Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

Tài liệu Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam: ... Ebook Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam

doc108 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1426 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước - Bài học kinh nghiệm đối với Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG KHOA KINH TẾ NGOẠI THƯƠNG ********************** Đề tài: PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM Giáo viên hướng dẫn : Thầy Nguyễn Quang Hiệp Sinh viên thực hiện : Trần Thị Liên Lớp : Anh 5 K38B HÀ NỘI - 2003 MỤC LỤC Nội dung Tra ng Lời nói đầu 1 CHƯƠNG I: TỔNG QUAN VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ …………… 4 I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ..........… 4 1. Sự ra đời Chính phủ điện tử……………………………………….. .…………… 4 2. Khái niệm về Chính phủ điện tử………………………………………………… 11 3. Sự khác nhau giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ truyền thống ………… 16 II. CÁC HÌNH THỨC CUNG CẤP DỊCH VỤ CHÍNH TRONG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ……………………………………………... 17 1. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Chính phủ - G2G (Government to Government)……………………………………………………… 17 2. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Doanh nghiệp - G2B (Government to Business)………………………………………………………….. 17 3. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Công dân - G2C (Government to Citizen)…………………………………………….............................. ................. 18 III. LỢI ÍCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ ………………………… 18 1. Lợi ích về dịch vụ của Chính phủ ………………………………………………. 18 2. Lợi ích trong quản lý hành chính nhà nước 19 3. Tạo mối quan hệ hợp tác giữa chính phủ với chính phủ, giữa chính phủ với doanh nghiệp và giữa chính phủ với công dân ……………………………………. 21 CHƯƠNG II: PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM………….. 22 I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ TRÊN THẾ GIỚI………………… 22 1. Tình hình phát triển Chính phủ điện tử trên thế giới…………………………… 22 2. Dự báo triển vọng phát triển Chính phủ điện tử trong tương lai……………… 27 II. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỸ………………….. 28 1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở Mỹ ……………………………………………… 28 2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Mỹ …………………………….. 29 3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Mỹ …………………………………………… 32 III. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở AUSTRALIA …….. 38 1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở 38 Australia………………………………………… 2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Australia………………….. 39 3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Australia………………………………… 45 IV. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở SINGAPORE…… 47 1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở Singapore ………………………………… 47 2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Singapore ………………………. 48 3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Singapore ……………………………………. 55 V. BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRONG PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở CÁC NƯỚC…… ……………………………………… 57 1. Những cơ hội được tạo ra khi phát triển Chính phủ điện tử …………………. 57 2. Những thách thức phải giải quyết trong phát triển Chính phủ điện tử…… 58 CHƯƠNG III: ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM………………………………… 61 I. ĐÁNH GIÁ VỀ CÁC TIỀN ĐỀ CHO VIỆC XÂY DỰNG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM………………………………………... 61 1. Cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông ……………………………. 61 2. Nguồn nhân lực cho việc triển khai Chính phủ điện tử ………………………. 66 3. Nhận thức của người dân và khả năng tiếp cận các dịch vụ điện tử của Chính phủ……………………………………………………………………… ……... 67 4. Cơ sở pháp lý ……………………………………………………………………. 67 5. Vấn đề bảo mật thông tin ……………………………………………………….. 69 6. Hệ thống thanh toán điện tử……………………………………………………… 69 II. MỘT SỐ ỨNG DỤNG BƯỚC ĐẦU CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM…………………………………………………….. 71 1. Quá trình tin học hoá quản lý hành chính nhà nước …………………………. 71 2. Một số dịch vụ hành chính công qua Website của Chính phủ ……………… 80 III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM…………………….. 86 1. Định hướng Chính phủ trong việc phát triển công nghệ thông tin và ứng công nghệ thông tin vào các dịch vụ của Chính phủ ………………………….. 86 2. Một số kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt nam …………… 89 Kết luận……………………………………………………………... 93 Tài liệu tham khảo DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT AGLS: Government Locator Service Standard ATO: Australian Taxation Office CIO: Chief Information Officer G2B: Government to Business G2C: Government to Citizen G2E: Government to Employee G2G: Government to Government ICT: Information and Communication Technology IEE: Internal Effectiveness and Efficiency IMSC: Information Management Strategy Committee IPT: Integrated Project Team NOIE: National Office for the Information economy OMB: Office of Management and Budget RCB: Registry of Companies and Businesses RCSA: Recruitment and Consulting Service Association LỜI NÓI ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài Trong xu thế hội nhập quốc tế hiện nay, vai trò của nhà nước ngày càng trở nên quan trọng. Nhà nước đóng vai trò quyết định trong việc hoạch định các chính sách về kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm mục tiêu xây dựng một xã hội công bằng, văn minh và đưa nền kinh tế phát triển sánh ngang với các cường quốc kinh tế trên thế giới. Nhưng làm thế nào để các chủ trương chính sách đó đến được với nhân dân mới là vấn đề mà Chính phủ cần phải suy tính. Các nước phát triển trên thế giới đã tìm ra lời giải cho bài toán, đó là phát triển Chính phủ điện tử. Hầu hết các nước này đã nhận thức được rằng Chính phủ điện tử mang lại rất nhiều lợi ích cho đất nước. Trong tương lai, nước nào có một nền Chính phủ điện tử phát triển, nước đó sẽ có lợi thế hơn các nước khác. Không một nước nào muốn bị tụt hậu so với các nước, do đó, phát triển Chính phủ điện tử đã trở thành xu hướng chung của các quốc gia trên toàn thế giới. Thế nhưng, ở nước ta, khái niệm Chính phủ điện tử đối với hầu hết mọi người là một khái niệm hoàn toàn mới mẻ và hết sức lạ lẫm. Hầu như chẳng ai biết Chính phủ điện tử là gì chứ không nói gì đến việc liệu Chính phủ điện tử sẽ mang lại lợi ích gì cho đất nước. Hiện nay có rất ít, nếu không nói là không có tác giả trong nước nào đề cập đến vấn đề Chính phủ điện tử. Các nước phát triển trên thế giới đã đề ra và thực hiện chiến lược Chính phủ điện tử từ nhiều năm trước, vậy mà nước ta mới bắt đầu triển khai các đề án tin học hoá quản lý nhà nước. Khởi động chậm như vậy thì nước ta còn rất lâu mới đuổi kịp các nước khác. Do vậy, nghiên cứu về Chính phủ điện tử là vấn đề rất cần thiết đối với nước ta. Nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề trên, em mạnh dạn lựa chọn đề tài: "PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC - BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM" với hy vọng phần nào đó nâng cao nhận thức của mình về vấn đề này cũng như đề xuất một số kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam. 2. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài Khoá luận bắt đầu bằng việc nghiên cứu những nội dung cơ bản về Chính phủ điện tử với mục đích đem lại cái nhìn tổng quát, khách quan nhất về Chính phủ điện tử. Từ đó, khoá luận sẽ đi sâu nghiên cứu về chiến lược và tổng hợp một số dữ liệu về thực trạng phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước tiêu biểu, cụ thể là ba nước Mỹ, Australia và Singapore, qua đó rút ra một số bài học kinh nghiệm về phát triển Chính phủ điện tử. Phần cuối cùng của bài khoá luận sẽ dành để tìm hiểu và đánh giá các tiền đề cho việc xây dựng Chính phủ điện tử ở Việt nam, từ đó đề ra định hướng và một số kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt nam. 3. Phương pháp nghiên cứu Bài viết áp dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học sau: Phương pháp nghiên cứu tham khảo và tổng hợp tài liệu; Phương pháp suy luận logic, phương pháp so sánh. 4. Kết quả nghiên cứu Qua nghiên cứu về chiến lược phát triển Chính phủ điện tử ba nước Mỹ, Singapore và Australia, khoá luận đã rút ra được một số bài học kinh nghiệm cho các nước đi sau. Khoá luận cũng đã đi sâu tìm hiểu về tình hình chuẩn bị cho phát triển Chính phủ điện tử ở Việt Nam.Từ đó, khoá luận đã mạnh dạn đề xuất các giải pháp phát triển Chính phủ điện tử phù hợp với khả năng của nước ta. 5. Nội dung nghiên cứu Khoá luận gồm ba chương: Chương I: Tổng quan về chính phủ điện tử Chương II: Phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước và bài học kinh nghiệm với Việt nam Chương III: Định hướng và giải pháp phát triển Chính phủ điện tử ở Việt nam Em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới Thầy Nguyễn Quang Hiệp, người đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ em hoàn thành khoá luận này. Em cũng xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn đã giúp đỡ em trong việc thu thập tài liệu để hoàn thành khoá luận này. Do trình độ còn hạn chế và thời gian cũng có hạn, khoá luận này chắc chắn không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, em rất mong nhận được sự góp ý chân thành của các thầy cô giáo và các bạn. Hà nội, ngày 20/11/2003 Sinh viên Trần Thị Liên CHƯƠNG I TỔNG QUAN VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ I. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ 1. Sự ra đời Chính phủ điện tử Ngày nay người ta nói nhiều về Chính phủ điện tử (e-government). Một khi mà Internet và thương mại điện tử ra đời, thì sự ra đời Chính phủ điện tử là điều tất yếu. Trước kia, hầu hết chính phủ các nước phải giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội theo cách cũ, tức là hoàn toàn không có sự tham gia của công nghệ thông tin và viễn thông. Như đã thấy ở hầu hết các nước, cơ cấu bộ máy nhà nước bao gồm các Bộ như bộ Giáo dục, Bộ Y tế, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Thương mại, Bộ Khoa học và công nghệ… Trung bình mỗi chính phủ có khoảng 50 tới 70 bộ hay cơ quan khác nhau ở trung ương. Mỗi bộ như vậy đều có các cơ quan chức năng riêng. Việc phát hiện một cơ quan làm không đúng chức năng, nhiệm vụ của mình có thể là khó khăn. Tệ hơn, ngay cả các vấn đề đơn giản như cấp giấy phép kinh doanh cho một doanh nghiệp, bán một căn nhà hoặc đăng ký khai sinh cho trẻ sơ sinh thì một số lớn các cơ quan khác nhau đòi hỏi một số biểu mẫu khác nhau. Điều này là quá thừa và không cần thiết. Hơn nữa, thủ tục giải quyết vấn đề về quản lý thường quá rườm rà, gây khó khăn cho người dân khi có nhu cầu. Ví dụ như phố Phoenix tỉnh thành Arizon thuộc bang SW Tây Nam nước Mỹ, dân chúng thường xuyên phải chen lấn nối đuôi nhau để đăng ký lại xe hơi và xe tải đã gây ồn ào và làm bẩn cả một khu vực trước trụ sở thành phố. Tình trạng này đã xảy ra không riêng gì ở Mỹ mà ở hầu hết các nước trên thế giới. Dân chúng quan hệ với các cơ quan, ban ngành của chính phủ từ trung ương đến địa phương đều nằm trong tình trạng ảm đạm và hao phí thời gian nên họ cũng muốn tránh né càng nhiều càng hay. Một trong các lý do cơ bản làm cho khu vực công kém hiệu quả, quan liêu là những việc xảy ra ở trên. Hệ thống tổ chức hàng dọc hay ngang của các cơ quan có quá nhiều ban ngành tạo ra sự phức tạp cho