Phát triển các loại hình dịch vụ quốc tế ở Công ty Tranco trong điều kiện Việt Nam là thành viên chính thức của WTO

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính tất yếu của đề tài Trong xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, việc phát triển các ngành dịch vụ ở cả trong nước và quốc tế là rất cần thiết đối với một doanh nghiệp, và nhất là khi Việt Nam đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO. Là một quốc ia có tiềm năng về phát triển kinh tế, nước ta đang tham gia hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới nhanh chóng và mạnh mẽ hơn bao giờ hết. Khi gia nhập vào WTO các doanh

doc73 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1290 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển các loại hình dịch vụ quốc tế ở Công ty Tranco trong điều kiện Việt Nam là thành viên chính thức của WTO, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp Việt Nam có rất nhiều cơ hội, thách thức mới vì vậy để thích nghi được với sự thay đổi môi trường, phạm vi và mức độ cạnh tranh khốc liệt trong kinh doanh các doanh nghiệp phải không ngừng phát triển về tài chính, uy tín cũng như các hoạt động kinh doanh đang có và các hoạt động tiềm năng. Kinh doanh dịch vụ quốc tế là một hoạt động gắn liền với các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, dịch vụ quốc tế ngày càng đóng một vai trò quan trọng không chỉ đối với doanh nghiệp mà còn đối với cả nền kinh tế một quốc gia, khu vực và trên thế giới. Công ty Tranco là một công ty nhà nước trực thuộc bộ giao thông vận tải, công ty luôn cố gắng phấn đấu để đạt các mục tiêu đề ra, phát triển và nâng cao vị thế của công ty. Với nguồn lực tài chính và nhân lực hiện tại công ty đang cố gắng không ngừng để thích ứng với những điều kiện khi Việt Nam gia nhập WTO và từng bước phát triển thêm các ngành kinh doanh mới phù hợp với xu hướng phát triển của đất nước. Trong những năm vừa qua công ty Tranco đang phát triển hoạt động dịch vụ quốc tế mạnh mẽ và đem lại những kết quả đáng khích lệ. Nhận thức được tầm quan trọng của việc phát triển dịch vụ quốc tế, trong thời gian thực tập tại công ty Tranco em mong muốn tìm hiểu vấn đề: “phát triển các loại hình dịch vụ quốc tế ở công ty Tranco trong điều kiện Việt Nam là thành viên chính thức của WTO” 2. Mục đích nghiên cứu Mục đích nghiên cứu của chuyên đề là tìm hiểu thực trạng kinh doanh dịch vụ quốc tế của công ty Tranco trong những năm vừa qua và đề xuất các giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động dịch vụ quốc tế tại công ty Tranco. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu 3.1. Đối tượng nghiên cứu Phát triển các loại hình dịch vụ quốc tế ở công ty Tranco trong điều kiện Việt Nam là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO 3.2. Phạm vi nghiên cứu Đề tài tập trung nghiên cứu: phát triển các loại dịch vụ quốc tế trên phạm vi vĩ mô - Công ty Tranco – doanh nghiệp trực thuộc Bộ giao thông vận tải - Thời gian từ năm 2004 – 2007 và các năm tiếp theo 4. Kết cấu đề tài Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục các từ viết tắt, danh mục các bảng biểu, danh mục tài liệu tham khảo và mục lục, phụ lục, chuyên đề thực tập tốt nghiệp được trình bày trong 3 chương: Phần I: Cơ sở lý luận chung về dịch vụ quốc tế và sự cần thiết phát triển dịch vụ quốc tế tại các doanh nghiệp trong điều kiện VN là thành viên của WTO Phần II: Thực trạng phát triển các loại hình dịch vụ quốc tế tại công ty Tranco Phần III: Phương hướng và giải pháp phát triển các loại hình dịch vụ quốc tế tại công ty Tranco trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ DỊCH VỤ QUỐC TẾ VÀ SỰ CẦN THIẾT PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ QUỐC TẾ TẠI CÁC DOANH NGHIỆP TRONG ĐIỀU KIỆN VIỆT NAM LÀ THÀNH VIÊN CỦA CHÍNH THỨC CỦA WTO 1.1. Những vấn đề chung về dịch vụ quốc tế và các loại hình dịch vụ quốc tế 1.1.1. Khái niệm về dịch vụ quốc tế. - Khái niệm về Dịch vụ Trong nền kinh tế ngày nay không chỉ đơn thuần có các sản phẩm vật chất cụ thể hay gọi là hàng hóa mà bên cạnh đó còn tồn tại các sản phẩm dịch vụ. Cả hàng hóa dịch vụ đều là sản phẩm của quá trình lao động, sản xuất của con người. Chúng cũng có giá trị và giá trị sử dụng song hàng hóa là sản phẩm hữu hình còn dịch vụ lại là sản phẩm vô hình. Khái niệm dịch được nhìn nhận dưới nhiều góc độ khác nhau do sự đa dạng về chủng loại và tính vô hình của nó. Chính vì vậy, cho tới nay vẫn chưa có một khái niệm thật sự thống nhất về dịch vụ: Theo quan điểm của các nhà kinh tế học thì thường định nghĩa dịch vụ gắn liền với quá trình sản xuất, C.Mác cho rằng: “ Dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, khi mà nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh, đòi hỏi một sự lưu thông trôi trảy, thông suốt và liên tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng cao của con người thì dịch vụ pját triển. Qua định nghĩa này, C.Mác đã chỉ ra được nguồn gốc ra đời và động lực phát triển của dịch vụ Cho đến những năm đầu thế kỷ XX, nền kinh tế thị trường tại các nước tư bản chủ nghĩa đã phát triển mạnh khiến cho dịch vụ phát triển khá nhanh và đã trở thành một ngành kinh tế quan trọng của nền kinh tế các quốc gia là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành kinh tế - xã hội như: kinh tế học, xã hội học, khoa học quản lý, luật học… Lúc này, khái niệm dịch vụ cũng được hiểu theo các nghĩa rộng, hẹp khác nhau tùy thuộc vào trình độ phát triển kinh tế, phương pháp luận kinh tế của mỗi quốc gia trong mỗi giai đoạn lịch sử cũng như phương pháp luận, đối tượng và mục đích nghiên cứu của các ngành kinh tế, văn hóa, xã hội khác nhau. Đồng thời cách hiểu về nghĩa rộng, nghĩa hẹp cũng khác nhau. Cụ thể là: Cách hiểu thứ nhất: Theo nghĩa rộng, dịch vụ được coi là một ngành kinh tế thứ 3 ngoài công nghiệp và nông nghiệp. Có nghĩa là những lĩnh vực, hoạt động nằm ngoài hai ngành công nghiệp và nông nghiệp như hàng không, thông tin… đều được coi là dịch vụ. Theo nghĩa hẹp, dịch vụ là phần mềm của sản phẩm, hỗ trợ cho khách hàng trước, trong và sau khi bán. Cách hiểu thứ hai: Theo nghĩa rộng, khái niệm dịch vụ chỉ toàn bộ các hoạt động mà kết quả của nó không tồn tại dưới dạng vật thể. Điều này có nghĩa là hoạt động dịch vụ bao trùm lên tất cả các lĩnh vực, chi phối rất lớn đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội, môi trường của từng quốc gia, từng khu vực cũng như toàn cầu. Ngày nay, dịch vụ không chỉ bao gồm các lĩnh vực truyền thống như: Vận tải, giao nhận, truyền thông, ngân hàng, bảo hiểm… mà còn bao gồm những lĩnh vực mới khác như: dịch vụ văn hóa, dịch vụ hành chính, dịch vụ tư vấn pháp luật, tư vấn hôn nhân… Theo nghĩa hẹp, dịch vụ là một công việc đáp ứng một nhu cầu nào đó cho con người hoặc cho xã hội như vận chuyển, cung cấp, sửa chữa, bảo dưỡng các máy móc thiết bị, công trình. Một cách tiếp cận khác thì: dịch vụ là một sản phẩm hay lợi ích cung ứng qua trao đổi chủ yếu là vô hình nhằm thỏa mãn nhu cầu của con người, và không dẫn đến quyền chuyển quyền sở hữu. Việc thực hiện dịch vụ có thể gắn liền hoặc không gắn liền với sản phẩm vật chất, chẳng hạn đi khám bệnh, đi du lịch bằng máy bay, xin tư vấn pháp luật… đều được coi là dịch vụ. Mặc dù định nghĩa về dịch vụ quốc tế chưa đạt được tính thống nhất chung nhưng tựu chung lại dịch vụ là sản phẩm của quá trình lao động của con người này nhằm thỏa mãn nhu cầu của những con người khác, nó không tồn tại dưới hình thái vật thể, không dẫn đến việc chuyển giao quyền sở hữu như các sản phẩm hữu hình. - Khái niệm về Dịch vụ quốc tế Có thể hiểu dịch vụ quốc tế theo nhiều cách. Cách đơn giản là: Dịch vụ quốc tế là những sản phẩm không tồn tại dưới dạng vật thể, được cung cấp ra ngoài phạm vi một quốc