Phát triển dịch vụ Quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình

MỤC LỤC Danh mục các chữ viết tắt. Danh mục các bảng, biểu, sơ đồ, hình vẽ. Tóm tắt luận văn DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT HaSTC Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội HOSE Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh TTCK Thị trường chứng khoán DANH MỤC CÁC BẢNG, BIỂU, SƠ ĐỒ, HÌNH VẼ Bảng 2.1 Quy mô niêm yết trên HOSE 34 Bảng 2.2 Quy mô niêm yết trên HaSTC 37 Bảng 2.3 Số lượng Ngân hàng lưu ký 47 Biểu đồ 2.1 Biểu đồ số lượng cổ phiếu niêm yết trên HOSE 35 Biểu đồ 2.2 Biểu đồ số lượn

doc112 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1363 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển dịch vụ Quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g cổ phiếu niêm yết trên HaSTC 37 Biểu đồ 2.3 Biểu đồ chỉ số VN Index 40 Biểu đồ 2.4 Biểu đồ chỉ số HASTC Index 42 Biểu đồ 2.5 Biểu đồ số lượng công ty chứng khoán 46 Biểu đồ 2.6 Biểu đồ số lượng công ty quản lý quỹ 47 Biểu đồ 2.7 Số vốn nhận quản lý đầu tư tại Công ty quản lý qũy An Bình 58 Hình 1.2 Rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống 18 Hình 1.3 Kết hợp hai chứng khoán A và B để giảm rủi ro 19 Hình 2.1 Tỷ lệ lợi nhuận và rủi ro trên HOSE 41 Hình 2.2 Tỷ lệ lợi nhuận và rủi ro trên HaSTC 43 Sơ đồ 1.1 Mô hình dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán 26 Sơ đồ 1.2 Quy trình dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán 28 Sơ đồ 2.2 Mô hình dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán tại Công ty quản lý quỹ An Bình 55 LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ và chỉ số VNIndex được coi là chỉ số phản ánh sự phát triển của thị trường. Chỉ số VNIndex đã tăng từ 100 điểm ngày 28/07/2000 đến 1.103,88 điểm đóng cửa ngày 16/10/2007 sau hơn 7 năm. Tuy nhiên, trong hơn 7 năm đó chỉ số VNIndex tăng trưởng không thật sự ổn định, mà dao động lên xuống rất mạnh. Qua đó, có thể thấy tiềm năng tăng trưởng của thị trường chứng khoán Việt Nam rất cao nhưng cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Trong những năm qua, trên thị trường chứng khoán Việt Nam, phần lớn cả các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức đều chủ yếu tự mình tham gia đầu tư. Những nhà đầu tư này phần lớn không được đào tạo bài bản về chứng khoán. Do đó, đã dẫn đến hiện tượng đầu tư theo phong trào, đẩy giá chứng khoán tăng nóng, sau đó lại rơi nhanh dẫn đến sự thua lỗ và mất niềm tin của rất nhiều nhà đầu tư đồng thời có tác động không tốt tới sự phát triển bền vững của thị trường. Để đảm bảo sự phát triển bền vững của thị trường chứng khoán, Luật chứng khoán đã ra đời và có hiệu lực từ 01/01/2007. Sau đó, Quy chế tổ chức và hoạt động của công ty quản lý quỹ đã được ban hành kèm theo quyết định số 35/2007/QĐ-BTC ngày 15/05/2007 của Bộ Tài chính. Theo quy chế này, Công ty quản lý quỹ được phép thực hiện nghiệp vụ Quản lý danh mục đầu tư. Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình được thành lập vào cuối năm 2006. Hiện nay, Công ty đã được Ủy ban chứng khoán nhà nước cho phép thực hiện 2 nghiệp vụ cơ bản là quản lý quỹ đầu tư và quản lý danh mục đầu tư. Trong đó, quản lý danh mục đầu tư là việc công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện quản lý theo uỷ thác của từng nhà đầu tư trong mua, bán, nắm giữ chứng khoán. Nhu cầu thị trường đã có, cơ sở pháp lý cho dịch vụ quản lý danh mục đầu tư cũng bước đầu được thiết lập. Vì vậy, Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình cần phải phát triển dịch vụ Quản lý danh mục đầu tư một cách bài bản, chuyên nghiệp để tối đa hóa lợi ích trên cơ sở giảm thiểu rủi ro cho khách hàng. 1. Lý do chọn đề tài Tôi lựa chọn đề tài “Phát triển dịch vụ Quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình” làm đề tài luận văn thạc sĩ với các lý do sau: Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư là hết sức cần thiết trong sự phát triển của thị trường chứng khoán nói chung và Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình nói riêng. Với những kiến thức được trang bị trong quá trình học cao học tại Trường đại học Kinh tế quốc dân, tôi mong muốn có thể ứng dụng những lý thuyết đã nghiên cứu vào thực tế thị trường chứng khoán Việt Nam. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu những nội dung lý thuyết cơ bản về quản lý danh mục đầu tư và dịch vụ quản lý danh mục đầu tư. Tìm hiểu thực tế thị trường chứng khoán Việt Nam và dịch vụ quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình. Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị phát triển dịch vụ Quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình từ khi thành lập đến nay. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Đề tài đã đi vào nghiên cứu các nội dung cơ bản về quản lý danh mục đầu tư và dịch vụ quản lý danh mục đầu tư. Đây là một nội dung không mới ở nước ngoài nhưng còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Đề tài đã chỉ ra những vấn đề cơ bản, cốt lõi nhất của lý thuyết quản lý danh mục đầu tư hiện đại. Đề tài cũng đã phân tích thực trạng hoạt động dịch vụ quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình. Từ đó đánh giá những thuận lợi, khó khăn mà Công ty đang gặp phải. Đồng thời đề tài cũng phân tích thực trạng thị trường chứng khoán Việt nam. Do đó đề tài đã đưa ra một số giải pháp và kiến nghị để phát triển dịch vụ quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình sát với thực tế hiện nay. Đây là những giải pháp và kiến nghị mang tính thực tiễn cao có thể áp dụng vào hoạt động của Công ty. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN Danh mục đầu tư chứng khoán Chứng khoán Chứng khoán là hàng hóa của thị trường chứng khoán, đó là những tài sản tài chính vì nó mang lại thu nhập và khi cần người sở hữu có thể bán nó để thu tiền về. Chứng khoán là các loại giấy tờ có giá và có thể mua bán trên thị trường, gọi là thị trường chứng khoán, khi đó chứng khoán là hàng hóa trên thị trường đó. Dùng từ Security, nghĩa gốc là an toàn, để gọi tên chứng khoán xuất phát từ việc coi nắm giữ chứng khoán là việc sở hữu an toàn và thuận tiện một tài sản nào đó. Theo sự phát triển của thị trường, chứng khoán ngày càng phong phú, đa dạng. Nói chung người ta phân chia chứng khoán thành 4 nhóm chính là cổ phiếu, trái phiếu, các công cụ chuyển đổi, và các công cụ phái sinh. Cổ phiếu là một loại chứng khoán được phát hành dưới dạng chứng chỉ hoặc bút toán ghị sổ, xác nhận quyền sở hữu và lợi ích hợp pháp của người sở hữu cổ phiếu đối với tài sản hoặc vốn của một công ty cổ phần. Khi sở hữu cổ phiếu, người đó trở thành cổ đông của công ty, và có những quyền lợi sau: Nhận cổ tức. Cổ tức là một phần trong lợi nhuận kinh doanh của công ty mà mỗi một cổ đông được chia tùy theo tỷ lệ góp vốn. Mức chi trả cũng như hình thức chi trả cổ tức phụ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty và do Hội đồng Quản trị hoặc Đại hội đồng cổ đông quyết định. Quyền mua thêm cổ phiếu mới. Trong quá trình hoạt động, công ty được phép phát hành thêm cổ phiếu để tăng vốn. Để bảo vệ quyền lợi cho các cổ đông hiện tại khi phát hành thêm cổ phiếu công ty thường dành quyền ưu tiên mua thêm cổ phiếu mới cho những cổ đông này tương ứng với tỷ lệ góp vốn của họ với giá ưu đãi hơn so với các cổ đông mới. Quyền bỏ phiếu. Cổ đông phổ thông có quyền bỏ phiếu cho các chức vụ quản lý công ty, bỏ phiếu quyết định các vấn đề quan trọng của công ty. Quyền tiếp cận thông tin. Cổ đông có quyền được thông báo kịp thời mọi diễn biến trong công ty, đặc biệt những tình hình có khả năng tác động mạnh đến giá cổ phiếu, và các báo cáo tài chính định kỳ và các loại thông báo cũng là các thông tin mà cổ đông có quyền tiếp cận. Trái phiếu là một loại chứng khoán xác nhận nghĩa vụ trả nợ bao gồm cả gốc và lãi của tổ chức phát hành đối với người sở hữu trái phiếu. Tổ chức phát hành ở đây có thể là chính phủ (như Trái phiếu kho bạc, Tín phiếu kho bạc) hay chính quyền địa phương (như Trái phiếu đô thị) nhằm huy động vốn cho một chương trình quốc gia hay dự án nào đó, hoặc công ty nhằm huy động vốn mà không mở rộng đối tượng quản lý. Với tư cách là người sở hữu trái phiếu hay gọi là trái chủ sẽ được quyền ưu tiên thanh toán tài sản thanh lý khi công ty phá sản trước các cổ đông. Tuy nhiên trái chủ lại không được tham gia vào các quyết định cũng như tham gia quản lý trong các tổ chức phát hành. Hiện nay buôn bán chứng khoán trên thị trường chứng khoán được coi là ngành kinh doanh đơn giản nhất (do ai cũng có thể đầu tư với thủ tục đơn giản) nhưng cũng phức tạp nhất (vì chứa đựng rất nhiều rủi ro). Chứng khoán không chỉ dừng lại là một giấy chứng nhận quyền sở hữu mà nó đã trở thành một hàng hóa ưa thích cho những nhà đầu tư và đầu cơ. Nhà đầu tư thường mua cổ phiếu của các công ty có triển vọng phát triển vào thời điểm có lợi, trên cơ sở phân tích kỹ thuật, rồi giữ chúng lại lâu dài để hưởng cổ tức. Còn nhà đầu cơ kinh doanh cổ phiếu bằng cách mua cổ phiếu vào khi dự đoán nó sẽ sớm lên giá sau đó "rình" cơ hội bán cổ phiếu vào lúc giá đỉnh điểm để kiếm lời. Theo Luật Chứng khoán do Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam ban hành và chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2007 thì: “Chứng khoán là bằng chứng xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với tài sản hoặc phần vốn của tổ chức phát hành. Chứng khoán được thể hiện dưới hình thức chứng chỉ, bút toán ghi sổ hoặc dữ liệu điện tử, bao gồm các loại sau đây: a) Cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ quỹ; b) Quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán.” Cổ phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn cổ phần của tổ chức phát hành. Trái phiếu là loại chứng khoán xác nhận quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu đối với một phần vốn nợ của tổ chức phát hành. Chứng chỉ quỹ là loại chứng khoán xác nhận quyền sở hữu của nhà đầu tư đối với một phần vốn góp của quỹ đại chúng. Quyền mua cổ phần là loại chứng khoán do công ty cổ phần phát hành kèm theo đợt phát hành cổ phiếu bổ sung nhằm bảo đảm cho cổ đông hiện hữu quyền mua cổ phiếu mới theo những điều kiện đã được xác định. Chứng quyền là loại chứng khoán được phát hành cùng với việc phát hành trái phiếu hoặc cổ phiếu ưu đãi, cho phép người sở hữu chứng khoán được quyền mua một số cổ phiếu phổ thông nhất định theo mức giá đã được xác định trước trong thời kỳ nhất định. Quyền chọn mua, quyền chọn bán là quyền được ghi trong hợp đồng cho phép người mua lựa chọn quyền mua hoặc quyền bán một số lượng chứng khoán được xác định trước trong khoảng thời gian nhất định với mức giá được xác định trước. Hợp đồng tương lai là cam kết mua hoặc bán các loại chứng khoán, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán nhất định với một số lượng và mức giá nhất định vào ngày xác định trước trong tương lai. Danh mục đầu tư Theo Từ điển thuật ngữ thị trường chứng khoán: “Danh mục đầu tư là kết hợp sở hữu từ hai trở lên các đầu tư chứng khoán, trái phiếu, hàng hóa, bất động sản, công cụ tương đương tiền mặt, hay các tài sản khác bởi một cá nhân hay nhà đầu tư thuộc tổ chức. Mục đích của danh mục đầu tư là làm giảm rủi ro bằng cách đa dạng hóa đầu tư”. Đối với hộ gia đình, hay cá nhân, danh mục này có thể gồm ngoại tệ mạnh (Đô-la Mỹ hoặc Euro), vàng và kim cương, một số lượng nhất định cổ phiếu, tiền mặt và trái phiếu, đất và bất động sản, v.v.. Một danh mục đầu tư được biết đến như là cách làm giảm bớt rủi ro do gắn tài sản của cá nhân hay công ty lệ thuộc duy nhất vào một loại tài sản. Đối với đầu tư tài chính, danh mục đầu tư càng đặc biệt có ý nghĩa quan trọng, vì hoạt động đầu tư tài chính lớn nhất thường xảy ra ở các quỹ đầu tư, huy động vốn từ các TTCK lớn. Các cổ đông của các quỹ này thường khó lòng nắm bắt được chi tiết thông tin hoạt động của các quỹ cho tới những thời điểm thông báo chi tiết định kỳ, do đó, nguyên tắc đầu tư của danh mục là một công cụ quản lý chính các cam kết của ban giám đốc điều hành các quỹ đầu tư. Đối với các quỹ đầu tư, danh mục thường phân phối giữa các loại tài sản và công cụ tài chính: Cổ phiếu, trái phiếu, tiền mặt, phái sinh. Danh mục đầu tư chứng khoán Như vậy, kết hợp giữa hai khái niệm “chứng khoán” và “danh mục đầu tư” ở trên chúng ta có thể hiểu Danh mục đầu tư chứng khoán là kết hợp sở hữu từ hai trở lên các đầu tư chứng khoán bởi một cá nhân hay nhà đầu tư thuộc tổ chức. Mục đích của danh mục đầu tư chứng khoán là làm giảm rủi ro bằng cách đa dạng hóa đầu tư chứng khoán. Lợi nhuận và rủi ro trong đầu tư chứng khoán Lợi nhuận và rủi ro Lợi nhuận Lợi nhuận (return) là thu nhập có được từ một khoản đầu tư, thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm1 giữa thu nhập và giá trị khoản đầu tư bỏ ra. Ví dụ bạn bỏ ra 100$ để mua một cổ phiếu, được hưởng cổ tức là 7$ một năm và sau một năm giá thị trường của cổ phiếu đó là 106$. Lợi nhuận bạn có được khi đầu tư cổ phiếu này là: (7$ + 6$)/100 = 13%. Như vậy lợi nhuận đầu tư của bạn có được từ hai nguồn: (1) cổ tức được hưởng từ cổ phiếu, và (2) lợi vốn – tức là lợi tức có được do chứng khoán tăng giá. Tổng quát: Trong đó: R là lợi nhuận thực (hoặc kỳ vọng), Dt là cổ tức, Pt là giá cổ phiếu ở thời điểm t, Pt -1 là giá cổ phiếu ở thời điểm (t – 1). Nếu lấy cổ tức và giá cổ phiếu theo giá trị thực tế thì chúng ta có lợi nhuận thực, nếu lấy cổ tức và giá cổ phiếu theo số liệu kỳ vọng thì chúng ta có lợi nhuận kỳ vọng. Rủi ro Rủi ro được định nghĩa là sự sai biệt của lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng. Giả sử bạn mua trái phiếu kho bạc để có được lợi nhuận là 8%. Nếu bạn giữ trái phiếu này đến cuối năm bạn sẽ được lợi nhuận là 8% trên khoản đầu tư của mình. Nếu bạn không mua trái phiếu mà dùng số tiền đó để mua cổ phiếu và giữ đến hết năm, bạn có thể có hoặc có thể không có được cổ tức như kỳ vọng. Hơn nữa, cuối năm giá cổ phiếu có thể lên và bạn được lời cũng như giá có thể xuống khiến bạn bị lỗ. Kết quả là lợi nhuận thực tế bạn nhận được có thể khác xa so với lợi nhuận bạn kỳ vọng. Nếu rủi ro được định nghĩa là sự sai biệt giữa lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng thì trong trường hợp trên rõ ràng đầu tư vào trái phiếu có thể xem như không có rủi ro trong khi đầu tư vào cổ phiếu rủi ro hơn nhiều, vì xác suất hay khả năng sai biệt giữa lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng trong trường hợp mua trái phiếu thấp hơn trong trường hợp mua cổ phiếu. Mặc dù có sự khác nhau giữa 2 khái niệm rủi ro và sự không chắc chắn, nhưng đối với các học thuyết kinh tế, 2 thuật ngữ này có thể sử dụng thay thế cho nhau. Có một cách định nghĩa được chấp nhận khá rộng rãi là: “rủi ro là sự không chắc chắn của những kết quả trong tương lai”. Thái độ đối với rủi ro Để minh họa và phân biệt thái độ của nhà đầu tư đối với rủi ro, chúng ta xem xét trò chơi có tên Let’s Make a Deal do Monty Hall điều khiển chương trình như sau: Monty Hall giải thích rằng bạn được phép giữ lấy bất cứ thứ gì bạn tìm thấy khi mở cửa số 1 hoặc số 2. Đằng sau một trong hai cửa này là 10.000$ trong khi cửa còn lại là một đống vỏ xe đã sử dụng có giá trị thị trường là 0. Hall cũng cho biết thêm rằng bạn có quyền được mở một trong hai cửa và có thể trúng giải thưởng 10.000$ nếu mở đúng cửa hoặc nhận đống vỏ xe vứt đi nếu mở sai cửa. Ngoài ra, Hall có thể cho bạn một số tiền nếu như bạn từ bỏ quyền được mở cửa của bạn, cũng đồng nghĩa với từ bỏ lợi nhuận kỳ vọng để nhận lấy một số tiền chắc chắn. Nói tóm lại các lựa chọn của bạn có thể là mở cửa hoặc không mở cửa. Nếu mở cửa bạn có khả năng trúng giải và nhận 10.000$ cũng có khả năng trật giải và nhận 0$. Nếu bạn chọn không mở cửa bạn sẽ được một số tiền chắc chắn. Rõ ràng việc chọn lựa của bạn tùy thuộc vào số tiền mà Hall sẽ trả cho bạn để bạn hủy bỏ cái quyền được mở cửa của mình. Giả sử rằng nếu Hall trả bạn 2.999$ hay ít hơn số này thì bạn sẽ chọn phương án mở cửa và kỳ vọng sẽ trúng giải. Nếu Hall trả cho bạn 3.000$ bạn không thể quyết định được nên chọn phương án nào: mở cửa hay lấy tiền. Nhưng nếu Hall trả bạn 3.001$ hay cao hơn nữa bạn sẽ chọn phương án lấy tiền và từ bỏ việc mở cửa. Với phương án mở cửa bạn có cơ hội 50/50 sẽ nhận 10.000$ hoặc 0$. Số tiền kỳ vọng của bạn do đó là: (10.000 x 0,5) + (0 x 0,5) = 5.000$. Nhưng khi Hall trả bạn 3.000$ bạn không quyết định được nên chọn phương án nào. Điều này chứng tỏ rằng bạn bàng quan khi đứng trước 2 phương án: (1) có được 5.000$ với rủi ro kèm theo và (2) có được 3.000$ không có rủi ro kèm theo. Số tiền 3.000$ ở đây làm cho bạn cảm thấy không có sự khác biệt giữa việc lựa chọn lấy 3.000$ với sự chắc chắn hoặc lấy 5.000$ với rủi ro kèm theo. Số tiền này được gọi là số tiền chắc chắn tương đương (certainty equivalent – CE) với số tiền lớn hơn nhưng rủi ro hơn. Dựa vào số tiền chắc chắn tương đương này, Người ta đưa ra định nghĩa thái độ đối với rủi ro như sau: CE risk aversion (ngại rủi ro) CE = giá trị kỳ vọng => risk indifference (bàng quan với rủi ro) CE > giá trị kỳ vọng => risk preference (thích rủi ro) Đối với những người ngại rủi ro, chênh lệch giữa giá trị kỳ vọng và CE chính là phần giá trị tăng thêm để bù đắp rủi ro (risk premium). Hình sau cho thấy mối tương quan giữa rủi ro và lợi nhuận yêu cầu của nhà đầu tư thuộc ba dạng trên: Hình 1.1 Thái độ đối với rủi ro Không thích rủi ro Trung tính với rủi ro Yêu thích rủi ro x1 x2 Rủi ro Lợi nhuận yêu cầu Không thích Trung tính Yêu thích Nguồn: Phân tích tài chính – 2006 Học thuyết về quản lý danh mục đầu tư giả định rằng các nhà đầu tư về cơ bản là không thích rủi ro, nghĩa là nếu đưa ra lựa chọn giữa hai tài sản với cùng mức lợi nhuận kỳ vọng thì họ sẽ chọn tài sản có mức rủi ro thấp hơn. Bằng chứng chứng minh hầu hết các nhà đầu tư không thích rủi ro là việc họ mua hàng loạt các sản phẩm bảo hiểm (bảo hiểm nhân thọ, bảo hiểm ô tô, bảo hiểm sức khỏe …). Bằng chứng nữa của việc ghét rủi ro là sự khác nhau trong lợi tức hứa hẹn của các loại trái phiếu được xếp hạng rủi ro khác nhau. Tất nhiên, điều đó không có nghĩa là tất cả mọi người đều ghét rủi ro. Sự thực là không phải tất cả mọi người đều mua bảo hiểm. Có người không hề mua bất kỳ bảo hiểm nào, có người chỉ mua một vài loại bảo hiểm. Hơn nữa, họ thậm chí còn mua xổ số hoặc đánh bạc trong khi đều biết rằng lợi nhuận kỳ vọng là âm. Kết hợp giữa sự thích rủi ro và ghét rủi ro trên có thể được lý giải bởi thái độ đối với rủi ro phụ thuộc vào số tiền liên quan. Mọi người có thể mạo hiểm đánh bạc với số tiền nhỏ nhưng mua bảo hiểm để bảo vệ họ khỏi những rủi ro lớn tiềm ẩn. Như vậy, trong khi vẫn thừa nhận sự đa dạng của thái độ đối với rủi ro, các nhà kinh tế học giả định rằng hầu hết các nhà đầu tư đầu tư một số tiền lớn vào danh mục đầu tư là những người ghét rủi ro. Vì vậy, chúng ta kỳ vọng vào mối quan hệ cùng chiều giữa lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro. Đo lường lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro Đo lường lợi nhuận kỳ vọng Lợi nhuận kỳ vọng, ký hiệu là E(R) được định nghĩa như sau: Trong đó: E(R) là tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng. Ri là tỷ suất lợi nhuận xảy ra ở tình huống thứ i. Pi là xác suất xảy ra tình huống thứ i. n là tổng số tình huống có thể xảy ra. Như vậy lợi nhuận kỳ vọng chẳng qua là trung bình gia quyền của các lợi nhuận có thể xảy ra với trọng số chính là xác suất xảy ra. Đo lường rủi ro Có nhiều quan niệm về cách thức đo lường rủi ro. Một cách đo lường rủi ro phổ biến nhất là phương sai, hoặc độ lệch chuẩn của lợi nhuận kỳ vọng. Một cách khác đo lường rủi ro là biên độ dao động của lợi nhuận kỳ vọng. Biên độ dao động càng lớn thì rủi ro càng lớn. Mặc dù có nhiều cách đo lường rủi ro khác nhau, nhưng các nhà kinh tế theo học thuyết Markowitz sử dụng phương sai hoặc độ lệch chuẩn của lợi nhuận vì các lý do (1) theo cảm nhận trực quan của các nhà kinh tế học, (2) được mọi người thừa nhận rộng rãi, và (3) được sử dụng trong nhiều học thuyết kinh tế về định giá tài sản. Phương sai: Trong đó: Pi là xác suất xảy ra tỷ suất lợi nhuận Ri. Độ lệch chuẩn chính là căn bậc 2 của phương sai: Lợi nhuận và rủi ro của danh mục đầu tư Lợi nhuận của danh mục đầu tư Lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư đơn giản chỉ là trung bình có trọng số của các lợi nhuận kỳ vọng của từng chứng khoán trong danh mục đầu tư. Trọng số ở đây chính là tỷ trọng của từng loại chứng khoán trong danh mục đầu tư. Công thức tính lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư như sau: Trong đó: E(Rport) là tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư. Wi là tỷ trọng trong danh mục đầu tư của tài sản thứ i. E(Ri) là tỷ suất lợi nhuận kỳ vọng của tài sản thứ i. n là tổng số các khoản đầu tư trong danh mục. Rủi ro của danh mục đầu tư Rủi ro của danh mục đầu tư được đo lường bởi độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư. Không giống lợi nhuận, việc xác định độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư rất phức tạp do ảnh hưởng của yếu tố hiệp phương sai (covariance), tức là mức độ quan hệ giữa rủi ro của các chứng khoán trong danh mục đầu tư. Độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư được xác định bởi công thức: Trong đó m là tổng số chứng khoán có trong danh mục đầu tư, Wj là tỷ trọng của chứng khoán j trong danh mục, Wk là tỷ trọng của chứng khoán k trong danh mục, σj,k là hiệp phương sai giữa lợi nhuận của chứng khoán j và k. Hiệp phương sai lợi nhuận của 2 chứng khoán là chỉ tiêu đo lường mức độ quan hệ tuyến tính giữa 2 