cán bộ nhân viên trong lúc thừa hành nhiệm vụ. Để giải quyết tình trạng trên, Chính phủ các nước trên thế giới đã tìm ra giải pháp áp dụng Internet và các thành tựu khác của khoa học công nghệ để cải thiện hoạt động của bộ máy nhà nước. Khả năng áp dụng Internet để cung cấp thông tin Chính phủ tới mọi người ở mọi nơi mà không cần bất cứ khâu trung gian nào sẽ ảnh hưởng rất lớn tới bản thân các quan chức Chính phủ. Các doanh nghiệp nhỏ có thể thu thập các quy tắc và các văn bản pháp luật dễ dàng hơn mà không cần phải thông qua luật sư. Ngay cả người dân cũng có thể nộp thuế từ nhà riêng vừa đỡ tốn thời gian tiền bạc vừa hiệu quả. Mặt khác, việc mọi người có thể chủ động hơn khi truy cập các thông tin và sử dụng các dịch vụ của Chính phủ cũng góp phần hạn chế hiện tượng lạm dụng quyền lực của các quan chức nhà nước, bảo vệ quyền lợi cá nhân cho công dân và đảm bảo an toàn và bảo mật các thông tin quan trọng của Chính phủ. Mặc dù vẫn còn sớm để dự đoán những ảnh hưởng của Internet đối với Chính phủ, nhưng có một điều chắc chắn rằng những ứng dụng của Internet trong việc đưa thông tin và dịch vụ của Chính phủ tới mọi người ở mọi nơi mọi lúc tạo ra cơ hội mở rộng, cải thiện và nâng cao chất lượng thông tin và dịch vụ của Chính phủ. Lợi ích của việc áp dụng Internet lại càng rõ ràng khi các Chính phủ trên khắp thế giới đang tự chuyển đổi sang Chính phủ điện tử. Vậy lý do của tất cả các hành động trên là gì và cơ sở hạ tầng thông tin đóng vai trò gì trong việc này? 1.1. Lý do ra đời Chính phủ điện tử Có 4 lý do chính khiến Chính phủ các nước chuyển đổi sang Chính phủ điện tử: 1.1.1. Tiết kiệm chi phí cho cả Chính phủ và dân chúng Trên thế giới hầu hết các Chính phủ đều nằm trong tình trạng chịu gánh nặng về chi phí. Mặc dù ở nhiều nước, khoản thu từ thuế tăng lên cùng với tốc độ tăng của nền kinh tế, đặc biệt là ở các nước công nghiệp, các khoản chi tiêu của Chính phủ vẫn tăng lên một cách nhanh chóng, nhất là khi dân số và các yếu tố khác tăng làm cho các khoản chi dành cho lương hưu và các khoản trợ cấp thất nghiệp, y tế tăng nhanh mỗi năm. Những khoản chi như vậy làm cho ngân sách nhà nước ngày càng cạn kiệt, khiến cho Chính phủ phải vắt óc nghĩ cách giảm chi phí. Chính phủ các nước thấy rằng áp dụng công nghệ thông tin và viễn thông vào quản lý hành chính nhà nước và cung cấp dịch vụ của Chính phủ vừa giúp giảm chi cho nhà nước vừa tiết kiệm thời gian tiền bạc cho các đối tượng sử dụng dịch vụ của Chính phủ. Rõ ràng là sử dụng dịch vụ thanh toán bằng điện sẽ nhanh hơn và rẻ hơn rất nhiều so với việc dùng tiền mặt hay các phương tiện thanh toán truyền thống khác. Chính phủ cũng tiết kiệm được rất nhiều nếu đăng tải các thông tin mời thầu trên mạng thay vì phải đăng tải trên báo chí. Từ năm 1996, thành phố Arizona của Mỹ đi tiên phong trong việc cho phép dân chúng sử dụng dịch vụ đăng ký lại giấy phép lái xe qua trang Web. Thay vì phải đứng xếp hàng cả buổi trước sở giao thông để chờ đến lượt mình thì nay dân chúng có thể lên mạng đăng ký số xe, xin bảng số 24/24 giờ liên tục và 7 ngày một tuần. Nhờ giao dịch qua mạng nên mỗi giao dịch rút lại trung bình chỉ còn 2 phút và người dân cũng tiết kiệm được chi phí do không phải đóng lệ phí cho Sở Giao thông như trước đây. Website này do IBM xây dựng, bảo quản và công ty này được trả 2% trên trị giá của giao dịch. Tiến trình thực hiện trên mạng chỉ tốn 1,6 USD so với 6,6USD cho mỗi giao dịch tại Sở. Việc này tiết kiệm cho Chính phủ một số tiền lớn, Sở Giao thông tiết kiệm được 1,7 triệu USD mỗi năm nhờ cung cấp dịch vụ qua mạng. (Nguồn: Kinh tế học Internet: Từ thương mại điện tử đến Chính phủ điện tử - Vương Liêm, NXB Trẻ, 2001) 1.1.2. Áp lực cạnh tranh từ khu vực tư nhân Ngoài vấn đề chi phí, Chính phủ phải đối mặt với áp lực cạnh tranh ngày càng tăng và phức tạp từ khu vực tư nhân. Trong nền kinh tế thị trường và môi trường cạnh tranh tự do hiện nay, sản phẩm và dịch vụ khách hàng do khu vực tư nhân cung cấp ngày càng tăng về cả lượng và chất. Các công ty đang rất tích cực tìm hiểu thị hiếu và tâm lý khách hàng để tìm cách khác biệt hoá sản phẩm và dịch vụ của mình so với các công ty khác. Mặc dù việc này mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng và xã hội, song nó lại làm nảy sinh một vấn đề quan trọng, đó là khi các khách hàng được hưởng dịch vụ ngày càng tốt từ khu vực tư nhân thì họ lại càng mong đợi một dấu hiệu tương tự từ các dịch vụ của Chính phủ. Trước đây, khi Chính phủ cung cấp thông tin và dịch vụ phục vụ người dân, việc phải bỏ ra bao nhiêu chi phí để cung cấp dịch vụ đó luôn là vấn đề được xem xét đầu tiên, sau đó mới đến chất lượng dịch vụ. Nếu cứ trong tình trạng này thì chất lượng dịch vụ do Chính phủ cung cấp không bao giờ cạnh tranh được với chất lượng dịch vụ của khu vực tư nhân. Vì vậy, các công dân càng được hưởng dịch vụ tốt bao nhiêu từ khu vực tư nhân lại càng yêu cầu bấy nhiêu từ các dịch vụ do Chính phủ cung cấp. 1.1.3. Công nghệ thông tin và viễn thông đang cải thiện chất lượng dịch vụ ở khắp mọi nơi Ngày nay, với sự phát triển như vũ bão của khoa học công nghệ, Chính phủ cũng nhận thấy áp dụng khoa học công nghệ là một biện pháp hữu hiệu để cải thiện chất lượng dịch vụ. Nếu một sinh viên đại học có thể đăng ký lớp cho mình qua mạng từ nhà hay từ ký túc xá thì tại sao Chính phủ lại không thể cho phép công dân của mình nộp thuế theo cách tương tự như vậy? Khi công nghệ góp phần cải thiện chất lượng dịch vụ Chính phủ theo hướng tích cực cả về tính kinh tế lẫn tính kỹ thuật thì Chính phủ không còn sự lựa chọn nào khác là phải đi theo chiều hướng chung đó. Sử dụng công nghệ hiện đại, thoạt tiên các viên chức Chính phủ cần phải giải quyết với nhiều loại giao dịch phong phú hơn với công dân và do đó phải có kiến thức sâu rộng hơn về công nghệ. Các tổ chức Chính phủ cũng sẽ chịu nhiều ảnh hưởng. Trước kia, nếu một công dân muốn xin giấy phép lái xe, đăng ký xe hay muốn nộp thuế, anh ta sẽ phải đến ba cơ quan nhà nước khác nhau. Chỉ để thực hiện một dịch vụ rất đơn giản mà phải đi đến rất nhiều nơi và thực hiện nhiều thủ tục rườm rà. Để giải quyết tình trạng này, Chính phủ cần phải rút gọn lại bộ máy hành chính của mình. Như vậy thì một công dân thất nghiệp khi muốn hưởng trợ cấp thất nghiệp, bồi thường hay trợ cấp về y tế có thể ngồi ở nhà và yêu cầu qua điện thoại hay một máy tính cá nhân thay vì cứ phải đi đến 4, 5 cơ quan khác nhau của Chính phủ để yêu cầu. 1.1.4. Tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế Các Chính phủ dân chủ tự do trên thế giới thấy rằng Chính phủ cũng là một thành viên quan trọng trong sự phát triển của nền kinh tế đất nước. Chính phủ ngày nay nhận thức rõ rằng Chính phủ cần thực hiện thêm chức năng tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của công nghệ kỹ thuật số- một động lực phát triển kinh tế của thế kỷ 21. Vai trò mới này của Chính phủ yêu cầu phải có nhiều công cụ quản lý hơn ngoài các công cụ truyền thống. Cơ sở hạ tầng vật chất cũ như hệ thống đường bộ, đường sắt, đường ống, hệ thống phân phối ga và điện vẫn quan trọng, song chúng cần phải được bổ sung thêm các cơ sở hạ tầng mới như mạng điện thoại cố định, điện thoại không dây, vệ tinh, Internet không dây,… Nếu không có cơ sở hạ tầng viễn thông tiên tiến cũng như hệ thống giáo dục và hệ thống kỹ thuật số hiện đại cho các dịch vụ của Chính phủ thì nước đó sẽ không có lợi thế cạnh tranh so với các nước khác. Trên đây là một số lý do chính khiến cho Chính phủ các nước, nhất là các nước phát triển, phải nhanh chóng gấp rút tạo tiền đề, cơ sở vật chất kỹ thuật để chuyển đổi sang Chính phủ điện tử và đặt ra mục tiêu cho chiến lược Chính phủ điện tử của mình. Bảng dưới đây sẽ cung cấp một số thông tin về mục tiêu mà Chính phủ các nước G7 và một số nước khác đặt ra trong chiến lược phát triển Chính phủ điện tử. Tên nước Mục tiêu Úc Đến năm 2001 tất cả các dịch vụ Chính phủ sẽ được thực hiện trên mạng. Canada Đến năm 2004 tất cả các dịch vụ Chính phủ quan trọng sẽ được cung cấp trực tuyến. Phần lan Tới năm 2000, đa số các biểu mẫu sẽ được điện hoá. Pháp Năm 2000, tất cả chính quyền các cấp phải phổ cập truy cập dịch vụ và thông tin Chính phủ qua mạng. Đức Chỉ đặt ra một số mục tiêu cấp bộ. Ailen Cung cấp hầu hết các loại dịch vụ Chính phủ qua trên mạng vào cuối năm 2001. Ý Chỉ đặt ra một số mục tiêu cấp bộ. Nhật bản Tất cả các thủ tục như đăng ký, xin cấp giấy phép và các thủ tục khác sẽ được cung cấp trên mạng Internet vào năm tài chính 2003. Singapore Thực hiện các dịch vụ thanh toán điện tử vào năm 2001. UK 100% dịch vụ công sẽ được thực hiện bằng điện vào năm 2005. Mỹ Phổ cập truy cập dịch vụ và thông tin Chính phủ qua mạng vào năm 2003. Nguồn: Central Internet Unit (2000) 1.2. Các nhân tố thúc đẩy sự ra đời Chính phủ điện tử 1.2.1. Toàn cầu hoá Trong điều kiện toàn cầu hoá diễn ra ngày càng mạnh mẽ như hiện nay, các quốc gia trở nên gắn bó với nhau về kinh tế, văn hoá và xã hội. Sự phụ thuộc lẫn nhau về văn hoá và xã hội giữa các nước khác nhau là cơ sở cho việc hình thành nền văn hoá toàn cầu. Để tham gia vào sự hình thành nền văn hoá toàn cầu này cũng như việc được thừa nhận những nét đặc sắc trong văn hoá của mình, các quốc gia phải tìm cách giúp đỡ các công dân và các tổ chức kinh doanh của mình cạnh tranh trong môi trường toàn cầu hoá. Do đó việc cung cấp thông tin cho các công ty trong nước, giúp đỡ các công ty trong nước cũng như các công ty nước ngoài hoạt động cần phải có sự tham gia của Chính phủ. Nếu vẫn cứ tồn tại dưới hình thức Chính phủ cũ trước kia, tức là không có sự trợ giúp của công nghệ hiện đại trong việc cung cấp thông tin và dịch vụ, thì Chính phủ sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi thực hiện vai trò của mình. Chính phủ điện tử ra đời có thể dễ dàng đáp ứng yêu cầu của toàn cầu hoá bằng cách áp dụng công nghệ hiện đại. Hơn nữa, trong điều kiện toàn cầu hoá, quốc tế hoá, các quốc gia cần trao đổi thông tin một cách hiệu quả để cùng giải quyết những vấn đề mang tính toàn cầu như bảo vệ môi trường, chia sẻ các nguồn tài nguyên chiến lược và những vấn đề khác không thể được giải quyết bởi từng quốc gia riêng lẻ. Chính phủ điện tử hoàn toàn đáp ứng được các yêu cầu này bởi Chính phủ điện tử giúp rút ngắn không gian và tiết kiệm thời gian, tạo ra khả năng kiểm soát các "rủi ro toàn cầu" một cách hiệu quả. 1.2.2. Thị trường hoá Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của thương mại điện tử, các công ty đang tự tổ chức lại để trở thành các doanh nghiệp điện tử nhằm thu lợi nhuận tối đa. Thông qua việc áp dụng công nghệ thông tin và viễn thông, các công ty có thể giảm chi phí giá thành và tăng chất lượng dịch vụ từ đó thu hút được nhiều khách hàng hơn. Như vậy nếu Chính phủ điện tử được nhìn nhận như một nhà cung cấp dịch vụ, mà vẫn sử dụng các phương thức truyền thống thì sẽ gặp phải sự cạnh tranh gay gắt từ khu vực tư nhân. Chính phủ cần phải áp dụng những tiến bộ khoa học kỹ thuật để cải tiến chất lượng dịch vụ, xây dựng một cơ sở hạ tầng quản lý và bảo mật thông tin thì mới có khả năng đáp ứng được yêu cầu của công dân và doanh nghiệp. Qua một số phân tích ở trên chúng ta đã hiểu phần nào lý do khiến Chính phủ điện tử lại là mơ ước chung của Chính phủ các nước trên thế giới. Tuy nhiên, để trả lời câu hỏi Chính phủ điện tử là gì thì mỗi nước lại có một khái niệm khác nhau. Vì vậy, đến nay vẫn chưa có một khái niệm thống nhất về Chính phủ điện tử. 2. Khái niệm về Chính phủ điện tử 2.1. Khái niệm Với một thuật ngữ mới như Chính phủ điện tử thì khó có thể đưa ra một khái niệm đúng đắn, rõ ràng và thoả