gia hoặc cung cấp cho những khách hàng nước ngoài đang sinh sống và làm việc ở trong nước nhằm thỏa mãn các nhu cầu của khách hàng quốc tế. Tuy nhiên những trường hợp dưới đây, các dịch vụ được cung cấp cũng được gọi là dịch vụ quốc tế bao gồm: - Những sản phẩm dịch vụ được cung cấp từ lãnh thổ của một quốc gia này sang lãnh thổ của một quốc gia khác. - Người sử dụng dịch vụ của một nước khác không phải là đất nước của họ thì dịch vụ đó cũng được coi là dịch vụ quốc tế: Ví dụ người Pháp đi du lịch tại Việt Nam và sử dụng các dịch vụ của Việt Nam. - Người cung cấp dịch vụ thành lập pháp nhân hoặc thể nhân để cung cấp dịch vụ tại một nước khác 1.1.2. Vai trò của dịch vụ quốc tế 1.1.2.1. Dịch vụ quốc tế góp phần thúc đẩy sản xuất, lưu thông, phân phối hàng hóa, thúc đẩy thương mại hàng hóa trong nước cũng như quốc tế phát triển Dịch vụ chính là cầu nối giữa yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của quá trình sản xuất, tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh doanh quốc tế. Bởi vì khác các hoạt động kinh doanh trong nước, kinh doanh quốc tế còn chịu ảnh hưởng rất nhiều bởi khoảng cách địa lý, văn hóa, phong tục tập quán, luật pháp… Các dịch vụ quốc tế ra đời đã góp phần khắc phục được phần lớn những cản trở đó, khiến cho quá trình sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hóa ra nước ngoài được thuận lợi hơn. Ví dụ như: Dịch vụ vận tải đường biển, đường bộ, đường không giúp được nhu cầu buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa các vùng quốc gia và lãnh thổ; dịch vụ bảo hiểm quốc tế làm cho hoạt động thương mại quốc tế an toàn, ít rủi ro và ít tổn thất hơn; Các dịch vụ ngân hàng – tài chính khiến khâu thanh toán trong xuất nhập khẩu diễn ra nhanh chóng , hiệu quả hơn. Bên cạnh đó còn rất nhiều loại dịch vụ quốc tế khác là dịch vụ viễn thông, dịch vụ môi giới, đại lý, dịch vụ tư vấn pháp luật, dịch vụ hôn nhân… Nói cách khác, các dịch vụ quốc tế có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động thương mại nói chung và thương mại quốc tế nói riêng. 1.1.2.2. Dịch vụ quốc tế thúc đẩy phân công lao động xã hội, thúc đẩy chuyên môn hóa Dịch vụ nói chung và dịch vụ quốc tế nói riêng hình thành và phát triển gắn liền với phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là tiền đề cho phân công lao động trở nên sâu rộng hơn, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại. Các doanh nghiệp tận dụng được lợi thế nhờ quy mô bằng cách chỉ tập trung chuyên môn hóa trong một lĩnh vực sản xuất và sử dụng một cách hiệu quả các dịch vụ bên ngoài. Như vậy, dịch vụ phát triển vừa tạo điều kiện để tăng năng suất lao động trong sản xuất, thúc đẩy các ngành sản xuất khác phát triển vừa đáp ứng được nhu cầu ngày càng đa dạng của các doanh nghiệp, thương nhân. 1.1.2.3. Là cầu nối giữa các vùng trong nước, nền kinh tế trong nước với nước ngoài. Tạo cầu nối giữa các quốc gia khác nhau trên thế giới thậm chí giữa các vùng quốc gia ít hay nhiều luôn tồn tại những khác biệt về văn hóa, phong tục, tập quán, pháp luật, những cản trở về mặt địa lý… do đó gây ra hạn chế khả năng giao lưu, hội nhập và phát triển kinh tế. Các dịch vụ quốc tế được cung cấp một cách chuyên nghiệp đã khắc phục được những trở ngại này, tạo điều kiện đưa các nước xích lại gần nhau hơn để tham gia vào quá trình hội nhập, hợp tác và phát triển giữa các quốc gia và vùng lãnh thổ 1.1.3. Các loại hình dịch vụ quốc tế chủ yếu trong nền kinh tế thế giới Có rất nhiều cách phân loại dịch vụ quốc tế tùy thuộc vào những cách phân loại khác nhau 1.1.3.1. Căn cứ vào tính chất thương mại của dịch vụ Chia thành hai loại: Dịch vụ mang tính chất thương mại: là những dịch vụ được thực hiện, cung cấp nhằm mục đích kinh doanh để thu lợi nhuận. Ví dụ: dịch vụ quảng cáo, dịch vụ tiếp thị, môi giới Dịch vụ không mang tính chất thương mại ( dịch vụ phi thương mại): là những dịch vụ được cung cấp không nhằm mục đích kinh doanh để thu lợi nhuận như các dịch vụ công cộng ( dịch vụ y tế cộng đồng, giáo dục, chăm sóc người già…) thường do các đoàn thể, tổ chức xã hội phi lợi nhuận hoặc chính phủ cung 1.1.3.2. Căn cứ vào mục tiêu của dịch vụ - Dịch vụ phân phối: vận tải, lưu kho, bán buôn, bán lẻ, môi giới - Dịch vụ sản xuất: ngân hang, tài chính, bảo hiểm, kế toán, kiểm toán - Dịch vụ xã hội: dịch vụ sức khỏe, y tế, giáo dục, bưu điện, viễn thông… - Dịch vụ cá nhân: dịch vụ sửa chữa, nhà hàng, khách sạn, dịch vụ giải trí, văn hóa, du lịch… 1.1.3.3. Căn cứ vào quá trình mua bán hàng hóa - Dịch vụ phân phối và dịch vụ sản xuất còn được gọi là “dịch vụ về hang hóa” nghĩa là các hoạt động này luôn gắn chặt với việc sản xuất, trao đổi, buôn bán các sản phẩm, hàng hóa phục vụ cho việc cung cấp đầu vào sản xuất, phân phối tiêu thụ sản phẩm. Nhóm dịch vụ này còn có tên gọi khác là dịch vụ trung - Dịch vụ xã hội và dịch vụ cá nhân được gọi là “dịch vụ tiêu dùng” là các dịch vụ được tiêu dùng trực tiếp bởi các tổ chức, cá nhân thường không liên quan đến thương mại hàng hóa nhưng vẫn mang tính chất dịch vụ thương mại. Các dịch vụ này còn được gọi là dịch vụ cuối cùng. 1.1.3.4. Phân loại dịch vụ theo WTO Về cơ bản cách phân loại dịch vụ của WTO dựa trên nguồn gốc ngành kinh tế. Toàn bộ khu lĩnh vực thương mại dịch vụ được WTO chia ra 12 ngành, mỗi ngành lại chia ra các phân ngành với các hoạt động dịch vụ cụ thể. So với các cách phân loại khác, cách phân loại của WTO rất thích hợp cho việc xúc tiến đàm phán về mở cửa thị trường quốc tế. Tổ chức thương mại thế giới đã quy định các phương thức cung ứng dịch vụ và phân loại bao gồm các ngành và các phân ngành như sau: - Nhóm ngành dịch vụ về kinh doanh + Dịch vụ chuyên ngành: pháp lý, kế toán và kiểm toán, thuế, kiến trúc sư, công trình tích hợp + Dịch vụ công nghệ máy tính: thiết lập phần mềm và phần cứng máy tính, dịch vụ áp dụng phần mềm, cơ sở dữ liệu và dịch vụ khác liên quan + Dịch vụ nghiên cứu và triển khai: về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, đa ngành học luật - Nhóm ngành dịch vụ về truyền thông + Dịch vụ bưu điện + Dịch vụ văn thư, đưa thư + Dịch vụ viễn thông: dịch vụ điện thoại, telex, thư tín dụng + Dịch vụ nghe nhìn - Nhóm ngành dịch vụ về xây dựng công trình + Dịch vụ xây dựng công trình cao ốc + Dịch vụ lắp ráp, lắp đặt + Dịch vụ hoàn thiện và kết thúc xây dựng + Dịch vụ xây dựng nhà ở - Nhóm ngành dịch vụ về tài chính + Dịch vụ liên quan đến bảo hiểm + Dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác - Nhóm ngành dịch vụ về văn hóa, giải trí + Dịch vụ về giải trí ( nhà hát, ban nhạc…) + Dịch vụ thư viện, lưu trữ, bảo tang, dịch vụ văn hóa 1.1.4. Đặc điểm của dịch vụ quốc tế so với hàng hóa hữu hình 1.1.4.1. Dịch vụ quốc tế là sản phẩm vô hình, khó xác định Khác với hàng hóa, sản phẩm dịch vụ không tồn tại dưới dạng vật chất hay vật phẩm cụ thể, người ta không thể nhìn thấy hay sờ mó thấy dịch vụ trước khi tiêu dùng. Chính vì vậy trong công tác lượng hóa, thống kê, đánh giá chất lượng và quy mô dịch vụ trở nên khó khăn hơn rất nhiều so với hàng hóa. Bên cạnh đó, vì không tồn tại duới dạng vật thể nên sẽ không xác lập được quyền sở hữu trên dịch vụ. Bởi vậy, trong quan hệ mua bán như quan hệ mua bán hàng hóa. Chủ thể quan hệ dịch vụ có một số khác biệt so với quan hệ hàng hóa thông thường. Đó là quan hệ dịch vụ, chủ thể không quan tâm đến lợi ích sở hữu dịch vụ, không định đoạt dịch vụ mà chỉ quan tâm tới quyền sử dụng và chất lượng dịch vụ. 1.1.4.2. Dịch vụ quốc tế có tính đồng nhất, khó tiêu chuẩn hóa Các chủ thể tham gia quan hệ mua bán thỏa thuận với nhau để thực hiện một công việc nào đó, ví dụ như sửa chữa điện thoại, nhà cửa… Bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc và nhận tiền công. Thước đo để đánh giá công việc