Phát triển cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội (MB)

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT NHNN Ngân hàng nhà nước TCTD Tổ chức tín dụng NHTM Ngân hàng thương mại TMCP Thương mại cổ phần NHTMCP Ngân hàng thương mại cổ phần NHQĐ Ngân hàng Quân Đội CIC Trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng nhà nước CBTD Cán bộ tín dụng DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ Bảng biểu Trang Biểu đồ 1: Tổng vốn huy động 36 Biểu đồ 2: Tổng dư nợ 37 Bảng2.1: Quy mô và tốc độ tăng trưởng cho vay tiêu dùng (2004 – 2006) 45 Biểu đồ 3: Tăng trưởng dư nợ và doanh số cho vay tiêu d

doc84 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1297 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển cho vay tiêu dùng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội (MB), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ùng (2004-2006) 45 Bảng 2.2: Tỷ trọng cho vay tiêu dùng trong tổng dư nợ cho vay 46 Biểu đồ 4: Tỷ trọng dư nợ cho vay tiêu dùng của NHQĐ (2004-2006) 47 Bảng 2.3: Cơ cấu dư nợ cho vay tiêu dùng theo sản phẩm 48 Bảng 2.4: Cơ cấu dư nợ cho vay tiêu dùng theo thời gian 50 Bảng 2.5: Cơ cấu dư nợ cho vay tiêu dùng có bảo đảm và không có bảo đảm 51 Bảng 2.6: Thu lãi cho vay tiêu dùng so với thu lãi cho vay khác 52 LỜI MỞ ĐẦU Trong nền kinh tế cạnh tranh ngày càng gay gắt hiện nay, nhất là kể từ khi Việt Nam gia nhập vào tổ chức thương mại thế giới (WTO), các ngân hàng thương mại để tồn tại và phát triển thì phải không ngừng tự hoàn thiện và làm mới phù hợp với quy luật phát triển chung. Mở rộng dịch vụ ngân hàng là một trong những nội dung cơ bản trong quá trình thực hiện đề án cơ cấu lại một cách toàn diện và nâng cao năng lực cạnh tranh của các ngân hàng. Ở các nước phát triển, cho vay tiêu dùng đã được phát triển từ lâu và là một trong những hình thức chủ yếu của ngân hàng nhằm đem lại lợi nhuận, vị thế cạnh tranh so với các ngân hàng khác. Tuy nhiên, ở những nước kém phát triển như Việt Nam hình thức này còn khá mới mẻ chưa được áp dụng rộng rãi. Việc ngiên cứu, phát triển cho vay tiêu dùng của các ngân hàng thương mại Việt Nam là hướng đi mới nhằm phân tán rủi ro và đem lại hiệu quả kinh doanh nâng cao khả năng hội nhập. Ngân hàng Quân Đội cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Để tồn tại và phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh, mở rộng thị phần. Từ năm 2001 ngân hàng Quân Đội đã cho triển khai sản phẩm cho vay tiêu dùng và ngày càng hoàn thiện nó trong quá trình hoạt động. Ngân hàng đã xác định hướng đi cho mình với mục tiêu là trở thành một trong những ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu trong hệ thống ngân hàng Việt Nam và giữ vị thế mạnh đối với thị trường tiêu dùng. Từ những lý do trên cùng với ham muốn tìm hiểu về lĩnh vực tín dùng tiêu dùng em quyết định chọn đề tài: “Phát triển cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại cổ phần Quân Đội” là chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Chuyên đề gồm có ba phần chính sau: Chương 1: Phát triển cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại Chương 2: Thực trạng phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng tại NHTMCP Quân Đội giai đoạn 2004-2006 Chương 3: Giải pháp phát triển cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Quân Đội trong thời gian tới Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn tận tình của cô giáo PGS.TS Phan Thị Thu Hà cùng các anh chị tại phòng tín dụng NHTMCP Quân Đội chi nhánh Minh Khai đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. CHƯƠNG 1 PHÁT TRIỂN CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Tổng quan về ngân hàng thương mại 1.1.1. Khái niệm về ngân hàng thương mại Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức có vai trò quan trọng đối với nền kinh tế nói chung và đối với cộng đồng địa phương nói riêng. Có nhiều cách tiếp cận với cách hiểu ngân hàng thương mại, ngân hàng thương mại có thể hiểu theo những quan điểm sau: Theo pháp luật nước Mỹ, bất kỳ một tổ chức nào cung cấp tài khoản tiền gửi cho phép khách hàng rút tiền theo yên cầu và cho vay đối với các tổ chức kinh doanh hay cho vay thương mại sẽ được xem là một Ngân hàng thương mại. Một cách tiếp cận khác của Peter S.Rose cho thấy: ngân hàng thương mại là tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất-đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kì một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Theo quan điểm của các nhà kinh tế Việt nam: ngân hàng thương mại là một tổ chức mà hoạt động chủ yếu và thường xuyên là nhận tiền gửi, trên nguyên tắc hoàn trả, tiến hành cho vay,chiết khấu và làm các phương tiện thanh toán. Quan điểm này cho thấy, hoạt động của các ngân hàng ở Việt Nam mới chỉ bao gồm các hoạt động truyền thống, tương ứng với hoạt động của các ngân hàng trên thế giới ở giai đoạn thứ nhất từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 18 và Việt Nam vẫn là một nước thiếu các dịch vụ ngân hàng. Theo luật các tổ chức tín dụng số 02/1997/QH10 ngày 12 tháng 12 năm 2007 sửa đổi bổ sung năm 2004, ngân hàng thương mại được định nghĩa là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hạot động kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận, góp phần thực hiện mục tiêu kinh tế nhà của Nhà nước. Ngân hàng thương mại gồm ngân hàng thương mại nhà nướcvà ngân hàng thương mại cổ phần. Như vậy, một cách chung nhất có thể thấy Ngân hàng thương mại là một doanh nghiệp đặc biệt hoạt động và kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ, tín dụng. 1.1.2. Các hoạt động cơ bản của ngân hàng thương mại Mua bán ngoại tệ: lịch sử cho thấy rằng một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi ngoại tệ. Một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. Trong thị trường tài chính ngày nay, mua bán ngoại tệ thường chỉ do các ngân hàng lớn thực hiện bởi vì những giao dịch như vậy có độ rủi ro cao, đồng thời yêu cầu phải có trình độ chuyên môn cao. Nhận tiền gửi: cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao, do đó các ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động được tiền. Một trong những nguồn vốn quan trọng là các khoản tiền gửi (thanh toán và tiết kiệm của khách hàng). Cho vay • Cho vay thương mại: ngay ở thời kỳ đầu, các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán. Sau đó là bước chuyển tiếp từ chiết khấu thương phiếu sang cho vay trực tiếp đối với các khách hàng (người mua), giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhắm mở rộng sản xuất kinh doanh. • Cho vay tiêu dùng: đây là nội dung chính được đề cập trong những phần tiếp theo của báo cáo. • Tài trợ cho dự án: Bên cạnh cho vay truyền thống là cho vay ngắn hạn, các ngân hàng càng trở nên năng động trong việc tài trợ cho xây dựng nhà máy mới. Mặc dù rủi ro trong loại hình tín dụng này cao nhưng lãi lớn. Các ngân hàng còn đầu tư vào chứng khoán. Chứng khoán cung cấp một nguồn thu nhập tương đối quan trọng trong việc quản lý ngân hàng cũng như cho các cổ đông khi thu nhập từ danh mục cho vay suy giảm. Khoản mục đầu tư chứng khoán thanh khoản tạo nên tính lỏng cho tài sản của ngân hàng, hỗ trợ cho nguồn tiền mặt và nguồn tiền vay từ thị trường tiền tệ khi ngân hàng phải đáp ứng các yêu cầu thanh khoản quy mô lớn. Việc đầu tư vào chứng khoán chất lượng cao ngân hàng có thể điều chỉnh mức rủi ro tín dụng tổng thể trong danh mục tài sản. Hiện nay ngân hàng đầu tư vào nhiều loại chứng khoán khác nhau bao gồm các công cụ ngắn hạn trên thị trường tiền tệ như tín phiếu kho bạc, chứng khoán của các cơ quan chính phủ, chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn… và các công cụ trên thị trường vốn phổ biến là trái