mãn tất cả các đối tượng. Thật sai lầm khi cho rằng Chính phủ điện tử là mạng máy tính trang bị cho các cơ quan Chính phủ và việc sử dụng mạng này của các quan chức Chính phủ từ cấp cao nhất đến các chuyên viên để thực hiện các công việc của mình. Chính phủ điện tử tuyệt nhiên không phải là điện toán hoá các cơ quan Chính phủ. Điện toán hoá các cơ quan Chính phủ là việc cần làm trong tiến trình tạo dựng từng bước Chính phủ điện tử, nhưng đó chỉ là biện pháp chứ không phải là mục tiêu. Thoạt nhìn, Chính phủ điện tử giống như việc áp dụng các phương pháp kinh doanh điện tử vào các dịch vụ do Chính phủ cung cấp như thông tin Chính phủ, cấp giấy phép lái xe… Tuy nhiên nhiều tác giả và nhiều nhà kinh tế học lại đưa ra các khái niệm khác nhau về Chính phủ điện tử. Theo Sally Katzen, phó giám đốc điều hành cơ quan quản lý ngân sách thời tổng thống B.Clinton thì "Chính phủ điện tử là việc mọi công dân và doanh nghiệp có thể truy cập thông tin và sử dụng dịch vụ Chính phủ 24/24 giờ, 7 ngày mỗi tuần. Chính phủ điện tử chủ yếu dựa vào các cơ quan Chính phủ sử dụng Internet và các công nghệ tiên tiến khác để nhận và cung cấp thông tin, dịch vụ dễ dàng hơn, nhanh hơn, hiệu quả hơn và rẻ hơn." (Nguồn: Cách hiểu này đã được nêu trong nhiều chiến lược về Chính phủ điện tử của các quốc gia, có thể coi đây là khái niệm đúng nhất về Chính phủ điện tử. Dưới thời tổng thống G.Bush hiện nay còn xuất hiện một khái niệm rộng hơn về Chính phủ điện tử như sau: "Bằng việc cung cấp cho các cá nhân khả năng tham gia vào bộ máy hành chính liên bang để truy cập thông tin và giao dịch kinh doanh, Internet hứa hẹn trao bớt quyền lực từ tay các nhà lãnh đạo trong chính quyền Washington vào tay các công dân Mỹ. Tổng thống G.Bush tin tưởng rằng việc người dân có thể truy cập thông tin và dịch vụ Chính phủ dễ dàng hơn chính là bước đầu tiên của Chính phủ điện tử." (Nguồn: Tổng thống G.Bush tin rằng Chính phủ điện tử sẽ đem lại khả năng tái thiết bộ máy hành chính quan liêu của liên bang. Đến đây lại có một câu hỏi là Chính phủ điện tử chỉ tập trung vào việc tiếp nhận, phổ biến thông tin và cung cấp dịch vụ hay còn bao gồm cả các phương thức điều hành xã hội truyền thống? Chúng ta thấy rằng hiện nay còn xuất hiện khái niệm "Nền dân chủ điện tử (e-democracy)". Do vậy, để trả lời được câu hỏi trên nhất thiết phải phân biệt sự khác nhau giữa Chính phủ điện tử và Nền dân chủ điện tử. Rogers W'O Okot-Uma, tác giả cuốn "E- democracy: Re-inventing Good Governance" cho rằng "Theo nghĩa rộng, Nền dân chủ điện tử đề cập đến tất cả các phương tiện thông tin bằng điện tử giữa Chính phủ và công dân. Theo nghĩa hẹp, Nền dân chủ điện tử bao gồm tất cả phương tiện thông tin điện tử giữa cử tri và những người đắc cử." ( Dân chủ điện tử là việc các cá nhân và các tổ chức có thể tham gia trực tiếp vào quá trình ra quyết định của Chính phủ thông qua các phương tiện điện tử như mạng World Wide Web. Do đó chúng ta có thể kết luận rằng mặc dù Chính phủ điện tử và Dân chủ điện tử không loại trừ lẫn nhau, nhưng lại khác nhau ở chỗ Nền dân chủ điện tử tập trung vào cơ cấu và quá trình thực hiện các chức năng của Chính phủ, đặc biệt là việc điều hành xã hội. Trong khi đó, Chính phủ điện tử là Chính phủ tập trung vào việc cung cấp dịch vụ điện tử tới công chúng. Nói một cách ngắn gọn hơn Chính phủ điện tử đề cập đến việc cung cấp dịch vụ, còn Nền dân chủ điện tử đề cập đến việc sự tham gia của dân chúng vào Chính phủ. 2.2. Ba giai đoạn của Chính phủ điện tử Chính phủ các nước có các chiến lược khác nhau để xây dựng Chính phủ điện tử. Một số nước lập ra các kế hoạch dài hạn trên mọi lĩnh vực, một số lại chỉ tập trung vào một vài lĩnh vực khi bắt đầu dự án xây dựng Chính phủ điện tử. Tuy nhiên, hầu hết các nước đang xây dựng thành công Chính phủ điện tử chọn cách chia dự án phát triển Chính phủ điện tử làm 3 giai đoạn nhỏ. Các giai đoạn này không phụ thuộc lẫn nhau, tức là không cần phải giai đoạn này hoàn thành thì giai đoạn kia mới bắt đầu. 2.2.1. Giai đoạn sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông để mở rộng truy cập thông tin của Chính phủ Chính phủ tạo ra khối lượng lớn thông tin, hầu hết các thông tin này đều có ích đối với cá nhân và doanh nghiệp. Internet và các công nghệ thông tin hiện đại khác có thể chuyển các thông tin này nhanh chóng hơn và trực tiếp tới công dân. Việc thực hiện giai đoạn này rất đa dạng về nội dung, do đó mỗi nước cần dựa vào khả năng của mình để có cách triển khai phù hợp. Chẳng hạn đối với các nước đang phát triển, cơ sở tầng phục vụ cho việc phát triển và triển khai Chính phủ điện tử còn kém so với các nước công nghiệp, nên bắt đầu giai đoạn này bằng việc phổ biến thông tin Chính phủ trên mạng, tập trung phổ biến các điều lệ, quy tắc, các văn bản pháp luật… Đối với các quốc gia có nhiều hiện tượng quan chức Chính phủ làm việc kém hiệu quả và tham nhũng thì việc tạo cho công dân và doanh nghiệp khả năng truy cập thông tin Chính phủ mà không cần phải tới các cơ quan hành chính, đứng xếp hàng hàng giờ và thậm chí đưa hối lộ là một cuộc cách mạng thực sự. Khi triển khai thực hiện giai đoạn này cần chú ý những điểm sau: - Bắt đầu bằng việc phổ biến thông tin trực tuyến; - Truyền đạt thông tin có ích tới công chúng hàng ngày, chú ý tới ngôn ngữ địa phương; - Luôn cập nhật thông tin trên trang Web của Chính phủ; - Tập trung vào những nội dung phục vụ phát triển kinh tế, chống tham nhũng, thu hút đầu tư nước ngoài… 2.2.2. Giai đoạn tăng cường sự tham gia của người dân vào Chính phủ Như đã nói ở trên, các trang Web phổ biến thông tin Chính phủ chỉ là bước đầu của Chính phủ điện tử. Chính phủ điện tử phải có khả năng lôi kéo, thu hút dân chúng tham gia vào các hoạt động của Chính phủ, kết hợp với các nhà hoạch định chính sách ở mọi cấp của Chính phủ. Củng cố, tăng cường sự tham gia này sẽ tạo dựng được lòng tin từ phía công chúng vào Chính phủ. Những điểm cần lưu ý khi xây dựng trang Web tương tác giữa Chính phủ và dân chúng: - Phải cho công chúng thấy kết quả của việc họ tham gia vào các hoạt động của Chính phủ; hiểu; - Phân tích, lý giải những vấn đề chính sách phức tạp một cách dễ - Thuyết phục công chúng tham gia; - Sử dụng các phương tiện truyền thông để phổ biến kiến thức về Internet. Khi thực hiện giai đoạn này, các Chính phủ cần chú ý lập ra những diễn đàn giữa Chính phủ và công dân. Những diễn đàn như vậy sẽ tạo ra những cuộc thảo luận trực tuyến trong đó mọi người có thể tham gia trao đổi ý kiến về những vấn đề chính sách của chính phủ. 2.2.3. Giai đoạn cung cấp rộng rãi các dịch vụ của Chính phủ qua mạng Chính phủ có thể bắt đầu bằng việc cho phép người dân thực hiện giao dịch qua mạng. Chính phủ chịu áp lực từ phía khu vực tư nhân khi khu vực này bắt đầu thực hiện giao dịch kinh doanh trên mạng. Thêm vào đó, khả năng sử dụng giao dịch qua mạng làm giảm chi phí, tăng năng suất cũng là một nguyên nhân quan trọng khiến Chính phủ phải suy tính. Trước kia, các dịch vụ của Chính phủ như đăng ký hộ tịch hay ra hạn thẻ căn cước phải mất một thời gian dài chờ đợi hàng giờ để gặp được các quan chức chính phủ có trách nhiệm hay thậm chí là phải đút lót. Bằng cách cung cấp dịch vụ trực tuyến, chỉ cần ngồi ở nhà hay tại nơi làm việc, trạm điện thoại và bật máy vi tính lên để nối vào mạng của Chính phủ, bạn sẽ nhận được nhiều dịch vụ do các cơ quan nhà nước có trách nhiệm cung cấp. Có lẽ động lực lớn nhất trong việc cung cấp các dịch vụ trên mạng là để rút gọn, tinh giảm bộ máy nhà nước và quá trình thực hiện các thủ tục hành chính từ đó tiết kiệm tiền bạc và nâng cao hiệu quả trong dài hạn. Thêm vào đó, bằng cách tự động hoá các thủ tục hành chính đặc biệt là trong lĩnh vực thu thuế, Chính phủ hi vọng sẽ hạn chế được hiện tượng tham nhũng, tăng thu cho ngân sách nhà nước trong khi vẫn duy trì được lòng tin của dân chúng vào Chính phủ. Một ví dụ điển hình là hệ thống thu lệ phí xa lộ ở tỉnh Gujarat của Ấn độ. Đây là tỉnh có hiện tượng đa số tiền lệ phí cầu đường đều chui vào túi của nhân viên thu phí. Từ khi lập ra hệ thống tính và thu phí tự động, hiện tượng thất thu phí đã giảm hẳn. Sau một năm áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, sự trì trệ và hiện tượng tham nhũng đã giảm đáng kể trong khi doanh thu từ phí cầu đường tăng 3 lần. 3. Sự khác nhau giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ truyền thống Mặc dù có rất nhiều khái niệm khác nhau về Chính phủ điện tử nhưng chúng ta có thể rút ra một số đặc điểm chung về Chính phủ điện tử như sau: Chính phủ điện tử là Chính phủ sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông để tự động hoá và triển khai các thủ tục hành chính. Chính phủ điện tử cho phép các công dân có thể truy cập các thủ tục hành chính thông._. qua các phương tiện điện tử như Internet, điện thoại di động, truyền hình tương tác. Chính phủ điện tử là Chính phủ làm việc với người dân 24/24 giờ, 7 ngày mỗi tuần và 365 ngày mỗi năm, người dân có thể thụ hưởng các dịch vụ công dù họ ở bất cứ đâu. Từ những đặc điểm trên ta thấy rằng Chính phủ điện tử có nhiều điểm khác so với Chính phủ truyền thống. Với Chính phủ truyền thống, quá trình quản lý hành chính trong nội bộ các cơ quan nhà nước diễn ra thủ công, tốn nhiều công sức, thời gian và tiền bạc. Dân chúng không thể liên lạc với Chính phủ ngoài giờ hành chính, không thể ở bất cứ nơi nào ngoài trụ sở của các cơ quan nhà nước. Người dân không thể đăng ký lấy giấy phép kinh doanh, làm khai sinh cho con mình hay đóng thuế trước bạ 24/24 giờ, 7/7 ngày và ở bất cứ đâu. Chính phủ điện tử có thể khắc phục được những hạn chế này của Chính phủ truyền thống. Ngoài ra, sự khác biệt chủ yếu giữa Chính phủ điện tử và Chính phủ truyền thống là sự khác biệt về tốc độ xử lý giữa các thủ tục hành chính được tự động hóa so với các thủ tục hành chính được xử lý thủ công. Việc tự động hoá thủ tục hành chính của Chính phủ điện tử cho phép xử lý các thủ tục nhanh hơn, gọn hơn, đơn giản hơn rất nhiều. Không những thế, thông tin được cung cấp cho người dân còn đầy đủ, chính xác và dễ dàng hơn, người dân cũng đỡ mất nhiều chi phí để thu thập các thông tin này. Nói tóm lại Chính phủ điện tử là một Chính phủ hiện đại hơn nhiều so với Chính phủ truyền thống. Chính phủ điện tử là mục tiêu mà các cơ quan Chính phủ các cấp sẽ tiến dần từng bước tới và có lẽ không bao giờ có thể nói rằng Chính phủ điện tử đã được xây dựng xong. II. CÁC HÌNH THỨC CUNG CẤP DỊCH VỤ CHÍNH TRONG CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Đối tượng sử dụng dịch vụ Chính phủ bao gồm cơ quan Chính phủ các cấp, doanh nghiệp, công dân và các nhân viên Chính phủ. Bốn đối tượng chính trên tương ứng với 4 hình thức cung cấp dịch vụ chính: 1. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Chính phủ - G2G (Government to Government) Nhiều dịch vụ công dân và các bản báo cáo quan trọng rất cần sự liên kết giữa chính quyền các cấp. Mục đích của hính thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Chính phủ (G2G) này là để tạo lập và củng cố mối quan hệ giữa chính quyền các cấp với nhau. Những mối quan hệ mới này sẽ thúc đẩy sự liên kết giữa các cơ quan trong nội bộ Chính phủ nhằm mục đích cung cấp các dịch vụ phục vụ dân chúng ngày càng tốt hơn. 2. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Doanh nghiệp - G2B (Government to Business) Điều quan trọng cần phải ghi nhớ là G2B là một yếu tố quan trọng góp phần tăng tính cạnh tranh của thị trường trong nước và tạo mối quan hệ lâu dài, đôi bên cùng có lợi giữa chính phủ và doanh nghiệp. Mục đích của hình thức G2B này là nhằm giảm bớt gánh nặng cho các doanh nghiệp trong việc truy cập thông tin Chính phủ như các quy tắc luật điều chỉnh việc kinh doanh của doanh nghiệp. Trang Web BusinessLaw.gov của Chính phủ Mỹ là một ví dụ điển hình về hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến doanh nghiệp. Qua trang Web này các doanh nghiệp có thể truy cập các thông tin, các nghị định và các văn bản pháp luật khác. Cũng trên trang Web này các doanh nghiệp có thể sử dụng ngay các dụng cụ chuyên ngành để tìm hiểu xem các văn bản luật yêu cầu gì đối với công việc kinh doanh của mình. 3. Hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ đến Công dân - G2C (Government to Citizen) Mục đích của hình thức cung cấp dịch vụ từ Chính phủ tới Công dân này là để cung cấp thông tin và dịch vụ trực tuyến tới mọi người dân. Dân chúng có thể thu thập các thông tin liên quan tới cuộc sống hàng ngày của mình và sử dụng các dịch vụ của Chính phủ một cách nhanh chóng và tiết kiệm thông qua việc kết nối vào mạng của Chính phủ. Ở hầu hết các nước, hình thức cung cấp dịch vụ này của Chính phủ đang trong quá trình triển khai và cũng đã đạt một số kết quả nhất định. III. LỢI ÍCH CỦA CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ 1. Lợi ích về dịch vụ của Chính phủ Trong kỷ nguyên Chính phủ điện tử, mọi công dân có thể được hưởng các dịch vụ của Chính phủ mọi lúc, mọi nơi, với chi phí thấp hơn và được phục vụ nhiệt tình hơn. Chính phủ điện tử cũng ảnh hưởng rất lớn lên giới doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ. Các công ty giờ đây có thể hoàn thành các yêu cầu của Chính phủ trên mạng, tìm kiếm các chương trình hỗ trợ doanh nghiệp, thực hiện các giao dịch hoặc nộp thuế ngay trên mạng. Chính phủ điện tử có thể khiến cho các cá nhân truy cập thông tin và dịch vụ liên quan đến mình qua một cửa duy nhất. Các thông tin được cung cấp của Chính phủ điện tử luôn đảm bảo đáp ứng mọi nhu cầu của từng cá nhân riêng lẻ. Nói chung, Chính phủ điện tử mang lại rất nhiều lợi ích cho cá nhân cũng như các doanh nghiệp, cụ thể bao gồm các lợi ích sau: Cung cấp đầy đủ thông tin cho mọi đối tượng; Đơn giản hoá các thủ tục hành chính; Đảm bảo việc xử lý các thủ tục hành chính một các công khai, công bằng, tin cậy, ổn định và kịp thời; Tiết kiệm thời gian và tiền bạc; Tăng tính thuận tiện khi sử dụng các dịch vụ của Chính phủ; … 2. Lợi ích trong quản lý hành chính nhà nước Chính phủ điện tử góp phần làm trong sáng bộ máy nhà nước, hạn chế và loại trừ hiện tượng tham nhũng. Bảng dưới đây thể hiện các loại thông tin có thể đạt được tính minh bạch thông qua Chính phủ điện tử, làm nản lòng các quan chức quan liêu tham nhũng trong Chính phủ. Loại thông tin Lợi ích Ví dụ - Các quy tắc và thủ tục về dịch vụ - Tên các quan chức Chính phủ - Thông tin về công dân - Tiêu chuẩn hoá các thủ tục cung cấp dịch vụ - Hạn chế sự trì hoãn - Giảm tính chuyên quyền của các viên chức chính phủ. Công khai ngân sách ở Argentina và Karnataka, Ấn độ Kết quả của các quyết định của Chính phủ. Giảm tình trạng tham nhũng E-procurement ở Chile, Philippines. Dữ liệu về nhà đất, tiền thanh toán các khoản thuế… - Công khai tình trạng ăn hối lộ và tham nhũng - Trao nhiều quyền lực hơn cho công dân tham gia vào các hoạt động của chính phủ Bhoomi, Các báo cáo nhà đất trực tuyến ở Karnataka, Ấn độ Các quyết định của chính phủ như cấp phép, cấp giấy thông hành cho hàng hoá… Theo dõi các hành động đút lót, hối lộ, mua chuộc Hải quan trực tuyến, OPEN ở Seoul, Hàn quốc OPEN: Online Procedures Enhancement for Civil Applications Nguồn: "Administrative Corruption: How Does E-Government Help?", Professor Subhash Bhatnagar, Indian Institute of Management, Ahmedabad, India. Ngoài ra, bộ máy nhà nước có thể được tinh giảm nhờ áp dụng công nghệ thông tin, giúp tiết kiệm ngân sách dành cho chi phí quản lý, tiết kiệm thời gian và nâng cao hiệu quả trong các hoạt động của các cơ quan Chính phủ. 3. Tạo mối quan hệ hợp tác giữa chính phủ với chính phủ, giữa chính phủ với doanh nghiệp và giữa chính phủ với công dân Tương tự như thương mại điện tử cho phép các nghiệp giao thương với nhau một cách có hiệu quả hơn (B2B) và tạo điều kiện cho khách hàng tiếp cận gần hơn với doanh nghiệp (B2C), Chính phủ điện tử cũng hướng tới việc tạo ra mối quan hệ tương hỗ Chính phủ - công dân (G2C), Chính phủ - doanh nghiệp (G2B), và quan hệ giữa chính các cơ quan công quyền (G2G) ngày càng thân thiện hơn, thuận lợi hơn và công khai hơn. Các mối quan hệ này có thể được duy trì thường xuyên, liên tục nhờ có các phương tiện thông tin liên lạc hiện đại, đỡ tốn thời gian. Trong dài hạn, các dịch vụ điện tử có thể giúp giảm chi phí cung cấp dịch vụ của Chính phủ. Người dân cũng ngày càng có xu hướng sử dụng nhiều dịch vụ điện tử của Chính phủ vì họ không cần phải đến, viết thư hoặc gọi điện thoại tới một cơ quan Chính phủ để yêu cầu thực hiện một dịch vụ cụ thể. Với ngày càng nhiều dịch vụ được cung cấp trực tuyến, Chính phủ điện tử sẽ là một cuộc cách mạng trong mối quan hệ giữa Chính phủ và công dân. CHƯƠNG II PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỘT SỐ NƯỚC VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VỚI VIỆT NAM I. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ TÌNH HÌNH VÀ TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ TRÊN THẾ GIỚI 1. Tình hình phát triển Chính phủ điện tử trên thế giới (Nguồn : Global E-government Full Report, 2003 - www.insidepolitics.org/egovt03int.html) Theo báo cáo về tình hình phát triển Chính phủ điện tử điện tử toàn cầu của Darrell M. West, trường Đại học Brown ở Providence, Rhode Island vào tháng 9 năm 2003, tình hình phát triển Chính phủ điện tử của các nước trên thế giới tiến bộ rất nhiều so với các năm trước. Đây là báo cáo được hầu hết các quốc gia sử dụng trong quá trình phát triển Chính phủ điện tử. Những dữ liệu phân tích được lấy từ 2166 trang Web của Chính phủ ở 198 quốc gia khác nhau cho thấy: - 16% Website của Chính phủ đã thực hiện cung cấp dịch vụ trên mạng, tăng 12% so với năm 2002. - 89% Website cung cấp các ấn phẩm và 73% Website cho phép kết nối với các cơ sở dữ liệu khác. - 75% Website của Chính phủ sử dụng tiếng Anh. - 51% Website đa ngôn ngữ, tức là sử dụng từ hai đến ba ngôn ngữ. Các quốc gia trên thế giới có tốc độ phát triển Chính phủ điện tử khác nhau phụ thuộc vào từng khu vực. Cao nhất vẫn là các nước Bắc Mỹ, sau đó đến Châu Á, Tây Âu, các quốc gia thuộc Thái Bình Dương, Trung Đông, Đông Âu, Nga và Trung Á, Nam Mỹ, Trung Mỹ và cuối cùng là Châu Phi. Bảng: Tỷ lệ các quốc gia thực hiện Chính phủ điện tử giữa các khu vực trên thế giới (Đơn vị %) Khu vực 2001 2002 2003 Bắc Mỹ 51.0 60.4 40.2 Tây Âu 34.1 47.6 33.1 Đông Âu -- 43.5 32.0 Châu Á 34.0 48.7 34.3 Trung đông 31.1 43.2 32.1 Nga và Trung Á 30.9 37.2 29.7 Nam Mỹ 30.7 42.0 29.5 Các quốc đảo Thái Bình Dương 30.6 39.5 32.1 Trung Mỹ 27.7 41.4 28.6 Châu Phi 23.5 36.8 27.6 Hầu hết các trang Web của Chính phủ được thiết kế để cung cấp đầy đủ thông tin phục vụ dân chúng như các ấn phẩm và các cơ sở dữ liệu khác. Đa số các trang Web không cung cấp phim ảnh và ca nhạc. Đây là đặc điểm chung của các Website của Chính phủ. Tuy nhiên vẫn có khoảng 8% Website cung cấp các dịch vụ nghe nhạc và xem phim. Về dịch vụ trên mạng, trong số các trang Web của Chính phủ được điều tra có 16% Website cung cấp dịch vụ trực tuyến, tăng 12% so với năm 2002. Trong đó, 9% chỉ cung cấp một dịch vụ, 3% cung cấp 2 dịch vụ, 4% cung cấp từ 3 dịch vụ trở lên, 84% không cung cấp dịch vụ nào. Hầu hết các dịch vụ được thực hiện trên trang Web của Chính phủ đều là các loại dịch vụ như gửi kiến nghị, đặt các ấn phẩm, tìm kiếm việc làm, đăng ký giấy thông hành và gia hạn giấy phép lái xe. Bắc Mỹ (bao gồm Mỹ, Canada và Mehicô) là khu vực có tỷ lệ dịch vụ thực hiện trực tuyến lớn nhất, tới 45%, tăng so với 41% năm 2002. Dưới đây là bảng xếp hạng các khu vực có tỷ lệ các Website của Chính phủ thực hiện dịch vụ trực tuyến lớn nhất: Khu vực 2001 2002 2003 Bắc Mỹ 28% 41% 45% Các quốc đảo Thái Bình Dương 19 14 17 Châu Á 12 26 26 Trung Đông 10 15 24 Tây Âu 9 10 17 Đông Âu -- 2 6 Trung Mỹ 4 4 9 Nam Mỹ 3 7 14 Nga và Trung Á 2 1 1 Châu Phi 2 2 5 Một trong những đặc điểm làm chậm tốc độ phát triển của các dịch vụ trực tuyến là không thể sử dụng được thẻ tín dụng và chữ ký số trong các giao dịch tài chính. Trong khi đó ở các trang Web tư việc này rất phổ biến. Tuy vậy, đã có 2% Website của Chính phủ chấp nhận sử dụng thẻ tín dụng và 0,1% cho phép dùng chữ ký số trong các giao dịch tài chính, ví dụ như trang Web của Chính phủ Singapore và Đan Mạch. Về thông tin cá nhân và tính an toàn bảo mật: đây là nỗi băn khoăn lo lắng của mọi công dân về Chính phủ điện tử. Chỉ khi đảm bảo được an toàn thông tin cá nhân thì mới có thể trấn an được dân chúng và khuyến khích mọi người sử dụng nhiều dịch vụ công trên mạng. Tuy vậy, chỉ có một số ít các trang Web của Chính phủ là chú ý tới điều này. Đa số đều nằm trong các lĩnh vực mà Chính phủ cho là quan trọng. Chính phủ điện tử sẽ không được triển khai một cách nhanh chóng trừ phi dân chúng cảm thấy an toàn khi sử dụng thông tin và dịch vụ trên mạng. nước Bảng: Tỷ lệ trang Web có độ an toàn thông tin cá nhân cao ở các Singapore Canada Mỹ Úc New Zealand Anh Nhật Bản Đài Loan 90% 65% 62% 39% 30% 21% 15% 12% Các nước được điều tra trong báo cáo này được đánh giá về chỉ số phát triển Chính phủ điện tử theo thang điểm từ 0 đến 100. Chỉ số này chủ yếu dựa trên khả năng sẵn có các thông tin, cơ sở dữ liệu và số lượng các dịch vụ trực tuyến. Sau đây là bảng xếp hạng một số nước về việc phát triển Chính phủ điện tử : Singapore 46.3 Mỹ 45.3 Canada 42.4 Úc 41.5 Đài Loan 41.3 Thổ Nhĩ Kỳ 38.3 Anh 37.7 Malaysia 36.7 Vatican 36.5 Austria 36.0 Thuỵ Điển 35.9 Trung Quốc 35.9 New Zealand 35.5 Phần Lan 35.5 Philippines 35.5 Đan Mạch 35.5 Hồng Kông 34.5 Đức 34.4 Nhật 34.2 Pháp 33.8 Cộng hoà Séc 33.8 Brunei 32.8 Thái land 32.4 Đông Timo 32.6 Campuchia 31.0 Vietnam 30.5 Myanma 28.0 Indonesia 24.0 Irăc 20.0 Lào 19.0 2. Dự báo triển vọng phát triển Chính phủ điện tử trong tương lai Xu hướng phát triển Chính phủ điện tử đang trở thành một tất yếu khách quan. Có rất nhiều lý do khiến các nước không thể bỏ qua cơ hội phát triển Chính phủ điện tử. Lý do quan trọng nhất chính là những lợi ích mà Chính phủ điện tử đem lại. Không thể phủ nhận một điều rằng Chính phủ điện tử đã góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước vốn cồng kềnh, quan liêu và trì trệ với một khối lượng công việc khổng lồ. Ứng dụng công nghệ thông tin viễn thông vào hoạt động của Chính phủ là chìa khoá của mọi thành công mà Chính phủ các nước công nghiệp phát triển đã đạt được. Đó chính là những bước khởi đầu trong chiến lược phát triển Chính phủ điện tử mà hầu hết các nước trên thế giới đang đeo đuổi. Hiện nay, Singapore, Mỹ, Canada và Australia là 4 nước đứng đầu trên thế giới về phát triển Chính phủ điện tử. Singapore là nước công nghiệp mới duy nhất được nằm trong tốp các nước dẫn đầu, còn lại hầu hết là các nước phát triển. Tình hình phát triển Chính phủ điện tử ở các nước đang phát triển kém khả quan hơn nhiều, họ còn một khoảng cách rất xa mới đuổi kịp các nước đi trước. Tuy nhiên, khi Chính phủ điện tử diễn ra mạnh mẽ như hiện nay, các nước đang và kém phát triển có thể rút kinh nghiệm từ các nước đi trước để rút ngắn thời gian triển khai Chính phủ điện tử. Như vậy, trong năm tới, năm 2004, tình hình phát triển Chính phủ điện tử trên thế giới sẽ có nhiều chuyển biến tích cực. Các nước đi tiên phong về Chính phủ điện tử đang tiếp tục hoàn thiện, còn các quốc gia kém phát triển hơn như Thái