phụ thuộc vào mức độ “hài lòng” của bên yêu cầu dịch vụ và quá trình thực hiện công việc của bên cung ứng dịch vụ. Các nhà cung cấp dịch vụ không thể tạo ra được những dịch vụ như nhau trong cùng một thời gian làm việc khác nhau. Bên cạnh đó, khách hàng lại đánh giá dịch vụ dựa vào cảm nhận của họ trong thời gian khác nhau, sự cảm nhận của khách hàng là khác nhau và những khách hàng khác nhau cũng có những cảm nhận khác nhau. Bởi vậy, chất lượng dịch vụ dao động trong khoảng rất rộng, tùy thuộc vào hoàn cảnh tạo ra dịch vụ và do đó có tính đồng nhất và khó tiêu chuẩn hóa 1.1.4.3. Dịch vụ quốc tế không tách rời quá trình sản xuất và quá trình tiêu dùng Xét dưới góc độ kinh tế, tính cách không tách rời được hiểu là việc sản xuất, cung ứng, lưu thong, phân phối, tiêu dùng dịch vụ là một quá trình liên hoàn, không có độ trễ về mặt thời gian giữa các công đoạn, hay nói cách khác, quá trình sản xuất dịch vụ và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời. Ví dụ, trong dịch vụ tư vấn pháp luận, khi chuyên gia cung cấp dịch vụ tư vấn thì đồng thời người sử dụng cũng tiếp nhận và tiêu dùng xong dịch vụ tư vấn đó. Với đặc điểm này, dịch vụ khách hàng khác hàng hóa ở chỗ sản xuất hàng hóa tách rời với quá trình lưu thông và tiêu dùng nên khi được sản xuất ra, hàng hóa có thể lưu kho bãi và không nhất thiết phải tham gia ngay vào quá trình lưu thong, tiêu dùng. Sau quá trình tiêu dùng, các giá trị và giá trị sử dụng của dịch vụ được chuyển tải vào các giá trị vật chất khác, còn bản thân dịch vụ không tồn tại. 1.1.4.4. Dịch vụ quốc tế không thể cất trữ và lưu kho bãi Do quá trình sản xuất và tiêu dùng dịch vụ diễn ra đồng thời nên không thể sản xuất dịch vụ hàng loạt và cất trữ, lưu kho bãi rồi mới mang ra tiêu dùng được. Vì vậy, dịch vụ là sản phẩm không lưu trữ được và không tồn tại khái niệm tồn kho hay dự trữ sản phẩm trong hoạt động cung ứng dịch vụ. Trên đây là những những đặc trưng cở bản của dịch vu nói chung và dịch vụ quốc tế nói riêng so với hàng hóa hữu hình, tuy nhiên chúng không mang tính tuyệt đối mà vẫn có những ngoại lệ. Ví dụ, một số loại hình dịch vụ khi kết thúc quá trình cung ứng sẽ tạo ra sản phẩm có hình thái vật chất như bản photocopy trong dịch vụ photocopy. Hay hệ thống dịch vụ trả lời điện thoại tự động xét trên khía cạnh nào đó coi là loại dịch vụ lưu trữ được. Như vậy có thể thấy, sự phân biệt giữa hàng hóa và dịch vụ chỉ mang tính chất tương đối. 1.2. Doanh nghiệp và các nhân tố tác động đến việc phát triển các loại hình dịch vụ trong doanh nghiệp 1.2.1. Doanh nghiệp và các loại hình dịch vụ quốc tế của doanh nghiệp - Kinh doanh giao nhận vận tải quốc tế: như chúng ta đã biết vận tải là hoạt động kinh tế có mục đích của con người nhằm di chuyển hàng hóa từ vị trí này đến vị trí khác. Kinh doanh giao nhận vận tải hàng hóa quốc tế là một hoạt động mang lại cho doanh nghiệp tham gia, đây là một động kinh doanh nhằm mục đích kiếm lời. Hoạt động ở đây rất đa dạng, có thể là mua đi bán lại, bán sản phẩm cao hơn với gia thành đã mua, giao nhận, kho bãi… Sự phát triển của hoạt động kinh doanh giao nhận không những mang lại những lợi ích to lớn cho toàn bộ nền kinh tế của quốc gia mà còn có vai trò quan trọng với các doanh nghiệp: đối với các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vận tải quốc tế, sự phát triển của hoạt động này mang lại những hợp đồng mới, giá trị cao, thị trường của doanh nghiệp ngày càng được mở rộng; với các doanh nghiệp khác thì vận tải quốc tế giúp họ mở rộng thị trường xuất khẩu, phân tán rủi ro khi tham gia kinh doanh quốc tế, giảm bớt được gánh nặng trong việc vận chuyển hàng hóa, tìm kiếm thị trường và nâng cao chất lượng hàng hóa - Tài chính quốc tế: các doanh nghiệp lựa chọn hình thức kinh doanh dịch vụ tài chính chủ yếu thường là các ngân hàng, các công ty, tập đoàn đầu tư tài chính. Các hoạt động kinh doanh chủ yếu là: Thanh toán quốc tế, tài chính quốc tế và kinh doanh ngoại hối. Trong hoạt động thanh toán quốc tế bao gồm các phương thức thanh toán sau: chuyển tiền, phương thức nhờ thu và tín dụng chứng từ(L/C). Phương thức tín dụng chứng từ thường được sử dụng phổ biến trong các giao dịch, hợp đồng mua bán ngoại thương vì phương thức này có tình rủi ro thấp nhất cho cả hai bên. Hoạt động tín dụng quốc tế bao gồm các dịch vụ Tài trợ ngoại thương, bao thanh toán… Trong thời điểm hiện tại hai loại dịch vụ này đang ngày càng phát triển tại các nước phát triển. Bao thanh toán là một nghiệp vụ đơn giản, nhưng điều kiện để nó thực sự đơn giản là được sự hỗ trợ bởi một hành lang pháp lý minh bạch, đầy đủ... Chính vì điều kiện thực tế ở Việt Nam hiện nay không đáp ứng những yêu cầu trên nên nghiệp vụ bao thanh toán mãi vẫn chưa được triển khai. Hoạt động kinh doanh ngoại hối được thực hiện bởi nhiều đối tượng, có thể là cá nhân, doanh nghiệp và các ngân hàng. Trong hoạt động này các ngân hàng đóng vai trò rất quan trọng. - Kinh doanh dịch vụ bảo hiểm quốc tế: trong hoạt động thương mại quốc tế phát triển như ngày nay, bảo hiểm rủi ro cho hàng hóa, phương tiện và con người là không thể thiếu. Kinh doanh bảo hiểm thực chất chính là kinh doanh rủi ro, trong hoạt động thương mại không thể tránh được những rủi ro thường trực như: động đất, sóng thần, chiến tranh, đình công… Những người tham gia bảo hiểm đóng một số tiền nhất định cho người cung cấp dịch vụ bảo hiểm và người này sẽ có trách nhiệm bồi thường cho người tham gia bảo hiểm những tổn thất do những rủi ro gây ra phù hợp với những điều khoản trong hợp đồng bảo hiểm. - Các dịch vụ khác: ngoài các loại hình dịch vụ quốc tế phổ biến trên còn có một số loại hình dịch vụ khác như: đào tạo, xuất khẩu lao động quốc tế; hoạt động tư vấn mang yếu tố quốc tế… 1.2.2. Các nội dung của việc phát triển các loại hình dịch vụ quốc tế của doanh nghiệp 1.2.2.1. Phát triển thêm các loại hình dịch vụ quốc tế mới Bất kỳ doanh nghiệp nào, đều mong muốn phát triển không ngừng. Một trong những con đường đó là phát triển thêm loại hình dịch vụ cho doanh nghiệp. Khi kinh doanh trên nhiều lĩnh vực, các doanh nghiệp sẽ có nhiều cơ hội thu được lợi nhuận từ nhiều hoạt động, bên cạnh đó các hoạt động này cũng có thể hỗ trợ lẫn nhau. Các tập đoàn tài chính lớn ở Việt Nam như Vilacera, Hòa Phát đều thực hiện nội dung này. Ngoài hoạt động chính là cung cấp hàng hóa, dịch vụ từ những sản phẩm truyền thống họ không ngừng phát triển thêm những lĩnh vực mới như kinh doanh chứng khoán, dịch vụ môi giới, sàn giao dịch bất động sản. Thực sự đây là những ngành kinh doanh rất mới mẻ và hứa hẹn đem lại rất nhiều lợi nhuận cho doanh nghiệp đó. Nhưng có một thực tế đặt ra là, trong số các tập đoàn lớn của khu vực Đông Nam Á thì những cái tên của Việt Nam lại không được biết đến, phải chăng là việc mở rộng hoạt động kinh doanh trên nhiều lĩnh vực khác nhau đã khiến các tập đoàn của Việt Nam phân tán về nhân lực, tài chính… chỉ tập trung vào những lợi nhuận trước mắt mà bỏ qua những lợi ích lâu dài có phải là phương án kinh doanh tối ưu với các doanh nghiệp hay không? 1.2.2.2. Tập trung vào các loại hình dịch vụ hiện tại Ngược lại với nội dung thứ nhất của việc phát triển các loại hình dịch vụ, các doanh nghiệp sẽ đầu tư vào các dịch vụ quốc tế mà mình đang có. Một doanh nghiệp tham gia vào kinh doanh giao nhận vận tải quốc tế không dùng những đồng vốn của mình đầu tư vào tài chính hoặc bảo hiểm. Họ sẽ đầu tư để nâng cấp về cơ sở vật chất, phương tiện vận tải, nâng cấp kho bãi và nâng cao uy tín bằng các hoạt động Marketing… Dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp hứa hẹn thành công, về mức độ hài lòng của khách hàng, thuận tiện trong giao dịch, và chất lượng đảm bảo. Đây là bí quyết thành công của những doanh nghiệp lớn, không tập trung vào quá nhiều mục tiêu, nhiều dịch vụ khác nhau mà tìm cách để cho dịch vụ cung cấp là tốt nhất và thu tối đa lợi nhuận. Ở Mỹ và Nga ta đã biết đến những ông vua trong lĩnh vực Dầu mỏ, thép… và những tỷ phú trong công nghệ thong tin và phần mềm máy tình. Lựa chọn nội dung phát triển kinh doanh dịch vụ nào là vấn đề đặt ra với các doanh nghiệp. Phương án thích hợp nhất là phương án đem lại sự phát triển toàn diện cho doanh nghiệp cả về quy mô, nhân lực, cơ sỏ vật chất và lợi nhuận kinh doanh. 