phiếu kho bạc, trái phiếu của chính quyền địa phương, chứng khoán được bảo lãnh bằng các khoản cho vay mua nhà và trái phiếu công ty. Bảo quản vật có giá: các ngân hàng thực hiện việc lưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng, vật có giá và giao cho khách hàng tờ biên nhận (giấy chứng nhận do ngân hàng phát hành). Do khả năng chi trả bất cứ lúc nào cho giấy chứng nhận nên giấy chứng nhận đã được sử dụng như tiền-dùng để thanh toán các khoản nợ trong phạm vi ảnh hưởng của ngân hàng phát hành. Lợi ích từ việc sử dụng phương tiện thanh toán bằng giấy thay cho kim loại đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để đổi lấy giấy chứng nhận của ngân hàng. Đó là hình thức đầu tiên của giấy bạc ngân hàng. Ngày nay, vật có giá được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản. Cung cấp các tài khoản giao dịch: hoạt động này của ngân hàng cho phép người gửi tiền mở một tài khoản tiền gửi giao dịch và viết séc thanh toán cho việc mua bán hàng hoá và dịch vụ. Việc đưa ra loại tài khoản tiền gửi mới này được xem như một trong những bước đi quan trọng nhất trong công nghiệp ngân hàng bởi vì nó cải thiện đáng kể hiệu quả của quá trình thanh toán, làm cho các giao dịch kinh doanh dễ dàng hơn, nhanh chóng hơn và an toàn hơn. Chiết khấu thương phiếu: ngay ở thời kỳ đầu các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với các doanh nhân địa phương, những người bán các khoản nợ của các khách hàng cho ngân hàng để lấy tiền mặt. Cung cấp các dịch vụ uỷ thác: thực hiện hoạt động này tức là ngân hàng quản lý tài sản và quản lý hoạt động tài chính cho cá nhân và doanh nghiệp thương mại. theo đó ngân hàng sẽ thu phí trên cơ sở giá trị tài sản hay quy mô vốn mà họ quản lý. Hầu hết các ngân hàng đều cung cấp cả hai loại: dịch vụ uỷ thác thông thường cho cá nhân, hộ gia đình và uỷ thác thương mại cho các doanh nghiệp. Thông qua Phòng uỷ thác cá nhân, các khách hàng có thể tiết kiệm các khoản tiền để cho con đi học. Ngân hàng sẽ quản lý và đầu tư các khoản tiền đó cho đến khi khách hàng cần. Thậm chí phổ biến hơn, các ngân hàng đóng vai trò là người được uỷ thác trong di chúc quản lý tài sản cho khách hàng đã qua đời bằng cách công bố tài sản, bảo quản vật có giá, đầu tư có hiệu quả và đảm bảo cho người thừa kế hợp pháp việc nhận được khoản thừa kế. Trong phòng uỷ thác thương mại, ngân hàng quản lý danh mục đầu tư chứng khoán và kế hoạch tiền lương cho các công ty kinh doanh. Ngân hàng đóng vai trò như những người đại lý cho các công ty trong hoạt động phát hành cổ phiếu, trái phiếu. Điều này đòi hỏi phòng uỷ thác phải trả lãi hoặc cổ tức cho chứng khoán của công ty, thu hồi các chứng khoán khi đến hạn bằng cách thanh toán hộ cho những người nắm giữ chứng khoán. Thuê mua thiết bị (Leasing): rất nhiều ngân hàng tích cực cho khách hàng kinh doanh quyến lựa chọn mua các thiết bị, máy móc cần thiết thông qua hợp đồng thuê mua, trong đó ngân hàng mua thiết bị và cho khách hàng thuê. Cung cấp các dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán: trên thị trường tài chính hiện nay nhiều ngân hàng đang phấn đấu để trở thành một “bách hoá tài chính” thực sự, cung cấp đủ các dịch vụ tài chính cho phép khách hàng thoã mãn mọi nhu cầu tài chính tại một thời điểm. Đây là lý do khiến các ngân hàng bắt đầu bán các dịch vụ môi giới chứng khoán, cung cấp cho khách hàng các cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác mà không phải nhờ đến người kinh doanh chứng khoán. Quản lý tiền mặt: qua nhiều năm, các ngân hàng đã phát hiện ra rằng một số dịch vụ mà họ làm cho bản thân mình cũng có ích đối với các khách hàng. Một trong những ví dụ nổi bật nhất là dịch vụ quản lý tiền mặt, trong đó ngân hàng đồng ý quản lý việc thu chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư phần thặng dư tiền mặt tạm thời vào các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn cho đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Hiện nay, cũng có một xu hướng đang gia tăng về việc cung cấp các dịch vụ tương tự cho người tiêu dùng. Lý do là các công ty môi giới và các tập đoàn tài chính khác cung cấp cho người tiêu dùng tài khoản môi giới với hàng loạt dịch vụ tài chính liên quan. Tư vấn tài chính: các ngân hàng từ lâu đã được khách hàng yêu cầu thực hiện hoạt động tư vấn tài chính, đặc biệt là về tiết kiệm và đầu tư. Ngân hàng ngày nay thực hiện nhiều dịch vụ tư vấn tài chính đa dạng, từ chuẩn bị về thuế và kế hoạch tài chính cho các cá nhân đến tư vấn về các cơ hội thị trường trong nước và ngoài nước cho các khách hàng kinh doanh của họ. Cung cấp các dịch vụ hưu trí: phòng uỷ thác của các ngân hàng rất năng động trong việc quản lý kế hoạch hưu trí mà hầu hết các doanh nghiệp lập cho người lao động, đầu tư vốn và phát lương hưu cho những người đã nghỉ hưu hoặc tàn phế. Ngân hàng cũng bán các kế hoạch tiền gửi hưu trí cho cá nhân và giữ nguồn tiền gửi cho đến khi người sở hữu các kế hoạch này cần đến. Cung cấp dịch vụ quỹ tương hỗ và trợ cấp, cung cấp các dịch vụ ngân hàng đầu tư và ngân hàng bán buôn… 1.2. Cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại 1.2.1. Khái niệm về cho vay tiêu dùng Cho vay tiêu dùng là những khoản cho vay tài trợ cho nhu cầu chi tiêu của cá nhân và hộ gia đình. Các khoản cho vay tiêu dùng giúp người tiêu dùng có thể sử dụng hàng hoá và dịch vụ trước khi họ có khả năng chi trả, tạo cho họ có cơ hội hưởng một mức sống cao hơn. Những khoản cho vay như thế được dành nhiều vào các mục đích như: mua nhà, xây sửa nhà, mua xe hơi, các dụng cụ trong gia đình, đồ gỗ, các dịch vụ y tế, chi phí cho các dịp lễ. Ban đầu, hầu hết các ngân hàng không tích cực cho vay đối với cá nhân và hộ gia đình bởi họ tin rằng các khoản cho vay tiêu dùng có quy mô nhỏ với nguy cơ vỡ nợ tương đối cao do đó làm cho chúng trở nên có mức sinh lời thấp. Tuy nhiên, sự gia tăng thu nhập của người tiêu dùng và sự cạnh tranh trong cho vay đã buộc các ngân hàng phải hướng tới người tiêu dùng như là khách hàng tiềm năng. Đặc biệt, sau chiến tranh thế giới thứ hai, cho vay tiêu dùng đã trở thành một trong những loại hình tín dụng tăng trưởng nhanh nhất ở các nước có nền kinh tế phát triển. Hiện nay, thị trường cho vay tiêu dùng ở các quốc gia phát triển đã phần nào đạt đến đỉnh điểm trong khi tại các quốc gia đang phát triển thì mảng thị trường này vẫn còn rất tiềm năng. 1.2.2. Đặc điểm của cho vay tiêu dùng Khách hàng vay: khách hàng mục tiêu của ngân hàng thương mại đối với loại hình thức cho vay tiêu dùng là các cá nhân và hộ gia đình. Nguồn trả nợ: Nguồn trả nợ thường được lấy từ lương, hoặc từ thu nhập của hoạt động kinh doanh khác. Việc sử dụng tiền vay ngân hàng sẽ tạo cho người vay một tâm lý tích luỹ, tăng động lực làm việc của khách hàng. Quy mô khoản vay: ngoại trừ những khoản vay bất động sản, hầu hết các khoản vay còn lại đều có giá trị nhỏ nhưng số lượng các khoản vay lại lớn. Thời hạn cho vay: các khoản cho vay tiêu dùng thường có thời hạn dài. Rủi ro: các khoản cho vay tiêu dùng có nhiều rủi ro nhất đối với ngân hàng vì tình hình tài chính của các cá nhân và hộ gia đình có thể thay đổi nhanh chóng tuỳ theo tình trạng công việc hay sức khoẻ của họ. Việc thẩm định và quyết định cho vay đối với các khoản vay tiêu dùng thường gặp khó khăn do vấn đề thông tin không đầy đủ. Các thông tin của cá nhân thường không rõ rang và minh bạch như các báo cáo tài chính của các doanh nghiệp. Trong khi các doanh nghiệp có các báo cáo kiểm toán thì các cá nhân lại dễ dàng giữ kín các thông tin về triển vọng công việc cũng như tình hình sức khoẻ của mình. Ngoài ra, cho vay tiêu dùng có tính nhạy cảm theo chu kỳ. Khi nền kinh tế đang phát triển, cuộc sống của người dân được cải thiện, các nhu cầu tiêu dùng có xu hướng tăng. Ngược lại, khi nền kinh tế có dấu hiệu suy thoái, nguy cơ thất nghiệp sẽ khiến nhiều cá nhân và hộ gia đình hạn chế vay mượn ngân hàng. Chi phí quản lý khoản vay tiêu dùng lớn do các ngân hàng thường phải tốn nhiều thời gian và nhân lực để điều tra, thu thập các thông tin về chủ thể vay tiền trước khi đưa ra các quyết định phê duyệt khoản vay, thêm vào đó việc quản lý các khoản vay tiêu dùng với giá trị nhỏ nhưng số lượng lớn cũng không phải là một vấn đề đơn giản đối với các ngân hàng thương mại nên chi phí tính trên một đơn vị tiền tệ cho vay tiêu dùng cao hơn so với loại hình cho vay khác. Lợi nhuận từ việc cho vay tiêu dùng cao. Do rủi ro và chi phí từ việc cho vay tiêu dùng lớn nên các ngân hàng thường đặt mức lãi suất cao. việc đặt ra mức lãi suất cho vay tiêu dùng phải đáp ứng được phần lợi nhuận mong đợi dự kiến và cả phần bù rủi ro. Mức lãi suất này thường được đua ra cao đến mức chi phí và tỷ lệ tổn thất phải tăng lên đáng kể thì các khoản tín dụng tiêu dùng mới không mang lại lợi nhuận và hiệu quả cho các ngân hàng. Ngoài ra, các ngân hàng nắm bắt được tâm lý của người tiêu dùng khi vay tiền thường kém nhạy cảm với lãi suất mà quan tâm nhiều hơn đến khoản tiền họ phải trả hàng tháng. Việc đua ra một lịch trả nợ phù hợp với thu nhập của người tiêu dùng trong một kỳ hạn nhất định sẽ là yếu tố mang tính quyết định trong việc chấp thuận vay vốn. 1.2.3. Các hình thức cho vay tiêu dùng 1.2.3.1. Căn cứ vào loại tài sản được tài trợ Theo cách phân loại này, cho vay tiêu dùng được phân chia thành cho vay tài trợ đối với bất động sản và cho vay tiêu dùng thông thường như đi học, mua ô tô, xe máy, mua sắm vật dụng sinh hoạt, chữa bệnh. Tài trợ bất động sản Là các khoản cho vay nhằm mục đích mua mới hoặc sủa chữa, xây dựng nhà cửa, căn hộ và trong một số trường hợp bao gồm cả đất đai. Cho vay tài trợ đối với bất động sản khác với phần lớn các hình thức cho vay khác trên một số khía cạnh chủ yếu sau: Thứ nhất, quy mô của một món vay tài trợ đối với bất động sản thường lớn hơn nhiều so với quy mô trung bình của các món vay tiêu dùng thông thường. Thứ hai, các khoản cho vay tài trợ đối với bất động sản thường có kỳ hạn dài nhất trong danh mục cho vay của ngân hàng từ 15 đến 25 hoặc 30 năm. Do đó loại cho vay này thường chứa đựng những nguy cơ rủi ro tín dụng đáng kể bửi vì nhiều vấn đề có thể xảy ra bao gồm cả những thay đổi tiêu cực trong điều kiện kinh tế, lãi suất, sức khoẻ của người cho vay trong suốt kỳ hạn của khoản vay. Thứ ba, việc định giá tài sản đảm bảo bao gồm đánh giá giá trị và tình trạng của tài sản là trọng tâm của món vay, chúng có tầm quan trọng tương đương với thu nhập của người đi vay. Việc đánh giá giá trị tài sản đảm bảo phải tuân theo tiêu chuẩn của ngành và của chính phủ. Ngoài ra tính khả mại của tài sản cũng là một yếu tố quan trọng khi đánh giá tài sản. Các khoản cho vay có tài sản đảm bảo sẽ giúp các ngân hàng có thể hạn chế những ổn thất về tài chính khi khoản vay không được trả đúng hạn và phải path mại tài sản. Tài trợ hàng tiêu dùng lâu bền Cho vay mua sắm các tài sản có thời gian sử dụng lâu dài như ô tô, xe máy. Tính khả dụng của các tài khoản này khá cao, giá trị ở mức trung bình nên nhiều người tiêu dùng có nhu cầu mua sắm. Quy mô các tài khoản vay này thường không lớn, số lượng món vay phát sinh nhiều. Tài sản đảm bảo có thể chính là tài sản được hình thành từ món vay. Với những khoản vay này nguồn trả nợ có thể là nguồn thu hàng tháng được trả lãi theo định kỳ. Tài trợ nhu cầu tiêu dùng khác Cho vay tiêu dùng khác nhằm mục đích tài trợ cho những nhu cầu tiêu dùng như đi học, chũa bệnh, du lịch,cưới hỏi… Các khoản cho vay này, yếu tố quyết định cho vay hay không là thu nhập để trả nợ của người vay, sau đó mới xem xét đến giá trị của tài sản đảm bảo. 1.2.3.2. Căn cứ vào phương thức trả nợ của khách hàng Cho vay trả góp Cho vay trả góp là một hình thức cho vay ngắn hoặc trung hoặc dài hạn được thanh toán làm nhiều lần liên tiếp (thường theo tháng hay theo quý). Những khoản cho vay này thường được dùng để mua sắm những vật dụng đắt tiền hoặc để trang trải các khoản nợ. Nhìn chung các khoản cho vay trả góp mang lãi suất cố định, tuy nhiên loại mang lãi suất thả nổi cũng đang dần trở nên phổ biến nhưng dù sao đi nữa tỷ lệ các khoản cho vay trả góp lãi suất thả nổi vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ, khoảng 1/4 tổng số các khoản cho vay tiêu dùng. Cho vay trả một lần Cho vay trả một lần là các khoản cho vay ngắn hạn của các cá nhân và hộ gia đình nhằm đáp ứng nhu cầu tiền mặt tức thời và được thanh toán một lần khi khoản vay đến hạn. Quy mô của khoản vay tương đối nhỏ và bao gồm cả phí tài khoản với yêu cầu thanh toán trong vòng 30 ngày hoặc trong thời gian tương đối ngắn. Phần lớn các khoản vay loại này được dùng để chi trả cho những chuyến đi nghỉ, tiền viện phí, mua các dụng cụ gia đình hoặc sữa chữa ô tô, nhà ở. 1.2.3.3. Căn cứ vào phương thức cho vay a) Cho vay tiêu dùng gián tiếp Cho vay tiêu dùng gián tiếp là hình thức cho vay trong đó ngân hàng mua lại các khoản nợ phát sinh do những công ty bán lẻ đã bán chịu hàng hoá cho người tiêu dùng. Cho vay tiêu dùng gián tiếp thường được thực hiện như sau: CÔNG TY BÁN LẺ NGÂN HÀNG 1 NGƯỜI TIÊU DÙNG 4 5 6 2 3 Sơ đồ được diễn tả như sau: Ngân hàng và công ty bán lẻ ký kết hợp đồng mua bán nợ. Trong hợp đồng ngân hàng đưa ra các điều kiện về đối tượng khách hàng được bán chịu, số tiền bán chịu tối đa và loại tài sản được bán chịu. thực tế đây là bước để công ty bán lẻ và ngân hàng thoả thuận trước các điều kiện với khách hàng. Công ty bán lẻ và người tiêu dùng ký hợp đồng mua bán chịu hàng hoá. Thông thường người tiêu dùng phải trả trước một phần giá trị tài sản. Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng. Công ty bán lẻ bán bộ chứng từ bán chịu hàng hoá cho ngân hàng. Lúc này, hoạt động mua bán nợ thực sự diễn ra. Ngân hàng thanh toán cho công ty bán lẻ. Người tiêu dùng thanh toán tiền trả góp cho ngân hàng. Ưu điểm cho vay tiêu dùng gián tiếp: Cho phép ngân hàng dễ dàng tăng doanh số cho vay tiêu dùng Cho phép ngân hàng tiết kiệm, giảm được chi phí trong cho vay Là nguồn gốc của việc mở rộng quan hệ với khách hàng, tạo điều kiện cho việc bán chéo sản phẩm ở quá trình tiếp theo. Tuy nhiên, bên cạnh một số ưu điểm, cho vay tiêu dùng gián tiếp còn bộc lộ một số nhược điểm sau: Ngân hàng không trực tiếp tiếp xúc với khách hàng đã được các công ty bán lẻ bán chịu. Thiếu sự kiểm soát cảu ngân hàng khi công ty bán lẻ thực hiện việc bán chịu hàng hoá đặc biệt trong việc sàng lọc khách hàng. Kỹ thuật nghiệp vụ cho vay tiêu dùng gián tiếp có tính chất phức tạp cao. Do những nhược điểm kể trên mà cho vay tiêu dùng gián tiếp không được các ngân hàng thương mại tích cực tham gia. Những ngân hàng tham gia vào hoạt động này thì đều có các cơ chế kiểm soát tín dụng rất chặt chẽ. Cho vay tiêu dùng gián tiếp được thực hiện thông qua các phương thức sau: Tài trợ truy đòi toàn bộ: theo phương thức này khi bán cho ngân hàng các khoản nợ mà người tiêu dùng mua chịu hàng hoá, công ty bán lẻ cam kết sẽ thanh toán cho ngân hàng toàn bộ các khoản nợ nếu khi đên hạn người tiêu dùng không thanh toán cho ngân hàng. Tài trợ truy đòi hạn chế: theo phương thức này trách nhiệm của các công ty bán lẻ đối với khoản nợ người tiêu dùng mua chịu không thanh toán chỉ giới hạn trong một chừng mựu nhất định, phụ thuộc vào các điều khoản đã thoã thuận giữa ngân hàng và công ty bán lẻ. Tài trợ miễn truy đòi: theo phương thức này, sau khi bán các khoản nợ cho ngân hàng, công ty bán lẻ không còn chịu trách nhiệm cho việc các khoản nợ có được hoàn trả hay không. Phương thức này chứa đựng rủi ro cao nên chi phí ngân hàng thường được tính cao hơn so với các phương thức nói trên và các khoản nợ được mua cũng được lựa chọn rất kỹ lưỡng. Ngoài ra, chỉ những công ty bán lẻ có uy tín mới được áp dụng phương thức này. Tài trợ có mua lại: khi thực hiện cho vay tiêu dùng gián tiếp theo phương thức miễn truy đòi hoặc truy đòi một phần, nếu rủi ro xảy ra, người tiêu dùng không trả nợ thì ngân hàng thương mại phải thanh lý tài sản để thu hồi nợ. Trong trường hợp này, nếu có thoả thuận trước thì ngân hàng có thể bán lại cho công ty bán lẻ phần nợ của mình chưa được thanh toán, kèm với tài sản đã được sử dụng trong một thời hạn nhất định. b) Cho vay tiêu dùng trực tiếp Cho vay tiêu dùng trực tiếp là các khoản cho vay trong đó ngân hàng trực tiếp tiếp xúc với khách hàng và cho khách hàng vay cũng như trực tiếp thu nợ từ người vay. Cho vay tiêu dùng trực tiếp thường được thực hiện theo sơ đồ sau: CÔNG TY BÁN LẺ NGÂN HÀNG 3 1 4 NGƯỜI TIÊU DÙNG 2 Sơ đồ được diễn tả cụ thể như sau: Ngân hàng và người tiêu dùng ký kết hợp đồng vay vốn. Người tiêu dùng trả trước một phần tiền cho công ty bán lẻ. Ngân hàng thanh toán phần tiền còn lại cho công ty bán lẻ. Công ty bán lẻ giao tài sản cho người tiêu dùng. Người tiêu dùng thanh toán nợ vay cho ngân hàng. Cho vay tiêu dùng trực tiếp có ưu điểm hơn cho vay tiêu dùng gián tiếp thể hiện: Cho vay tiêu dùng trực tiếp giúp ngân hàng tận dụng được kỹ năng kiến thức của nhân viên tín dụng. Những người này thường được đào tạo chuyên môn và có nhiều kinh nghiệm cho vay do đó các quyết định cho vay của ngân hàng thường có chất lượng cao hơn so với trường hợp chúng được quyết định bởi những công ty bán lẻ hoặc nhân viên tín dụng của công ty bán lẻ. Ngoài ra, nhân viên tín dụng ngân hàng thường có xu hướng chú trọng đến việc tạo ra các khoản vay có chất lượng cao trong khi nhân viên của các công ty bán lẻ lại chú trọng tăng doanh số bán hàng. Bên cạnh đó tại các điểm bán hàng, các quyết định thường được đưa ra vội vàng và như vậy có thể có nhiều khoản tín dụng được cấp ra một cách không chính đáng. Hơn nữa, trong một số trường hợp, do quyết định nhanh nên các công ty bán lẻ có thể từ chối cấp tín dụng đối với các khách hàng tốt của mình. Nếu người cấp tín dụng là ngân hàng, điều này có thể được hạn chế. Cho vay tiêu dùng trực tiếp linh hoạt hơn cho vay tiêu dùng gián tiếp. Khi khách hàng có quan hệ trực tiếp với ngân hàng, có rất nhiều lợi thế có thể phát sinh, có khả năng làm thoã mãn quyền lợi cho cả hai phía ngân hàng và khách hàng. Thông qua cho vay tiêu dùng trực tiếp, ngân hàng có thể bán các sản phẩm khác, tăng cường quảng bá hình ảnh của ngân hàng… Tuy rằng những sự phân chia nói trên phần nào chỉ mang tính tương đối nhưng lại có ý nghĩa rất quan trọng. Nó giúp chúng ta có cái nhìn toàn diện hơn về hoạt động cho vay tiêu dùng, cũng như thây được sự phong phú đa dạng của hình thức cho vay tiêu dùng. 1.3. Các vấn đề cơ bản về phát triển cho vay tiêu dùng tại ngân hàng thương mại 1.3.1. Phát triển cho vay tiêu dùng Phát triển là sự tăng trưởng bền vững. Trong đó, Tăng trưởng là sự tăng thêm về quy mô, sản lượng trong một thời kỳ nhất định. Phát triển cho vay tiêu dùng là sự phát triển với nợ xấu thấp. 1.3.1.1. Tăng trưởng cho vay tiêu dùng Tăng trưởng cho vay tiêu dùng là sự tăng lên về quy mô cho vay, số lượng cho vay được xác định trong một thời gian nhất định. Mức tăng trưởng cho vay được xác định bằng số tương đối hay số tuyệt đối của số lượng cho vay kỳ sau so với kỳ trước. Số tương đối thể hiện tốc độ tăng trưởng nhanh hay chậm, số tuyệt đối thể mô tăng trưởng cho vay. Tăng trưởng cho vay được thể hiện: Đối với khách hàng: cho vay tiêu dùng phải thoã mãn tối đa các yêu cầu hợp lý của khách hàng về khối lượng cho vay cung cấp, đa dạng hoá các hình thức và loại hình cho vay. Đối với ngân hàng thương mại: cho vay tiêu dùng sẽ là một hướng đi mới góp phần làm đa dạng hoá danh mụccho vay của ngân hàng, làm tăng hiệu quả hoạt động. Đối với sự phát triển kinh tế xã hội: cho vay tiêu dùng phải đáp ứng được yêu cầu về vốn của người tiêu dùng, góp phần nâng cao cuộc sống của người dân và sự phát triển của xã hội. Như vậy, tăng trưởng cho vay (mở rộng cho vay) phản ánh sự vận động cho vay về mặt lượng, còn chất lượng cho vay phản ánh sự phát triển của cho vay về mặt chất. Tăng trưởng cho vay phản ánh sự phát triển của cho vay nhưng bản thân nó là một đại lượng không hoàn hảo về sự phát triển của cho vay. Tăng trưởng cho vay phải đi đôi với nâng cao chất lượng cho vay, phải phù hợp với tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Từ đó việc tăng trưởng mới có thể ổn định và bền vững. Tăng trưởng cho vay nhanh trong khi không nâng cao chất lượng cho vay là một trong những nguyên nhân gây ra đổ bể cho vay. 1.3.1.2. Chất lượng cho vay tiêu dùng Chất lượng cho vay tiêu dùng được hiểu là vốn vay ngân hàng đáp ứng kịp thời, đầy đủ nhu cầu của khách hàng để khách hàng trang trải đầy đủ chi phí, hoàn trả đầy đủ và đúng hạn cho ngân hàng cả gốc lẫn lãi và có lợi nhuận phù hợp với sự phát triển kinh tế xã hội. Chất lượng cho vay tiêu dùng được thể hiện: Đối với NHTM: chất lượng cho vay được thể hiện một cách đơn giản là hiệu quả của việc cho vay mang lại, nó phù hợp với năng lục của ngân hàng và đảm bảo tính cạnh tranh; là khả năng thu hồi gốc và lãi cho vay đầy đủ và đúng hạn. Hiệu quả và khả năng thu nợ càng cao thì chất lượng cho vay càng cao và ngược lại. Đối với khách hàng: chất lượng cho vay là thể hiện các khoản vay được đáp ứng kịp thời, đầy đủ với lãi suất hợp lý và có sức cạnh tranh. Các khoản vay vốn từ NHTM giúp cho khách hàng có đủ tiền để thoã mãn các nhu cầu về tiêu dùng, nâng cao chất lượng cuộc sống. Đối với nền kinh tế: chất lượng cho vay tiêu dùng là phục vụ tốt các nhu cầu tiêu dùng của người dân, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của xã hội, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tăng trưởng cho vay và phát triển xã hội. Hiện nay tăng trưởng cho vay cao và chất lượng cho vay tốt là hai vấn đề không thể tách rời, chất lượng cho vay bảo đảm hiệu quả kinh doanh của ngân hàng về hai mặt là khả năng sinh lợi và giảm thiểu rủi ro về sử dụng vốn. Đồng thời, hoạt đọng cho vay tốt phải dựa trên nguyên tắc là thoã mãn nhu cầu vốn của khách hàng đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, do đó các ngân hàng cần xác định được khách hang mục tiêu, hiểu rõ hơn nhu cầu khách hàng để có chính sách phục vụ tốt hơn. 1.3.2. Chỉ tiêu phản ánh sự phát triển cho vay tiêu dùng của NHTM 1.3.2.1. Quy mô và tốc độ cho vay tiêu dùng Doanh số cho vay và dư nợ Chỉ tiêu dư nợ thể hiện quy mô cho vay của ngân hàng. Dư nợ của ngân hàng có thể tính theo ngày, tháng, quý, năm. Từ dư nợ cho vay tiêu dùng của ngân hàng có thể xem xét theo kết cấu thời gian cho vay (ngắn, trung, dài hạn), cho vay theo sản phẩm, đối tượng khách hàng. Dư nợ cho vay càng cao thì quy mô cho vay càng lớn. Điều đó chứng tỏ ngân hàng đang mở rộng cho vay. Thông qua chỉ tiêu dư nợ có thể biết được dư nợ cho vay tiêu dùng của ngân hàng chiếm tỷ trọng bao nhiêu trong tổng dư nợ cho vay của ngân hàng hoặc với toàn ngành ở cùng thời kỳ: Dư nợ cho vay tiêu dùng của ngân hàng x 100% Tổng dư nợ cho vay của toàn hệ thống Tốc độ tăng trưởng dư nợ Tốc độ tăng/ giảm dư nợ cho vay tiêu dùng qua các năm phản ánh được quy mô và xu hướng của việc đầu tư tín dụng là tăng trưởng hay thu hẹp. Chỉ tiêu này được xác định theo công thức: Tổng dư nợ cho vay năm nay x 100% Tổng dư nợ cho vay năm trước 1.3.2.2. Thu lãi từ hoạt động cho vay tiêu dùng Tỷ trọng thu lãi từ cho vay tiêu dùng tăng và giảm qua các năm phản ánh được quy mô và xu hướng mở rộng cho vay tiêu dùng của NHTM là có hiệu quả và là có tín hiệu tốt để tiếp tục mở rộng cho vay tiêu dùng. Chỉ tiêu này được xác định theo công thức: Thu lãi từ cho vay tiêu dùng x 100% Tổng thu lãi cho vay Tỷ trọng thu lãi từ cho vay tiêu dùng tăng và giảm qua các năm phản ánh được quy mô và xu hướng mở rộng cho vay tiêu dùng của NHTM là có hiệu quả và có tín hiệu tốt để tiếp tục mở rộng cho vay tiêu dùng. 1.3.2.3. Tỷ lệ nợ xấu Tỷ lệ nợ quá hạn Nợ quá hạn trong hoạt động tín dụ._.ng ngân hàng là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thoả thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Nợ quá hạn vi phạm đặc trưng cơ bản của tín dụng là tính hoàn trả, hoàn trả không đầy đủ và kịp thời gây nên sự đổ vỡ niềm tin của ngân hàng đối với người vay. Tỷ lệ nợ quá hạn là tỷ lệ nợ phần trăm giữa nợ quá hạn và tổng dư nợ của NHTM ở một thời điểm nhất định (thường là cuối tháng, quý, năm). Tỷ lệ nợ quá hạn = Dư nợ quá hạn x 100% Tổng dư nợ Nợ quá hạn trong cho vay tiêu dùng là một hiện tượng tất yếu. Song vấn đề quan trọng là phải giảm phải giảm tỷ lệ nợ quá hạn đến mức thấp nhất. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến rủi ro, bao gồm cả nguyên nhân chủ quan và nguyên nhân khách quan. Nguyên nhân chủ quan là do sự yếu kém của bản than NHTM. Nguyên nhân khách quan là do khách vay không có khả năng trả được hoặc không muốn trả nợ. NHTM có tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ bị đánh giá là có chất lượng cho vay thấp. Đây là chỉ tiêu hiện nay thường được sử dụng khi phân tích đánh giá chất lượng cho vay của NHTM. Để phân tích đánh giá chất lượng cho vay người ta thường xem xét trên các khía cạnh: Nợ quá hạn theo nguyên nhân: khách quan và nguyên nhân chủ quan. Nợ quá hạn theo thành phần kinh tế, có tài sản bảo đảm hay không có tài sản bảo đảm, có khả năng thu hồi hay không có khả năng thu hồi. Nợ quá hạn theo nhóm: nhóm 2, nhóm 3, nhóm 4 hay nhóm 5. Giải quyết nợ quá hạn là mối quan tâm thường trực của tất cả các NHTM. Do vậy các NHTM ngay từ đầu phải có chính sách đầu tư, chính sách khách hàng, quy chế cho vay, kiểm soát chặt chẽ các khoản vay và các biện pháp xử lý nợ quá hạn. Tỷ lệ sử dụng vốn vay sai mục đích Nguyên tắc vay vốn đầu tiên là khách hàng vay vốn phải sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Để đảm bảo cho các khoản vay các NHTM rất chú trọng, thường xuyên quan tâm đến việc khách hàng vay sử dụng đồng vốn vay của mình như thế nào. Theo quy trình cho vay, ngân hàng phải thực hiện tốt chế độ kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay. Khi vay vốn các khách hàng phải lập đề nghị xin vay vốn trong đó trình bày tóm tắt mục đích sử dụng vốn vay, thời hạn xin vay, kế hoạch trả nợ, và cam kết sử dụng vốn vay đúng mục đích. Trên cơ sở đó ngân hàngkiểm tra vốn vay đó có được khách hàng vay sử dụng đúng mục đích của phương án xin vay hay không. Chỉ tiêu này được xác định như sau: Tỷ lệ vốn vay = Số tiền vay sử dụng sai mụcđích x 100% sử dụng sai mục đích Tổng dư nợ Chỉ tiêu này sử dụng nhằm đánh giá chất lượng cho vay cả về nợ quá hạn lẫn nợ trong hạn nhưng đã chứa đựng tiềm ẩn rủi ro. Đây là chỉ tiêu hết sức nhạy cảm bởi nó đánh giá tương đối thực chất về chất lượng những khoản nợ đã cho vay. Tỷ lệ sử dụng vốn vay sai mục đích càng cao thì chất lượng cho vay càng thấp và ngược lại. Hiện nay, nhiều NHTM chưa coi trọng chỉ tiêu này, do đó các báo về chất lượng cho vay còn chứa nhiều mầm mống rủi ro sẽ phát sinh trong tương lai. Tuy nhiên, để hạn chế đến mức thấp nhất khách hàng vay có chủ ý sử dụng vốn vay sai mục đích là một việc làm hết sức khó khăn trong điều kiện hiện nay. 1.3.3. Biện pháp phát triển cho vay tiêu dùng 1.3.3.1.Biện pháp tăng số dư Tìm hiểu khách hàng Tìm hiểu nhu cầu vay của người đi vay: Khách hàng vay tiêu dùng của ngân hàng là các cá nhân và hộ gia đình có nhu cầu rất đa dạng, từ các nhu cầu thiết yếu đến nhu cầu cao cấp. Đời sống con người ngày càng được nâng cao thì các nhu cầu về hàng hoá cao cấp càng lớn. Tuy nhiên, tuỳ từng giai đoạn phát triển sẽ xuất hiện nhu cầu nổi bật cần tài trợ. Vấn đề là phải phát hiện được nhu cầu nhanh nhất để đáp ứng kịp thời vì những người đi đầu sẽ có ưu thế trong việc thu hút khách hàng. Các sản phẩm cho vay của ngân hàng mang tính dịch vụ nên nhu cầu khách hàng mang yếu tố quyết định các hình thức cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Nhu cầu của khách hàng là nền tảng căn cứ để xây dựng chiến lược phát triển sản phẩm cho vay tiêu dùng của ngân hàng. Việc nghiên cứu chuẩn xác nhu cầu của khách hàng để từ đó đưa ra các sản phẩm phù hợp trong từng giai đoạn sẽ giúp cho ngân hàng hoạt động hiệu quả hơn. Nếu sự phát hiện các nhu cầu chậm sẽ khiến các ngân hàng bõ lỡ các cơ hội kinh doanh và có thể đưa ra các sản phẩm lỗi thời không phù hợp với nhu cầu hiện tại. Trong khi đó nếu đưa ra các sản phẩm mới người tiêu dùng lại chưa có nhu cầu sử dụng thì sản phẩm đó sẽ phải bỏ trống một thời gian. Thu nhập của người đi vay: Mức thu nhập của khách hàng có vị trí rất quan trọng đối với nhu cầu tiêu dùng của họ. Người ta chỉ có nhu cầu vay tiền của ngân hàng để phục vụ cho nhu cầu chi tiêu khi mà thu nhập dự kiến trong tương lai của họ có khả năng thanh toán khoản nợ đó. Hay, triển vọng về thu nhập sẽ là một trong những cơ sở phát sinh nhu cầu vay tiêu dùng. Đối với những người cho vay, vấn đề thu nhập của khách hàng xin vay sẽ có ảnh hưởng quyết định tới khả năng trả nợ của khách hàng. Do vậy, triển vọng về thu nhập là cơ sở giúp cho người đi vay nhận được khoản vay mà mình mong đợi. Tuy nhiên, thu nhập là nhân tố có tính biến động rất cao. Những rủi ro như: sức khoẻ, tính mạng, năng lực pháp lý… có thể khiến cho thu nhập của người đi vay thay đổi một cách nhanh chóng. Một hợp đồng tín dụng từ chổ chất lượng tín dung đang tốt có thể bổng chốc tụt xuống thảm hại. Nói chung, hầu hết những hợp đồng tín dụng dạng đó biến thành những khoản nợ xấu của ngân hàng. Cách duy nhất mà ngân hàng nên làm là chấp nhận những rủi ro này, hạn chế tổn thất bằng cách tăng quy mô khách hàng, bù đắp cho những tổn thất có thể xảy ra. Đây là một cách làm hoàn toàn khả quan bởi những khoản cho vay tiêu dùng có quy mô nhỏ nhu cầu về cho vay tiêu dùng lại lớn với số khách hàng đông. Về bản chất, đây là nguyên tắc lấy số đông bù số ít trong hoạt động bảo hiểm. Trình độ văn hoá: Ngoài nhân tố thu nhập, trình độ văn hoá cũng ảnh hưởng quan trọng tới hoạt động cho vay tiêu dùng. Bởi vì, đối với những người có trình độ và thu nhập ổn định thì có xu hướng xem việc vay mượn là công cụ để đạt được mức sống như mong muốn hơn là một lựa chọn được dùng trong tình trạng khẩn cấp. Ngoài ra, những người có trình độ văn háo cao thì có nhiều cơ hội trong việc tìm kiếm việc làm thu nhập cao. Trình độ văn hoá cũng có ảnh hưởng nhất định tới đặc điểm đạo đức của người vay. Người có trình độ sẽ hiểu rõ và ý thức được quyền lợi và nghĩa vụ của mình khi vay một khoản tiền của mình từ một tổ chức tài chính. Từ đó ý thức trả nợ nâng lên, những rủi ro trong hợp đồng tín dụng có thể được hạn chế và cuối cùng là khả năng ngân hàng có được khoản cho vay chất lượng tốt tăng lên. Như vậy có thể thấy rằng khách hàng của ngân hàng sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng. Sự thành đạt của khách hàng, sự mở rộng của hoạt động kinh doanh, lưu thông hàng hoá là điều kiện để tăng trưởng cho vay. Do đó, phải tăng cường thiết lập mối quan hệ bền vững, lâu dài với khách hàng, tăng cường thu hút khách hàng, tư vấn cho khách hàng, từ đó không ngừng mở rộng khối lượng đầu tư và nâng cao chất lượng cho vay, tạo điều kiện thuận laọi cho khách hàng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. Đó chính là mục tiêu và lợi ích cả hai bên cùng quan tâm. Nâng cao chất lượng cho vay tiêu dùng Chất lượng của các hình thức cho vay tiêu dùng ảnh hưởng trực tiếp đến