Lan, Campuchia,Việt Nam… đang gấp rút chuẩn bị cơ sở vật chất và vạch ra chiến lược phát triển Chính phủ điện tử. II. PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở MỸ 1. Sự ra đời Chính phủ điện tử ở Mỹ Bộ máy hành chính hiện tại của Mỹ là sản phẩm của các xung đột chính trị trong suốt hai thập kỷ qua. Cho đến nay hệ thống hành pháp của Liên bang Mỹ được đánh giá là khá tản mạn. Hệ thống này bao gồm tổng thống, các trợ lý, Bộ trưởng, 14 bộ và hàng loạt các cơ quan khác với khoảng ba triệu công chức. Với một bộ máy chính quyền khá cồng kềnh như vậy thì sự ra đời Chính phủ điện tử thực sự là một cuộc cách mạng. Người Mỹ đã sớm biết rằng khi công nghệ, khả năng sáng tạo và lãnh đạo hợp nhất thì sẽ tạo ra những kết quả mạnh mẽ. Điều gì sẽ xảy ra nếu Chính phủ nắm lấy công nghệ thông tin với trí sáng tạo và sự lãnh đạo táo bạo? Điều gì sẽ xảy ra nếu tất cả người Mỹ đều nhận thức được Chính phủ điện tử là cách để thay đổi thế giới một cách có ý nghĩa? Và điều gì sẽ xảy ra nếu căn bệnh thâm niên của Chính phủ là sự mất liên lạc giữa người dân và Chính phủ được nối lại? Khích lệ bởi những câu hỏi này, hàng trăm nhà lãnh đạo trong các ngành công nghiệp, Chính phủ, các nhà nghiên cứu và các tổ chức phi lợi nhuận đã bắt đầu hợp tác làm việc vào tháng 11/1999 để phát triển Chính phủ điện tử. Công việc của họ được phát động, hướng dẫn và điều phối bởi tổ chức phi lợi nhuận và phi chính phủ CEG (Council for Excellence in Government). Theo dự án này, hai chuyên gia tư vấn Peter Hart và Robert Teeter thực hiện hai cuộc điều tra vào tháng 8/2000 và tháng 1/2001. Cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 1/2001 của P.Hart và R.Teeter cho thấy trong 3 người Mỹ thì có 1 người nói Chính phủ điện tử nên được tổng thống mới ưu tiên. Hai phần ba số người được trưng cầu ý kiến ủng hộ công việc của cơ quan công nghệ Nhà Trắng nhằm đổi mới Chính phủ và cải thiện dịch vụ thông qua mạng Internet. Hai phần ba cho rằng sự tồn tại mối liên hệ giữa nhà nước và khu vực tư nhân bao giờ cũng tốt hơn là để hai khu vực này hoạt động độc lập với nhau. Cũng 2/3 số người được hỏi ủng hộ việc sử dụng quỹ Chính phủ để giúp các bang hiện đại hoá hệ thống bầu cử, ví dụ như lắp đặt các máy bỏ phiếu điện tử tương tự như các máy rút tiền tự động đang được sử dụng rộng rãi ở các ngân hàng. (Nguồn: Năm 2001, tổng thống Bush đã bắt đầu một vài nỗ lực cải cách Chính phủ nhằm làm cho Chính phủ hoạt động hiệu quả hơn và lấy dân làm trọng tâm. Một trong những nỗ lực này là tạo lập nên một Chính phủ điện tử ở Mỹ. Vì vậy vào ngày 18/7/2001, giám đốc cơ quan Quản lý và Ngân sách (OMB: Office of Management and Budget), ông Mitchell E.Daneils đã thành lập nhóm thực hiện Chính phủ điện tử vạch kế hoạch hành động để thực hiện những bước khởi đầu cho Chính phủ điện tử. 2. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Mỹ 2.1. Mục tiêu trong chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Chính phủ Mỹ Phát triển Chính phủ điện tử là một thành phần quan trọng trong chương trình quản lý của tổng thống G.Bush. Bắt đầu vào năm 2001, chương trình này của Chính phủ Mỹ nhằm mục đích ứng dụng công nghệ thông tin để tiết kiệm hàng triệu đô la lãng phí trong chi tiêu của Chính phủ, giảm gánh nặng lên công dân và doanh nghiệp khi phải làm việc với Chính phủ, rút ngắn thời gian trả lời những câu hỏi của công dân từ hàng tuần xuống còn vài phút. Mục đích quan trọng của chiến lược này là phải làm sao cho người dân có thể truy cập thông tin và sử dụng dịch vụ Chính phủ chỉ bằng ba lần nhấn chuột khi sử dụng Internet. Sau đây là một số mục tiêu trong chiến lược phát triển Chính phủ điện tử: n Mục tiêu chung: Các cơ quan Chính phủ tập trung vào việc hiện đại hoá thông qua ứng dụng công nghệ thông tin. Các hệ thống công nghệ thông tin chính phải được công chúng thừa nhận là an toàn tuyệt đối. Chính phủ điện tử bước đầu phải đạt được những lợi ích thiết thực như tiết kiệm chi phí, rút ngắn thời gian mà dân chúng phải chờ đợi để có được sự hồi âm từ phía Chính phủ, giảm gánh nặng cho các doanh nghiệp, cải thiện dịch vụ Chính phủ… Đề ra những giải pháp giảm thiểu chi phí đầu tư cho công nghệ thông tin không cần thiết trong sáu lĩnh vực kinh doanh của Chính phủ vào năm tài chính 2004 (được nêu trong phần sau của chương này). o Mục tiêu cụ thể: G2G (Chính phủ - Chính phủ): Mục tiêu chủ yếu của loại hình quan hệ này là làm sao cho chính quyền các cấp làm việc với nhau dễ dàng hơn để phục vụ người dân ngày càng tốt hơn. Để đạt được điều này phải có biện pháp làm cho chính quyền các bang và chính quyền địa phương có thể dễ dàng nhận được thông tin và đáp ứng yêu cầu của nhau. Cải tiến cách truyền thông tin giữa các cấp chính quyền sẽ mang lại lợi ích rất lớn cho Chính phủ. G2B (Chính phủ - Doanh nghiệp): Tăng khả năng công dân và doanh nghiệp có thể tìm, xem và bàn luận về các quy tắc và các văn bản pháp luật; Giảm gánh nặng cho doanh nghiệp bằng cách cho phép các doanh nghiệp có thể trình văn bản thuế và nộp thuế qua mạng; Rút ngắn thời gian điền vào các mẫu đơn xuất khẩu; và Rút ngắn thời gian mà các doanh nghiệp phải đệ trình và tuân thủ các quy tắc pháp luật. G2C (Chính phủ - Công dân): Rút ngắn thời gian truy cập thông tin về các khoản vay; Tăng số lượng công dân trình văn bản thuế và nộp thuế qua mạng; Rút ngắn thời gian cho người dân khi phải tìm kiếm các thông tin giải trí. 2.2. Chính sách Chính phủ Mỹ sử dụng để đạt mục tiêu phát triển Chính phủ điện tử Vào năm 2003 và 2004, Chính phủ điện tử sẽ cung cấp dịch vụ ngày càng tốt hơn tới người dân với chi phí thấp hơn. Để thực hiện được mục tiêu trên, cơ quan Chính phủ điện tử và công nghệ thông tin sẽ thực hiện những chính sách sau: Đơn giản hóa quá trình hoạt động của Chính phủ nhằm cải thiện chất lượng dịch vụ. Sử dụng ngân sách hàng năm để hỗ trợ cho việc thực hiện dự án Chính phủ điện tử. Đẩy nhanh tình hình thực hiện dự án thông qua phát triển, tuyển dụng và giữ chân lực lượng cán bộ công nghệ thông tin có trình độ. Tiếp tục hiện đại hoá quản lý thông qua ứng dụng công nghệ thông tin trong các cơ quan Chính phủ, bao gồm quản lý chi phí, quản lý các báo cáo tài chính, quản lý sổ sách; cung cấp thông tin và dữ liệu liên quan tới tình hình đất nước; quản lý nguồn nhân lực;… Liên kết lãnh đạo các cơ quan Chính phủ để hỗ trợ cho việc thực hiện dự án Chính phủ điện tử. 3. Thực trạng Chính phủ điện tử ở Mỹ Phần lớn người Mỹ hiện nay đang sử dụng Internet, con số này chiếm 63% trong đó có 31% số người sử dụng nó vì công việc. Một nửa trong nhóm này (35%) là những người sử dụng một cách thường xuyên. Công chúng có một quan điểm rất tích cực về Internet, nhưng vẫn hoài nghi về tính an toàn của nó. 74% số người sử dụng Internet cho rằng Internet có ảnh hưởng tích cực đối với cuộc sống của họ. Đây là một yếu tố quan trọng khiến cho Chính phủ điện tử không còn chỉ là lý thuyết nữa mà nó đang và sẽ trở thành hiện thực. Những số liệu sau đây sẽ là những bằng chứng rõ ràng nhất cho sự ra đời và tồn tại một Chính phủ điện tử ở Mỹ. Hầu như mọi quan chức Chính phủ liên bang, các quan chức của các bang và các quan chức ở địa phương cho rằng cơ quan của họ đều có một trang Web riêng và đang hoạt động rất tốt. Các Website này đều đăng thông tin, một vài trang Web còn cho phép công chúng thực hiện các giao dịch trên mạng. Một số các Website còn cho phép người truy cập đưa ra những lời bình luận về các dịch vụ hoặc về các hoạt động của Chính phủ. C¸c dÞch vô ®−îc cung cÊp trªn Website cña chÝnh phñ Down load ph Çn mÒm M¸y mã c 37%  58% B×nh lu Ën vÒ ho¹t ®éng cñ a Ch Ýnh ph ñ  64% DÞch vô Th«ng tin 66%  72% Tμi liÖu  83% Nguồn: Hiện nay Chính phủ đang đầu tư cho Chính phủ điện tử và các quan chức tin tưởng việc đầu tư đang có kết quả tốt. Chính phủ điện tử trợ giúp các cơ quan Chính phủ trong các công việc hành chính nội bộ, giúp tiếp cận nhiều hơn với công chúng và phối hợp tốt hơn với các cơ quan các cấp khác của Chính phủ. Công chúng trên mạng đang sử dụng và đánh giá rất cao các trang Web của Chính phủ. Sáu mươi sáu phần trăm người sử dụng Internet ở Mỹ đã ghé thăm ít nhất một trong số rất nhiều Website của chính quyền Liên Bang, chính quyền các bang và chính quyền địa phương. Trong số đó nhiều nhất là những người sử dụng Internet thường xuyên và những người có liên quan đến Chính phủ. Bảng: Tỷ lệ sử dụng Website của Chính phủ Website Người sử dụng Internet Lòng tin vào chính phủ Tất cả những người sử dụng Internet Người sử dụng Internet thường xuyên Người sử dụng Internet không thường xuyên Cao Trung bình Thấp Website của Chính phủ Liên Bang 54% 66% 38% 56% 53% 51% Website của Chính phủ các Bang 45% 58% 29% 44% 48% 41% Website địa phương 36% 45% 26% 42% 37% 30% (Nguồn: Các doanh nghiệp và tổ chức phi lợi nhuận cũng tiếp cận với Chính phủ điện tử. Đa số những người đứng đầu các tổ chức này nói rằng họ có sử dụng các trang Web của Chính phủ và đánh giá các trang Web này rất tốt. Ba phần tư các doanh nghiệp giao dịch với chính quyền Liên Bang ở mức độ không thường xuyên nói rằng khả năng tìm kiếm thông tin và điều khiển các giao dịch qua Internet đã làm cho mối quan hệ giữa họ với các cơ quan Chính phủ không còn nặng nề như trước nữa. Họ còn cho rằng khả năng tìm kiếm thông tin Chính phủ trên Internet làm cho họ dễ dàng tuân thủ các quy định của pháp luật. 3.1. Thái độ của người dân Mỹ về Chính phủ điện tử Năm 2001, Hart Teeter đã thay mặt hội đồng các đại biểu quốc hội tổ chức nhiều cuộc điều tra về thái độ của công chúng, các quan chức Chính phủ và các tổ chức đối với Chính phủ điện tử. Cuộc điều tra đã rút ra ba kết luận sau: * Người dân Mỹ tin tưởng rằng Chính phủ điện tử đồng nghĩa với một Chính phủ hiệu quả hơn. Cả ba đối tượng của cuộc điều tra đều nhận thấy tiềm năng to lớn của Chính phủ điện tử trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của Chính phủ. Năm mươi sáu phần trăm công chúng dự đoán rằng trong vòng 5 đến 10 năm tới Chính phủ điện tử sẽ có những ảnh hưởng tích cực nhiều hơn là tiêu cực. Chín mươi hai phần trăm quan chức Chính phủ và 76% tổ chức cho rằng Chính phủ điện tử đồng nghĩa với một Chính phủ hiệu quả hơn. Ban đầu chỉ có 58% số người Mĩ có niềm tin thấp đối với Chính phủ điện tử. Tuy nhiên sau khi các dịch vụ của Chính phủ điện tử được thử nghiệm thì sự ủng hộ của họ đối với Chính phủ điện tử đã tăng 13% lên thành 71%. Tuy còn quá sớm để dự đoán khả năng thay đổi niềm tin của công chúng vào Chính phủ điện tử, nhưng kết quả của cuộc điều tra cho thấy Chính phủ điện tử sẽ có ảnh hưởng tích cực tới mọi mặt của đời sống. * Công chúng Mỹ mong muốn tiến hành Chính phủ điện tử một cách thận trọng nhằm đảm bảo sự an toàn và bí mật thông tin cá nhân. Các đối tượng tham gia trong cuộc điều tra còn thể hiện hai quan điểm khác nhau về Chính phủ điện tử: - Quan điểm 1: Nên tiến hành dần dần việc kết nối Internet giữa Chính phủ và công chúng bởi vì còn rất nhiều người không truy cập được vào Internet và còn nhiều vấn đề quan trọng như an toàn và bí mật thông tin cá nhân vẫn chưa được giải quyết. - Quan điểm 2: Nên tiến hành nhanh chóng việc mở rộng sử dụng Internet trong việc giao tiếp giữa Chính phủ và công chúng bởi vì Chính phủ điện tử tạo ra nhiều cơ hội cải thiện dịch vụ, khả năng liên lạc và hiệu quả của Chính phủ. 65% người dân Mỹ ủng hộ quan điểm 1 tức là mong muốn tiến hành một cách chậm chạp việc thực thi Chính phủ điện tử, trong khi chỉ có 30% người mong muốn tiến hành nó một cách nhanh chóng. Đại đa số người dân còn lo lắng về độ an toàn và bí mật. Ngược lại, các quan chức Chính phủ lại có một quan điểm đối lập, 