1.2.3. Các chỉ tiêu đánh giá hoạt động phát triển dịch vụ quốc tế của doanh nghiệp 1.2.3.1. Chất lượng dịch vụ Để đánh giá sự phát triển của hoạt động kinh doanh dịch vụ quốc tế thì chất lượng dịch vụ là yếu tố đầu tiên và rất quan trọng được xét tới. Sau khi lựa chọn nội dung phát triển, chất lượng dịch vụ có được cải thiện không? Với dịch vụ ngân hàng thì đó chính là tốc độ, sự thuận tiện trong các giao dịch thanh toán. Chất lượng của nhân lực cũng được xét tới: trình độ, mức độ thành thạo trong công việc. Một dịch vụ có chất lượng tốt không chỉ được đánh giá từ phía các nhà cung cấp dịch vụ, mà còn dựa trên những tiêu chuẩn quốc tế. Ví dụ, tại nước ta có tiêu chuẩn về hàng Việt Nam chất lượng cao, các tiêu chuẩn về ISO 2000, ISO 2001… Các doanh nghiệp thường đưa những tiêu chuẩn áp dụng với sản phẩm dịch vụ của mình để tạo được uy tín trên thị trường, xây dựng thương hiệu và đem lại sự tin tưởng cho khách hàng khi sử dụng dịch vụ. Dịch vụ có đặc trưng là khi sử dụng dịch vụ thì khách hàng mới cảm nhận được chất lượng của nó, sự hài lòng của khách hàng sau khi sử dụng thông qua chất lượng mà dịch vụ cung cấp cũng là một tiêu chuẩn để đánh giá sự phát triển. 1.2.3.2. Quy mô của hoạt động kinh doanh dịch vụ quốc tế Số lượng dịch vụ có tăng hay không, dịch vụ có phát triển ở những thì trường mới không, quy mô kinh doanh tăng như thế nào? Đó là những câu hỏi mà doanh nghiệp phải trả lời sau khi đã thực hiện phát triển dịch vụ quốc tế. Sau một chu kỳ phát triển, hoạt động kinh doanh của ngân hàng đã mở rộng ra nhiều thị trường khác nhau, các giao dịch ngoại tệ, tín dụng không chỉ giới hạn tại một số thị trường nhất định như trước đây. Ngoài ra, trên một số quốc gia đã có thêm những chi nhánh của ngân hàng, ngân hàng không chỉ đơn thuần thực hiện các hình thức bảo lãnh mà còn phát triển thêm hoạt động Bao thanh toán, trong trường hợp này thì việc đánh giá nhờ quy mô rất rõ ràng. Hoạt động phát triển dịch vụ quốc tế của ngân hàng trên rất tốt, mở rộng quy mô ra các thị trường khách nhau, có thêm chi nhanh, thêm các dich vụ kinh doanh mới. 1.2.3.3. Các yếu tố khác Bao gồm: nguồn lực về con người, tài chính, mạng lưới cung ứng dịch vụ, khẳ năng tiếp cận các nguồn tài trợ, khẳ năng đưa dịch vụ đến tay khách hàng. 1.2.4. Các nhân tố tác động đến việc phát triển các loại hình dịch vụ trong doanh nghiệp 1.2.4.1. Các nhân tố bên trong doanh nghiệp - Tài chính: là yếu tố tiên quyết cho quyết định phát triển dịch vụ quốc tế của doanh nghiệp. Muốn phát triển thì phải đầu tư, đầu tư có liên quan chặt chẽ đến tài chính doanh nghiệp. Nguồn vốn, lợi nhuận của doanh nghiệp dồi dào thì các quyết định đầu tư sẽ được cân nhắc và thông qua để nhanh chóng đầu tư cho những dự án mới, đem lại lợi nhuận cao. Ngược lại trong điều kiện một công ty khó khăn về nguồn vốn, lợi nhuận ròng là ít thì việc duy trì những hoạt động hiện tại đã khó khăn chứ chưa nói tới việc đầu tư theo chiều sâu hoặc phát triển những dự án mới. - Nguồn nhân lực: yếu tố thứ hai bên trong doanh nghiệp cần xét tới là về nguồn nhân lực và đội ngũ lao động. Khi tiến hành lập phương án phát triển hoạt động dịch vụ quốc tế, những người hoạch định phải tính đến tình hình nhân lực tại doanh nghiệp: số lao động có đáp ứng đủ nhu cầu hay không? Trình độ lao động…trong trương hợp nguồn lao động thiếu sẽ có những kế hoạch tuyển dụng cho phù hợp với phương hướng phát triển của các ngành dịch vụ. - Công nghệ và thiết bị: Công nghệ và thiết bị có ảnh hưởng rất lớn đến các doanh nghiệp kinh doanh giao nhận vận tải quốc tế và dịch vụ ngân hàng. - Hoạt động sản xuất - Hoạt động Marketing, bán hàng - Năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 1.2.4.2. Các nhân tố bên ngoài doanh nghiệp - Khung khổ pháp lý: bao gồm hệ thống pháp luật và cở chế chính sách cho việc phát triển thị trường dịch vụ nói chung và cho hoạt động kinh doanh dịch vụ quốc tế nói riêng. Khung khổ pháp lý có ý nghĩa quan trọng trong việc khuyến khích hay hạn chế ra đời, phát triển và rút khỏi thị trường của các nhà cung ứng dịch vụ và các doanh nghiệp trong nền kinh tế, đồng thời chi phối quan hệ cung cầu dịch vụ trên thị trường. Yêu cầu chung của hệ thống phát luật là cần đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất, bình đẳng để tạo ra môi trường thuận lợi cho sự ra đời, phát triển, cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà cung cấp dịch vụ quốc tế - Cơ sở hạ tầng kinh tế kỹ thuật của nền kinh tế: được hình thành từ nguồn đầu tư của nhà nước và xã hội vào các kết cấu hạ tầng và hệ thống dịch vụ công phục vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, giáo dục nói chung và phục vụ sản xuất kinh doanh nói riêng. Đối với kinh doanh dịch vụ quốc tế thì cở sở về công nghệ thông tin, viễn thông… có ý nghĩa rất quan trọng, tạo tiền đề cho sự phát triển của dịch vụ - Môi trường kinh tế quốc gia bao gồm các yếu tố như: tốc độ tăng trưởng kinh tế, tỷ lệ lạm pháp, tỷ lệ thất nghiệp, nguồn ngân sách, các chính sách và hỗ trợ của chính phủ. Đối với việc phát triển các loại hình dịch vụ quốc tế cần nghiên cứu rõ các đặc điểm này trước khi thưc hiện. Một môi trường kinh tế quốc gia khác biệt với nhiều rủi ro và hỗ trợ của chính phủ là không nên đầu tư vào. Khi đầu tư vào một quốc gia có môi trường kinh tế ổn định: tốc độ tăng trưởng nhanh, lạm pháp ở mức thấp và không chịu hạn ngạnh hay sự hỗ trợ của chính phủ sở tại là điều kiện lý tưởng để thực hiện dự án. - Đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp : đây là yếu tố ảnh hưởng đến việc cung cấp các dịch vụ quốc tế. Khi có nhiều nhà cung ứng dịch vụ như nhau trên cùng một thị trường, mỗi nhà cung cấp dịch vụ lại có năng lực khác nhau, chất lượng dịch vụ mà họ cung ứng cũng vậy. Để đánh giá năng lực của đối thủ cạnh tranh cần căn cứ vào nhiều yếu tố như: tài chính, nhân sự, thị trường… Với sự chuyên môn hóa ngày càng sâu sắc thì các loại hình dịch vụ quốc tế ngày càng phong phú và đa dạng, vì vậy doanh nghiệp có cơ hội lựa chọn dịch vụ phù hợp cho hoạt động kinh doanh của mình. 1.3. Sự cần thiết của việc phát triển các loại hình dịch vụ ở các doanh nghiệp Việt Nam khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO 1.3.1. Những lợi ích của việc phát triển dịch vụ quốc tế tại các doanh nghiệp 1.3.1.1. Tạo điều kiện cho các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, tăng năng lực cạnh tranh Trong quá trình hoạt động của mình, các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế cần có các hoạt động bổ trợ khác như thông tin, vận tải, tài chính, đối thủ cạnh tranh… nhằm đảm bảo quá trình kinh doanh diễn ra thuận lợi. Để giải quyết những nhu cầu này, các doanh nghiệp có thể tự mình thực hiện hoặc thuê dịch vụ bên ngoài. Không phải tất cả các doanh nghiệp đều có khả năng tự thực hiện các hoạt động này hoặc nếu có thực hiện có thể không đảm bảo chất lượng, hiệu quả không cao hoặc gây tốn kém về thời gian tiền bạc. Một số dịch vụ như vận tải, thanh toán, quảng cáo… nhưng với dịch vụ kiểm toán thì đòi hỏi phải sử dụng lao động có chuyên môn cao, lập các bộ phận tài chính, kế toán riêng để phụ trợ, việc này yêu cầu chi phí cao và tốn thời gian. Vì vậy, các doanh nghiệp có xu hướng sử dụng nhiều hơn các dịch vụ từ các nhà cung ứng chuyên nghiệp. Khi đó, họ sẽ tiết kiệm được chi phí và thời gian để tập trung vào nhiệm vụ chính của mình là tổ chức sản xuất – kinh doanh, nâng cao năng lực và hiệu quả cạnh tranh 1.3.1.2. Dịch vụ quốc tế trở thành một yếu tố quan trọng trong quá trình sản xuất của các doanh nghiệp kinh doanh quốc tế. Dịch vụ và dịch vụ quốc tế hình thành và phát triển gắn với phân công lao động xã hội. Phân công lao động xã hội là tiền đề cho sự ra đời và phát triển của dịch vụ, ngược._. lại sự phát triển của dịch vụ lại khiến cho phân công lao động trở nên sâu rộng hơn, đặc biệt là trong lĩnh vực thương mại. Các doanh nghiệp tận dụng lợi thế nhờ quy mô bằng cách chỉ tập trung chuyên môn hóa trong một lĩnh vực sản xuất và sử dụng một cách hiệu quả các dịch vụ bên ngoài. Như vậy, dịch vụ phát triển vừa tạo điều kiện để tăng năng suất lao động trong sản xuất, thúc đẩy ngành sản xuất khác phát triển vừa đáp ứng được những nhu cầu ngày càng đa dạng của doanh nghiệp, thương nhân. 1.3.2. Tính tất yếu của việc phát triển dịch vụ quốc tế 1.3.2.1. Trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế Hội nhập kinh tế quốc tế là một đòi hỏi tất yếu, bức thiết của đất nước ta. Nhận rõ lợi thế và thách thức để chủ động hội nhập là điều hết sức cần thiết. Có vậy chúng ta mới đẩy nhanh quá trình hội nhập với quy mô rộng hơn, trình độ cao hơn… nhìn chung kinh tế Việt Nam đã hội nhập từ lâu nhưng vẫn ở trình độ thấp, sơ khai. Hiện nay, tuy kinh tế Việt Nam tham gia vào AFTA, ASEAN, WTO nhưng sự tham gia đó vẫn dừng ở phạm vi hẹp, nhỏ cả về lĩnh vực lẫn quy mô, khối lượng. Trước yêu cầu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, trước yêu cầu của phát triển kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta không thể không đẩy nhanh tốc độ, quy mô hội nhập kinh tế quốc tế. Bởi vậy, Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VIII và IX và X đều khẳng định phải “đẩy nhanh quá trình hội nhập kinh tế khu vực và thế giới”, với quy mô rộng hơn và trình độ cao hơn. Chỉ hội nhập kinh tế quốc tế hiệu quả thì chúng ta mới có chỗ đứng trên thì trường quốc tế, hiện nay chúng ta đã gia nhập WTO đây là một điều kiện rất thích hợp cho hội nhập kinh tế quốc tế cả chiều sau và chiều rộng. Khi hội nhập kinh tế quốc tế chúng ta mới tranh thủ được nguồn vốn, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến để đáp ứng với nhu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Hội nhập kinh tế quốc tế, nuớc ta mới mở rộng được thị trường xuất nhập khẩu, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tiêu thụ sản phẩm. Mở cửa hội nhập do đó, không chỉ là để các doanh nghiệp của ta vươn ra, mà còn để các doanh nghiệp nước ngoài đi vào sản xuất và kinh doanh ở nước ta. Hội nhập kinh tế quốc tế là nhu cầu nội sinh của bản thân nền kinh tế nước ta, chứ không phải do chúng ta bị o ép, bị bắt buộc. Chúng ta đã có đủ các yếu tố cần thiết đã hội nhập, đây là yêu cầu nội sinh xuất phát từ bên trong của các doanh nghiệp cũng như của toàn nền kinh tế, không còn sự lựa chọn ưu việt nào hơn. Vấn đề đặt ra là chúng ta lựa chọn như thế nào để vẫn hội nhập phát triển mà vẫn bảo toàn trọn vẹn độc lập tự chủ, vẫn hội nhập mà không đánh mất truyền thống, hội nhập mà an ninh trật tự xã hội được bảo đảm, hội nhập mà xã hội lành mạnh và phát triển. 1.3.2.2. Đảm bảo sự sống còn, phát triển của các doanh nghiệp tham gia kinh doanh dịch vụ Hội nhập kinh tế quốc tế là điều kiện cần để các doanh nghiệp tham gia vào hoạt động kinh doanh dịch vụ quốc tế. Khi quan hệ quốc tế được mở rộng, hạn ngạnh và các hỗ trợ của chính phủ các nước được xóa bỏ nhất là khi Việt Nam đã là thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO thì sẽ được hưởng những nguyên tắc: tối huệ quốc và nguyên tắc đãi ngỗ quốc gia. Việc kinh doanh dịch vụ trên thị trường quốc tế trở nên dễ dàng hơn bao giờ hết, tùy thuộc vào tiềm lực của doanh nghiệp, sẽ có những chiến lược phù hợp. Hội nhập kinh tế quốc tế cũng đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có điều kiện làm quen, tiếp cận và ứng dụng các kỹ thuật công nghệ cao cũng như các phương thức, tác phong công nghiệp của các nước có nền công nghiệp phát triển như Hoa Kỳ, EU, Nhật Bản. Nhờ đó mà các doanh nghiệp của chúng ta có thể nâng cao năng suất lao động, tiết kiệm các chi phí về nhân công, rút ngắn chu kỳ sản xuất của sản phẩm, đồng thời cũng đã tạo ra được những sản phẩm mới đáp ứng được các yêu cầu khắt khe về chất lượng và mẫu mã từ các nhà nhập khẩu, góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của các sản phẩm công nghiệp Việt Nam. Về vấn đề nhân lực, hội nhập kinh tế quốc tế cũng mang lại cơ hội nâng cao tay nghề cho người lao động và trau dồi kiến thức, nâng cao kinh nghiệm quản lý cho người điều hành quá trình sản xuất. Kết quả là các nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) đã vào Việt Nam ngày một tăng trong hơn 10 năm trở lại đây. 1.3.3. WTO và các yêu cầu phát triển và cam kết các loại hình dịch vụ phù hợp Việc phải thực hiện những cam kết sẽ làm cho hoạt động đầu tư nước ngoài vào Việt Nam thuận lợi, hoạt động kinh doanh quốc tế của các doanh nghiệp trong nước cũng được khuyến khích qua đó góp phần đổi mới, phát triển nền kinh tế đất nước: - Cam kết không phân biệt đối xử và đảm bảo cạnh tranh bình đẳng: được thể hiện qua hai quy chế tối Đối xử tối huệ quốc và Đối xử quốc tế, đây là những nguyên tắc nền tảng của WTO cũng như các tổ chức, thể chế kinh tế quốc tế. Trong những năm vừa đã thực hiện nhiều biện pháp cần thiết nhằm đảm bảo thực hiện nguyên tắc đối xử bình đẳng trong thương mại quốc tế và quan hệ đầu tư mà nước ta đã hoặc sẽ cam kết với các nước trong các khuôn khổ hợp tác song phương và đa phương. Chính phủ đã từng bước giảm và tiến tới sẽ huỷ bỏ các quy định có tính phân biệt đối xử giữa hàng hoá, dịch vụ và đầu tư của nước ta với nước ngoài. - Cam kết về thương mại hàng hóa, về thuế quan các nước tham gia vào WTO đều phải cam kết không tăng thuế ở mức nhất định đối với các mặt hàng ở trong biểu thuế nhập khẩu, mức cam kết trong một số trường hợp có thể ít hơn mức thuế đang áp dụng, vì thế khi gia nhập vào WTO các quốc gia đều phải cắt giảm thuế ở một số mặt hàng. Ngoài ra, trong WTO còn có các mô hình cắt giảm thuế mạnh mẽ như “ cắt giảm thuế quan theo ngành” và hài hòa thuế quan. Các ngành chủ yếu là công nghệ thông tin, hóa chất, xây dựng… - Cam kết về tự do thương mại dịch vụ: khi gia nhập WTO, Việt Nam phải cam kết đảm bảo cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài được đầu tư và hoạt động ở những lĩnh vực dịch vụ nhất định. Mức độ cam kết sẽ phụ thuộc vào quá trình đàm phán. Cạnh tranh trong nhiều ngành dịch vụ quan trọng như viễn thông, ngân hàng, bảo hiểm, v.v... đã tăng đáng kể khi Việt Nam gia nhập WTO Tại Bản chào 4, Việt Nam đã chào tới 92/155 phân ngành thuộc 10/11 ngành dịch vụ, đó là: dịch vụ kinh doanh; dịch vụ thông tin; dịch vụ tài chính (cả ngân hàng); dịch vụ phân phối; dịch vụ xây dựng và các dịch vụ kỹ thuật đồng bộ có liên quan; dịch vụ văn hoá và giải trí; dịch vụ vận tải; dịch vụ giáo dục. Như vậy là nước ta đã cam kết mở cửa hầu hết các ngành dịch vụ (trừ dịch vụ môi trường, nhưng không có nghĩa là sẽ không phải mở) và đa số các phân ngành dịch vụ. Cam kết về tự do thương mại dịch vụ tạo cơ hội lớn cho các doanh nghiệp trong nước nâng cao khả năng cạnh tranh, tham gia đầu tư ra nước ngoài với những lợi thế của một thành viên chính thức của WTO. Quá trình cạnh tranh với các nhà kinh doanh dịch vụ nước ngoài là vô cũng khốc liệt, nếu không có những kế hoạch phát triển, nguồn tài chính vững vàng thì doanh nghiệp có thể đi tới phá sản. - Cam kết về tạo thuận lợi cho hoạt động đầu tư liên quan đến thương mại: tuân thủ các cam kết liên quan đến hiệp định TRIMs, cam kết xóa bỏ các rào cản về đầu tư giữa các nước trong tổ chức WTO với mục đích tăng cường sự minh bạch, hấp dẫn của thị trường đầu tư giữa các nước. 1.3.4. Cơ hội phát triển các loại hình dịch vụ quốc tế đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi Việt Nam là thành viên chính thức của WTO - Tăng cường xuất khẩu thông qua việc tiếp cận các thị trường của các thành viên WTO, khi thị trường và các hạn ngạnh không bị hạn chế thì các doanh nghiệp Việt Nam có cơ hội xuất khẩu những mặt hàng tiềm năng. Việc phát triển các ngành xuất khẩu hàng hóa cũng đi liền với nhu cầu về các dịch giao nhận vận tải, bảo hiểm và ngân hàng. Đây là một cơ hội rất lớn của các doanh nghiệp kinh doanh trong lĩnh vực dịch vụ quốc tế: tăng doanh thu, phát triển thêm các loại hình dịch vụ mới phù hợp. - Các doanh nghiệp Việt Nam cũng nhận được nhiều sự hỗ trợ về tài chính, tín dụng và viện trợ không hoàn lại của các tổ chức nước ngoài. Việc thực hiện các cam kết sẽ tạo nên một làn sóng đầu tư vào các ngành kinh tế quan trọng của đất nước. - Khi Việt Nam tham gia vào WTO các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ quốc tế được tiếp xúc với công nghệ hiện đại tiên tiến. Tóm lại, qua chương một ta đã tìm hiểu được những vấn đề lý luận cơ bản chung liên quan đến dịch vụ quốc tế và các loại hình của nó. Doanh nghiệp và các nhân tố liên quan, có tác động đến hoạt động kinh doanh dịch vụ quốc tế trên tầm vĩ mô và vi mô. Tính tất yếu khách quan của các doanh nghiệp Việt Nam hội nhập kinh tế quốc tế khi nước ta đã là thành viên chính thức của tổ chức WTO, trong điều kiện hội nhập đó, các doanh nghiệp nước ta đã có những cơ hội và thách thức như thế nào? CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CÁC LOẠI DỊCH VỤ QUỐC TẾ TẠI CÔNG TY TRANCO 2.1. Giới thiệu khái quát về công ty Tranco 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của công ty TRanco 2.1.1.1. Quá trình hình thành Công ty vận tải và xây dựng công trình giao thông là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Giao thông vận tải. Công ty tiền than của Liên Hiệp các Công ty vận tải ô tô. Theo Nghị định sô 338 về việc sắp xếp lại cơ cấu tổ chức doanh nghiệp nhà nước, ngày 04/12/1991, bộ trưởng Bộ Giao thông vận tải ra quyết định số 2450/QĐ-TCCBLĐ thành lập “ Công ty khai thác Xuất nhập khẩu thiết bị ô tô”. Ngày 05/04/1993 Bộ giao thông vận tải ra quyết định số 67/QĐ-TCCLĐ đổi tên công ty thành “ Công ty Vật tư kỹ thuật vận tải ô tô”. Trong quá trình hình thành, để phù hợp với các ngành nghề kinh doanh mà công ty đã và đang khai thác, ngày 06/08/1996, Bộ trưởng Bộ giao thông vận tải ra quyết định đổi tên công ty thành “ Công ty vật tư xây dựng công trình giao thông”. Ngày 14/05/2007 Bộ giao thông vận tải quyết định đổi tên và bổ sung ngành nghề kinh doanh cho công ty vật tư xây dựng công trình giao thông: Đổi tên công ty thành: Công ty Vận tải và Xây dựng. Tên giao dịch quốc tế viết tắt là TRANCO; Bổ sung ngành nghề kinh doanh cho công ty vận tải và xây dựng: Hoạt động xử lý rác thải rắn và xử lý rác thải lỏng. Tên giao dịch: TRANSPORT MATERIAL AND CONTRUCTION COMPANY Địa chỉ trụ sở chính: Số nhà 83A phố Lý Thường Kiệt, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội. Điện thoại: (84)04.5574529 Fax: (84)04.5574530 Email: trancoatc@hn.vnn.vn Số chứng nhận đăng ký kinh doanh: 111639 Tài khoản tiền VNĐ: 710-00410 tại ngân hành Công thương Việt Nam Tài khoản ngoại tệ: 362111.711.120 tại ngân hành Vietcombank Vốn: 3.234.067.296 VN Đồng Trong đó: Vốn cố định là 1.147.000.000 VN Đồng Vốn lưu động là 2.087.067.296 VN Đồng Người đại diện theo pháp luật của công ty nhà nước Chức danh: tổng giám đôc Họ tên: Nguyễn Quốc Khôi Giới tính: Nam SN: 13/06/1957 Dân tộc: Kinh QT: Việt Nam 2.1.1.2. Quá trình phát triển của công ty Quá trình phát triển của công ty TRANCO từ khi thành lập đến nay được chia làm 3 giai đoạn: !991-1996, 1997-2004, 2005-Nay Giai doạn 1991-1996: Công ty thành lập năm 1991 trên cơ sở sắp xếp lại văn phòng của Liên Hiệp các xí nghiệp vận tải ô tô sau khi liên hiệp giải thể. Sau khi thành lập công ty TRANCO đã bổ sung thêm một số ngành nghề như xây dựng, giao nhận, kinh doanh xuất nhập khẩu các phương tiện giao thông so với liên hiệp cũ. Nhiệm vụ của công ty là kinh doanh xuất nhập khẩu thiết bị và dịch vụ kỹ thuật ô tô. Trong giai đoạn này công ty đã có những cải tổ nhằm sắp xếp lại bộ mày quản lý của mình sao cho hợp lý, phù hợp với sự phát triển và ngành nghề mới kinh doanh. Giai đoạn 1997-2004: Qua quá trình phát triển của công ty thì đến năm 1996 công ty được bổ sung thếm nhiệm vụ xây lắp và một số ngành nghề kinh doanh khác: - Kinh doanh vận tải và đại lý vận tải - Sản xuất cơ khí, sửa chữa và dịch vụ kỹ thuật ô tô - Kinh doanh kho bãi, xếp dỡ, giao nhận hành hóa, vận chuyển container Tiếp nhận thêm một số đơn vị sản xuất kinh doanh trong ngành giao thông vận tải và phát triển thêm lực lượng - Công ty cổ phần vận tải và xây dựng công trình - Công ty trách nhiệm hữu hạn môi trường xanh - Một số chi nhánh: CN phía Nam, Hải phòng Giai đoạn 2005 đến nay: Trong giai đoạn này, công ty tập trung chủ yếu vào việc tiến hành sắp xếp lại cơ cấu tổ chức và mở rộng thêm một số ngành nghề kinh doanh như: xuất khẩu lao động, thương mại liên hợp .v.v. - Về việc sắp xếp lại cơ cấu tổ chức, công ty thay phòng thị trường bằng phòng Đầu tư, bổ sung thêm ngành nghề đào tạo bằng việc mở thêm trường Trung Cấp bách nghệ Hà Nội. Đánh giá chung về quá trình phát triển của công ty: trong quá trình phát triển của mình, công ty đã vừa phát triển lĩnh vực kinh doanh, hoàn thiện cơ chế quản lý . Gồm có 13 đơn vị trực thuộc là các chi nhánh, xí nghiệp, trung tâm, công ty hoạch toán phụ thuộc có con dấu riêng, tài khoản riêng, hoạt động theo ủy quyền và phân cấp của tổng giám đốc công ty, ngoài ra còn có một số thành viên liên kết do công ty góp vốn đầu tư là cá doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, công ty cổ phần. Ví dụ: Công ty Liên doanh khách sạn Gowman Công ty vận tải và xây dựng công trình Trường Trung Cấp Bách Nghệ HN 2.2.2. Mô hình tổ chức sản xuất, bộ máy quản trị Để phù hợp với cơ chế thị trường, Công ty đã thực hiện chế độ hoạch toán kinh tế độc lập, thực hiện tinh giảm biên chế bộ máy quản lý, rút gọn số lượng các phòng ban. Đào tạo lại đội ngũ các bộ công nhân viên trong công ty. Năm 2005, công ty có 1366 cán bộ công nhân viên trong đó: + Cán bộ quản lý doanh nghiệp là: 766 người chiếm 5,49% + Công nhân trực tiếp sản xuất là: 766 người chiếm 65,07% + Nhân viên gián tiếp: 525 người chime 38,43%. Sau đây là sơ đồ mô tả chi tiết bộ máy tổ chức sản xuất và bộ máy quản trị của công ty TRANCO: CÁC ĐƠN VỊ THÀNH VIÊN SẢN XUẤT KINH DOANH TỔNG GIÁM ĐỐC CÁC PHÒNG BAN CÁC PHÓ TỔNG GIÁM ĐỐC PHÒNG KH&KĨ THUẬT PHÒNG ĐẦU TƯ PHÒNG TC-HC PHÒNG TC-KT PTGĐ. VẬN TẢI PTGD. XÂY DỰNG PTGĐ. KINH DOANH VẬN TẢI XÂY DỰNG LIÊN KẾT CHI NHÁNH ĐÀO TẠO THƯƠNG MẠI - XN VT VÀ ĐẠI LÝ - XN VT VÀ DỊCH VỤ - XN XDCTGT - XN TM&XDCT - CT CPXD - XN VẬT TƯ VẬN TẢI&DV - XN VẬT TƯ TBCT - ĐT VÀ XKLD - TT ĐT KỸ THUẬT Ô TÔ - CN HẢI PHÒNG - CN PHÍA NAM 1&2 - LD KS GUOMAN - CT TNHH MT XANH Nguồn: Phòng tổ chức – hành chính Hình 2.1: Sơ đồ bộ máy quản trị của công ty Tranco Công tác tổ chức bộ máy quản trị của công ty hiện nay bao gồm: - Ban giám đốc + Tổng giám đốc: + Phó tổng giám đốc Vận tải + Phó tổng giám đốc Xây dựng + Phó tổng giám đốc Kinh doanh - Các phòng ban: + Phòng kế hoạch – kỹ thuật + Phòng Đầu tư + Phòng Tổ chức – hành chính + Phòng Tài chính – kế toán - Các đơn vị thành viên sản xuất kinh doanh + Vận tải: Công ty vận tải + Xây dựng: Công ty xây dựng công trình giao thông + Thương mại: Công ty vật tư