lượng khách hàng sử dụng dịch vụ từ đó nâng cao doanh số cho vay của NHTM. Một ngân hàng sẽ ít có khả năng có được một sự phát triển lớn mạnh, một quy mô hoạt động lớn trong lĩnh vực cho vay tiêu dùng nếu những sản phẩm cho vay tiêu dùng mà nó cung cấp cho khách hàng lại quá đơn điệu, chất lượng không cao, đáp ứng chưa tốt nhu cầu của khách hàng. Đây là một điều nguy hiểm vì trong điều kiện hiện nay, tính chất cạnh tranh diễn ra ngày càng khốc liệt, đặc biệt là về mặt chất lượng và sự đa dạng của sản phẩm. Các ngân hàng luôn phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm và đa dạng hoá nhằm cũng cố và mở rộng thị phần, duy trì khả năng cạnh tranh. Nếu không thực hiện hoặc thực hiện không được điều đó thì vô hình chung ngân hàng đã tự gạch tên mình ra khỏi danh sách những nhà cung cấp sản phẩm cho vay tiêu dùng trên thị trường. Phát triển công nghệ thông tin Trong xu thế hiện nay, công nghệ thông tin ngày càng có vị trí quan trọng trong các hoạt động kinh tế nói chung và hoạt động ngân hàng nói riêng. Công nghệ thông tin có thể đem lại những lợi ích to lớn và sức cạnh tranh cho các ngân hàng thương mại: Cập nhật, thu thập, xử lý và phân tích thông tin nhanh hơn, giúp đơn giản hoá các quá trình làm việc, giảm chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm. Nhờ đó công nghệ thông tin, ngân hàng có thể lưu trữ được lượng lớn các hồ sơ tín dụng thuận tiện cho việc truy cập và khai thác thông tin sau này. Đồng thời khách hàng cũng có thể ngồi tại nhà hay bất cứ đâu để nộp đơn xin vay tiêu dùng cũng như tiếp cận các dịch vụ khác của ngân hàng một cách thuận tiện mà không phải trực tiếp đến ngân hàng. Điều đó làm cho ngân hàng dễ dàng tăng số dư nợ lên thực hiện được kế hoạch chiến lược của ngân hàng đề ra. Trong hoạt động cho vay, ngân hàng bỏ tiền ra vay trên cơ sở chủ yếu là long tin. Lòng tin đó chính xác hay không phụ thuộc vào chất lượng thông tin. Để cho vay có chất lượng, ngân hàng phải có được thông tin, phân tích và xử lý chính xác rất nhiều thông tin liên quan. Chúng ta có thể phân thành hai nhóm như sau: Thông tin phi tài chính: là những thông tin không phải từ những cuốn sổ sách, số liệu kinh tế. Chúng có rất nhiều loại và phong phú, bao gồm cả thông tin trực tiếp và thông tin gián tiếp. Loại thông tin trực tiếp như: tư cách, uy tín, năng lực quản lý, năng lực tổ chức điều hành và quản lý kinh doanh… của khách hàng vay; cung cầu, giá cả, thị trường… của đối tượng cho vay. Còn thông tin gián tiếp như: tình hình kinh tế, chính trị, xã hội về xu hướng phát triển cạnh tranh của ngành nghề, những yếu tố có thể ảnh hưởng hay thay đổi đến sản phẩm dự án cho vay trong tương lai… Thông tin tài chính: bao gồm các thông tin liên quan đến tài chính như: năng lực tài chính, kết quả kinh doanh, công nợ, hàng tồn kho, giá trị tài sản đảm bảo… Yêu cầu của thông tin là chính xác, đầy đủ và kịp thời. Để đạt được yêu cầu đó phải cần rất nhiều thông tin khác nhau: Thông tin lấy sẵn qua hồ sơ khách hàng. Thông tin từ cơ quan quản lý: Trung tâm thông tin tín dụng, tổng cục thống kê, thuế, cơ quan chủ quản, chính quyền địa phương… Thông tin qua điều tra phỏng vấn và các nguồn khác như: báo cáo, truyền hình… 1.3.3.2.Biện pháp hạn chế rủi ro trong cho vay tiêu dùng Đa dạng hoá sản phẩm cho vay tiêu dùng Đa dạng hoá sản phẩm cho vay tiêu dùng là quá trình cung cấp nhiều chủng loại sản phẩm cho vay cho khách hàng nhằm thoã mãn nhu cầu và mong muốn của khách hàng để giữ khách hàng truyền thống và mở rộng khách hàng khác trên thị trường khác nhau nhờ đó tăng doanh thu và lợi nhuận. Tác dụng của đa dạng hoá sản phẩm cho vay là: Thứ nhất: Đa dạng hoá sản phẩm cho vay tiêu dùng sẽ làm tăng tổng dư nợ và khách hàng vay góp phần tăng lợi nhuận. Thứ hai: Thúc đẩy các nghiệp vụ cùng phát triển. Thứ ba: Tăng khả năng cạnh tranh của NHTM trong nền kinh tế thị trường. Thứ tư: Đa dạng hoá sản phẩm sẽ giúp cho NHTM phân tán rủi ro. V ì vậy, để hạn chế rủi ro trong cho vay tiêu dùng cần phải đa dạng hoá sản phẩm cho vay của mình. Tuy nhiên, việc đa dạng hoá sản phẩm đòi hỏi quản lý tín dụng phức tạp hơn, cán bộ tín dụng phải hiểu biết và nắm vững nghiệp vụ cho vay sâu sắc hơn. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực của ngân hàng Hoạt động ngân hàng ngày càng phát triển đòi hỏi chất lượng ngày càng cao của đội ngũ cán bộ nhân viên để có thể sử dụng có hiệu quả của các phương tiện công nghệ ngân hàng hiện đại phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Đánh giá nhân tố con người bao gồm các khía cạnh: số lượng, cơ cấu nhân sự, trình độ cán bộ, năng lực điều hành kinh doanh, phẩm chất đạo đức nghề nghiệp… Một ngân hàng muốn hoạt động kinh doanh tốt trước hết phải có đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý là những người giàu “chất xám” năng động sáng tạo trong kinh doanh với phẩm chất đạo đức tốt, tâm huyết với nghề nghiệp và luôn vì lợi ích của tập thể, lợi ích chung. Sau nữa là phải có can bộ tinh thông về nghiệp vụ, hiểu biết và có kiến thức về kinh tế, pháp luật, thị trường, có tinh thần trách nhiệm cao, trung thực, có thái độ phục vụ khách hàng tốt, tạo được niềm tin của khách hàng vào ngân hàng, thường xuyên nâng cao đạo đức phẩm chất, nâng cao trình độ nghiệp vụ để thực hiện tốt mọi nhiệm vụ được giao ở mức cao nhất… cán bộ ngân hàng phải thực sự là người bạn đồng hành của khách hàng qua thái độ phục vụ khách hàng tận tình và khả năng tư vấn về hoạt động kinh doanh trên thị trường. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TIÊU DÙNG TẠI NHTMCP QUÂN ĐỘI GIAI ĐOẠN 2004 - 2006 2.1 Khái quát về ngân hàng TMCP Quân Đội 2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển của ngân hàng TMCP Quân Đội 2.1.1.1. Nguyên nhân dẫn tới sự hình thành ngân hàng TMCP Quân Đội Ngân hàng TMCP Quân Đội ra đời là sự hội tụ của nhiều yếu tố mà trong đó quan trọng nhất phải kể đến đó là thời điểm và ý tưởng thành lập ngân hàng. Trước đây, trong chiến tranh các ý tưởng thành lập một ngân hàng giống như các ngân hàng ở Liên Xô cũ đã hình thành. Các ngân hàng này được yêu cầu tách khỏi chức năng cấp phát cho các đơn vị quân đội làm kinh tế và dần đến tự chủ về tài chính trong hoạt động vừa dựng nước vừa giữ nước. Song các ý tưởng đó đã không thực hiện được do còn nhiều hạn chế về cơ chế thành lập Sau chiến tranh, các doanh nghiệp quân đội bên cạnh nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc thì nhiệm vụ xây dựng kinh tế đã được đặt ra. Họ hoạt động sản xuất kinh doanh trong hầu khắp các lĩnh vực của nền kinh tế. Thế nhưng, khó khăn nhất cho các doanh nghiệpquân đội làm kinh tế chính là vốn từ khi bắt đầu hoạt động. Thời điểm trước năm 1990, các doanh nghiệp quân đội gặp rất nhiều khó khăn trong việc vay vốn ngân hàng do các ngân hàng lúc đó chưa am hiểu nhiều về các doanh nghiệp này, địa bàn các doanh nghiệp này cũng khó xác định. Trước yêu cầu đó, cần phải có một tổ chức tài chính trung gian để có thể điều hoà vốn từ các doanh nghiệp quân đội thừa sang các doanh nghiệp quân đội thiếu và tìm kiếm nguồn tài trợ cho các hoạt động này. Đặc biệt, khi pháp lệnh về ngân hàng hình thành hệ thống ngân hàng 2 cấp với ngân hàng nhà nước quản lý và ổn định tiền tệ cùng hệ thống các tổ chức tín dụng hoạt động kinh doanh phục vụ nhu cầu phát triển kinh tế đất nước thì từ các ý tưởng nhen nhóm ban đầu cùng các chuyến đi khảo sát tại các nước trong khu vực và trên thế giới đã đặt ra một yêu cầu là phải có một ngân hàng phục vụ các doanh nghiệp quân đội làm kinh tế. 2.1.1.2 Sự hình thành và phát triển của ngân hàng TMCP Quân Đội Ngân hàng Thương mại Cổ phần Quân đội, có tên Tiếng Anh là Military Commercial Joint-Stock Bank (MB) được thành lập vào năm 1994, tại nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam, theo