơi có các hình thức thương mại văn minh hiện đại, phát triển tương đối nhanh so với các thị trường khác. Nó trở thành đầu mối giao lưu phân luồng bán buôn và là các trung tâm thương mại trong từng vùng. Thị trường nông thôn từng bước phát triển và mở rộng với sự đa dạng cùa loại hình thương nhân thuộc các thành phần kinh tế, đáp ứng nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng địa phương. Khẳng định chính sách tự do lưu thông trong khuôn khổ pháp luật, Nhà nước đã ban hành các Nghị Định về tổ chức lại công tác quản lý thị trường chống đầu cơ và buôn lậu như NĐ 35/CP ngày 25/4/4994; quy định về hàng hoá và dịch vụ cấm kinh doanh, hàng hoá và dịch vụ kinh doanh có điều kiện ở thị trường trong nước là NĐ 02/CP ngày 5/01/1995; ngày 3/1/1996 Nhà nước ban hành Nghị định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ ( NĐ 01/CP)… -Hàng hóa và dịch vụ ngày càng phong phú về chủng loại đa dạng về kiều dáng và đặc biệt là chất lượng ngày càng được nâng cao, đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Hàng hoá cung ứng trên thị trường tăng trưởng ở mức cao trên 10% một năm và ngày càng phong phú về chủng loại, quy cách, chất lượng ngày càng đựơc nâng cao hơn. Điều này góp phần quan trọng vào việc giữ vững các cân đối lớn trong nền kinh tế, từng bước ổn định đời sống nhân dân. Nếu năm 1985 chỉ tiêu tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ tiêu dùng xã hội chỉ đạt 620 tỷ đồng thì đến năm 1990 đạt 19 nghìn tỷ đồng, năm 1995 đạt 121 nghìn tỷ đồng, năm 2000 đạt 219 nghìn tỷ đồng và năm 2005 đạt 335.383 tỉ đồng, tương đương 20,93 tỉ USD, nhìn chung chỉ tiêu này có mức tăng trưởng đều đặn trên 10% một năm. Cơ cấu chủng loại hàng hóa có sự biến đổi theo hướng tiến bộ, tỷ trọng hàng công nghiệp tăng, tỷ trọng hàng lương thực thực phẩm giảm, tỷ trọng dịch vụ có xu hướng tăng dần. -Lạm phát được kiềm chế, chỉ số giá tiêu dùng tăng ở mức hợp lý đã tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế xã hội. Nhờ việc thực hiện cơ chế một giá và việc mua bán bình thường vật tư hàng hoá đã làm giảm mạnh nạn đầu cơ, tích trữ hàng hoá và các nhu cầu giả tạo trong nền kinh tế. Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tăng bình quân hàng tháng của xã hội năm 1986 là 20%, đến năm 2001 chỉ còn 1%, năm 2004 chỉ còn 0,79% và năm 2005 tăng 0,7%. Giá cả hàng hóa được đảm bảo tương đối ổn định, nhu cầu các mặt hàng thiết yếu được đảm bảo đầy đủ. -Từng bứơc hình thành các kênh lưu thông của một số mặt hàng chủ yếu. Cùng với sự phát triền của nền kinh tế, nhu cầu của người dân sử dụng các loại hình phân phối hiện đại ngày càng cao, điều này dẫn đến sự thay đổi trong cơ cấu các loại hình phân phối. Đó là việc người dân, nhất là tại các thành phố lớn có xu hướng lựa chọn những hình thức phân phôi mới hiện đại trong tiêu dùng như sử dụng hệ thống siêu thị, trung tâm thương mại… Bên cạnh đó hệ thống bán buôn cũng từng bước được hình thành phù hợp với yêu cầu của thực tiễn. -Kết cấu hạ tầng thương mại ngày càng phát triển theo hướng văn minh hiện đại. Như năm 1996 cả nước có gần 5 nghìn chợ thì đến cuối năm 2004 tăng lên 8.751 chợ, và đến năm 2005 thì có tới 9.063 chợ với sự đa dạng về loại hình kinh doanh và phương pháp quản lý, trong đó có những chợ chuyên doanh, chợ nông sản và chợ đầu mối. Các hình thức trung tâm thương mại, siêu thị và các cửa hàng tự phục vụ có xu hướng tăng nhanh nhất là tại khu vực thành thị và các trung tâm kinh tế. Tính đến năm 1997 thì cả nước có rất ít siêu thị nhưng chỉ 8 năm sau đó, tức là năm 2004 thì ở 21 tỉnh thành phố có tới 691 trung tâm thương mại, cửa hàng tự chọn và siêu thị. Tính đến thời điểm hiện nay cả nước có trên 200 siêu thị, 30 trung tâm thương mại, khoảng 1.000 cửa hàng tự chọn. -Đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham gia thị trường. Mặc dù các hình thức phân phối theo hướng văn minh hiện đại ngày càng phát triển và mở rộng, song theo thói quen từ xưa thì đa phần người Việt Nam vẫn thích mua sắm tại các khu chợ ngoài trời hơn. Chính vì vậy, hình thức mua bán tại các khu chợ truyền thống vẫn là hình thức rất phổ biến và khu vực kinh tế tư nhân, tiểu thương nhỏ vẫn tiếp tục phát triển. Doanh nghiệp Nhà nước từng bước vươn lên thích ứng với cơ chế mới và giữ vai trò then chốt trong việc phân phối những mặt hàng trọng yếu, chi phối từ 70 đến 75% khâu bán buôn, chiếm 20 đến 21% tổng mức lưu chuyển bán lẻ. Các hợp tác xã thương mại chỉ thích ứng với cơ chế kế hoạch hoá tập trung thì nay cũngphải đổi mới cho thích ứng với cơ chế mới, tuy nhiên thành phần này cũng chỉ chiếm một con số khá khiêm tốn là 1% tổng mức bán lẻ trên thị trường. Còn lại gần 80% tổng mức bán lẻ trên thị trường là do các thành phần kinh tế khác như các hình thức công ty, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, thương mại tư nhân, cá nhân và hộ gia đình đảm nhiệm. Hiện nay, Việt Nam được đánh giá là 1 trong 7 thị trường tiềm năng cho các đại gia bán lẻ quốc tế khai thác, theo đánh giá gần đây nhất của công ty tư vấn AT Kearney- một trong những công ty lập ra chỉ số bán lẻ toàn cầu GRDI thì Việt Nam chỉ xếp thứ 3 sau Ấn Độ và Nga, tức là xếp trên cả Trng Quốc. Chính vì vậy, ngày càng có nhiều nhà phân phối nước ngoài muốn đầu tư, kinh doanh bán lẻ tại nước ta. Tiêu biểu trong số đó là Big C, Mêtro (Cash &Carry), ngoài ra còn một loạt các nhà phân phối khác như Wal-Mart (Mỹ), Carrefour (Pháp), Tesco (Anh), Lotte Shopping (Hàn Quốc), Dairy Farm (Hồng Kông), South Asia Investment PTE (Singapore)... Các tập đoàn này đã lần lượt "đánh tiếng" với cơ quan chức năng Việt Nam, thậm chí có công ty đã lập văn phòng đại diện và tiến hành nghiên cứu thị trường chờ thời cơ bước vào thị trường Việt Nam. Điều này đã đặt ra nguy cơ và thách thức rất lớn cho các nhà phân phối trong nước. -Quản lý thương mại có sự đổi mới từ TW đến địa phương cả về tư duy, nội dung và phương hướng. Đó là việc hệ thống chính sách của Đảng đã thực sự đi vào cuộc sống và tạo những bước chuyển tích cực trong đời sống và kinh doanh. -Thương mại trên địa bàn miền núi, vùng sâu, vùng xa phát triển trên nhiều mặt, góp phần phát triển kinh tế xã hội các vùng này, biến nó trở thành một bộ phận của thương mại quốc gia. b, Về lĩnh vực xuất nhập khẩu Thành công bước đầu của nước ta trong lĩnh vực này từ khi thực hiện công cuộc đổi mới là đã xoá bỏ cơ chế độc quyền trong ngoại thương của Nhà nước. Điều này được thể hiện tại Nghị định 40/CP ngày 7/2/1989, Chính phủ mở rộng quyền hoạt động ngoại thương cho UBND tỉnh, thành phố, đồng thời mở rộng quyền XNK trực tiếp cho các xí nghiệp liên hiệp sản xuất hàng xuất khẩu. Đây chính là cơ sở, là nền móng cho các chính sách quản lý cho hoạt động ngoại thương và kinh tế đối ngoại thời kỳ đổi mới. Trong những thời gián tiếp sau, hoạt động ngoại thương đã có nhiều bước tiến đáng kể như: -Xoá bỏ được cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp, xây dựng được môi trường pháp lý cho hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu. Giúp cho nó được vận hành theo cơ chế thị trường, góp phần không nhỏ trong việc khơi dậy mọi tiềm năng, sức sáng tạo, tính chủ động của các đơn vị thuộc mọi thành phần kinh tế để phát triển xuất khẩu. -Một thực tế là trước những năm 80 Nhà nước phải bù lỗ lớn cho hoạt động xuất khẩu, thì hiện nay hoạt động này đã đem lại nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước. Trong 5 năm từ 2001 đến 2005 kim ngạch xuất khẩu đạt 110,6 tỷ USD, tốc độ tăng bình quân năm là 17,3% , xuất khẩu bình quân đầu người đạt 390 USD. Trong đó, có 7 mặt hàng xuất khẩu đạt từ 1,3 đến 8 tỷ USD và chỉ tính riêng trong năm 2005, xuất khẩu cả nước đạt 32 tỷ USD (tăng 20,7% so với năm 2004) và phấn đấu năm 2006 kim ngạch xuất khẩu đạt 38 tỷ USD. -Bên cạnh đó hoạt động xuất khẩu còn góp phần đáng kể vào việc giải quyết khủng hoảng kinh tế, kiềm chế và từng bước dẩy lùi nguy cơ lạm phát cao. Đặc biệt là trong những thời điểm nền kinh tế nước ta phải đối mặt với những khó khăn lớn khi mà hệ thống XHCN ở Liên xô và Đông Âu sụt đổ, lúc nàynguyên nhiên vật liệu quan trọng, hàng tiêu dùng thiết yếu và nguồn viện trợ không còn. -Thay đổi nữa có tác dụng tích cực khuyến khích xuất khẩu đó là việc Nhà nước cho phép thương nhân có thể xuất nhập khẩu tất cả các loại hàng hoá trừ hàng hoá cấm nhập khẩu và hàng xuất nhập khẩu có điều kiện, chỉ phải làm thủ tục hải quan ở cửa khẩu thay vì chỉ được xuất nhập những hàng hoá mà Bộ Thương mại cho phép. -Đến nay cả nước có 35.714 doanh nghiệp trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu, bằng 1000 lần năm 1986. Đó là do sự thay đổi trong cơ chế quản lý, từ chỗ chỉ được trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu theo giấy phép của Bộ Thương mại đến nay thương nhân thuộc mọi thành phần kinh tế được thành lập theo quy định của pháp luật đều được trực tiếp kinh doanh xuất nhập khẩu. -Việc tăng nhanh của tỷ trọng hàng xuất khẩu đã dẫn đến nhu cầu lớn trong việc nhập khẩu vật tư thiết bị phục vụ cho sản xuất trong nước, do đó tỷ trọng hàng nhập khẩu cũng tăng khá nhanh. Từ những cơ chế chính sách được nhanh chóng đổi mới và phù hợp với điều kiện thực tế, kim ngạch xuất nhập khẩu đã không ngừng tăng lên trong những năm qua. Năm 1986 kim ngạch xuất nhập khẩu mới chỉ đạt 789 triệu USD thì năm 1995 đạt 5,449 tỷ USD, năm 2000 đạt khoảng 31,5 tỷ USD. Năm 1986 kim ngạch nhập khẩu là 2,155tỷ USD, đến năm 2000 tăng lên 15,639 tỷ USD, năm 2005 sẽ đạt khoảng 37 tỷ USD. Tỷ lệ nhập siêu năm 2005 đã giảm xuống chỉ bằng 1/10 so với 10 năm trước đó. Thị trường xuất khẩu được mở rộng không chỉ trong nội khối XHCN như trước đây, mà đã vươn ra khắp các vùng, lãnh thổ trên thế giới. c, Hội nhập kinh tế quốc tế Với đường lối đổi mới: Đa phương hoá, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại , trong 20 năm qua Đảng đã đề ra nhiều chủ trương đường lối nhất quánvà được triển khai tích cực phù hợp với tình hình cụ thể của từng giai đoạn, bước đầu đã có những thành tựu quan trọng đáng tự hào: -Khắc phục được tình trạng phân biệt đối xử, dần tạo được thế và lực trong hoạt động thương mại quốc tế. -Hoạt động hợp tác kinh tế của Việt Nam đã đựơc triển khai một cách toàn diện trên nhiều lĩnh vực, tạo nhiều thuận lợi cho xuất nhập khẩu hàng hoá của Việt Nam. Bước ngoặt đáng kể nhất phải kể đến là việc Mỹ tuyên bố xoá bỏ chính sách cấm vận và bao vây kinh tế chống Việt Nam vào ngày 11/7/1995, và đến ngày 12/7/1995 thì hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao. Chỉ 5 ngày sau đó, vào ngày17/7/1995 nước ta và Liên minh Châu Âu đã ký hiệp định chung về hợp tác kinh tế, thương mại và khoa học kỹ thuật. Tiếp đó, vào ngày 28/7/1995 nước ta trở thành thành viên thứ bảy của Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN ). Chỉ 5 năm sau đó, vào năm 2000 Việt Nam đã quan hệ ngoại thương với 170 quốc gia và vùng lãnh thổ. Nhờ đó, nước ta nhận được các ưu đãi về thuế quan và phi thuế quan, góp phần thúc đẩy kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, tăng nguồn ngoại tệ ổn định cán cân thanh toán và dự trữ ngoại tệ của đất nước, hạn chế ảnh hưởng của sự biến động tài chính năm 1997 ở khu vực. Nước ta còn nhận được nhiều sự hỗ trợ về tài chính tín dụng và viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, chính phủ nước ngoài. Tính từ năm 1993 đến năm 2004 viện trợ ODA cam kết cho Việt Nam là 28,82 tỷ USD, trong đó mức vốn đã thực hiện là trên 14 tỷ. -Tiếp tục mở rộng thị trường thu hút đầu tư. Đến nay đã có trên 70 nước vùng lãnh thổ có các doanh nghiệp FDI đầu tư ở Vịêt Nam, trong đó có nhiều công ty tập đoàn lớn có tiềm lực kinh tế, công nghệ, góp phần làm thay đổi trình độ sản xuất, trình độ quản lý và nâng cao khả năng tiếp nhận công nghệ mới, hiện đại. Khu vực có vốn đầu tư nước ngoài thực sự đã trở thành những động lực của sản xuất, góp phần tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu Việt Nam. Nếu năm 1991 xuất khẩu của khu vực FDI chỉ chiếm 4% thì đến năm 2004 đã chiếm 54% kim ngạch xuất khẩu của cả nước. -Bên cạnh đó, nhờ những thành tựu cơ bản trên lĩnh vực kinh tế đã củng cố vị thế của đất nước về chính trị, ngoại giao, làm thất bại chính sách bao vây, cô lập đất nước của các thế lực thù địch. Tóm lại sau 20 năm đổi mới, cùng với những thành tựu to lớn của lĩnh vực kinh tế, lĩnh vực thương mại cũng đã thu được nhiều kết quả đáng khích lệ, góp phần thay đổi bộ mặt của đất nướcvà nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Song, bên cạnh những thành tựu và kết quả đã đạt được thì vẫn còn những tồn tại chưa khắc phục được. Nhận thức được vấn đề này, Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng đã chỉ ra :” Nạn buôn lậu, làm hàng giả, gian lận thương mại, và tệ tham nhũng không giảm, tác động xấu đến tình hình kinh tế xã hội; lĩnh vực xuất khẩu có những hạn chế về tạo nguồn hàng, chất lượng và sức cạnh tranh; xuất khẩu hàng nông sản thô, nguyên liệu thô còn chiếm tỷ trọng lớn; nhiều mặt hàng còn phải xuất khẩu qua trung gian hoặc gia công lên hiệu quả kinh tê không cao. Mức tăng trưởng giá trị các ngành dịch vụ chỉ đạt trên 50% kế hoạch, trong khi lĩnh vực này chiếm tỷ trọng lớn trong GDP, nên hạn chế mức tăng trưởng chung của nền kinh tế”. Chắc chắn rằng, với những thành tựu đã đạt đựơc và bài học kinh nghiệm rút ra trong 20 năm qua, trong thời gian tới thương mại Việt Nam sẽ có những bước phát triển vững chắc, chất lượng và hiệu quả. II.Sự ra đời và phát triển của các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam Có nhiều cách phân loại hoạt động dịch vụ thương mại, đơn giản và hay dùng nhất là cách phân loại theo tổ chức hoạt động. Theo cách này, dịch vụ thương mại sẽ được phân làm hai loại gồm dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông bổ sung và dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông thuần tuý. Như chúng ta nghiên cứu ở phần trước thì thương mại nước ta xuất hiện từ khá sớm. Nhưng trong buổi ban đầu ấy, phần lớn hoạt động thương mại và dịch vụ đều là tự phát, chỉ nhằm thoả mãn những nhu cầu cơ bản của cuộc sống thông qua trao đổi hàng hoá bằng hiện vật là chính. Cùng với sự phát triển của sản xuất thì hoạt động thương mại dần trở thành một lĩnh vực không thể thiếu trong nền kinh tế. Thương mại tổ chức quá trình lưu thông hàng hoá, dịch vụ trong nước với nước ngoài. Đây chính là chức năng xã hội của thương mại, với chức năng này thì ngành thương mại phải nghiên cứu và nắm vững nhu cầu thị trường và sử dụng hợp lý các nguồn hàng nhằm thoả mãn tốt nhất mọi nhu cầu của xã hội; thiết lập hợp lý các mối quan hệ trong nền kinh tế và thực hiện có hiệu quả các hoạt động dịch vụ trong quá trình kinh doanh. Ngoài ra, thương mại còn đảm nhận chức năng tiếp tục quá trình sản xuất trong khâu lưu thông cũng như chức năng gắn sản xuất với thị trường và gắn nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới. Hoạt động thương mại là hoạt động trao đổi hàng hoá do vậy chức năng còn lại của thương mại sẽ là chức năng thực hiện giá trị hàng hoá, dịch vụ. Những chức năng trên cho thấy tầm quan trọng rất lớn của thương mại không những với nền kinh tế mà còn với các doanh nghiệp, với đời sống nhân dân. Mặt khác, do tính chất và trình độ chuyên môn hoá sản xuất ngày càng cao nên các nhà sản xuất không thể trực tiếp bán sản phẩm của mình cho từng người tiêu dùng mà phải nhờ đến các nhà thương mại chuyên làm nhiệm vụ bán hàng và cung cấp các dịch vụ thương mại. Chính vì vậy, sự ra đời và phát triển của các hoạt động dịch vụ thương mại là khách quan và xuất phát từ yêu cầu của nền sản xuất hàng hóa. Xét trong lĩnh vực lưu thông bổ sung ta thấy: Tất cả các loại hình dịch vụ này đều có sự chuyển biến tích cực trong mấy năm trở lại đây, đó là việc tăng nhanh về quy mô, nâng cao về tính chất trình độ theo hướng chuyên môn hoá, hiện đại hóa. Điều này được thể hiện qua sự tăng liên tục và khá ổn định của tổng mức bán lẻ xã hội trong mấy năm gần đây: Năm 2005 đạt 475.380 tỷ đồng tăng 26,1% so với năm 2004;sau 5 năm từ 2001 đến 2005 tăng lên 230 nghìn tỷ đồng (gần 94%), bình quân mỗi năm tăng 46.500 tỷ đồng (16,7% ). Xét một cách tương ứng mức bán lẻ hàng hoá tính theo đầu người cũng tăng theo động thái như vậy: năm 2005 đạt 5.749.201 đồng/ người, sau 5 năm (2001-2005) tăng lên 2.6 triệu đồng một người (gần 84%). Con số tổng mức hàng hoá hàng năm tương đương trên trên 20 tỷ USD, năm 2004 tăng hơn 24 tỷ USD, năm 2005 tăng gần 30 tỷ USD nói lên một sự đóng góp rất quan trọng vào GDP của ngành. Nó tạo ra một sự yên tâm về nội lực để tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Đồng thời với sự tăng lên của tỷ trọng GDP thương mại nội địa trong GDP của toàn nền kinh tế thì sự tăng lên nhanh chóng về số lượng thương nhân, số lượng lao động đã cho phép khẳng định: ngành dịch vụ phân phối 5 năm qua đã có bước phát triển rõ rệt và trên diện rộng, trước hết là trên mặt quy mô như ta vừa xem xét. Về mặt tính chất và trình độ, khu vực phân phối đã và đang chuyển động theo hướng tích cực, đầy triển vọng. Không phải chỉ có sản xuất ra hàng hoá, dịch vụ mà là cách đem hàng hóa dịch vụ này đến với người tiêu dùng. Trong 5 năm qua, sự đổi mới bước đầu về loại hình và phương thức tổ chức hoạt động trong lĩnh vực này đã làm cho tiêu dùng trong nước có sự chuyển biến đáng kể nhất là ở chiều sâu. Ngày càng xuất hiện nhiều loại hình phân phối mới hiện đại và thuận tiện hơn đáp ứng tốt nhu cầu cho cuộc sống năng động hiện tại. Từ chỗ người tiêu dùng thoả mãn nhu cầu về hàng hoá 100% qua chợ và mạng lưới bán lẻ truyền thống, thì nay, qua chợ khoảng 40%, qua các cửa hàng độc lập và cửa hàng của doanh nghiệp khoảng 44%, qua hệ thống phân phối hiện đại khoảng 10% (nếu chỉ tính ở các đô thị lớn như Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh thì con số này lên tới 20%). Từ chỗ chỉ xuất hiện một ít ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh đến nay trên cả nước hệ thống siêu thị và trung tâm thương mại mọc lên khá nhiều, chúng được liên kết lại để hình thành nên các chuỗi phân phối như chuỗi các siêu thị như Co.op Mart, Intimex, Maximark, Citimart, chuỗi siêu thị và cửa hàng thời trang Vinatex thuộc tập đoàn dệt may Việt Nam… Đây là một xu hướng khả quan đang được nhiều nhà phân phối khác đã và đang triển khai mạnh. Tuy nhiên, trong bối cảnh nền kinh tế có sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay, các doanh nghiệp trong nước phải đương đầu với những thách thức từ phía các nhà phân phối nước ngoài. Các doanh nghiệp này có vốn lớn, kinh nghiệm quản lý và tổ chức hoạt động cùng với một mạng lưới hoạt động ở nhiều quốc gia nên có ưu thế rất lớn so với các doanh nghiệp phân phối nước nhà. Do vậy, nhà nước cần có các chính sách hỗ trợ và tạo điều kiện cho doanh nghiệp phân phối trong nước mở rộng mạng lưới của mình bởi với cơ chế như hiện nay thì các doanh nghiệp Việt Nam không thể cạnh tranh với các tập đoàn nước ngoài được. Theo bài học kinh nghiệm từ Thái Lan thì nếu có một trung tâm bán lẻ của nước ngoài được xây dựng thì trong vòng bán kính 1km không ai có thể bán được cái gì. Tương tự như Thái Lan, bài học trong cuộc mở cửa phân phối của Trung Quốc được giới kinh doanh xem như một kinh nghiệm đáng giá cho các nước đi sau trong đó có Việt Nam ( Trung Quốc gia nhập WTO năm 2001). Người ta tính rằng trong vòng bán kính 35 km trên đất Trung Quốc, nếu nhà bán lẻ số hai thế giới Carrefour mở một đại siêu thị thì đồng thời có 3 đại gia phân phối của Trung Quốc phá sản. Nguy cơ này có thể xảy ra với Việt Nam trong thời gian tới nếu mở cửa thị trường phân phối trong khi các nhà phân phối trong nước chưa có đối sách hợp lý. Để đối phó với nguy cơ cạnh tranh cao từ phía tập đoàn nước ngoài các doanh nghiệp trong nước đang có xu hướng mở rôg hco nghieehie lên khá nhiều, ộng các mối liên kết và củng cố mạng lưới chuỗi phân phối. Hệ thống phân phối hiện đại thường phân bố tập trung ở khu vực thành thị còn ở nông thôn thì các cửa hàng truyền thống vẫn giữ vai trò chủ đạo trong việc cung cấp các hàng tiêu dùng cá nhân và hàng tiêu dùng phục vụ sản xuất nhỏ. Hơn nữa do thói quen trong tiêu dùng của người Việt nên các cửa hàng truyền thống vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời sống của dân cư. Theo ước tính trên cả nước có khoảng 900 nghìn cửa hàng bán lẻ truyền thống và giải quyết việc làm cho khoảng 5 triệu lao động phổ thông. Gần đây, hệ thống bán lẻ đã xuất hiện một phương thức kinh doanh mới đó là nhượng quyền thương mại. Các doanh nghiệp Trung Nguyên, Kinh Đô và Nam An là các doanh nghiệp đi đầu trong lĩnh vực nhượng quyền thương