thiết bị công trìn + Đào tạo: Trung tâm đào tạo kỹ thuật ô tô, TT đào tạo xuất khẩu LĐ + Đại diện chi nhánh: Chi nhánh công ty tại TP. HCM, Hải Phòng 2.2.3. Chức năng, nhiệm vụ của công ty Tranco - Chức năng của công ty Tranco Ngay từ khi thành lập công ty, Bộ giao thông vận tải đã giao cho công ty nhiệm vụ và xác định cho công ty thực hiện các chức năng: + Tổ chức vận tải ô tô: vận tải hàng hóa, khách hàng, hàng siêu trường, siêu trọng, vận tải quá cảnh và liên vận quốc tế, container. Đại lý vận tải ô tô, kinh doanh kho bãi, dịch vụ xếp dỡ + Xây dựng giao thông: xây dựng các công trình giao thông, công trình dân dụng, nâng cấp, mở rộng bến bãi, xây dựng công trình thủy lơi, xây dựng công trình nông thông, tư vấn và đầu tư xây dựng + Đào tạo: đào tạo nghề dân dụng ngắn và dìa hạn, đào tạo cấp bằng ô tô, mô tô các hạng. Đào tạo thợ sửa chữa hướng dẫn bảo hành phương tiện vận tải và máy xây dựng. + Dịch vụ: Dịch vụ vận chuyển hành khách du lịch và tổ chức du lịch lữ hành trong nước và quốc tế. Hợp tác xuất khẩu lao động, chuyển giao kỹ thuật ô tô, tư vấn việc làm và làm sạch công trình dân dụng, kinh doanh kho bãi, kho ngoại quan. Kinh doanh xuất nhập khẩu các mặt hàng như phương tiện vận tải, thiết bị xây dựng, thiết bị tổng hành, phụ tùng ô tô, vật liệu xây dựng và các thiết bị kỹ thuật khác. - Nhiệm vụ của công ty Tranco Trong điều kiện kinh tế thị trường, công ty TRANCO là một doanh nghiệp nhà nước trực thuộc Bộ Giao Thông vận tải, công ty hoạt động theo luật doanh nghiệp nhà nước có nhiệm vụ như sau: Về kinh tế: + Thực hiện các chính sách kinh tế về hoạch toán độc lập, chấp hành các chính sách kinh tế vĩ mô và vi mô của nhà nước, luật doanh nghiệp nhà nước trong kinh tế thị trường + Thực hiện các chính sách, chế độ kế toán tài chính thống nhất của nhà nước như: đóng thuế và nộp ngân sách đầy đủ, nộp tiền sử dụng vốn, bảo toàn và phát triển công ty. + Liên kết giữa các đơn vị, các thành phần kinh tế trong và ngoài nước để xây dựng và phát triển sản xuất kinh doanh đúng mục đích, hạn chế những lãng phí. Về mặt xã hội. + Tham gia tích cực các phong trào văn hóa xã hội và các hoạt động từ thiện, thể hiện trách nhiệm của mình với các hoạt động xã hội. + Đảm bảo công an việc làm cho người lao động, nâng cao đời sống cho người lao động nói riêng, góp phần nâng cao mức sồng chung cho xã hội. Thực hiện đầy đủ quyền lợi của người lao động như: BHXH bảo hộ lao động khi làm việc, chế độ hưu trí, mất sức của người lao động. + Bảo vệ môi trường sống, môi trường sinh thái, tránh gây ô nhiễm môi trường. Về mặt chính trị + Thực hiện và hoàn thành kế hoạch cấp trên giao + Đảm bảo về các hoạt động an ninh xã hội + Thực hiện các nhiệm vụ chính trị đối với nhà nước về đối nội, đối ngoại và xây dựng các công trình chiến lược. 2.3.4. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty Tranco qua các năm 2004-2007 Bảng 2.1. Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 1. Tổng dt thuần 386.564 374.262 391.806 370.223 Thương mại 179.584 170.302 183.5 176.535 Xây lắp 159.742 146.289 158.232 143.362 Vận tải 41.511 41.405 36.000 20.175 Dịch vụ 5.684 8.837 5.586 30.151 2. Lợi nhuận 864 577 1.125 1.219 3. Nộp 14.077 Nộp ngân sách 16.997 12.457 13.378 Nộp BHXH, YT 690.77 Nộp công ty 444 50 4. LĐ&lương LĐ bình quân 1.340 1.257 Thu nhập BQ 1,744 1,716 1.756 1.746 Nguồn: phòng kế hoạch & kỹ thuật 2.2. Các nhân tố tác động đến việc phát triển các loại hình dịch vụ quốc tế tại công ty Tranco 2.2.1. Những nhân tố khách quan 2.2.1.1. Tình hình thị trường trong nước, thị trường quốc tế - Tình hình thị trường trong nước: tình hình thị trường trong nước là nhân tố ảnh hưởng trưc tiếp đến doanh nghiệp. Là một doanh nghiệp Việt Nam, có trụ sở ở trong nước và kinh doanh trên sự phát triển của các ngành trong nước. Tình hình thị trường ổn định, không có nhiều đối thủ cạnh tranh thì doanh nghiệp sẽ không phải nỗ lực tìm kiếm những đoạn thì trường mới, họ có thể tập trung kinh doanh tại thị trường trong nước. Không có nghĩa ở trong nước là tính quốc tế của các loại hình dịch vụ bị mất đi. Đối với các ngân hàng, tổ chức tài chính thì tất cả các dịch vụ mà họ cung cấp đều ít nhiều mang tính chất quốc tế, phạm vi không bị giới hạn bởi không gian mà tùy thuộc vào các đặc trưng dịch vụ. Hiện nay, có rất nhiều tổng công ty, doanh nghiệp cùng kinh doanh trên lĩnh vực dịch vụ tương tụ với công ty Tranco vì vậy áp lực cạnh tranh, tìm kiếm thị trường là rất lớn. 2.2.1.2. Tình hình về vốn của nhà nước Là một công ty nhà nước công ty Tranco nguồn lợi nhuận của công ty Tranco được phân bổ cho các khoản nợ ngắn hạn, sau đó là sẽ chuyển vào ngân sách nhà nước. Nhưng trên thực tế vì tình hình kinh doanh ngày càng khó khăn nên hàng năm nguồn vốn nhà nước sẽ được cung cấp thêm để phát triển hoạt động kinh doanh. Qua biểu đồ cơ cấu vốn của công ty Tranco những năm qua, ta thấy: Nguồn vốn của công ty còn nhỏ, việc đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh chưa được đáp ứng, tỉ lệ vốn vốn lưu động trên tổng vốn và vốn chủ sở hữu còn rất nhỏ, nguồn vốn vay ngân hàng bị hạn chế, do các ngân hàng quản lý chặt chẽ hơn việc cho vay vốn đối với các công ty nhà nước. Đơn vị: tỉ đồng Nguồn: Phòng tổ chức – hành chính Hình 2.2: Cơ cấu vốn qua các năm Qua biểu đồ cơ cấu vốn của công ty Tranco những năm qua, ta thấy: Nguồn vốn của công ty còn nhỏ, việc đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh chưa được đáp ứng, tỉ lệ vốn vốn lưu động trên tổng vốn và vốn chủ sở hữu còn rất nhỏ, nguồn vốn vay ngân hàng bị hạn chế, do các ngân hàng quản lý chặt chẽ hơn việc cho vay vốn đối với các công ty nhà nước. Vốn đầu tư xây dựng cơ bản của nhà nước qua các năm tuy có được giải ngân một phần để giải quyết nợ nhưng tổng lượng đầu tư không tăng, vốn nợ đọng của công ty qua các năm còn nhiều. Các ngân hàng chủ nợ của công ty tăng cường tận thu và siết chặt điều kiện vay vốn. Các quan hệ với ngân hàng trong những năm qua không được tốt. Chỉ có ở một số chi nhánh của ngân hàng Nông nghiệp và phát triển Nông thôn. Năm 2005 tỉ lệ vốn vay trên tổng vốn của công ty là 36,6%, tỉ lệ này trong năm 2006 là 33,1% và trong năm 2007 vừa qua giảm xuống còn 23,3%. Tỉ lệ vốn vay ngân hàng qua các năm có giảm làm giảm chi phí vốn vay của công ty. Qua bảng cơ cấu vốn qua các năm 2003 – 2007 ta cũng thấy được rằng tổng vốn của công ty tăng rất ít, vốn vay ngân hàng giảm tỉ lệ với số lượng vốn chủ sở hữu tăng. Tỉ lệ tăng trưởng tổng vốn từ năm 2005 – 2007 lần lượt là 0,72%, 0.12%. Năm 2006 và năm 2007 gần như không thay đổi 2.2.1.3. Hoạt động trong môi trường mới, môi trường cạnh tranh của WTO Hoạt động trong môi trường quốc tế ảnh hưởng trực tiếp đến các loại hình dịch vụ quốc tế. 2.2.2. Những nhân tố chủ quan 2.2.2.1. Hoạt động của các lĩnh vực khác thuộc công ty Tranco Hoạt động ở các lĩnh vực khác ngoài dịch vụ quốc tế bao gồm: hoạt động xây lắp, vận tải nội địa… Những hoạt động này nếu phát triển và có hiệu quả sẽ có tác dụng thúc đẩy các ngành khác. Khi đất nước hội nhập kinh tế quốc tế, hầu hết các doanh nghiệp kinh doanh đều phải tiếp cận các yếu tố mang tính quốc tế, khi thị trường trong nước bão hòa họ phải kinh doanh quốc tế, khi mà sức cạnh tranh trong nước quá lớn họ cũng phải vươn ra nước ngoài tìm thị trường hoặc khách hàng mới. Hoạt động trên nhiều lĩnh vực khác nhau, bổ sung và hỗ trợ khi cần thiết giữa các ngành đang là một kiểu xây dựng bộ máy doanh nghiệp phổ biến hiện nay. Ví dụ: ngân hàng VPBank vừa là ngân hàng, vừa là một công ty chứng khoán có sàn giao dịch riêng. Họ nhận thức được rằng giữa hoạt động ngân hàng và chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ, tương hỗ và khi phát triển cả hai loại dịch vụ này VP Bank sẽ có cơ hội mang lại lợi nhuận cao hơn nhiều nếu chỉ làm kinh doanh trên một lĩnh vực Công ty Tranco cũng không phải là một ngoại lệ. Khi hoạt động xây dựng, xây lắp phát triển ngành vận tải cũng sẽ được phát huy, công ty có thể dùng những nguồn lực của chính mình để tiết kiệm chi phí, tăng doanh thu. Khi hai hoạt động này có hiệu quả, cơ hội cho ngành thương mại quốc tế và dịch vụ lao động cũng có cơ hội. Đối với thương mại, công ty sẽ có thêm các nguồn vốn để nhập khẩu công nghệ thiết bị hiện đai, có vốn để xuất khẩu các mặt hàng mới. Dịch vụ lao động quốc tế có chi phí mở thêm các khóa đào tạo, tham gia vào tìm hiểu thị trường nước ngoài. Một công ty hoạt động tốt nghĩa là tất cả các bộ phận hoạt động tốt, mang lại hiệu quả kinh doanh và tương tác tích cực lẫn nhau. Đây là một yếu tố rất quan trọng khi nghiên cứu về các nhân tố ảnh hưởng bên trong doanh nghiệp 2.2.2.2. Đội ngũ cán bộ quản lý doanh nghiệp, nguồn nhân lực Sau đây là biểu đồ về cơ cấu lao động theo trình độ, tính của công ty Tranco tính đến thời điểm hết năm 2007 Đơn vị: % Nguồn phòng Tài chính – Kế toán Hình 2.3: Cơ cấu lao động theo trình độ Nhìn vào biểu đồ trên có thể thấy được rằng nguồn nhân lực chủ yếu của công ty thuộc trình độ trung cấp và công nhân kỹ thuật ( 75%) còn lại là (25%) thuộc trình độ trên đại học và đại học. Hiệu quả hoạt động của bất kỳ doanh tổ chức, doanh nghiệp nào cũng phụ thuộc rất lớn vào đội ngũ lao động của nó. Để tuyển được những nhân nhân viên mới phù hợp với công việc, thay thế những người làm việc không có hiệu quả một công ty phải tốn khá nhiều chi phí về tiền, thời gian. Ví dụ: công ty muốn tuyển nhân viên ở vị trí kế toán văn phòng, họ phải đăng tin tìm người trên báo, vietnamworks hay trên truyền hình. Chi phí cho hoạt động này hiện nay không phải là nhỏ. Sau khi nhận được hồ sơ ứng viên bộ phận nhân sự sẽ tổ chức thi tuyển, phỏng vấn và thử việc. Thường thì để tuyển được cũng mất khoảng thời gian vài ba tháng. Đội ngũ nhân lực trong hoạt động dịch vụ quốc tế là 85 người chiếm 22,07% đội ngũ nhân lực toàn công ty ( 381 người). Trong đó, cán bộ quản lý là 15 người. Hoạt động dịch vụ chịu ảnh hưởng từ đội ngũ lao động rất lớn, vì liên quan đến yếu tố nước ngoài nên trình độ, mối quan hệ của họ được đặt lên hàng đầu. Trong những năm tiếp theo, công ty Tranco mở thêm các dịch vụ liên quan đến xuất nhập khẩu thì vấn đề nâng cao nghiệp vụ của cán bộ xuất nhập khẩu, sự hiểu biết của họ về các vấn đề liên quan như: chứng từ hàng hóa, giao hàng, hợp đồng… là rất cần thiết. Chỉ có như vậy, hoạt động của công ty mới có hiệu quả và cạnh tranh được với các công ty giao nhận khác tại Việt Nam. Mặt khác, khi được bổ sung thêm các công nghệ, phương tiện phục vụ cho hoạt động giao nhận, các công nhân kỹ thuật phải sử dụng máy móc, trang thiết bị thành thạo. Các cán bộ quản lý về kho vận, máy móc 2.2.2.3. Chiến lược kinh doanh Chiến lược kinh doanh là công việc của các nhà quản trị cấp cao, để ra kế hoạch, tổ chức thực hiện và kiểm tra giám sát quá trình đó. Kế hoạch chiến lược đưa ra các mục tiêu lớn, mục tiêu tổng thể cho sự phát triển của các hoạt động của công ty. Công ty Tranco có kế hoạch chiến lược trong thời gian 2008 – 2010 là tiếp tục phát triển hơn nữa các ngành dịch vụ, nhất là dịch vụ vận tải quốc tế và xuất khẩu lao động. Điều này có ảnh hưởng đến hoạt động của dịch vụ quốc tế, các mảng sẽ phải thiết lập ra những kế hoạch ở cấp thấp hơn, đó là kế hoạch tác nghiệp để thực thi kế hoạch chiến lược mà ban lãnh đạo đã đề ra. Chiến lược kinh doanh như là kim chỉ nam cho cá hoạt động của doanh nghiệp hướng tới. Khi mục tiêu của công ty là phát triển mạnh vận tải, giao nhận quốc tế thì sẽ phải tăng nguồn vốn đầu tư vào hoạt động này: về phương tiện, thuê kho bãi, tuyển dụng lao động. Các kế hoạch này sẽ được nhà quản trị cấp dưới thực thi bằng các phương án nhập khẩu phương tiện, phương án tìm và thuê địa điểm, phương án tuyển dụng lao động. Trong quá trình thực hiện kế hoạch, phải thường xuyên tiến hành kiểm tra, giám sát để cho việc thực hiện kế hoạch đúng tiến độ. 2.3. Thực trạng hoạt động kinh doanh dịch vụ quốc tế tại công ty Tranco Phần này sẽ nghiên cứu về thực trạng hoạt động dịch vụ quốc tế tại công ty Tranco qua tình hình thực hiện các chỉ tiêu và doanh thu của các hoạt động này 2.3.1. Tình hình thực hiện các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển cùa dịch vụ quốc tế tại công ty Tranco Các chỉ tiêu này bao gồm: chất lượng dịch vụ cung cấp, quy mô của hoạt động kinh doanh dịch vụ quốc tế và một số chỉ tiêu khác Thứ nhất về chất lượng dịch vụ cung cấp: chất lượng dịch vụ đã và đang đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Thực tế cho thấy, số lượng khách hàng truyền thống của công ty tăng, một số khách hàng thời vụ cũng thường xuyên sử dụng dịch vụ. Hoạt động dịch vụ xuất khẩu lao động đã tạo được uy tín thị trường Malaysia, Nhật Bản vì vậy có một số đối tác của Bruney đã đề nghị được hợp tác dài hạn với công ty. Thứ hai là quy mô của hoạt động kinh doanh dịch vụ quốc tế. Hoạt động kinh doanh dịch vụ của công ty quy mô còn nhỏ, phát triển chủ yếu trên một vài đoạn thị trường nhất định. Qua các năm không có sự thay đổi nhiều về thị trường mà công ty đang hoạt động kinh doanh do chưa có đầu tư vào công tác nghiên cứu thị trường. Một số chỉ tiêu khác bao gồm: doanh thu từ hoạt động dịch vụ quốc tế, doanh thu của hoạt động này tăng còn chậm, và không ổn định, bình thường là tăng khoảng 10-15%/1năm nhưng có năm tỷ lệ này giảm xuống còn dưới 5%( năm 2006) 2.3.2. Các hoạt đông của dịch vụ quốc tế tại công ty Tranco những năm qua Hoạt động dịch vụ quốc tế tại công ty Tranco bao gồm 3 lĩnh vực chủ yếu 2.3.2.1. Hoạt động đào tạo, xuất khẩu lao động - Thị trường: một số lĩnh vực thị trường chủ yếu mà công ty Tranco tập trung vào bao gồm: Malaisia, Nhật Bản, Brunei Sau đây là bảng cơ cấu thị trường hoạt động xuất khẩu lao động trong 4 năm từ 2004 – 2007 Bảng 2.2: Cơ cấu thị trường xuất khẩu lao động Tên thị trường Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Số LĐ(n) Tỉ lệ(%) Số LĐ Tỉ lệ(%) Số LĐ(n) Tỉ lệ(%) Số LĐ(n) Tỉ lệ(%) Nhật Bản 6 16,6% 15 29,4% 24 31,5% 30 33,3% Malaysia 30 83,7% 36 70,6% 46 60,5% 50 55,5% Brunei 0 0% 0 0% 6 7% 10 11,2% Nguồn: phòng Kế hoạch – Kỹ thuật Qua bảng cơ cấu thị trường xuất khẩu lao động 4 năm từ 2004 – 2007 ta thấy số lượng lao động được xuất khẩu sang nước ngoài tăng khá đều qua các năm. Số lượng lao động cao nhất là vào năm 2007 với 90 lao động, tốc độ tăng nhanh nhất thuộc về khoảng thời gian giữa 2005 và 2006 là 26%. Để đạt được tốc độ tăng trưởng như trên công ty đã không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo lao động tại nước nhà, việc thực hiện nghiêm túc kỷ luật và có trình độ phù hợp giúp cho công ty Tranco ngày càng nhận được thêm các hợp đồng mới. Thị trường Nhật Bản trong năm 2007 đã mở rộng và đã nhập hơn 30 lao động được đào tạo, trong năm 2008 tới mục tiêu của hoạt dộng đào tạo, xuất khẩu là tăng gấp 1,5 lần ( 40 người) được đào tạo và sang làm việc tại Nhật Bản. Bên cạnh đó, thị trường mới Bruney cũng thu hút 10 lao động trong năm 2007 vừa qua, đây là thị trường mục tiêu mà công ty đã xác định trong khoảng 4 năm tới khi mà nhu cầu lao động của Malaysia và Nhật không lớn như hiện tại. Mục tiêu trong năm 2008 là đưa trên 20 lao động sang làm việc tại quốc gia này. Để thực hiện được mục tiêu, phòng đào tạo và xuất khẩu lao động đang tiến hành đàm phàn với phía đối tác về các điều khoản trong hợp đồng dịch vụ bao gồm: yêu cầu về chất lượng lao động, điều kiện làm việc, lượng… Sau đây là bảng doanh thu từ hoạt động xuất khẩu lao động tại công ty Tranco Đơn vị: triệu đồ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28562.doc
Tài liệu liên quan