56% các quan chức được hỏi ủng hộ quan điểm 2. Điều này cũng chẳng có gì đáng ngạc nhiên bởi vì các quan chức Chính phủ biết nhiều về Chính phủ điện tử hơn so với công chúng và đã được thấy những lợi ích của nó một cách trực tiếp, hơn 80% tin tưởng rằng cơ quan của họ sẽ thực hiện tốt công việc bằng cách sử dụng Internet để cải thiện hiệu quả và chất lượng dịch vụ. * Mong muốn của công chúng về Chính phủ điện tử không chỉ dừng lại ở những dịch vụ có chất lượng cao và hiệu quả mà họ còn mong muốn được thông tin nhiều hơn, được trao nhiều quyền lực hơn và mong chờ ở một Chính phủ có trách nhiệm hơn. Người Mỹ đánh giá một cách rất rõ ràng tiềm năng của Chính phủ điện tử trong việc tạo ra một Chính phủ hoạt động hiệu quả hơn, cung cấp nhiều dịch vụ tốt hơn và thuận tiện hơn. Họ ủng hộ việc họ có thể nộp thuế, đăng ký xe hay sinh viên có thể vay tiền qua mạng. Khi được hỏi lợi ích nào là quan trọng nhất mà Chính phủ điện tử mang lại, 36% cho rằng tạo ra một Chính phủ có trách nhiệm hơn đối với người dân là lợi ích quan trọng nhất, 23% ủng hộ khả năng Chính phủ điện tử đem lại số lượng người truy cập thông tin nhiều hơn, 21% cho rằng Chính phủ tạo ra nhiều lợi ích hơn và hiệu quả hơn, 13% tin tưởng Chính phủ điện tử sẽ tạo ra những dịch vụ thuận tiện hơn. Nh÷ng lîi Ých quan träng nhÊt cña ChÝnh phñ ®iÖn tö C«ng chóng Quan chøc ChÝnh phñ DÞch vô ChÝnh phñ thuËn tiÖn h¬n ChÝnh phñ ho¹t ®éng hiÖu qu¶ h¬n Sè l−îng d©n chóng truy cËp th«ng tin nhiÒu h¬n ChÝnh phñ cã tr¸ch nhiÖm h¬n víi c«ng d©n  13%  16%  19% 23% 21% 23%  34% 36% (Nguồn: The Next American Revolution - Tóm lại, người dân Mỹ có nhận thức rất tốt về Chính phủ điện tử và những lợi ích của Chính phủ điện tử. Điều này chứng tỏ tình hình triển khai Chính phủ điện tử ở Mỹ có những dấu hiệu rất khả quan, ít nhất thì đa số người dân Mỹ còn biết Chính phủ điện tử là gì và tại sao phải phát triển Chính phủ điện tử. Có thể nói đây là một kết quả quan trọng của chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Chính phủ Mỹ. 3.2. Một số sự kiện nổi bật trong quá trình thực hiện Chính phủ điện tử FirstGov.gov: đây là Website có tới 186 triệu trang thông tin kết nối với hơn 22.000 Website của chính quyền Liên bang và chính quyền các bang. FirstGov.gov là một trong 50 Website tiện ích nhất do Yahoo thiết kế vào tháng 7/2002, và hiện thời trang Web này đã được cải tiến để cung cấp dịch vụ Chính phủ chỉ trong vòng "3 nháy chuột". Chiến lược "3 nháy chuột" này đã thu hút số người sử dụng trang Web ngày càng tăng, từ 5 triệu người năm 2001 lên tới 28 triệu người năm 2002. Volunteer.gov: trang Web này cho phép công dân Mỹ đăng ký làm tình nguyện viên. Recreation.gov: cho phép công dân truy cập vào các công viên giải trí và các trung tâm giải trí khác. Website này kết nối với hơn 2500 Website giải trí khác của Chính phủ. GovBenefits.gov: cho phép truy cập thông tin và dịch vụ của hơn 400 chương trình của Chính phủ đạt hơn 2000 tỷ đô la lợi nhuận hàng năm. Website này mỗi tháng có tới hơn 500.000 người truy cập. IRS Free Filing: hơn 78 triệu người Mỹ có thể trình văn bản thuế trên mạng miễn phí. Theo dự đoán, sẽ có tới 3,5 triệu người Mỹ sử dụng dịch vụ này vào năm 2003. Integrated Acquisition Environment: IAE đã cho ra đời một số trang Web và công cụ quan trọng như Hệ thống phục hồi thông tin (www.PPIRS.gov) được dùng để tìm và phục hồi lại những thông tin đã mất và Hệ thống dữ liệu kỹ thuật Liên bang (www.FedTeDS.gov). BusinessLaw.gov: cung cấp cho các doanh nghiệp nhỏ khả năng truy cập thông tin về các quy tắc pháp luật, các công cụ hỗ trợ và khả năng thực hiện giao dịch trên mạng. Website này cũng là một cổng thông tin được kết nốt với các trang Web của chính quyền Liên bang, chính quyền các bang và chính quyền địa phương. Regulation.gov: bằng cách tạo ra một hệ thống duy nhất hỗ trợ cho quá trình làm luật, đề ra các điều lệ, các quy tắc, Website này theo dự tính sẽ tiết kiệm được 94 triệu đô la. GoLearn.gov: đây là một trong những Website đào tạo điện tử được sử dụng nhiều nhất trên thế giới. GoLearn.gov này có hơn 45.000 người sử dụng đăng ký tham gia đào tạo với học phí rất thấp trong khi phương pháp đào tạo truyền thống chỉ phục vụ được m._. dụng một cách có hiệu quả được. Rất ít lãnh đạo coi trọng việc cấu trúc lại các quy trình cũ để nâng cao hiệu quả của ứng dụng công nghệ thông tin. Không đánh giá đúng tầm quan trọng trong mối quan hệ tương tác với người sử dụng. Nhiều thiết kế hình thành mà không có ý kiến đóng góp của người sử dụng. Công các tổ chức thầu hiện nay chủ yếu dựa vào giá bỏ thầu. Các tiêu chí về kỹ thuật, kinh nghiệm triển khai, đội ngũ thực hiện, quy trình thực hiện ít được chú ý. Một số các dự án không hiệu quả do không có kinh phí để duy trì hệ thống sau khi nghiệm thu như cập nhật dữ liệu, khắc phục sự cố… 1.2. Đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước giai đoạn 2001 - 2005 Theo nhiều chuyên gia đánh giá, mặc dù có tiến bộ do rút kinh nghiệm từ dự án tin học hoá giai đoạn 1996 - 2000, đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước chưa được chuẩn bị thật sự kỹ càng dẫn tới nhiều thiếu sót. * Nhận thức chưa đầy đủ về vai trò của hạ tầng thông tin quản lý hành chính quốc gia. Điều này thể hiện rõ nét ở: - Trang 6: "do cước phí truyền thông quá cao nên nhiều bộ, ngành, địa phương phải hạn chế sử dụng mạng…". Để thực thi Chính phủ điện tử thì việc sử dụng mạng là hết sức thường xuyên và cần thiết, vậy mà nhà nước ta lại quy định các bộ, ngành và địa phương phải hạn chế sử dụng mạng. Cần nhận thức rõ việc điều hành của Chính phủ là trên hết và truyền thông phải phục vụ sự điều hành đó. - Trang 15: "Mạng tin học diện rộng của Chính phủ gồm: Một trục truyền thông Bắc - Nam tốc độ 64KB kiểu X25, 35, ISDN…". Lẽ ra phải viết là "64 Kbps", nghĩa là "64 kilobit một giây". Tuy vậy 64 Kbps chỉ là tốc độ đủ dùng cho một doanh nghiệp chứ không thể nào đủ cho Chính phủ điều hành cả nước. Thêm vào đó, X25 là kỹ thuật truyền thông đã rất lạc hậu, không còn nước nào trên thế giới dùng nữa mà chỉ dùng cáp quang hay vô tuyến điện cho trường hợp này. * Sự chậm trễ: Kế hoạch triển khai cho giai đoạn 2001 - 2005 mà đến nửa cuối năm 2002 mới hoàn thành xong phần soạn thảo đề án. Như vậy thì chỉ còn 4 năm để thực hiện đề án. * Thiếu hoàn toàn thiết kế tổng thể: Đề án còn nhiều vấn đề chưa được hướng dẫn rõ ràng, gây khó hiểu cho người đọc và gây khó khăn cho người thực hiện, ví dụ như: - Kết cấu thông tin quản lý hành chính từ Chính phủ đến bộ, ngành, địa phương gồm những nội dung gì, theo tiêu chuẩn gì, có cấu trúc như thế nào? - Hệ thống phần mềm ứng dụng thống nhất gồm những phần mềm gì, hoạt động như thế nào? - Hạ tầng thông tin quản lý nhà nước gồm những gì? - Các trung tâm tích hợp dữ liệu thực hiện tích hợp thông tin theo các tiêu chuẩn nào, ai xây dựng, và khi nào cung cấp? - Lực lượng nào sẽ thực hiện đề án? Đay là những sai sót không đáng có, do vậy cần phải được sửa chữa kịp thời để tránh kết cục giống như đề án tin học hoá hành chính nhà nước giai đoạn 1996 - 2000. 2. Một số dịch vụ hành chính công qua Website của Chính phủ 2.1. Mạng Cityweb TP. HCM Từ tháng 2/2001, UBND TP. HCM ban hành quyết định nội dung thông tin cho các sở, ngành nối mạng HCM Cityweb của toàn thành phố. Trang Web này cung cấp tất cả các thông tin liên quan đến thành phố, phục vụ nhiều đối tượng, trong đó có cả các doanh nghiệp trong và ngoài nước. Qua mục "Tổng quan về thành phố" và mục "Đầu tư", doanh nghiệp có thể nhận được đầy đủ thông tin về kinh tế - xã hội, môi trường đầu tư, các dự án đang kêu gọi đầu tư, các địa chỉ cần thiết để giao dịch, các văn bản pháp luật của Việt nam và thành phố để chuẩn bị quyết định đầu tư. Hiện nay, ngoài phần tiếng Việt, mục đầu tư đã có thêm phần tiếng Anh và đang thực hiện chuyển thể sang tiếng Trung, tiếng Nhật. Đây là công cụ phục vụ đắc lực cho các nhà đầu tư. Người dân Việt nam ở mọi miền đất nước hoặc người nước ngoài có thể truy cập các thông tin về lịch sử thành phồ, về văn hoá, du lịch, về các hệ thống giáo dục, y tế, về nhiệm vụ, chức năng của các sở, ngành của thành phố, về các quyết định của các UBND thành phố liên quan đến phát triển kinh tế, về đền bù và giải toả, về quy hoạch đô thị… Bên cạnh trang thông tin tích hợp trên Internet, thành phố cũng đang triển khai hệ thống thông tin đối thoại trên mạng cục bộ của thành phố. Hệ thống này tạo ra kênh đối thoại qua mạng giữa người dân, doanh nghiệp và các sở, ngành của thành phố. Thông qua hệ thống đối thoại qua mạng, người dân có thể phản ánh kịp thời các khó khăn trong cuộc sống. Lãnh đạo các cấp, các ngành có thể trả lời trực tiếp cho người dân, đồng thời thông qua kênh đối thoại có thể biết được cấp dưới thực hiện sự chỉ đạo của cấp trên ra sao. 2.2. Hệ thống thông tin tin học hoá tại Quận 1 Thành phố Hồ Chí Minh Quận 1 đã ứng dụng công nghệ thông tin từ năm 1990. Đến nay, nhìn chung việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dịch vụ hành chính và quản lý nhà nước tại Quận 1 đã đạt được nhiều kết quả khả quan; trong đó có một số chương trình hoạt động tốt, ổn định như chương trình cấp giấy chứng nhận kinh doanh, cấp phép xây dựng, xử lý vi phạm hành chính, giải quyết đơn khiếu nại, quản lý dân số và lao động, quản lý cán bộ và đặc biệt là kết nối với mạng diện rộng của Văn phòng Chính phủ, Văn phòng UBND thành phố, giúp tra cứu một cách thuận tiện các văn bản phục vụ quản lý và điều hành. Kết quả này có được là do UBND Quận 1 có một hệ thống thông tin đảm bảo phục vụ tốt mô hình tiếp dân và công tác xử lý hồ sơ liên quan đến công dân, tổ chức… một cách hiệu quả nhất. Tất cả các văn bản pháp luật của Trung ương do Văn phòng Chính phủ đưa xuống được đưa vào cơ sở dữ liệu và cài đặt máy ở các đơn vị trực thuộc. Thông qua mạng nội bộ, các phòng ban và các đơn vị trực thuộc để có thể tra cứu các thông tin này khi cần thiết. Các văn bản pháp quy được sắp xếp sẵn theo hệ thống và cho phép truy cập, tra cứu dễ dàng với kiến thức sơ đẳng về máy tính. Có thể mở thêm nhiều trạm tra cứu để người dân truy cập vào. Đây là phương tiện thông tin để người dân thông hiểu pháp luật và các chỉ thị văn bản được công bố. 2.3. Đăng ký kinh doanh qua mạng Vào năm 1997, Sở KH&ĐT TP. HCM đã tiến hành xây dựng một mạng thông tin diện rộng và lập cơ sở dữ liệu của hơn 10.000 doanh nghiệp đã đăng ký, xây dựng quy trình đăng ký kinh doanh khép kín. Tiếp đến, từ tháng 8/2000, Sở đã khai trương "Trang thông tin doanh nghiệp" bao gồm thông tin về tất cả doanh nghiệp trên địa bàn thành phố. Hệ thống thông tin của Sở KH&ĐT đã phát huy tác dụng. Theo Luật Doanh nghiệp, cơ quan đăng ký kinh doanh phải cung cấp thông tin cho các cơ quan quản lý nhà nước, các tổ chức và thậm chí là cả các cá nhân. Nhờ hệ thống thông tin của mình, Sở đã đáp ứng thông tin kịp thời, tổng hợp các báo cáo của cơ quan đăng ký kinh doanh với các ngành chức năng theo từng thời kì hoặc đột xuất. Đặc biệt, Sở KH&ĐT dễ dàng báo cáo cho lãnh đạo thành phố biết được có bao nhiêu doanh nghiệp theo ngành nghề hoạt động trên từng địa bàn, tổng vốn đã đăng ký, số lượng lao động… hoặc giúp doanh nghiệp tìm hiểu về một doanh nghiệp khác đang hoạt động hay giải thể, cung cấp các thông tin cần thiết khác để họ có thể ký kết hợp đồng với đối tác. Sở KH&ĐT TP. HCM cũng đã đưa ra trang Web www.hcminvest.gov.vn bằng tiếng Anh phục vụ cho người nước ngoài. Phần nội dung dành cho công chúng trong nước bằng tiếng Việt được đưa lên trang www.hcmste.gov.vn thuộc Sở Khoa học công nghệ và Môi trường TP. HCM. Sau khi xây dựng xong quy trình đăng ký kinh doanh khép kín, từ ngày 1/1/2000, công tác đăng ký kinh doanh của Sở đã được xử lý qua mạng nội bộ (LAN). Điều này có nghĩa là khi doanh nghiệp nộp hồ sơ, phòng Đăng ký kinh doanh sẽ tiếp nhận xử lý theo quy trình trên mạng nội bộ. Với hình thức đăng ký này, doanh nghiệp phải đến Sở để nhận mẫu đơn đúng theo yêu cầu và nộp lại. Trong quá trình xử lý, những người có trách nhiệm sẽ kiểm tra thông tin trong đơn, bộ phận tiếp nhận sẽ hẹn ngày đến nhận giấy phép. Đăng ký kinh doanh qua mạng đem lại rất nhiều lợi ích cho cả cơ quan đăng ký kinh doanh và cả doanh nghiệp. Đăng ký kinh doanh qua mạng giúp hạn chế những sai sót trong nhập liệu như ngày tháng năm sinh, số chứng minh thư nhân dân. Các doanh nghiệp, thay vì phải đến cơ quan đăng ký kinh doanh để được hướng dẫn đăng ký kinh doanh, có thể ngồi tại văn phòng dể xem hướng dẫn trực tiếp từ hệ thống. Nếu đăng ký kinh doanh qua mạng, doanh nghiệp có thể tiết kiệm được thời gian chờ đợi, giảm được số lần phải đến Sở (chỉ phải đến một lần). 