chứng khoán. Phân loại rủi ro Rủi ro hệ thống (Systematic risk) Trong đầu tư, những rủi ro do các yếu tố nằm ngoài công ty, không kiểm soát được và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường và tất cả mọi loại chứng khoán được gọi là rủi ro hệ thống hay là rủi ro không phân tán được. Rủi ro hệ thống là những rủi ro từ bên ngoài của một ngành công nghiệp hay của một doanh nghiệp, chẳng hạn như chiến tranh, lạm phát, sự kiện kinh tế và chính trị... Đa dạng hóa đầu tư cũng không thể loại bỏ loại rủi ro này. Những công ty chịu ảnh hưởng cao của rủi ro hệ thống là những công ty mà doanh số, lợi nhuận và giá chứng khoán thường theo sát các diễn biến kinh tế và những diễn biến trên thị trường chứng khoán. Phần lớn các công ty trong những ngành công nghiệp cơ bản và khai khoáng, những ngành có định phí lớn hay những ngành liên quan đến sản xuất ô tô chịu ảnh hưởng rất cao của rủi ro hệ thống, ví dụ ngành thép, cao su, kính,... Rủi ro hệ thống được chia làm 3 loại rủi ro chính: Rủi ro thị trường: Giá cả cổ phiếu có thể dao động mạnh trong một khoảng thời gian ngắn mặc dù thu nhập của công ty vẫn không thay đổi. Nguyên nhân của nó có thể rất khác nhau nhưng phụ thuộc chủ yếu vào cách nhìn nhận của các nhà đầu tư về các loại cổ phiếu nói chung hay về một nhóm các cổ phiếu nói riêng. Những thay đổi trong mức sinh lời đối với phần lớn các loại cổ phiếu thường chủ yếu là do sự hy vọng của các nhà đầu tư vào nó thay đổi và gọi là rủi ro thị trường. Rủi ro thị trường xuất hiện do có những phản ứng của các nhà đầu tư đối với những sự kiện hữu hình hay vô hình. Sự chờ đợi đối với chiều hướng sụt giảm lợi nhuận của các công ty nói chung có thể là nguyên nhân làm cho phần lớn các loại cổ phiếu thường bị giảm giá. Các nhà đầu tư thường phản ứng dựa trên cơ sở các sự kiện thực, hữu hình như các sự kiện kinh tế, chính trị, xã hội còn các sự kiện vô hình là các sự kiện nảy sinh do yếu tố tâm lý của thị trường. Rủi ro thị trường thường xuất phát từ những sự kiện hữu hình, nhưng do tâm lý không vững vàng của các nhà đầu tư nên họ hay có phản ứng vượt quá các sự kiện đó. Những sự sút giảm đầu tiên trên thị trường là nguyên nhân gây sợ hãi đối với các nhà đầu tư và họ sẽ cố gắng rút vốn và sau đó kéo theo những phản ứng dây chuyền làm tăng vọt số lượng bán, giá cả chứng khoán sẽ rơi xuống thấp so với giá trị cơ sở. Rủi ro lãi suất: Rủi ro lãi suất nói đến sự không ổn định trong giá trị thị trường và số tiền thu nhập trong tương lai, nguyên nhân là dao động trong mức lãi suất chung. Nguyên nhân cốt lõi của rủi ro lãi suất là sự lên xuống của lãi suất Trái phiếu Chính phủ, khi đó sẽ có sự thay đổi trong mức sinh lời kỳ vọng của các loại chứng khoán khác, đó là các loại cổ phiếu và trái phiếu công ty. Nói cách khác, chi phí vay vốn đối với các loại chứng khoán không rủi ro thay đổi sẽ dẫn đến sự thay đổi về chi phí vay vốn của các loại chứng khoán có rủi ro. Rủi ro sức mua: Rủi ro thị trường và rủi ro lãi suất có thể được định nghĩa là những biến cố về số tiền thu được hiện nay của nhà đầu tư. Rủi ro sức mua là biến cố của sức mua của đồng tiền thu được. Rủi ro sức mua là tác động của lạm phát đối với khoản đầu tư, biến động giá càng cao thì rủi ro sức mua càng tăng nếu nhà đầu tư không tính toán lạm phát vào thu nhập kỳ vọng. Mỗi chứng khoán có một mức độ riêng rủi ro không thể phân tán được và được đo bằng hệ số bêta (b). Việc tính toán hệ số Bêta cũng hết sức phức tạp, bêta cho thấy cái cách mà một chứng khoán phản ứng trước những nhân tố của thị trường. Nói khác đi, giá của một chứng khoán càng phản ứng với thị trường mạnh mẽ bao nhiêu thì hệ số bêta của chứng khoán đó càng cao bấy nhiêu. Bêta của một chứng khoán được tính thông qua mối liên hệ (chính xác là hệ số tương quan) giữa suất sinh lợi của chứng khoán đó và suất sinh lợi của thị trường mà chứng khoán đó đang giao dịch. Rủi ro phi hệ thống (Unsystematic risk) Rủi ro phi hệ thống là những rủi ro do các yếu tố nội tại gây ra, nó có thể kiểm soát được và chỉ tác động đến một ngành, một công ty, một hoặc một số chứng khoán. Rủi ro phi hệ thống do các yếu tố như khả năng quản lý điều hành, đình công hay những yếu tố khác gắn với những thay đổi của một công ty gây ra. Do những rủi ro này thường ảnh hưởng đến một công ty cụ thể nên nó phải được xem xét cho từng công ty một cách riêng biệt. Có các loại rủi ro không hệ thống như sau: Rủi ro kinh doanh: Rủi ro kinh doanh là rủi ro phát sinh từ tình trạng hoạt động của công ty. Khi có những thay đổi trong tình trạng này, công ty có thể sẽ bị giảm lợi nhuận và cổ tức. Rủi ro tài chính: Người ta thường tính toán rủi ro tài chính bằng việc xem xét cấu trúc vốn của một công ty. Sự xuất hiện của các khoản nợ trong cấu trúc vốn sẽ tạo ra cho công ty những nghĩa vụ trả lãi. Và vì những nghĩa vụ trả lãi này phải được thanh toán trước nên nó có tác động lớn đến cổ tức. Rủi ro về tính thanh khoản: Có nhiều thời điểm thị trường OTC bị đóng băng, nhiều nhà đầu tư chấp nhận bán lỗ cổ phiếu OTC mà không thể bán được. Trong khi đó, thông thường bạn có thể dễ dàng bán được chứng khoán niêm yết nếu chấp nhận một mức giá rẻ. Rủi ro về thông tin: Thông tin hạn chế về doanh nghiệp và tính chất không minh bạch trong thông tin là một điểm rất hạn chế đối với cổ phiếu OTC. Hình 1.2 Rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống Nguồn: Phân tích tài chính – 2006 Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Mục đích quản lý danh mục đầu tư Thứ nhất, đa dạng hoá danh mục đầu tư là nhu cầu của người đầu tư, có trường hợp giá cả của mọi chứng khoán được định giá đúng nhưng mỗi chứng khoán vẫn chứa đựng rủi ro và những rủi ro này có thể san sẻ thông qua việc đa dạng hoá danh mục đầu tư. Thứ hai, việc lựa chọn danh mục đầu tư phải tính đến ảnh hưởng của thuế. Nhà đầu tư phải chịu mức thuế cao thường không muốn trong danh mục của mình có những chứng khoán giống như trong danh mục của những người chịu thuế thấp. Thứ ba, quản lý danh mục đầu tư là cần thiết vì liên quan đến lứa tuổi của khách hàng đầu tư. Các nhà đầu tư ở các lứa tuổi khác nhau sẽ có nhu cầu riêng trong chính sách lựa chọn danh mục đầu tư và liên quan đến rủi ro. Thông thường người già ưa thích đầu tư vào những chứng khoán có độ an toàn cao như trái phiếu Chính phủ, còn giới trẻ lại thích đầu tư vào những chứng khoán có độ rủi ro cao nhưng kỳ vọng mức lợi tức cao. Hình 1.3 Kết hợp hai chứng khoán A và B để giảm rủi ro Nguồn: Phân tích tài chính – 2006 Nội dung quản lý danh mục đầu tư Quản lý danh mục đầu tư là việc xây dựng một danh mục đầu tư đáp ứng tốt nhất mục tiêu của nhà đầu tư và sau đó thực hiện theo dõi, giám sát và điều chỉnh danh mục đầu tư nhằm đạt được tốt nhất mục tiêu đầu tư đã đề ra. Mục tiêu quan trọng nhất của nhà đầu tư là đạt được lợi nhuận cao nhất trong mức độ rủi ro có thể chấp nhận, hoặc rủi ro thấp nhất trong mức lợi nhuận kỳ vọng đặt ra. Như vậy bản chất của quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là việc định lượng mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận phù hợp với mỗi nhà đầu tư. Theo một nghiên cứu, trên 90% nguyên nhân tác động đến hiệu quả hoạt động của một danh mục đầu tư theo thời gian là do việc phân bổ tài sản đầu tư. Có nhiều yếu tố quan trọng giúp bạn đưa ra được một chiến lược đáp ứng nhu cầu đầu tư của mình, bao gồm thời hạn đầu tư, các mục tiêu cá nhân và sự nghiệp và mức độ chấp nhận rủi ro của bạn đến đâu. Một trong những yếu tố quan trọng nhất quyết định khả năng thành công của kế hoạch đầu tư chính là tận dụng được hiệu quả của việc đa dạng hoá danh mục đầu tư mang lại. Phân bổ danh mục đầu tư hợp lý vào các tài sản khác nhau có thể giúp bạn cân bằng giữa rủi ro và lợi nhuận. Đa dạng hoá danh mục đầu tư sẽ giúp bạn ít bị tổn thất do biến động bất lợi của thị trường gây ra hơn là chỉ đầu tư vào một loại chứng khoán hay một loại tài sản đơn lẻ. Bên cạnh đó, danh mục đầu tư được đa dạng hoá cũng giúp bạn đạt được kế hoạch đầu tư lâu dài. Việc phân bổ tài sản hiệu quả có thể được thực hiện bằng nhiều phương pháp. Trong đó, phương pháp từng đạt giải Nobel Kinh tế năm 1990 đó là Lý thuyết quản lý danh mục đầu tư hiện đại. Trọng tâm của lý thuyết này là “đường cong hiệu quả” (efficient frontier). Được đúc kết từ các phân tích chuyên sâu về mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận trên thị trường tài chính, đường cong này giúp xác định danh mục đầu tư thích hợp bao gồm kết hợp cả cổ phiếu và trái phiếu. “Đường cong hiệu quả” có thể được xác định bên cạnh đường đồ thị danh mục tài sản đầu tư, phụ thuộc vào mức ngại rủi ro của bạn vào mỗi thời điểm đầu tư. Các kiểu danh mục đầu tư Dựa trên tính chất rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của các loại chứng khoán khác nhau có thể kết hợp các loại chứng khoán thành các kiểu danh mục đầu tư khác nhau. Kiểu danh mục đầu tư thiên về tăng trưởng sẽ có tỷ trọng cổ phiếu lớn. Kiểu danh mục đầu tư thiên về thu nhập sẽ có tỷ trọng trái phiếu lớn. Các đặc tính của cổ phiếu ngoài việc được sử dụng làm nền tảng cho việc ước lượng tỷ suất sinh lợi kỳ vọng chúng còn được sử dụng rộng rãi như là một cách mô tả phong cách quản lý vốn đầu tư. Ví dụ một danh mục có tỷ số P/E vượt mức trung bình của thị trường có thể được mô tả như danh mục P/E cao hay danh mục cổ phiếu tăng trưởng. Tương tự, một danh mục được hình thành với P/E trung bình thấp hơn nhiều so với P/E của một chỉ số thị trường có thể được coi là danh mục P/E thấp hay danh mục có giá. Thông thường các danh ._.mục đầu tư thường gặp là: Danh mục tăng trưởng: Các danh mục đầu tư tăng trưởng nắm giữ cổ phiếu của các công ty mà khả năng sinh lợi của nó đựoc mong đợi là sẽ tăng cao hơn tỷ lệ trung bình. Các nhà quản lý danh mục đầu tư thường quan tâm nhiều đến việc tăng trưởng vốn hơn là thu nhập cổ tức. Danh mục thu nhập và tăng trưởng: Tăng trưởng vốn, thu nhập cổ tức và thậm chí tăng trưởng cổ tức tương lai là các đặc điểm hấp dẫn các nhà quản lý. Tuy nhiên, họ thường tập trung chủ yếu vào tiềm nằn tăng trưởng vốn. Việc đầu tư này thường tạo ra hứng thú cho những nhà đầu tư muốn một cái gì đó hơn thu nhập và có lẽ ít giảm giá hơn những cái được đưa ra bởi danh mục tăng trưởng. Danh mục đầu tư này bao gồm cả các công ty tăng trưởng và các cổ phiếu thu nhập với bản báo cáo thanh toán cổ tức tốt. Danh mục cân bằng: Danh mục đầu tư cân bằng cố gắng để đạt được 3 mục tiêu: thu nhập, tăng trưởng vốn đều đặn và bảo toàn vốn. Chúng thực hiện điều này bằng cách đầu tư vào các trái phiếu, các chứng khoán chuyển đổi và có lẽ thêm một vài loại cổ phiếu ưu tiên cũng như cổ phiếu thường. Nhìn chung các danh mục này thường đầu tư từ 40% – 60% giá trị quỹ vào trái phiếu. Chúng thường tập trung chú ý vào các chứng khoán được phát hành bởi các công ty chất lượng