Quyết định số 00374/GP-UB của Ủy ban nhân dân Thành phố Hà Nội và hoạt động theo Giấy phép số 0054/NH-GP, ngày 14 tháng 9 năm 1994 do Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam cấp và có thời hạn 50 năm kể từ ngày cấp. Được thành lập vào năm 1994, đến nay qua hơn 10 năm hoạt động, MB đã liên tục kinh doanh có hiệu quả và được Ngân hàng Nhà nước Việt nam đánh giá là một trong những Ngân hàng thương mại cổ phần hàng đầu của Việt Nam. MB phục vụ các đối tượng khách hàng đa dạng bao gồm các doanh nghiệp & cá nhân thuộc mọi thành phần kinh tế trong đó có doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và các cá nhân. Với phương châm hoạt động an toàn, hiệu quả và luôn đặt lợi ích của khách hàng gắn liền với lợi ích của Ngân hàng, những năm qua, MB luôn là người đồng hành tin cậy của khách hàng và uy tín của Ngân hàng ngày càng được củng cố và phát triển. Sự tăng trưởng về vốn và quy mô hoạt động của Ngân hàng luôn ổn định và liên tục trong suốt quá trình hoạt động. Vốn chủ sở hữu của Ngân hàng tăng liên tục từ 20 tỷ đồng năm 1994 lên đến 440 tỷ đồng vào cuối năm 2004. Tổng tài sản tăng tương ứng từ 32 tỷ đồng lên đến hơn 6.900 tỷ, Lợi nhuận trước thuế tăng từ 4,8 tỷ đồng năm 1995 lên 105,391 tỷ đồng năm 2004, góp phần đưa MB trở thành một trong những ngân hàng có mức lợi nhuận trước thuế cao nhất trong hệ thống các Ngân hàng TMCP trên địa bàn Hà Nội. Nếu xét chỉ tiêu lợi nhuận trước thuế trên vốn chủ sở hữu thì MB luôn duy trì được mức ROE trên 20% trong những năm vừa qua. Chính vì vậy, tỷ lệ chia cổ tức hàng năm đạt 15-20%. Để đáp ứng nhu cầu phát triển, MB liên tục mở rộng mạng lưới hoạt động. Đến nay MB đã có trên 20 chi nhánh và phòng giao dịch tại các trung tâm kinh tế lớn của cả nước như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Hải Phòng và Đà Nẵng. Trong năm 2005, Ngân hàng có kế hoạch tiếp tục mở thêm 8 chi nhánh tại các đô thị trọng điểm để đáp lại sự tín nhiệm của khách hàng. Cũng trong năm 2005, Hội sở chính được chuyển về Tòa nhà Ngân hàng Quân đội tại số 3 Liễu Giai, Ba Đình, Hà Nội. Cùng với việc mở rộng mạng lưới chi nhánh trong nước, Ngân hàng cũng rất chú trọng đến việc mở rộng quan hệ hợp tác & mạng lưới giao dịch với các ngân hàng trên thế giới. Cho đến nay mạng lưới các ngân hàng đại lý của MB đã mở rộng tới hơn 300 ngân hàng ở trên 56 quốc gia, đảm bảo thanh toán & giao dịch với tất cả các châu lục trên thế giới. Song song với việc mở rộng mạng lưới hoạt động, MB luôn chú trọng công tác đầu tư phát triển nguồn lực và ứng dụng công nghệ mới. Với chủ trương này, chất lượng dịch vụ của Ngân hàng liên tục được cải thiện, mang lại cho khách hàng sự yên tâm, thuận tiện và hiệu quả khi sử dụng các dịch vụ của Ngân hàng. 2.1.1.3 Nhiệm vụ chủ yếu của ngân hàng TMCP Quân Đội Ngay từ khi ra đời, mục tiêu hoạt động của ngân hàng TMCP Quân Đội đã được xác định rõ là thực hiện hoạt động như một ngân hàng đa năng phục vụ cho các doanh nghiệp quân đội làm kinh tế, làm dịch vụ ngân hàng đối với mọi thành phần kinh tế. Cùng với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, ngân hàng TMCP Quân Đội đã không ngừng lớn mạnh. Không chỉ đáp ứng nhu cầu vốn của các doanh nghiệp Quân Đội mà còn phục vụ rất đắc lực các thành phần kinh tế khác, đóng góp một phần quan trọng trong sự thành công của các khách hàng. 2.1.1.4 Mô hình tổ chức ngân hàng Trong những năm qua, Ngân hàng không ngừng xây dựng, đổi mới mô hình tổ chức theo hướng tích cực, điển hình có sự phân tách rõ ràng giữa hoạt động quản lý và hoạt động kinh doanh của Hội sở và chi nhánh theo mô hình tổ chức hiện đại của các Ngân hàng Thế giới. 2.1.2 Một số nét chính về tình hình hoạt động quản lý kinh doanh của hệ thống ngân hàng TMCP Quân Đội trong năm 2006 2.1.2.1 Hoạt động huy động vốn Ngân hàng quân Đội luôn xác định tạo vốn là khâu mở đường, là cơ sở bảo đảm cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng phát triển. Bởi muốn hoạt động cho vay phải có vốn, muốn có vốn phải huy động là chủ yếu. như vậy huy động vốn là bước khởi đầu quan trọng nhất để có được các hoạt động tiếp theo trong quá trình thực hiện hoạt động cho vay. Nguồn: báo cáo thường niên ngân hàng Quân Đội Tính đến 30/12/2006, tổng nguồn vốn huy động của MB đạt 10.217,57 tỷ, tăng 45% so với đầu năm, bằng 115,4% kế hoạch năm. Cơ cấu huy động vốn tiếp tục được đảm bảo theo chiều hướng tốt. Trong đó, lượng vốn huy động được từ dân cư tăng trưởng khá, tăng 160% so với đầu năm. Trong năm 2006, MB còn tham gia khá tích cực trên thị trường liên ngân hàng với mục đích kinh doanh để thu lợi nhuận và nâng cao được tính thanh khoản. Những kết quả đạt được của MB trên thị trường liên ngân hàng đã được ngân hàng nhà nước (NHNN) đánh giá cao. Với kết quả như vậy, tổng tài sản của MB đến 31/12/2006 đạt 10.431,78 tỷ, tăng 26.98% so với đầu năm. Tỷ lệ an toàn vốn của ngân hàng đạt trên 8% theo đúng quy định của NHNN. 2.1.2.2 Hoạt động tín dụng Tổng dư nợ cho vay đến 31/12/2006 của MB là 5104.74 tỷ, tăng 14.2% so với đầu năm, phù hợp với mục tiêu tập trung nâng cao chất lượng tín dụng kết hợp tái cơ cấu các khoản nợ. Trong năm, MB đã làm đầu mối thành công trong nhiều dự án đồng tài trợ với các ngân hàng, đẩy mạnh cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ và tăng nhanh tỷ trọng tín dụng bán lẻ. Nguồn: báo cáo thường niên ngân hàng Quân Đội Chất lượng tín dụng của MB có nhiều tiến bộ, tỷ lệ nợ quá hạn năm 2006 là 1,68%. MB đã triển khai thực hiện nghiêm chỉnh Quyết định 493 về phân loại và trích lập dự phòng rủi ro của NHNN, tích cực thu hồi nợ đọng và kết quả dạt được rất khả quan. Bảng tình hình hoạt động tín dụng của ngân hàng TMCP Quân Đội trong năm 2006 đơn vị: triệu đồng cho vay ngắn hạn 3.274.251 cho vay trung và dài hạn 1.581.920 các khoản cho vay và ứng trước khác 54.913 4.911.084 dự phòng các khoản cho vay và ứng trước khó đòi (93.970) 4.817.114 2.1.2.3 Hoạt động bảo lãnh Hoạt động bảo lãnh của MB trong năm 2006 vẫn tiếp tục đạt được tăng trưởng cao, đóng góp nhiều lợi nhuận cho MB. Tổng số dư bảo lãnh đến 30/12/2006 đạt 1.524,18 tỷ đồng, tăng 14.6% so với năm 2005. Doanh số bảo lãnh tăng mạnh mà chất lượng bảo lãnh vẫn được bảo đảm. Kể từ khi cung cấp dịch vụ, MB vẫn chưa phải thực hiện một nghĩa vụ bảo lãnh nào. Tổng phí bảo lãnh thu được tăng 46,6% so với cùng kỳ năm trước, góp phần đưa MB trở thành ngân hàng có phí bảo lãnh thu được cao nhất trong hệ thống các NHTMCP. 2.1.2.4 Hoạt động kinh doanh vốn và ngoại tệ Trong năm,với việc đưa khối Treasury vào hoạt động,việc quản lý vốn và kinh doanh tiền tệ của MB đã có những kết quả rất đáng ghi nhận. Nhìn chung, khối Treasury đã đảm trách khá tốt việc điều hoà vốn giữa các chi nhánh, quản lý chặt chẽ dự trữ bắt buộc, cơ cấu lại tài khoản Nostro và kinh doanh ngoại tệ phục vụ khách hàng và để kiếm lời. Đồng thời MB đã tham gia tích cực vào hoạt động cầm cố, chiết khấu giấy tờ có giá, tham gia thị trường mở, được NHNN đánh giá cao. Trong năm 2006, hoạt động kinh doanh vốn và ngoại tệ đã mang lại cho MB lợi nhuận bằng 120% kế hoạch đề ra cho cả năm và tăng gấp 2 lần so với năm 2005. Quan hệ giao dịch interbank của MB trong năm qua đã được triển khai tích cực thông qua việc MB mở rộng và tăng cường mối quan hệ với tất cả các định chế tài chính hoạt động hiệu quả tại VN và MB được các đối tác cấp tăng hạn mực giao dịch interbank tăng từ 2-5 lần so với năm 2005. Với những kết quả hoạt động về quản lý vốn và kinh doanh ngoại tệ, MB đã được vinh dự là một trong số ít các ngân hàng thương mại Việt Nam được NHNN trung ương - Vụ quản lý ngoại hối cho phép thử nghiệm cung cấp sản phẩm “quyền lựa chọn bằng đồng Việt Nam” với các khách hàng. 2.1.2.5 Hoạt động thanh toán quốc tế Tổng kim ngạch thanh