2.4. Những Website cho nông nghiệp Việt nam Hiện Bộ NN&PTNT đang rất nỗ lực tận dụng công nghệ Internet vào mục tiêu thúc đẩy sự phát triển nông nghiệp và nông thôn Việt nam, thể hiện rõ ở ba Website sau: * www.mard.gov.vn: Bộ NN&PTNT quy định: từ ngày1/7/2001, thủ trưởng các đơn vị trực thuộc bộ, giám đốc các Sở NN&PTNT, chi cục trưởng chi cục kiểm lâm các tỉnh… có trách nhiệm kết nối với mạng của Bộ để nhận thông tin phục vụ công tác quản lý, chỉ đạo, điều hành, tổ chức lấy tin, gửi tin, báo cáo qua mạng tin học của bộ và qua thư điện tử. Hàng ngày lãnh đạo các đơn vị này phải truy cập thông tin trên mạng ít nhất hai lần vào buổi sáng và buổi chiều để theo dõi và nắm bắt thời các ý kiến chỉ đạo của Bộ, các văn băn mới của nhà nước. Qua Website này, những văn băn không cần phải đóng dấu đỏ sẽ được đưa trực tiếp lên mạng. Các văn bản này bao gồm các báo cáo thông báo tình hình của bộ, báo cáo của bộ gửi Chính phủ, các cơ quan của bộ… chiếm 70% tổng số lượng công văn, giấy tờ. * www.pclb.vnn.vn: Đây là trang Web hỗ trợ phòng chống bão lụt, giảm nhẹ thiên tai. Từ Wevsite này, chúng ta có thể kết nối sang Website www.pclb.vnn.vn do Phòng chống bão lụt miền Trung phụ trách. Tại đây, những thông tin về tình hình thiên tai trên cả nước được liên tục cập nhật. Ví dụ, tin áp thấp nhiệt đới của Trung tâm quốc gia dự báo khí tượng thuỷ văn được phát lúc 14 giờ 30 phút thì 25 phút sau bản tin đó cũng xuất hiện trên Internet. * www.agroviet.gov.vn: Đây là trang thông tin về nông sản. Nhờ sự cộng tác của Mạng thông tin thương mại thị trường Việt nam (Vitranet) và Bản tin thị trường (Bộ Thương Mại), Website www.agroviet.gov.vn cung cấp thông tin thị trường, thiết lập cầu nối giữa người sản xuất, người kinh doanh, các nhà hoạch định chính sách với các nhà đầu tư và nhà tài trợ trong và ngoài nước. Thông qua Website này các doanh nghiệp có thể tìm kiếm đối tác trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh liên quan đến nông nghiệp. Nguồn thông tin của Website này thu từ các kênh thông tin trên thế giới qua ăngten parabol (thông tin về nông phẩm, giá cả các sản phẩm nông nghiệp trên thế giới…), thông tin trong nước có nguồn từ Ban vật giá Chính phủ, Tổng cục thống kê, Tổng cục hải quan, Thông tấn xã Việt nam… Đối tượng hưởng lợi trực tiếp từ trang thông tin này chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trên các trang chuyên đề về nông sản Việt nam, về lúa gạo, mía đường, cà phê, cao su đều có các thông tin về giá cả của các loại nông sản này như giá đóng cửa, giá mở cửa của các thị trường nông sản thế giới, giá cả trong nước, những chính sách mới về nông sản trong nước, trên thế giới, các dự báo về thị trường nông sản… Những thông tin này rất hữu ích cho các doanh nghiệp trong việc xúc tiến thương mại, đồng thời giúp họ tiết kiệm được thời gian và tiền bạc. 2.5. Khai báo hải quan điện tử Khai báo hải quan điện tử ở Việt nam hiện nay mới chỉ ở mức độ thấp nhất. Tại các nước phát triển trên thế giới đang tồn tại ba mức độ của hình thức khai báo hải quan điện tử. Cao nhất là khai báo hải quan tức thì qua hệ thống mạng Chính phủ điện tử. Mức trung bình là khai báo điện tử trước, sau đó 3-4 ngày sẽ nộp hồ sơ. Mức độ thấp nhất là vừa khai báo điện tử vừa nộp hồ sơ. Các mức độ của hình thức khai báo hải quan điện tử bị chi phối bởi ba yếu tố: cơ sở pháp lý, cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin của các ngành, đơn vị liên quan và hạ tầng riêng của ngành Hải quan. Nhưng hiện khai báo hải quan điện tử vẫn còn thiếu một hạ tầng cơ sở pháp lý cần thiết và các hạ tầng cơ sở khác đảm bảo cho việc thực hiện khai báo hải quan điện tử. Hải quan đang có một Website hết sức nghèo nàn và đơn điệu với chức năng tuyên truyền cho ngành, nhưng lại không được thường xuyên cập nhật. Cứ với tình trạng này, Website này sẽ không thể trở thành cổng hành chính phục vụ chương trình khai báo hải quan điện tử và các dịch vụ công khác của ngành hải quan. Chính vì vậy, mặc dù khai báo hải quan điện tử thực sự được đưa vào áp dụng vào tháng 6/2002, song đến tháng 8/2002, tiến trình khai báo hải quan điện tử chỉ được thực hiện với tốc độ rất chậm. Tại TP. HCM, sau hai tháng triển khai cũng chỉ có 6 doanh nghiệp làm hàng gia công tham gia chương trình khai báo hải quan điện tử. Trong khi đó, với việc trang bị hệ thống máy tính và năm đường điện thoại kết nối vào năm modem khi bắt đầu thực hiện chương trình, Cục hải quan thành phố đã mong đợi sẽ có hơn 200 doanh nghiệp tham gia. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này. Mặc dù nói là khai báo hải quan điện tử nhưng so với cách làm cũ, mọi công đoạn vẫn giữ nguyên, các doanh nghiệp còn phải mất thêm thời gian và kinh phí trang bị máy tính, phần mềm để lên mạng. Thực tế chứng minh khai báo hải quan điện tử chậm hơn khai báo thủ công, do doanh nghiệp vừa khai báo điện tử vừa phải mang hồ sơ lên Cục hải quan nộp như bình thường. Thêm vào đó, nhiều doanh nghiệp còn chưa vào cuộc do ngại đầu tư cơ sở hạ tầng thông tin. Một lý do khác là Hải quan chưa bao giờ công bố công khai chi tiết các chuẩn của mình về tờ khai điện tử cũng như bộ hồ sơ điện tử, khiến cho các công ty phần mềm vẫn thờ ơ với chương trình khai báo hải quan điện tử của ngành Hải quan. Những lý do trên đây dẫn đến tình trạng khai báo hải quan điện tử, dù đã triển khai thực hiện gần một năm nhưng vẫn không đạt được nhiều kết quả. 2.6. Báo điện tử Hiện Việt Nam có 21 tờ báo, tạp chí điện tử, điển hình là các tờ Nhân Dân, Sài Gòn Giải Phóng, Lao Động, Người Lao Động, Quốc Tế, Quê Hương, Đầu Tư, Thời Báo Kinh Tế, Sài Gòn Tiếp Thị …. Con số 21 trên 500 tờ báo và tạp chí in vẫn còn khiêm tốn. Xong để tìm được hết tất cả các báo, tạp chí điện tử này lại không đơn giản chút nào, kể cả đối với những người làm việc thường xuyên trên mạng. Khó khăn lắm mới tìm được một nửa số báo, tạp chí điện tử đó. Các tờ báo dễ tìm thấy trên mạng có nội dung và hình thức khá tốt. Các trang chủ tổ chức có trật tự, màu sắc bắt mắt, chứng tỏ chúng được xây dựng và duy trì ở mức chuyên nghiệp cao. Tuy nhiên, đa số các bài được đưa lên mạng chỉ dừng ở mức lặp lại trang tin trên các tờ báo in của chính nó. Lợi thế của báo điện tử là đưa tin nhanh, dung lượng tin lớn, đa dạng gần như bị tuột khỏi tay các tổng biên tập. Phần lớn những người làm báo điện tử chỉ đơn thuần là biên tập viên chứ chưa có các phóng viên thực thụ và chuyên nghiệp theo nghĩa “điện tử”. Đó là nguyên nhân chính làm thu hẹp thị trường độc giả và do đó các báo điện tử ở nước ta vẫn sống nhờ vào báo in, nguồn thu từ quảng cáo trực tuyến cũng rất khiêm tốn. Hiện báo điện tử đang gặp phải một số khó khăn. Đầu tiên là về vấn đề thiếu ngân sách. Một vấn đề khác nữa là hành lang pháp lý cho báo điện tử. Bên cạnh đó, các tờ báo điện tử đang vấp phải đối thủ cạnh tranh là các trang tin điện tử như VASC-Orienrtz (www.vnn.vn), VN-Express (Vnexpress.net)... Hàng ngày có khoảng 6 triệu lượt người truy cập trang www.vnn.vn. Dung lượng tin tức của họ vượt trội, khoảng 140 tin mỗi ngày. Thực chất, lượng tin ấy có đến 60% chép lại từ các tờ báo in và 25% dịch từ nguồn tin nước ngoài. (Nguồn: PCWorld B Việt nam số 11/2002) III. ĐỊNH HƯỚNG VÀ MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM PHÁT TRIỂN CHÍNH PHỦ ĐIỆN TỬ Ở VIỆT NAM 1. Đề xuất một số phương hướng nhằm phát triển công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin vào các dịch vụ của Chính phủ Xuất phát từ thực tiễn thực hiện các đề án tin học hoá quản lý hành chính nhà nước, tôi xin được nêu ý kiến của mình nhằm định hướng Chính phủ trong việc phát triển công nghệ thông tin và ứng dụng công nghệ thông tin vào các dịch vụ của Chính phủ như sau: - Phải gắn tin học hoá quản lý hành chính nhà nước với vấn đề cải cách hành chính. Cải cách hành chính và ứng dụng công nghệ thông tin là hai vấn đề có mối liên hệ chặt chẽ. Công nghệ thông tin là một yếu tố hết sức quan trọng và cần thiết, có tác động tích cực thúc đẩy quá trình cải cách hành chính. - Các nhà quản lý phải giữ vai trò chủ đạo, phải có sự lãnh đạo thống nhất từ cấp cao nhất của Chính phủ. Nếu người lãnh đạo không nhận thức được đầy đủ vai trò và ý nghĩa của ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý nhà nước thì việc ứng dụng công nghệ thông tin khó có thể thành công. Như vậy, người lãnh đạo phải hiểu trước, hiểu sâu hơn về công nghệ thông tin thì mới có thể đưa công nghệ thông tin vào ứng dụng một cách hiệu quả. - Hiệu quả phải đo được, tức là phải lượng hoá được những gì mà công nghệ thông tin góp phần nâng cao chất lượng quản lý. - Hiệu quả đầu tư cần được đặt lên hàng đầu. Các dự án công nghệ thông tin phải có mục tiêu rõ ràng cụ thể, phải tính toán kỹ, đảm bảo sự đồng bộ giữa phần cứng, phần mềm, đào tạo huấn luyên chuyên viên kỹ thuật và những người sử dụng, người quản lý sao cho khi hệ thống được thiết lập xong là vận hành ngay được, thực hiện được mục tiêu đặt ra một cách hiệu quả. Tránh vội vàng, rập khuôn, làm ào ạt theo phong trào mà không chuẩn bị kỹ càng các điều kiện thực hiện. - Tạo hành lang pháp lý cho tin học hoá, cho ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. - Tin học hoá không chỉ hướng vào bên trong mà phải hướng ra bên ngoài, hướng vào các dịch vụ công. Tin học hoá ngoài việc trợ giúp các quy trình hoạt động trong các cơ quan nhà nước nhằm nâng cao hiệu suất công việc còn phải hướng tới việc tổ chức lại để tạo ra các dịch vụ nhằm phục vụ tốt hơn cho nhân dân. - 24 bước cần thiết của một dự án ứng dụng công nghệ thông tin: Xuất phát từ kinh nghiệm thực hiện dự án ứng dụng công nghệ thông tin của công ty FPT trong nhiều năm qua, các cơ quan nhà nước có thể áp dụng quy trình thực hiện dự án gồm 24 bước sau để có thể khắc phục được những hạn chế và loại bỏ được những nguyên nhân chủ quan dẫn đến tính kém hiệu quả của các dự án ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý hành chính nhà nước. 8 bước hình thành công việc: 1. Khảo sát hiện trạng. 2. Tham khảo mô hình tương tự (trong và ngoài nước). 3. Xác định nhu cầu ứng dụng công nghệ thông tin. 4. Xây dựng các mục tiêu, xác định phạm vi của dự án. 5. Xác định các nguồn lực cần thiết cho dự án. 6. Hình thành các bài toán với các mức độ ưu tiên. 7. Hình thành hệ thống chỉ tiêu đánh giá định lượng. 8. Xây dựng lộ trình chung cho dự án. 8 bước xây dựng giải pháp cho công việc: 9. Lựa chọn nhân sự phù hợp cho dự án, đặc biệt là nhân sự then chốt. 10. Lựa chọn giải pháp và các công nghệ liên quan. 11. Lựa chọn đối tác tin cậy. 12. Phân tích thiết kế hệ thống. 