mại ở nước ta, đây là một lĩnh vực khá mới mẻ song nó cho thấy sự nhạy bén và năng động của các doanh nghiệp Việt Nam trong xu thế hội nhập quốc tế. Công ty phân phối và bán lẻ 24-seven là doanh nghiệp tiên phong nghiên cứu và phát triển chuỗi cửa hàng bán lẻ tiện lợi từ năm 2003 và được đánh giá cao tại Hội thảo kinh doanh toàn cầu tại Ấn Độ. Hiện tại, 24-seven phát triển hai thương hiệu bán lẻ tiện lợi là 24-seven Open 24H và Daily open 24H tại Việt Nam. Công ty đã khai trương cửa hàng nhượng quyền đầu tiên vào cuối năm 2005 và hiện nay đã có các cửa hàng nhượng quyền tại Hà Nội, Thái Nguyên và đang phát triển tại Hải Phòng, Nam Định, Ninh Bình… Tuy nhiên, nếu nhìn toàn cảnh thương mại bán lẻ nước nhà thì chúng ta thấy nó vẫn còn thiếu sự quy hoạch và đầu tư đúng mức để có thể phát triển đồng bộ. Do vậy, trong thời gian tới ngành thương mại bán lẻ cần phải hướng tới là sự phát triển toàn diện bao gồm những kênh phân phối, chợ đầu mối, trung tâm thương mại, trung tâm bán buôn, bán lẻ…Thiếu sự phát triển của một trong những mô hình này ngành bán lẻ không thể gọi là phát triển chiến lược và đồng bộ. Cùng với sự phát triển của lĩnh vực bán hàng hay phân phối hàng hoá thì hàng loạt các dịch vụ hậu phân phối chuyên nghiệp phát triển mạnh mẽ, trong đó phải kể đến dịch vụ giao nhận hàng hoá, dịch vụ kỹ thuật khách hàng, dịch vụ chuẩn bị hàng trước khi bán và đưa vào sử dụng, dịch vụ vận chuyển hàng hoá, dịch vụ cho thuê máy móc thiết bị... Những dịch vụ này trước đây còn mang nặng tính tự phát thì nay đã đựơc tổ chức khá chuyên nghiệp, đáp ứng nhu cầu thị trường và phục vụ tốt cho sản xuất. Trong đó, đáng kể nhất là việc ra đời hàng loạt các trung tâm dịch vụ logistics chuyên thực hiện một chuỗi các dịch vụ về giao nhận hàng hoá như: làm thủ tục giấy tờ, tổ chức vận tải, bao bì đóng gói, ghi nhãn hiệu, lưu kho lưu bãi, phân phát hàng hoá… Dịch vụ này giúp cho khách hàng có thể tiết kiệm được chi phí đầu vào trong các khâu dịch chuyển, lưu kho, lưu bãi và phân phát hàng hoá, hơn nữa còn hoàn toàn yên tâm vào chất lượng dịch vụ và sự đảm bảo an toàn cho hàng hoá. Từ xa xưa, hệ thống Logistics đã được ứng dụng vào hoạt động sản xuất và đời sống, đặc biệt là trong các lĩnh vực phức tạp bao gồm nhiều quá trình, nhiều công đoạn khác nhau mà cần phải thực hiện bởi nhiều tổ chức, nhiều chủ thể có liên quan. Ngày nay, hệ thống Logistics càng có vị trí quan trọng đối với hoạt động sản xuất và đời sống, được ứng dụng rộng rãi trong các lĩnh vực khác nhau và phát triển thành ba nhóm riêng biệt: - Hệ thống Logistics trong quân sự; - Hệ thống Logistics trong sản xuất, kinh doanh, thương mại; - Hệ thống Logistics quản lý và xã hội. Gần đây, hệ thống Logistic đã bắt đầu được nghiên cứu và ứng dụng nhiều vào sản xuất, knh doanh thương mại và lưu thông phân phối ở Việt Nam. Trong đó, vận tải là một mắt xích quan trọng để mở rộng phát triển tiện ích này, tạo thuận lợi cho sự phát triển của nền kinh tế quốc dân tiến nhanh trên con đường công nghiệp hoá - hiện đại hoá. Để kinh doanh được liên tục đem lại hiệu quả cao thì một khâu quan trọng mà các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp thương mại không những không thể bỏ qua mà còn phải đặc biệt chú trọng đó là: khâu chuẩn bị hàng hoá trước khi bán và đưa vào sử dụng. Muốn vậy thì công tác tạo nguồn và mau hàng phải được đặc biệt chú trọng, cùng với sự phát triển ngày cà._.ăng ký những tên nổi bật về uy tín, chất lượng sản phẩm, nhưng trên thực tế lại không đúng với tên gọi hay chủ đề. Việc làm này sẽ khiến các nhà tổ chức hội chợ tự đánh mất uy tín của mình với các doanh nghiệp khác. Bởi trong nền kinh tế thị trường mọi hoạt động kinh doanh đều phụ thuộc vào quan hệ tín nhiệm giữa các doanh nghiệp với nhau, nếu làm ăn không uy tín thì chắc chắn lần sau các doanh nghiệp sẽ không tham gia nữa. Theo ông Ngô Văn Thoan Cục trưởng cục Xúc tiến thương mại thì trong trường hợp các doanh nghiệp tham gia hội chợ nếu cảm thấy bị lừa thì có thể phản ánh với sở Thương mại địa phương nơi diễn ra hội chợ. Sở sẽ có trách nhiệm đi kiểm tra và nếu phát hiện có dấu hiệu lừa đảo sẽ xử lý hành chính. Tại TP Hồ Chí Minh, trong năm 2005 có tới 162 hội chợ được tổ chức, tăng 39 hội chợ so với năm 2004. Tuy nhiên, Sở Thương mại thành phố cũng chỉ cấp phép chứ chưa quản lý, giám sát khi hội chợ diễn ra. Trước thực trạng này, các chuyên gia xúc tiến thương mại khuyến cáo các doanh nghiệp trước khi tham gia hội chợ phải xem xét chọn lọc nhà tổ chức có uy tín và chú ý tới khâu hợp đồng để tránh bị lừa. Theo ông Đỗ Thắng Hải Cục phó Xúc tiến thương mại cho biết theo luật Thương mại mới thì doanh nghiệp đăng ký tổ chức hội chợ khi đưa ra chủ đề hay tên gọi hội chợ có tính chất khẳng định uy tín, chất lượng của doanh nghiệp tham gia thì phải nộp kèm theo bằng chứng. Nếu thành phần tham gia đủ tiêu chuẩn thì Bộ Thương Mại mới xét duyệt cho đơn vị tổ chức hội chợ dùng tên gọi xin đăng ký dó. Đây là một thực tế đáng buồn ở nước ta hiện nay, quả thực một trong những chức năng của hội chợ triển lãm là bán hàng nhưng ngay cả hoạt động bán hàng này cũng là nhằm quảng cáo, khuyến mại, khẳng định thương hiệu và chất lượng hàng hoá chứ không vì mục đích lợi nhuận. Do vậy, trong thời gian tới Nhà nước cần đặt ra các tiêu chuẩn đối với hội chợ triển lãm và các doanh nghiệp khi tham gia hội chợ, triển lãm cũng nên xác định rõ mục tiêu của doanh nghiệp minh khi đến tham gia là tìm kiếm đối tác hay thăm dò nhu cầu thị trường… -Dịch vụ tư vấn, ghép mối: Vì là một sản phẩm hỗ trợ kinh doanh- một sản phẩm vô hình nên chúng ta không thể hình dung cụ thể về hình dáng, kết cấu và không thể đánh giá chất lượng ngay tại thời điểm quyết định mua. Do vậy, quyết định mua sản phẩm dịch vụ tư vấn, ghép mối phụ thuộc nhiều vào uy tín của nhà cung cấp và khả năng thuyết trình của chuyên viên tư vấn. Hiện nay, nhu cầu của doanh nghiệp Việt Nam về các loại hình dịch vụ này là rất lớn, song rất ít dịch vụ đem lại sự hài lòng hoàn toàn cho khách hàng. Một trong các nguyên nhân chính dẫn tới chất lượng tư vấn chưa cao là do các công ty tư vấn Việt Nam chưa được đào tạo quy chuẩn và chưa có kinh nghiệm nhiều cũng như tính chuyên nghiệp cao. Điểm sơ qua một vài công ty tư vấn trong nước có thể thấy rằng đa số xuất phát từ những người đã có một thời gian làm việc cho những công ty tư vấn của nước ngoài tại Việt Nam, mỗi người chỉ chuyên về một vài lĩnh vực cụ thể, nay khi điều hành công ty họ phải chào những dịch vụ trọn gói mà họ chưa đủ kinh nghiệm để làm. Điều này dễ làm cho chất lượng dịch vụ trọn gói từ khi tiếp nhận và trong suốt quá trình triển khai, thực hiện và giám sát dự án không được đảm bảo. Ngoài ra, những gì tư vấn nói ban đầu so với kết quả dịch vụ khi kết thúc dự án thường làm cho khách hàng ngỡ ngàng do có sự hiểu khác nhau giữa người mua và người cung cấp dịch vụ về phạm vi công việc đã được thoả thuận. Dịch vụ hậu mãi cũng không được chú trọng. Nhiều công ty tư vấn quá chú trọng đến vấn đề lợi nhuận của từng dự án mà quên mất rằng để dịch vụ này phát triển, họ phải thoả mãn được yêu cầu của khách hàng bởi vì sự hài lòng của khách hàng chính là sự quảng cáo tốt nhất cho các công ty tư vấn. Như vậy, xét một cách khái quát thì các công ty tư vấn Việt Nam chưa theo kịp được tốc độ phát triển của doanh nghiệp. Họ cần phải hoàn thiện tính chuyên nghiệp trong việc cung cấp dịch vụ tư vấn như các công ty có uy tín của nước ngoài đã thực hiện tại Việt Nam và cần có định hướng kinh doanh dài hạn hơn. Yếu tố văn hoá đạo đức trong kinh doanh trong ngành lại phải được đặt biệt chú trọng. Có như vậy thì các dịch vụ hỗ trợ kinh doanh mới có thể phát triển và đáp ứng được nhu cầu của doanh nghiệp. Do tính phức tạp của dịch vụ tư vấn nên có nhiều cách phân loại dịch vụ này, theo công dụng của dịch vụ ra có thể chia ra làm 2 loại đó là: Dịch vụ tư vấn hỗ trợ kinh doanh và dịch vụ tư vấn quản trị. Theo nội dung kinh tế của dịch vụ có thể chia dịch vụ tư vấn thành 7 loại đó là: dịch vụ kế toán, dịch vụ kiểm toán, dịch vụ tư vấn quản lý kinh doanh, dịch vụ tư vấn thuế, dịch vụ tư vấn tài chính, dịch vụ tư vấn đầu tư, dịch vụ tư vấn nguồn nhân lực. Hiện nay có mặt tại Việt Nam bên cạnh các công ty tư vấn có tên tuổi của Việt Nam như CONCETTI, Inversconsult Group… , các trung tâm tư vấn do các bộ, ngành, viện và các sở của các tỉnh thành lập đã xuất hiện nhiều công ty nước ngoài . Và khách hàng của các công ty này cũng không ngừng tăng lên về mặt số lượng như công ty tư vấn quản trị MCG có trụ sở tại Hà Nội mỗi năm đã tăng thêm khoảng 40-50% khách hàng, hay công ty Bizlaw tại TP Hồ Chí Minh cũng tăng thêm khoảng 20% về số lượng khách hàng. Điều này cho thấy xu hướng sử dụng dịch vụ tư vấn đã có xu hướng tăng ở Việt Nam và xu hướng này hoàn toàn phù hợp với xu hướng phát triển của kinh doanh hiện đại là chuyên môn hoá cao, chuyên nghiệp và hiệu quản hơn. Ngoài ra để hỗ trợ cho các doanh nghiệp nước ta khi tham gia thị trường, nhiều Bộ, Ngành đã mở thêm các văn phòng, các điểm tư vấn miễn phí cho các doanh nghiệp. Vừa qua, Bộ trưởng Bộ Thương mại Trương Đình Tuyển đã kí quyết định thành lập Văn phòng hỏi đáp thương mại. Văn phòng này là một phần của Mạng lưới cơ quan thông báo và điểm hỏi đáp của Việt Nam về hàng rào kỹ thuật trong thương mại trong WTO, văn phòng sẽ trả lời và tư vấn cho các tổ chức, các doanh nghiệp về các văn bản pháp quy kỹ thuật và quy trình đánh giá sự phù hợp trong phạm vi quản lý của Bộ Thương Mại có khả năng cản trở thương mại đối với các nước thành viên WTO; các hiệp định hoặc thoả thuận song phương, đa phương đã ký kết liên quan đến văn bản pháp quy kỹ thuật, tiêu chuẩn và quy trình đánh giá sự phù hợp tiêu chuẩn. Trên cả nước cũng xuất hiện nhiều trung tâm tư vấn có cả của Nhà nước và của tư nhân cũng như các tổ chức nước ngoài làm dịch vụ tư vấn, ghép mối giữa sản xuất và tiêu dùng, giữa sản xuất trong nước và nhu cầu xuất khẩu. Ở Việt Nam, kể từ khi có chủ trương “mở cửa” cho đến nay, đã có nhiều doanh nghiệp mua nhượng quyền những thương hiệu nổi tiếng của nước ngoài, trong nước cũng đã có một số doanh nghiệp kinh doanh theo hình thức này. Và nghề tư vấn nhượng quyền, một nghề tư vấn mới đã bắt đầu hình thành và phát triển. Tuy nhiên, do còn mới nên chưa có một trường lớp nào đào tạo cho nghề này do vậy người làm nghề vừa làm vừa dò dẫm những bước đi cho mình. Theo dự đoán thì sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức thương mại thế giới (WTO), sẽ có nhiều công ty nhượng quyền xuất hiện, lúc đó thị trường về dịch vụ này sẽ mở rộng. Tư vấn nhượng quyền là một phần trong công việc của tư vấn thương mại, tài chính, bảo hiểm… Nó là một dòng chảy nhỏ của tư vấn thương mại. Công việc của một tư vấn nhượng quyền là giúp khách hàng, với số vốn nhất định họ có, làm sao để họ đầu từ vào thương hiệu của mình và có lãi. Rủi ro trong kinh doanh rất lớn, và khá nhiều người đã mắc những sai lầm lớn trong đầu tư kinh doanh. Do vậy, người tư vấn nhượng quyền là người giúp khách hàng đầu tư đồng tiền của mình một cách đúng đắn và hợp lệ. - Dịch vụ giám định hàng hoá: Đối với một đất nước có nền kinh tế đang phát triển như Việt Nam hiện nay, yêu cầu về giám định đối với hàng hoá phục vụ tiêu dùng trong nước ít được quan tâm đến nhưng đối với hàng hoá xuất khẩu thì ngược lại. Nhất là việc hàng hoá xuất khẩu sang các thị trường khó tính như EU, Mỹ, Nhật Bản. Chính vì vậy, để xuất khẩu hàng hoá trực tiếp vào các thị trường này thì công tác giám định hàng hoá phải được đặc biệt chú trọng. Trên thực tế hàng hoá xuất nhập khẩu có thể do một, một số bên hoặc các bên tham gia hợp đồng mua bán hàng hoá yêu cầu giám định. Yêu cầu giám định có thể được thoả thuận ghi trên hợp đồng mua bán hoặc có thể do một hoặc một số bên yêu cầu riêng để xác định lại thực tế hàng hoá xuất, nhập khẩu. Phí giám định do bên yêu cầu giám định trả hoặc do sự thoả thuận của các bên. Giám định thương mại chỉ liên quan đến bên mua và bên bán hàng hoá, không liên quan đến quản lý của cơ quan hải quan, mẫu hàng hoá gửi đi giám định có thể còn hoặc không còn trong sự quản lý của cơ quan hải quan. Theo mục đích thì ta có thể chia giám định hàng hoá ra làm 2 loại là: giám định phục vụ quản lý và giám định phục vụ khiếu nại. Đối với hoạt động giám định hàng hoá phục vụ quản lý thì điều kiện doanh nghiệp tham gia giám định phục vụ mục đích quản lý của cơ quan quản lý Nhà nước: - Đã hoạt động giám định thương mại ít nhất 18 tháng. - Có giám định viên đạt tiêu chuẩn quy định. - Có phương tiện kỹ thuật thử nghiệm được các chỉ tiêu quan trọng của hàng hoá đăng ký giám định. - Có quy trình nghiệp vụ, kỹ thuật giám định phù hợp với hàng hoá đăng ký giám định. - Được cấp một trong các chứng chỉ: công nhận Tổ chức giám định phù hợp tiêu chuẩn Việt nam: TCVN ISO/IEC 17020:2001 đối với lĩnh vực hàng hoá đăng ký kiểm tra; công nhận Phòng thử nghiệm phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam: TCVN ISO/IEC 17025:2001 đối với phạm vi thử nghiệm các chỉ tiêu cơ bản của hàng hoá đăng ký kiểm tra; chứng nhận hệ thống đảm bảo chất lượng đối với hoạt động giám định phù hợp tiêu chuẩn Việt Nam TCVN ISO 9000. Các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ giám định hàng hoá nếu muốn tham gia giám định hàng hoá phục vụ mục đích quản lý của cơ quan quản lý nhà nước cần cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước các tài liệu thể hiện đã đáp ứng được các điều kiện, tiêu chuẩn theo quy định và phải chịu trách nhiệm về tính đúng đắn của các tài liệu này. Khi cơ quan quản lý Nhà nước có yêu cầu giám định phục vụ mục đích quản lý đối với hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thì có văn bản trưng dụng doanh nghiệp đủ điều kiện, tiêu chuẩn để giám định hàng hoá và phải trả phí giám định. Còn đối với hoạt động giám định phục vụ khiếu nại: hoạt động này được áp dụng trong trường hợp người khai hải quan không thống nhất với kết quả kiểm tra, phân tích, giám định của cơ quan hải quan về hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu thì được lựa chọn một cơ quan, tổ chức giám định chuyên ngành khác giám định lại và phải trả phí giám định. Kết quả giám định lại là cơ sở để cơ quan hải quan làm thủ tục cho hàng hoá xuất khẩu, nhập khẩu. Do tầm quan trọng của mình dịch vụ giám định ngày càng có điều kiện phát triển mạnh mẽ, các công ty giám định thuộc mọi thành phần kinh tế ra đời như “nấm sau mưa”, song có một công ty có lịch sử ra đời gần nửa thế kỷ đó là công ty Vinacontrol. Công ty cổ phần giám định Vinacontrol (Vinacontrol) là Công ty Việt Nam đầu tiên trong lĩnh vực giám định hàng hoá được thành lập từ 26/ 10/ 1957. Hiện nay, Vinacontrol là tổ chức giám định lớn nhất, có uy tín hàng đầu ở Việt Nam chuyên cung cấp các dịch vụ giám định và các dịch vụ khác liên quan cho khách hàng trong và ngoài nước. Vinacontrol có đội ngũ cán bộ, giám định viên chuyên nghiệp gồm khoảng 600 người và có đầy đủ năng lực và phẩm chất để thực hiện giám định đạt chất lượng cao theo yêu cầu của khách hàng. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM Sau khi đã nghiên cứu vai trò và vị trí của dịch vụ thương mại ở nước hiện nay cũng như đã xem xét những thực trạng của lĩnh vực này, chúng ta đều thấy bên cạnh những thành tựu mà ngành đạt được trong thời gian qua vẫn tồn tại những mặt hạn chế. Và trong xu thế toàn cầu hoá như hiện nay, việc đẩy nhanh tốc độ và quy mô tăng trưởng của ngành là điều cần thiết. Vì nó không chỉ giúp tăng tỷ trọng đóng góp của ngành cho GDP mà còn có tác dụng to lớn đối với các ngành khác cũng như toàn xã hội. Do vậy việc nghiên cứu các giải pháp để phát triển ngành là một phần không thể thiếu đối với các cơ quan hoạch định chính sách của Nhà nước. Ở tầm vi mô, các doanh nghiệp cũng không ngừng nghiên cứu để tìm ra các giải pháp nâng cao chất lượng và hiệu quả cho hoạt động dịch vụ ở doanh nghiệp mình. Do vậy, trong phạm vi đề án nghiên cứu của mình em cũng xin đưa ra một số các giải pháp để phát triển dịch vụ thương mại ở nước ta hiện nay. 1.Dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông bổ sung (mang tính sản xuất) -Bán hàng và vận chuyển hàng theo yêu cầu của khách: Doanh thu từ hoạt động bán hàng là phần đóng góp chủ yếu cho doanh thu của doanh nghiệp thương mại mà đội ngũ bán hàng lại là bộ mặt của doanh nghiệp. Do vậy muốn tăng doanh thu thì có một cách hiệu quả nhất đó là doanh nghiệp thương mại phải tuyển chọn và đào tạo được một đội ngũ nhân viên bán hàng và giao hàng chuyên nghiệp, tận tình, tâm huyết với công việc. Hoạt động này rất quan trọng nhưng ở Việt Nam ta rất ít doanh nghiệp chú trọng đến. Do vậy, để nâng cao tính cạnh tranh cho các doanh nghiệp thì điều cần thiết là các doanh nghiệp phải dành một khoản kinh phí cố định để đào tạo và phát triển đội ngũ nhân viên bán hàng và giao hàng cho doanh nghiệp mình. Một từ “chuyên nghiệp” thì lột tả được hết những tố chất của đội ngũ này nhưng để làm được điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải cố gắng nhiều , làm sao để các nhân viên của mình không chỉ “bán mình” được cho khách hàng mà phải bán được “cả doanh nghiệp”cho khách hàng. Doanh nghiệp cũng cần phải xây dựng các phương pháp quản lý nhân viên hiệu quả để nâng cao hiệu quả của hoạt động quản lý cũng như hiệu quả làm việc cho nhân viên. Do đặc thù của ngành nên doanh nghiệp cần phải xây dựng chế độ thưởng phạt và khuyến khích nhất là về vật chất trong công việc để nâng cao chất lượng dịch vụ và tính cạnh tranh cho doanh nghiệp. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần phải liên kết với nhau để nâng cao hiệu quả trong hoạt động tăng tính cạnh tranh, như là sự liên kết giữa doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp vận tải, đây là sự kết hợp rất hiệu quả. Tất nhiên sự liên kết này không chỉ là hoạt động đơn thuần, để làm tốt thì các nhân viên vận chuyển cũng phải hiểu rõ về các đặc tính của sản phẩm để quá trình vận chuyển diễn ra an toàn. Nhân viên bán hàng và nhân viên vận chuyển cũng có thể thông quá trình tiếp xúc với khách hàng để nghiên cứu thị trường phục vụ cho sản xuất cũng như đánh giá hiệu quả hoạt động dịch vụ của doanh nghiệp mình. Nếu doanh nghiệp làm tốt hoạt động nghiên cứu thị trường thì doanh nghiệp đã thực hiện tốt chức năng của nhà thương mại đó là làm trung gian tìm hiểu nhu cầu giữa người sản xuất và người tiêu dùng. Ngoài ra, doanh nghiệp sản xuất cũng phải có trách nhiệm hỗ trợ cho doanh nghiệp thương mại về phần kỹ thuật sản phẩm để phục vụ khách hàng được tốt. -Chuẩn bị hàng hoá trước khi bán và đưa vào sử dụng: Hoạt động này nếu được tổ chức tốt sẽ tạo ra tính chuyên môn hoá cao trong hoạt động bán hàng và rất thuận tiện cho cả quá trình sản xuất và tiêu dụng sản phẩm. Vì dịch vụ này có tác dụng hỗ trợ cho quá trình bán hàng được thuận tiện nên doanh nghiệp cần quan tâm đến dịch vụ này hơn nữa. Doanh nghiệp có thể tự chuẩn bị hàng hoá hoặc có thể đặt hàng trước với nhà sản xuất theo yêu cầu của mình để tăng tính chuyên môn hoá và tiết kiệm lao động. Hàng hoá do doanh nghiệp bán có thể xuất hiện dưới nhãn hiệu của nhà thương mại hoặc nhà sản xuất. -Dịch vụ kỹ thuật khách hàng: Hình thức dịch vụ này thường chỉ áp dụng cho các doanh nghiệp chuyên doanh hàng hoá, do vậy nhân viên bán hàng thường cũng là người hướng dẫn, người tư vấn mua hàng cho khách hàng sao cho phù hợp nhất với nhu cầu của họ. Ngoài ra doanh nghiệp cũng cần tổ chức một dịch vụ sửa chữa bảo hành cho sản phẩm của mình như vậy sẽ thu hút khách hàng và nâng cao tính cạnh tranh cho đơn vị mình. Muốn vậy doanh nghiệp phải tổ chức được một đội ngũ nhân viên bán hàng và nhân viên kỹ thuật giỏi, am hiểu về sản phẩm cũng như nhu cầu thị hiếu của khách hàng tạo được niềm tin cho khách. Doanh nghiệp cần xây dựng chữ “tín” trong kinh doanh cho thật tốt, muốn vậy chất lượng sản phẩm và chất lượng dịch vụ phải tốt và doanh nghiệp sẵn sàng chịu trách nhiệm đến cùng với sản phẩm của mình. Mỗi doanh nghiệp cần xây dựng được một phương châm kinh doanh để lấy tiêu chí phục vụ khách hàng và cũng là tạo sự khác biệt so với đối thủ cạnh tranh. Ví dụ như phương châm kinh doanh của Trung tâm điện máy Carings là “trở thành chuyên gia điện máy của mọi nhà”. Theo ông Lê Hồng Xuân tổng giám đốc công ty TNHH thương mại và tiếp thị Bến Thành thì Carings luôn tạo cho khách hàng một phong cách mua sắm mới, vừa mua sắm vừa thưởng thức chứ không cần căng thẳng tính toán “toát mồ hôi”. Điều khác biệt thứ hai Carings đem lại là tất cả các mặt hàng đều do các nhà sản xuất có tên tuổi cung cấp, có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng và trung tâm luôn có hàng mới nhất, hàng “độc” với giá cả cạnh tranh. Điều này đánh trúng vào tâm lý khách hàng vì nhiều khi do không hiểu biết về kỹ thuật nên khách hàng thường mua phải hàng kém chất lượng, hàng giả hay bị thay thế phụ tùng. Điểm khác biệt lớn nhất của Carings so với các trung tâm siêu thị điện máy khác, theo ông Lê Hồng Xuân là phong cách phục vụ khách hàng, ông cho rằng: “khi bán được một sản phẩm mới chỉ là sự bắt đầu, chúng tôi phải chắc chắn rằng khách hàng hài lòng với sản phẩm đó, họ phải được hướng dẫn sử dụng sản phẩm một cách chu đáo nhất. Sau khi đồng ý mua sản phẩm, khách hàng sẽ được nhân viên của Carings giao tới tận nhà, tư vấn cách sử dụng và cung cấp tất cả chứng từ về sản phẩm”. Cũng theo ông Lê Hồng Xuân thì: “Chỉ bằng cách không ngừng làm hài lòng khách hàng thì mới có thể tồn tại phát triển được. Nếu không khách hàng chỉ mua hàng một lần rổi bỏ đến các trung tâm điện máy khác”. - Dịch vụ cho thuê máy móc thiết bị: Hiệu quả từ dịch vụ này là rất lớn nhưng chưa được nhiều người biết đến. Ví dụ như dịch vụ cho thuê tài chính, hiện nay chưa được nhiều doanh nghiệp biết đến vì thói quen cần vay tiền để đổi mới công nghệ phát triển sản xuất là đi vay tiền ngân hàng. Do vậy, ở Việt Nam dịch vụ này chưa có đóng góp đáng kể cho các doanh nghiệp trong việc huy động vốn và cải tiến công nghệ. Muốn phát triển dịch vụ này thì không chỉ là các doanh nghiệp mà Nhà nước cũng phải vào cuộc, bởi những văn bản hướng dẫn như Nghị Định 16/2001/NĐ-CP thì còn mỏng, chưa cụ thể, mới trong giai đoạn thử nghiệm nên chưa thực sự khuyến khích các tổ chức này phát triển và các doanh nghiệp Việt Nam còn rất dè dặt khi đề cập đến nguồn tín dụng mới mẻ này. -Dịch vụ giao nhận hàng hoá: Dịch vụ giao nhận hàng hoá hay dịch vụ logistics là một lĩnh vực kinh doanh có tỷ suất lợi nhuận cao (thường từ 25-30%) mà không cần vốn nhiều (chỉ cần khoảng trên dưới 100.000 USD). Do tính hấp dẫn như vậy nên hiện nay có rất nhiều doanh nghiệp kinh doanh và cạnh tranh gay gắt trong lĩnh vực này, nếu không cẩn thận thì các doanh nghiệp Việt Nam rất dễ mất thị trường trên sân nhà. Vì nói tới logistics là nói tới một chuỗi các dịch vụ tiếp vận nên các doanh nghiệp cần tận dụng công nghệ tin học để tổ chức tốt và chặt chẽ các khâu này, từ đó góp phần giảm giá hàng hoá và nâng cao sức cạnh tranh cho cả doanh nghiệp thương mại và doanh nghiệp tiếp vận. 2. Dịch vụ trong lĩnh vực lưu thông thuần tuý (thương mại thuần tuý). -Chào hàng Doanh nghiệp có thể chào hàng dưới nhiều hình thức khác nhau, như chào hàng bằng thư, chào hàng qua điện thoại điện tử tin học và chào hàng trực tiếp. Nhưng dù chào hàng dưới hình thức nào thì đích đến cuối cùng cũng là cuộc gặp gỡ giữa nhân viên chào hàng và khách hàng tiềm năng, do vậy vai trò của nhân viên chào hàng là cực kỳ quan trọng. Là loại hình dịch vụ hỗ trợ cho quá trình bán hàng, dịch vụ này chỉ phát triển và thích hợp với một số loại hình kinh doanh và với những hàng hoá nhất định. Khi doanh nghiệp quyết định chào hàng thì phải nhắm đúng đối tượng khách hàng thì việc chào hàng mới có hiệu quả. Vai trò của đội ngũ nhân viên chào hàng có ý nghĩa quyết định do vậy việc tuyển chọn và đào tạo nhân viên phải được đặc biệt chú trọng. Doanh nghiệp cũng phải có chính sách hợp lý đối với nhân viên chào hàng như chế độ lương bổng, thưởng phạt và sự quản lý hợp lý của công ty đối với các mối quan hệ khách hàng của nhân viên, nhưng cần thiết là phải duy trì sự tận tâm và trung thực của nhân viên chào hàng với công ty và với khách hàng. Ở nước ta hiện nay, nhân viên chào hàng thường chỉ được đào tạo qua do nhân viên công ty đảm nhiệm trong một thời gian hoặc thuê người bên ngoài làm nên hiệu quả không cao. Do vậy điều cần thiết để phát triển dịch vụ này là doanh nghiệp phải đầu tư kinh phí cho hoạt động đào tạo và tổ chức đội ngũ chào hàng. Nhân viên chào hàng tốt có thể vừa là người cung cấp thông tin vừa là cách để thu thập thông tin phản hồỉ từ khách hàng một cách hiệu quả nhất. -Dịch vụ quảng cáo: Quảng cáo thì có nhiều hình thức mỗi hình thức lại có một ưu thế riêng, do vậy để đạt hiệu quả cao thì tuỳ từng lĩnh vực kinh doanh để doanh nghiệp lựa chọn hình thức quảng cáo nào hay kết hợp nhiều loại với nhau. Muốn quảng cáo đạt hiệu quả cao thì doanh nghiệp phải có tầm nhìn xa để xây dựng một chiến lược quảng cáo nhất quán, hiệu quả, lâu dài. Hiện nay, Nhà nước có chính sách hạn mức quảng cáo đối với các doanh nghiệp trong nước là chi phí cho quảng cáo không quá 10% chi phí hợp lý, đây là một quy định gây rất nhiều khó khăn cho doanh nghiệp trong việc xúc tiến hoạt động quảng cáo và xây dựng thương hiệu, nâng cao sức cạnh tranh cho sản phẩm. Hiện nay, Bộ Tài Chính vừa có thông báo là sẽ sớm đề nghị dỡ bỏ trần mức hạn mức chi phí 10% đối với các hoạt động liên quan đến quảng cáo, khuyến mãi, tiếp khách, quà biếu của doanh nghiệp. Đây là một động thái rất đáng chú ý trong nỗ lực nhằm tạo nên một môi trường kinh doanh bình đẳng, chuẩn bị cho nền kinh tế Việt Nam hội nhập sâu vào khu vực và thế giới. Nguyên nhân khiến Chính phủ áp dụng hạn mức chi phí dành cho quảng cáo, khuyến mại, tiếp khách, quà biếu được hiểu như một biện pháp nhằm duy trì sự bảo hộ đối với các doanh nghiệp trong nước, đặc biệt là đối với một số doanh nghiệp Nhà nước vẫn giữ thế độc quyền. Đã đến lúc Nhà nước không thể tiếp tục duy trì bảo hộ như vậy, bởi trong bối cảnh hiện nay Việt Nam đang chịu sức ép của nhiều tổ chức quốc tế đối với việc cần hình thành một nền kinh tế tuân thủ những luật lệ quốc tế và không còn sự phân biệt giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Theo ông Đỗ Gia Bính, Chủ tịch Công ty quảng cáo Bạch Việt dự báo, một khi quy định về hạn mức quảng cáo được dỡ bỏ, tiềm năng phát triển của ngành quảng cáo sẽ trở nên sáng sủa hơn nhiều và doanh thu quảng cáo ở Việt Nam sẽ tăng lên mạnh mẽ. Quảng cáo ngày nay gần như một chiến dịch xây dựng thương hiệu cho sản phẩm và doanh nghiệp thông qua tiếp thị sản phẩm, song hiện nay các doanh nghiệp Việt Nam chỉ có thể đảm nhận một trong các khâu này. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này đó là do nội lực, tài chính và nhân lực có hạn. Để giải quyết tình trạng này, các doanh nghiệp cần liên kết với nhau để có thể thực hiện các khâu này đáp ứng nhu cầu của khách hàng. Để giải quyết vấn đề về nguồn nhân lực thì hiện nay Hiệp hội Quảng cáo Việt Nam dự định sẽ đồng ý cho gia nhập các văn phòng đại diện, công ty quảng cáo nước ngoài… để các doanh nghiệp có cơ hội học tập trình độ, sự chuyên nghiệp của họ. Hiệp hội cũng hướng các DN liên kết phát triển thông qua việc tổ chức thành lập các đơn vị chuyên ngành như quảng cáo ngoài trời, quảng cáo trên truyền thông... Một công tác quan trọng khác là Hiệp hội sẽ thành lập Viện nghiên cứu và Đào tạo quảng cáo Việt Nam để hỗ trợ công tác đào tạo nhân sự và nâng cao trình độ, chuyên môn nghiệp vụ cho người làm quảng cáo..., hướng tới thành lập trường đại học chuyên ngành về quảng cáo. Hiệp hội xác định đây là cơ sở để xây dựng ngành quảng cáo Việt Nam ngày càng lớn mạnh, đồng thời tránh để xảy ra tình trạng "xây nhà từ nóc" như nhiều ngành hiện nay. - Dịch vụ tư vấn, ghép mối: Khi doanh nghiệp phát triển đến một quy mô nhất định sẽ có nhiều vấn đề về quản lý, tổ chức, hoạt động nảy sinh mà doanh nghiệp không có khả năng tự giải quyết. Khi đó, việc sử dụng tư vấn là cần thiết và hiệu quả hơn nhiều so với doanh nghiệp tự làm. Thậm chí, ngay trong trường hợp doanh nghiệp có thể tự làm, họ sẽ bị công việc hàng ngày vì mục tiêu lợi nhuận ngắn hạn cuốn đi, khó có thể thực hiện những thay đổi lớn cần thiết. Hơn nữa, tư vấn độc lập từ bên ngoài sẽ có những cách tiếp cận và giải pháp khách quan, không bị ràng buộc bởỉ những mối quan hệ trong doanh nghiệp. Tuy nhiên, các công ty tư vấn của nước ta chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu cảu thị trường trong giai đoạn hiện nay. Để có thể phát triển và đứng vững trên thị trường, các doanh nghiệp phải từng bước khẳng định chất lượng dịch vụ của mình, do vậy cần tập trung vào công tác xây dựng và đào tạo đội ngũ nhân viên tư vấn có trách nhiệm, có kiến thức chuyên môn cao và kinh nghiệm. Các doanh nghiệp trong nước nên liên kết, liên doanh với các doanh nghiệp nước ngoài trong việc tư vấn, ghép mối để học hỏi. Việc Chính phủ đẩy mạnh quá trình hội nhập sâu hơn vào nền kinh tế thế giới cũng là một cách để cho các ngành dịch vụ, trong đó có dịch vụ tư vấn phát triển vững chắc hơn và tăng thêm tính cạnh tranh cho thị trường dịch vụ tư vấn. -Dịch vụ giám định hàng hóa: Hiện nay, nước ta đang tập trung, đẩy mạnh xuất khẩu ra nước ngoài. Với lợi thế của mình, Việt Nam có thế mạnh các mặt hàng gia công, chế biến, hàng tiêu dùng…Tuy nhiên việc xuất khẩu hàng hoá ra thị trường quốc tế đòi hỏi nhiều yêu cầu khắt khe, không những từ khách hàng mà còn từ các cơ quan hải quan. Do vậy, dịch vụ giám định hàng hoá có nhiều cơ hội phát triển. Muốn làm được như vậy thì chúng ta phải xây dựng một hệ thống các tiêu chuẩn chất lượng phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, công tác giám định phải được tổ chức khoa học, nghiêm túc với công nghệ hiện đại. Tóm lại, để phát triển mạnh mẽ các loại hình dịch vụ ở nước ta trong thời gian tới cần một sự quan tâm đầu tư của Nhà nước cũng như sự năng động của các chủ thể kinh doanh. Quá trình hội nhập diễn ra càng sâu và nhanh thì cơ hội và thách thức càng nhiều, điều này đỏi hỏi các doanh nghiệp trong nước phải nhanh chóng học hỏi, tìm kiếm cơ hội phát triển để thích ứng với quá trình này. Nhà nước cần sớm mở cửa thị trường dịch vụ nhằm phát triển nhanh các loại hình dịch vụ cả về số lượng và chất lượng cũng như nâng cao tính cạnh tranh giữa các chủ thể. Ngoài ra, cần sớm thay đổi quan điểm nhận thức của từng doanh nghiệp, không nên coi dịch vụ chỉ đơn giản là hoạt động hỗ trợ bổ sung cho quá trình kinh doanh mà phải coi nó là công cụ để thực hiện cạnh tranh. Để dịch vụ thương mại có sức cạnh tranh không chỉ trong thị trường trong nước mà cả trên thị trường quốc tế thì đòi hỏi về thay đổi, đổi mới công nghệ cho nó, do vậy một trong những giải pháp để phát triển dịch vụ thương mại là tăng cường đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ cho kinh doanh dịch vụ. Ngoài ra, Chính phủ cần xây dựng một hệ thống luật pháp, các quy định pháp quy đồng bộ, hiện đại và đảm bảo phát huy tính cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế và có sức mạnh răn đe để khu vực dịch vụ phát triển bền vững, lành mạnh tránh các hoạt động như gian lận thương mại, hay quảng cáo sai sự thât… vẫn đang xảy ra. Tuy nhiên, giải pháp quan trọng nhất vẫn là phát triển con người, đây là hoạt động cần thiết nhất cho sự phát triển khu vực dịch vụ cũng như dịch vụ thương mại. Cần phải nâng cao tính chuyên nghiệp cho đội ngũ nhân viên dịch vụ, có kỹ năng, kinh nghiệm và chuyên môn cao. KẾT LUẬN Thương mại là huyết mạch của mọi nền kinh tế dù là nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung hay nền kinh tế thị trường. Phát triển thương mại không những tạo điều kiện tốt cho các ngành khác trong nền kinh tế cùng phát triển mà còn có tác dụng nâng cao, cải thiện đời sống nhân dân. Trong cơ chế mới, thương mại phát triển nhanh chóng, do vậy ngành dịch vụ thương mại cũng có cơ hội phát triển với sự đa dạng về hình thức, tăng trưởng về quy mô và đạt hiệu quả cao trong hoạt động. Tuy nhiên, do những hạn chế về vốn, kinh nghiệm quản lý và cơ chế chính sách chưa thật hoàn thiện lên dịch vụ thương mại chưa phát huy hết tiềm năng vốn có của ngành. Do vậy, vấn đề đặt ra trong thời gian tới là phát triển ngành dịch vụ thương mại một cách có hệ thống và hợp lý. Nhất là trong tình hình hiện nay khi mà Việt Nam sắp gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) thì sự cạnh tranh giữa các thành phần kinh tế trong nước với các thành phần kinh tế nước ngoài lại càng trở nên gay gắt. Trong cuộc chiến không cân sức này các doanh nghiệp trong nước cần có sự đầu tư và chuẩn bị các đối sách hợp lý nếu không sẽ không thể tồn tại được. Chính vì lẽ đó, việc chọn lựa và nghiên cứu đề tài này đối với bản thân em rất bổ ích và cần thiết. Đề tài đã cung cấp một cái nhìn toàn cảnh về dịch vụ thương mại, cũng như tiềm năng và khả năng phát triển của ngành trong thời gian tới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Giáo trình Kinh tế thương mại (Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân) 2.Giáo trình Marketing căn bản (Trường ĐH Kinh Tế Quốc Dân) 3.600 kỹ năng bán hàng để thành công (Tác giả Cy Charney) 4.Kỷ yếu hội thảo kế hoạch quốc gia 2005 Thương mại Việt Nam 20 năm đổi mới. 5.Tạp chí Thương mại 6.Thời báo kinh tế Việt Nam 7.Các báo điện tử Vietnamnet, Vnexpress… MỤC LỤC LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ 3 I.Dịch vụ và vai trò của dịch vụ trong kinh doanh thương mại 3 1.Khái quát về dịch vụ và sản phẩm dịch vụ 3 2.Vai trò của dịch vụ thương mại 8 II.Các loại hình dịch vụ thương mại và các nhân tố ảnh hưởng đến dịch vụ thương mại . 10 CHƯƠNG II. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN THƯƠNG MẠI DỊCH VỤ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY 19 I. Sự phát triển thương mại Việt Nam trong thời gian qua 19 II. Sự ra đời và phát triển của các hình thức dịch vụ ở Việt Nam 31 III. Phát triển các hình thức dịch vụ thương mại ở Việt Nam 41 CHƯƠNG III. GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CÁC HÌNH THỨC DỊCH VỤ THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM. 61 KẾT LUẬN 71 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 72 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35844.doc
Tài liệu liên quan