toán xuất nhập khẩu cả năm của MB đạt 691 triệu USD. Tuy các L/C không có giá trị lớn như năm trước nhưng số lượng khách hàng và giao dịch lại tăng nhanh, vì vậy doanh thu tăng 65% so với cùng kỳ năm trước. Hoạt động quan hệ quốc tế cũng có nhiều chuyển biến tích cực và ngày càng có uy tín. Hiện nay, MB đã thiết lập được quan hệ đại lý với 350 ngân hàng ở khắp các khu vực trên thế giới, đảm bảo việc thanh toán nhanh chóng, an toàn, thuận lợi. 2.1.2.6 Hoạt động kinh doanh thẻ Tính đến cuối năm 2006, hoạt động dịch vụ thẻ MB đang từng bước đi vào ổn định, doanh số thanh toán tăng cao đồng thời đã thu hút được một lượng tiền gửi đáng kể từ dân cư, đặc biệt thẻ MB đã góp phần tăng thêm tiện ích thu hút ngày càng nhiều khách hàng đến với MB. Với mục tiêu đa dạng hoá và nâng cao chất lượng sản phẩm thẻ, MB đang tích cực hoàn thiện đề án, ổn định tổ chức, đầu tư thiết bị, công nghệ bổ sung nhân lực, mở rộng quan hệ hợp tác để mở ra một thời kỳ phát triển mới đối với hoạt động dịch vụ thẻ của MB bắt đầu từ cam kết hợp tác giữa VCB-Viettel-MB. 2.1.2.7 Hoạt động đầu tư Tính đến 30/12/2006, tổng số vốn góp, liên doanh cổ phần là 61,01 tỷ đồng (chưa kể 47,27 tỷ đồng trái phiếu VCB). Hoạt động góp vốn đầu tư mua cổ phần đảm bảo tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định của nhà nước và của ngân hàng và hầu hết các chương trình trong hạng mục đầu tư đã bắt đầu mang lại lợi nhuận cho MB. Việc xây dựng cơ sở vật chất mở rộng kinh doanh đã được triển khai rất tích cực, đó là tập trung hoàn thiện toà nhà Hội sở, nâng cấp chi nhánh Điện Biên Phủ, đầu tư để khai trương các chi nhánh, phòng giao dịch mới, mua sắm them trang thiết bị phục vụ cho mở rộng kinh doanh. Các dự án đầu tư tăng năng lực hoạt động cho MB đang được triển khai theo kế hoạch được phê duyệt. 2.1.2.8 Hiệu quả hoạt động Trong năm 2006 ngân hàng Quân Đội đã có nhiều cố gắng vượt bậc và đã đạt được thành công trên tất cả các lĩnh vực hoạt động. Đây là năm MB hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu kế hoạch đề ra với mức tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay. Tổng tài sản đạt được 10.431,.78 tỷ, lợi nhuận đạt 215,61 tỷ đồng. Với mức lợi nhuận này, MB đã trở thành ngân hàng có mức lợi nhuận cao nhất trong khối ngân hàng cổ phần. Đặc biệt, năm 2006 cũng chứng kiến những chuyển biến thực sự trong chiến lược đổi mới, đầu tư phát triển nguồn nhân lực, công nghệ, năng lực quản lý, cơ sở vật chất và mạng lưới hoạt động của MB. Đồng thời MB đã xây dựng được một vị thế vững chắc đối với các đối tác và khách hàng, mở ra một thời kỳ phát triển mạnh về dịch vụ của MB trong tương lai. Với những kết quả đạt được rất khả quan, MB đã ngày càng nâng cao đời sống cho cán bộ nhân viên, đảm bảo quyền lợi của các cổ đông với mức cổ tức là 21,5% (18% bằng tiền mặt và 3,5% bằng cổ phiếu) cho năm tài chính 2006 và hoàn thành tốt nghĩa vụ nộp thuế cho nhà nước. 2.2. Thực trạng cho vay tiêu dùng tại ngân hàng TMCP Quân Đội giai đoạn 2004-2006 2.2.1 Tổ chức cho vay tiêu dùng Cho vay tiêu dùng về cơ bản là một nghiệp vụ cho vay nên việc thực hiện hoạt động này tuân theo quy trình nghiệp vụ cho vay của Ngân hàng Quân đội. Toàn bộ quy trình được chia thành hai giai đoạn và bảy bước tác nghiệp chính gồm có: Giai đoạn I: Thẩm định và xét duyệt. Bước 1: Hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn, tiếp nhận và kiểm tra hồ sơ. Bước 2: Thẩm định. Bước 3: Trình duyệt hồ sơ vay vốn, phán quyết cho vay. Giai đoạn II: Thực hiện cho vay và quản lý tín dụng. Bước 4: Lập, đàm phán, ký kết hợp đồng. Bước 5: Giải ngân. Giám sát, theo dõi khoản vay; Thu nợ và sử lý các vấn đề phát sinh. Bước 7: Tất toán khế ước, thanh lý hợp đồng, lưu hồ sơ. Vào ngày 22/4/2006 Ngân hàng Quân đội đã ban hành quy trình tín dụng đối với khách hàng cá nhân trong đó bao gồm cả cho vay cá nhân sản xuất kinh doanh và cho vay tiêu dùng. Ngân hàng Quân đội đã xây dựng cụ thể quy trình đối với hai sản phẩm là cho vay mua Ô tô và cho vay mua, sửa chữa nhà. Các sản phẩm còn lại chưa có quy trình riêng. Ngân hàng chưa xây dựng một quy trình riêng cho mỗi hoạt động cho vay tiêu dùng. Nhìn chung quy trình này đã xây dựng các bước cần thiết nhằm đảm bảo an toàn vốn cho Ngân hàng và đem lại thu nhập cho Ngân hàng. 2.2.2. Chính sách cho vay tiêu dùng của ngân hàng Quân Đội Thời hạn cho vay: Thời hạn cho vay tiêu dùng được ngân hàng Quân Đội quy định là dưới 5 năm. Thực tế các khoản cho vay thường có thời hạn là 30 tháng. Đối với các khoản cho vay có thời hạn 5 năm thường chỉ được áp dụng với đối tượng khách hàng có thu nhập tốt, uy tín với ngân hàng và có khoản vay khá lớn. Thời hạn đối với một món vay thường được quyết định bởi hai yếu tố chính là: Giá trị khoản vay và Nguồn thu nhập của khách hàng dùng để trả nợ (lương, cổ tức, lợi nhuận từ hoạt động kinh doanh cá thể, quyền góp vốn…). Lãi suất cho vay: Ngân hàng Quân Đội có 2 loại lãi suất cho vay: lãi suất thả nổi 1,15%/tháng và lãi suất cố định 1,2%/tháng . Đối với các khoản vay ngắn hạn (dưới 12 tháng) là 1%/tháng. Tài sản đảm bảo: tài sản đảm bảo của ngân hàng Quân Đội bao gồm: - Giấy tờ có giá: Sổ tiết kiệm, trái phiếu, công trái, kỳ phiếu, cổ phiếu … thuộc quyền sở hữu của khách hàng hoặc của bên thứ 3 bảo lãnh - Động sản: ô tô, xe máy, tàu thuyền, máy móc, thiết bị … thuộc quyền sở hữu của khách hàng hoặc của bên thứ 3 bảo lãnh - Bất động sản: Quyền sử dụng đất và quyền sở hữu các công trình trên đất thuộc quyền sở hữu của khách hàng hoặc của bên thứ 3 bảo lãnh - Tài sản hình thành từ vốn vay bao gồm động sản và bất động sản - Các tài sản bảo đảm khác do MB và khách hàng thoả thuận phù hợp với quy định của pháp luật và quy định của MB Việc định giá các tài sản ô tô, nhà đất được thong qua trung tâm định giá của ngân hàng Quân Đội hoặc theo giá của nhà nước ban hành. Đối với loại tài sản đảm bảo là cổ phiếu việc định giá được căn cứ vào thông báo số 1617/TB-NHQĐ-HS. Hạn mức cho vay tiêu dùng: Ngân hàng Quân Đội quyết định hạn mức cho vay tiêu dùng dựa trên ba yếu tố chính: Phương án kinh doanh của khách hàng. Nguồn trả nợ của khách hàng. Tài sản đảm bảo. Hạn mức cho vay được thực hiện linh hoạt, phù hợp với nhu cầu thực tế và khả năng trả nợ của khách hàng, ngân hàng Quân Đội sẽ đáp ứng: - Từ 90% đến 95% giá trị tài sản bảo đảm là giấy tờ có giá - Tới 70% giá trị tài sản bảo đảm là bất động sản - Tới 60% giá trị tài sản bảo đảm là động sản và các phương tiện khác 2.2.3. Tình hình phát triển cho vay tiêu dùng, các biện pháp dẫn tới sự phát triển cho vay tiêu dùng của ngân hàng Quân Đội. Sự hình thành và phát triển cho vay tiêu dùng tại ngân hàng Quân Đội xuất phát từ: Thu nhập dân cư tăng NHTMCPQĐ thực sự chỉ mới tiến hành các hoạt động cho vay tiêu dùng trong những năm gần đây. Trước xu thế phát triển của thị trường khách hàng cá nhân, thu nhập của dân cư ngày càng tăng, từ đó yêu cầu nhằm thoã mãn về cuộc sống được nâng lên. Đi vay là một trong những biện pháp khả thi nhằm thục hiện mục đích đó. Nắm bắt được nhu cầu đó ngân hàng Quân Đội quyết định xúc tiến các hoạt động cho vay tiêu dùng. Ngân hàng đã quyết định nghiên cứu, triển khai một số sản phẩm cho vay tiêu dùng. Cùng với việc nghiên cứu, Ngân hàng đã triển khai áp dụng thử nghiệm tại một số chi nhánh.Tuy nhiên, lúc này các sản phẩm còn chưa có sự phân định rõ ràng và các khoản tín dụng tiêu dùng cung cấp trong giai đoạn này đều được tính chung là tín dụng cho khách hàng cá nhân. Giai đoạn này các món vay được thực hiện còn mang tính thử nghiệm, Ngân hàng vừa làm vừa đúc rút kinh nghiệm và hoàn thiện dần. Quá trình thực hiện, còn nhiều hạn chế: công tác thẩm định khách hàng chưa thực sự bài._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36718.doc
Tài liệu liên quan