13. Tái cấu trúc các quy trình không hợp lý. 14. Xây dựng các ứng dụng mẫu. 15. Tiếp tục đổi mới quy trình nghiệp vụ. 16. Xác định mô hình ứng dụng và giải pháp. 8 bước triển khai: 17. Xây dựng các ứng dụng diện rộng. 18. Từng bước mở rộng diện khai thác thử nghiệm. 19. Đánh giá sơ bộ hiệu quả sử dụng. 20. Đào tạo tiếp nhận và khai thác hệ thống. 21. Đo mức độ đáp ứng hệ thống chỉ tiêu dịnh lượng. 22. Nghiệm thu, bàn giao hệ thống 23. Duy trì hệ thống. 24. Đánh giá hiệu quả ứng dụng, đưa ra hướng cải tiến. 2. Một số kiến nghị nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt nam Dựa trên kinh nghiệm phát triển Chính phủ điện tử ở một số nước đã nghiên cứu trong chương II và dựa vào điều kiện cơ sở vật chất của đất nước ta, khoá luận sẽ đưa ra một số đề xuất nhằm phát triển Chính phủ điện tử ở Việt nam. * Trước hết, để xây dựng Chính phủ điện tử, nước ta cần xây dựng cơ sở hạ tầng, trong đó phải xây dựng những cơ sở hạ tầng theo thứ tự ưu tiên. Có thể xếp hạng ưu tiên các cơ sở hạ tầng như sau: - Hạ tầng viễn thông: các thiết bị viễn thông và máy tính phải được đề cập tới trong bất kỳ kế hoạch nào về Chính phủ điện tử. Mức độ phát triển hạ tầng viễn thông phụ thuộc vào đề án Chính phủ điện tử. - Kết nối sử dụng công nghệ thông tin viễn thông của Chính phủ: Tình hình sử dụng công nghệ thông tin và viễn thông của Chính phủ cho thấy mức độ sẵn sàng quản lý thông tin và thực hiện đề án Chính phủ điện tử. Do vậy cần phải xây dựng hạ tầng công nghệ thông tin và viễn thông đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế. - Đội ngũ cán bộ trong Chính phủ. Đây là nhân tố quan trọng nhất trong chiến lược phát triển Chính phủ điện tử ở bất cứ quốc gia nào. Đội ngũ cán bộ nhà nước phải hiểu rõ về tầm quan trọng của Chính phủ điện tử, và phải được trang bị những kiến thức cần thiết nhằm thực hiện tốt chiến lược phát triển Chính phủ điện tử. - Khả năng tài chính đang và sẽ có. Chính phủ nên dành riêng một phần ngân sách để đảm bảo khả năng tài chính phục vụ cho quá trình xây dựng và phát triển Chính phủ điện tử. - Môi trường kinh doanh điện tử như khung pháp lý, an toàn thông tin…Ngoài những hỗ trợ về tài chính, nhà nước cần xây dựng một khung pháp lý chính thức và hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi Chính phủ điện tử. * Tiếp đến là xây dựng và quản lý đề án Chính phủ điện tử, bao gồm: - Thiết lập cơ quan chuyên trách về Chính phủ điện tử trong Chính phủ. Thực tế cho thấy rằng khó có thể thực thi được đề án Chính phủ điện tử mà không có một đội ngũ quản lý từ khi bắt đầu đến khi kết thúc. Những cơ quan như vậy cần được hỗ trợ về tài chính, nhân lực và quản lý để thực hiện nhiệm vụ được giao. - Đảm bảo trao đủ quyền lực cho cơ quan quản lý đề án: Sẽ rất khó khăn cho cơ quan quản lý đề án nếu bất cứ quyết định nào cũng phải chờ cơ quan cấp trên thông qua rồi mới được thực hiện. Điều này sẽ làm chậm tiến độ thực hiện đề án. Do vậy, cơ quan quản lý đề án cần được trao đủ quyền lực để có thể tự quyết định những vấn đề nằm trong phạm vi nhiệm vụ để rút ngắn thời gian và chi phí không cần thiết. - Xây dựng một kế hoạch làm việc để thực hiện đề án Chính phủ điện tử. Kế hoạch làm việc nên tập trung vào 6 thành phần chính sau: Phát triển nội dung: bao gồm phát triển ứng dụng, mở rộng tiêu chuẩn, xây dựng các giao diện ngôn ngữ địa phương, hướng dẫn sử dụng và đào tạo điện tử. Nguồn nhân lực và các chương trình đào tạo ở tất cả các cấp. Kết nối mạng nội bộ và mạng Internet. Khung pháp lý. Các giao diện tương tác với công dân đảm bảo dễ dàng truy cập và phù hợp với tất cả các đối tượng. Nguồn vốn: Kế hoạch phải xác định được nguồn doanh thu như phí sử dụng hay ngân sách để có thể đảm bảo cân bằng về tài chính. * Vượt qua những trở ngại tâm lý trong Chính phủ: Trong quá trình phát triển Chính phủ điện tử, các quan chức chính phủ thường cho rằng công nghệ sẽ làm cho họ mất việc làm, mất quyền lực, một số còn lo sợ sẽ phải làm nhiều việc hơn, vất vả hơn, lo sợ sẽ không thích ứng được với công nghệ mới... Những tư tưởng như vậy hạn chế rất nhiều tiến trình thực hiện đề án Chính phủ điện tử. Do vậy, Chính phủ cần phải giải thích cho họ hiểu mục đích của đề án, giải toả những lo lắng, đào tạo họ thành những "nhân viên tri thức". Đây chính là nội dung của quản lý tri thức, một thành phần quan trọng trong bất cứ đề án Chính phủ điện tử nào. Chính phủ cũng nên đề ra những phần thưởng để tuyên dương những cán bộ có thành tích trong quá trình thực hiện đề án. * Xây dựng phương pháp đo hiệu quả hoạt động của Chính phủ dựa trên những tiêu chuẩn sau: - Tiêu chuẩn đo sự thích ứng của Chính phủ với Chính phủ điện tử: 1, Khối lượng giao dịch điện tử; 2, Thời gian thực hiện yêu cầu của người sử dụng; 3, Số lượng hoặc phần trăm các dịch vụ điện tử do Chính phủ cung cấp; 4, Số lượng các dịch vụ điện tử mới; 5, Một dịch vụ điện tử được thực hiện ở bao nhiêu tỉnh, thành trong cả nước. - Tiêu chuẩn đo những ảnh hưởng của Chính phủ điện tử: 1, Số lượng người truy cập thông tin và dịch vụ điện tử của Chính phủ; 2, Hiệu quả trong việc cung cấp thông tin và dịch vụ điện tử 24/24 giờ, 7/7 ngày như thế nào; 3, Thời gian người sử dụng có được hàng hoá, dịch vụ, thông tin là bao nhiêu; 4, Giảm bao nhiêu chi phí mà người sử dụng và Chính phủ phải chịu. * Tuyên truyền công cộng đối với công dân và doanh nghiệp, tuyên truyền trong Chính phủ để nâng cao nhận thức về Chính phủ điện tử. Trên thực tế, việc xây dựng Chính phủ điện tử rất tốn kém, thời gian đem lại lợi ích cho công chúng không phải là ngắn, vì vậy có thể áp dụng phương pháp triển khai nhanh. Việc này nhanh chóng tạo nên môi trường linh động và cạnh tranh hơn trên thị trường. Đồng thời có thể tiến hành xây dựng các cổng thông tin kinh tế trên cơ sở thông tin của Bộ Thương mại để hỗ trợ cho các doanh nghiệp. KẾT LUẬN Hiểu đúng nghĩa thì Chính phủ điện tử là ước mơ và có lẽ là ước mơ kỳ diệu nhất của nền dân chủ, của một nhà nước của dân, do dân và vì dân trong thời đại thông tin. Vì vậy bất cứ nước nào, dù là nước xã hội chủ nghĩa hay nước tư bản chủ nghĩa đều cần phải xây dựng Chính phủ điện tử, bởi Chính phủ điện tử không những không làm biến đổi bản chất chế độ mà nước đó đang đeo đuổi, mà nó còn giúp cho nước đó nâng cao vị thế của mình. Có nhiều cách để xây dựng Chính phủ điện tử. Mỗi nước có một chiến lược phát triển Chính phủ điện tử khác nhau, phù hợp với điều kiện cơ sở vật chất của nước đó. Một nước nghèo như nước ta không thể áp dụng chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của Mỹ, Australia hay của Singapore. Nếu áp dụng rập khuôn sẽ rất dễ dẫn đến thất bại vì nó không phù hợp với hoàn cảnh kinh tế - xã hội nước ta. Vì vậy, có xây dựng Chính phủ điện tử thành công hay không chủ yếu phụ thuộc vào việc đề ra một chiến lược hợp lý và phải có sự chuẩn bị kỹ càng. Tuy nói là chúng ta không thể áp dụng chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của các nước đi trước, nhưng chúng ta vẫn có thể nghiên cứu chiến lược phát triển Chính phủ điện tử của các nước này, từ đó rút ra những bài học thành công và không thành công của họ để rút kinh nghiệm. Con đường mà các nước đã đi qua trong lộ trình triển khai Chính phủ điện tử mất một khoảng thời gian khá dài, hi vọng một nước đi sau như Việt nam sẽ không phải mất nhiều thời gian như vậy. Muốn vậy, Việt nam phải tự tìm ra những hướng đi thích hợp trong ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông vào việc nâng cao hiệu quả và hiệu lực của chính quyền các cấp, đồng thời từng bước cung cấp dịch vụ công cho người dân qua Internet nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp cũng như tiết kiệm thời gian và sức lực của người dân trong quan hệ với Chính phủ. Chính phủ điện tử ở Việt nam mới chỉ đang trong giai đoạn đầu, tức là giai đoạn ứng dụng công nghệ thông tin sao cho bộ máy Chính phủ điều hành hiệu quả hơn, cung cấp các thông tin Chính phủ phục vụ đời sống xã hội, tin học hoá quản lý hành chính nhà nước… Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách hiện nay của Việt nam là phải thực hiện những bước đi hợp lý, thực hiện những biện pháp cụ thể và hiệu quả để nhanh chóng chuyển sang giai đoạn tiếp theo của Chính phủ điện tử. Để thực hiện được điều này, Việt Nam cần phải xây dựng cơ sở hạ tầng, đặc biệt là cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin viễn thông, xây dựng và có kế hoạch quản lý chặt chẽ đề án Chính phủ điện tử, loại bỏ những trở ngại tâm lý trong Chính phủ và tích cực tuyên truyền để nâng cao nhận thức của mọi tầng lớp dân chúng về Chính phủ điện tử. Những giải pháp trên được khoá luận rút ra từ bài học kinh nghiệm của các nước đi trước và tình hình thực tế của Việt Nam, hi vọng sẽ nhanh chóng được áp dụng nhằm giúp nước ta tiến nhanh trên con đường phát triển Chính phủ điện tử. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Tạp chí Tổ chức nhà nước, số tháng1, 2, 4/2002 2. Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á, Số 3(33) tháng 6/2001 3. Thông tin Kinh tế - Xã hội, số tháng 10 và 12/2002 4. PCWorld B Việt nam, các số năm 2000, 2001, 2002 5. Tạp chí BCVT kỳ II - Internet tháng 8/2003 6. Public Agenda for a Digital World - Leslie David Simon 7. E-Commerce and Development Report 2001 8. Electronic Governance & Electronic Democracy: Living & working in the Wired World - Professor Thomas Briley, 2000 9. Administrative Corruption: How Does E-Government Help? - Professor Subhash Bhatnagar, Indian Institute of Management, Ahmedabad, India. 10. A Framework for Pricing Government E-Services - Dr. Craig L. Johnson, Indiana University, 2003 11. Investment, Access, and Security: A Policy Environment For E- Government - US Internet Industry Association - 12. E-government Best Practices an Implementation manual - Robert H. Smith, School of Business University of Maryland, College Park, May 2001 13. Prototyping e-Government Applications - Richard Heeks, IDPM, University of Manchester, UK, 2001 14. What citizens want from E-Government - Meghan E-Cook, Center for Technology in Government, University at Albany, SUNY, 10/2000 15. E-government - E-citizen - Birgit Wilder, Chief Information Office Austria 16. Joint IEG Statement- Suffolk Accessible Government Partnership, 2001, 2002 - index1.html 17. Benchmarking the E-Government Revolution: Year 2000 Report on Citizen and Business demand - flash/index-flash2.htm 18. E-Government: The Next American Revolution - Hart - Teeter, Council for Excellence in Government the E-Government, 19. 20. 21. Global E-government full report, sept, 2003 - 22. E-government: The Singapore - 23. Roadmap for e-government in the developing world - 24. Applying the e-government framework to transitional countries - Theodore Tsekos - 25. E-government handbook for Developing nations - 26. E-government Project - The kingdom of Thailand - 27. What citizens want from E-govenrnment, Macghan E-Cook, Center for Technology in Government, University at Albany, SUNY 28. E-Government Strategy - 29. E-government case studies: P.S.Portals - 30. E-government Bulletin - 31. E-government workflow software solution - 32. E-government Strategy 2003 - 33. Office of E-government, Western Australia - 34. E-government in Europe - 35. What is e-government? - 36. Japanese E-Government Timetable - 37. Kinh tế học Internet: Từ Thương mại điện tử đến Chính phủ điện tử - Vương Liêm, NXB Trẻ, 2001 38. Vietnam e-Readiness and e-Needs Assessment Report (5/2003) 39. Thương mại điện tử - Học viện hành chính quốc gia - NXB Lao động 2003 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8349.doc
Tài liệu liên quan