cao. Danh mục ngành: Các danh mục loại này thường tập trung vào các ngành cụ thể. Lợi nhuận của các danh mục này thường không đồng nhất với mức lợi nhuận trung bình của thị trường. Danh mục trái phiếu: Danh mục này sẽ giúp các nhà đầu tư nhỏ có khả năng tiếp cận với việc đầu tư vào trái phiếu. Danh mục này đảm bảo an toàn và có thu nhập cố định. Danh mục phái sinh: Danh mục này tập trung đầu tư vào các chứng khoán phái sinh. Các chiến lược quản lý danh mục đầu tư Chiến lược đầu tư chủ động Đầu tư chủ động là chiến lược quản lý danh mục đầu tư trong đó nhà đầu tư tiến hành việc đầu tư với mục tiêu đạt kết quả tốt hơn các chỉ số chuẩn mực trên thị trường. Một cách lý tưởng, các nhà quản lý quĩ đầu tư tiến hành khai thác những sự kém hiệu quả của thị trường bằng việc mua vào các chứng khoán bị định giá thấp, hay bán khống các chứng khoán bị định giá cao. Tuỳ thuộc vào các mục tiêu cụ thể của một danh mục đầu tư hay của một quĩ tương hỗ, mà hoạt động đầu tư chủ động cũng có thể cố gắng đạt được mục tiêu giảm thiểu rủi ro hay biến động của các khoản đầu tư thay vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận cao trong dài hạn. Các nhà quản lý quĩ đầu tư chủ động có thể sử dụng nhiều chiến lược đầu tư khác nhau. Những chiến lược này có thể bao gồm những công cụ định lượng như tỉ lệ P/E, PEG, các dự đoán nội ngành để cố gắng dự đoán xu thế kinh tế vĩ mô dài hạn (vd xu thế tập trung vào cổ phiếu năng lượng hay nhà đất), hay chiến lược mua cổ phiếu của các công ty tạm thời không được ưa chuộng hoặc đang bị định giá thấp. Một số quĩ đầu tư chủ động còn theo đuổi những chiến lược khác, như kinh doanh chênh lệch giá cổ phiếu sáp nhập (merger abitrage), mua bán khống (short position), kinh doanh quyền chọn, phân bổ tài sản tài chính. Hiệu quả của một danh mục đầu tư chủ động hoàn toàn phụ thuộc vào năng lực của những nhà quản lý đầu tư và đội ngũ nghiên cứu. Trên thực tế, về lâu về dài đa số các kế hoạch đầu tư chủ động kiểu này hiếm khi vượt qua được các mức chuẩn thị trường. Khi tính toán đầy đủ các chi phí quản lý, giao dịch thì các kế hoạch đầu tư này có khi còn kém hiệu quả hơn bình quân thị trường, cho dù các chứng khoán mà nó đầu tư thu được kết quả tốt. Tuy nhiên, nếu không sử dụng chiến lược đầu tư chủ động mà sử dụng chiến lược đầu tư bị động, thì việc làm đó chẳng khác gì đánh bạc. Do đó mà các nhà đầu tư vẫn luôn dành ưu tiên nhất định cho các quĩ đầu tư chủ động. Ngoài ra, nhiều nhà đầu tư còn nhận thấy đầu tư chủ động là một chiến lược đầu tư hấp dẫn trong một số phân khúc thị trường nhất định mà ở đó thị trường hoạt động không hiệu quả, ví dụ như đầu tư vào các cổ phiếu của các công ty có qui mô nhỏ (small cap). Chiến lược đầu tư thụ động Chiến lược đầu tư thụ động là chiến lược đầu tư trong đó nhà quản lý quĩ cố gắng đưa ra càng ít quyết định đầu tư càng tốt để giảm thiểu chi phí giao dịch, bao gồm cả thuế thu nhập tài chính. Một chiến lược đầu tư phổ biến là mô phỏng danh mục đầu tư của một chỉ số chứng khoán nổi tiếng nào đó, các quĩ đầu tư kiểu này gọi là các quĩ đầu tư theo chỉ số chứng khoán - Index fund. Đặc tính của chiến lược đầu tư thụ động được đúc kết trong 1 câu chỉ đạo đối với các nhà quản lý quỹ: "Đừng có làm gì cả, hãy cứ ngồi yên đấy thôi!". Từ đặc điểm này có thể thấy rõ, chiến lược đầu tư thụ động hoàn toàn ngược lại với chiến lược đầu tư chủ động. Chiến lược đầu tư thụ động được sử dụng phổ biến nhất ở thị trường cổ phiếu, trong đó các quĩ đầu tư chỉ số chứng khoán mô phỏng theo các chỉ số chứng khoán lớn như Dow Jones, S&P 500. Ngoài ra, chiến lược này cũng được sử dụng đối với các loại hình đầu tư khác như trái phiếu, hàng hoá hay các hedge fund. Ngày nay có vô vàn các chỉ số chứng khoán trên thế giới, và hàng ngàn quĩ đầu tư theo chỉ số chứng khoán hiện đang xây dựng danh mục đầu tư mô phỏng theo những chỉ số này. Một trong những quĩ tương hỗ lớn nhất thế giới, Vanguard 500, cũng là một quĩ đầu tư thụ động. Với rất nhiều nhà đầu tư, khái niệm đầu tư thụ động khá là lạ lẫm. Nó dựa trên cơ sở những quan điểm chủ yếu sau trong kinh tế học tài chính sau: Về lâu về dài, mỗi nhà đầu tư trung bình đều có kết quả đầu tư thuần (chưa trừ chi phí giao dịch) tương đương với bình quân thị trường. Do đó, càng giảm được chi phí giao dịch bao nhiêu thì nhà đầu tư càng có lợi bấy nhiêu. Giả định rằng thị trường hoạt động hiệu quả, có nghĩa là mức giá cân bằng trên thị trường sẽ phản ánh một cách toàn diện tổng thể các thông tin thị trường, do vậy không thể nào "vượt mặt thị trường" bằng chiến lược đầu tư chủ động, vốn dựa trên việc khai thác những chỗ kém hiệu quả của thị trường. Vấn đề giữa người uỷ thác đầu tư và người đại diện: một nhà đầu tư (người uỷ thác) cấp tiền cho một nhà quản lý danh mục đầu tư (người đại diện) phải cho nhà quản lý những quyền ưu tiên nhất định để nhà quản lý điều hành danh mục đầu tư phù hợp với yêu cầu về rủi ro/lợi nhuận của nhà đầu tư, đồng thời nhà đầu tư cũng phải giám sát chặt chẽ hoạt động của nhà quản lý danh mục đầu tư. Thị trường theo chiều giá lên trong thập niên 1990 đã giúp kích thích tăng trưởng mang tính hiện tượng của các danh mục đầu tư theo chỉ số chứng khoán. Các nhà đầu tư đã thu được lợi nhuận tuyệt đối chỉ đơn giản bằng cách rót tiền vào các danh mục đầu tư chuẩn hoá theo các chỉ số chứng khoán lớn trên thị trường như S&P 500, Russell 3000, hay Wilshire 5000. Ở Mỹ, các quĩ đầu tư theo chỉ số chứng khoán đều "vượt mặt" đa số các quĩ đầu tư chủ động, đặc biệt khi mà mức phí họ thu thấp hơn nhiều so với các quĩ đầu tư chủ động. Thu nhập sau thuế của các quĩ này cũng cao hơn nhiều so với các quĩ đầu tư chủ động. Một vài nhà quản lý quĩ đầu tư chủ động có thể thu được kết quả đầu tư cao hơn kết quả tăng trưởng của chỉ số chứng khoán trong một vài năm nhất định, thậm chí là ổn định trong nhiều năm liên tiếp. Tuy nhiên, các nhà đầu tư nhỏ vẫn luôn băn khoăn rằng bao nhiêu % trong sự thành công đó là do kĩ năng, bao nhiêu % là do may mắn, và nên đặt niềm tin vào những nhà quản lý quĩ nào. Dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Theo Mục 26, Điều 6 Luật Chứng khoán do Quốc hội ban hành và chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2007: “Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là việc công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện quản lý theo uỷ thác của từng nhà đầu tư trong mua, bán, nắm giữ chứng khoán”. Mô hình dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Thông thường một công ty quản lý tài sản sẽ có 2 dịch vụ chính là quản lý quỹ và quản lý danh mục đầu tư. Mô hình như sau: Sơ đồ 1.1 Mô hình dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Nguồn: Investment Analysis and Portfolio Management, 7th Edition Quản lý danh mục đầu tư là việc Công ty quản lý thực hiện quản lý đầu tư cho nhiều khách hàng riêng lẻ, mỗi khách hàng có một tài khoản tách biệt và có mục tiêu đầu tư khác nhau. Việc mua, bán chứng khoán sẽ được tập trung trong cùng lệnh để giảm các chi phí giao dịch, sau đó Công ty quản lý sẽ phân bổ tài sản, tiền cho các tài khoản của các Nhà đầu tư một cách phù hợp với mục tiêu đầu tư của từng Nhà đầu tư. Quản lý quỹ là việc Công ty quản lý thực hiện quản lý danh mục đầu tư của quỹ do các nhà đầu tư góp vốn dưới hình thức mua chứng chỉ quỹ, mỗi quỹ sẽ có một tài khoản riêng biệt. Nhà đầu tư là cá nhân hoặc tổ chức ủy thác tiền (tài sản) cho Công ty quản lý danh mục đầu tư quản lý dựa trên hợp đồng quản lý danh mục đầu tư giữa hai bên. Nhà đầu tư phải chịu mọi chi phí hợp lý, hợp lệ liên quan đến danh mục đầu tư trong phạm vi hợp đồng. Công ty (người) quản lý danh mục đầu tư là Công ty chuyên nghiệp chịu trách nhiệm đối với danh mục đầu tư của Nhà đầu tư ủy thác. Công ty quản lý danh mục đầu tư được hưởng phí quản lý và có quyền tự quyết định việc lập danh mục đầu tư cho khách hàng trong khuôn khổ và hạn chế thỏa thuận trong hợp đồng ủy thác đầu tư với Nhà đầu tư. Rủi ro, lợi nhuận của danh mục đầu tư đều do Nhà đầu tư hưởng hoặc gánh chịu trong phạm vi hợp đồng thỏa thuận với Công ty quản lý danh mục đầu tư. Quy trình dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Để thấy được triết lý đầu tư khác nhau phù hợp với hoạt động đầu tư, chúng ta hãy bắt đầu nhìn vào quá trình tạo ra danh mục đầu tư. Chú ý rằng đây là quá trình mà tất cả chúng ta tuân theo - kể cả đầu tư chuyên hay không chuyên - mặc dù vậy việc xây dựng danh mục đầu tư cho một cá nhân có thể đơn giản hơn đối với một nhà quản lý quỹ với một khách hàng hay thay đổi và có nhiều yêu cầu. Sơ đồ 1.2 Quy trình dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Nguồn: Investment Philosophies – 2003 Bước 1: Tìm hiểu khách hàng (Understanding the Client) Quá trình này thường bắt đầu với nhà đầu tư và hiểu được nhu cầu và ưu tiên của người đó. Đối với một người quản lý danh mục, Nhà đầu tư đó là một khách hàng, và đầu tiên, phần quan trọng nhất trong quá trình đầu tư là hiểu được những nhu cầu của người khách hàng này, đang đóng thuế gì, và đặc biệt quan trọng có thể đơn giản hơn nhưng việc hiểu được nhu cầu và ưu tiên của người đó là bước khởi đầu quan trọng đổi với nhà quản lý danh mục. Các nội dung cơ bản là: Mục tiêu đầu tư. Khả năng chịu đựng rủi ro. Thời hạn (kỳ) đầu tư. Tình trạng thuế. Bước 2: Xây dựng danh mục đầu tư (Portfolio Construction) Bước tiếp theo của quá trình là việc xây dựng danh mục thực sự chúng ta có thể chia làm 3 phần. Phần đầu tiên là quyết định xem phân bổ danh mục thông qua việc phân cấp các loại tài sản khác nhau một cách rõ ràng như cổ phiếu, chứng khoán thu nhập cố định và tài sản thực (như bất động sản, hàng hoá và tài sản khác). Quyết định phân bổ tài sản này có thể đóng khung theo danh mục đầu tư về tài sản nội địa khác với tài sản nước ngoài, và những nhân tố ảnh hưởng đến quyết định này. Phần thứ hai là quyết định lựa chọn tài sản, nơi nào tài sản cá nhân được lựa chọn ở mỗi cấp tài sản để xây dựng danh mục. Ở các danh mục thực tế, bước này là bước mà cổ phiếu tạo nên phần vốn cổ phiếu, trái phiếu tạo nên phần thu nhập cố định và tài sản thực tạo nên phần tài sản bất động sản được chọn lựa. Phần cuối cùng là phần thực hiện, khi danh mục đã được lựa chọn. ở đây các nhà đầu tư xem xét chi phí giao dịch đối với nhu cầu cần giao dịch một cách nhanh chóng. Trong khi đó tầm quan trọng của việc thực hiện sẽ thay đổi thông qua chiến lược đầu tư, có nhiều nhà đầu tư thất bại ở bước này trong quá trình xây dựng danh mục. Bước 3: Đánh giá hiệu quả danh mục đầu tư (Evaluate portfolio performance) Phần cuối của quá trình này thường là phần đau đầu nhất đối với người quản lý tiền chuyên nghiệp, là quá trình đánh giá. Việc đầu tư sau cùng phải tập trung vào một mục tiêu và chỉ duy nhất một mục tiêu kiếm được càng nhiều tiền càng tốt, cho dù khá rủi ro. Các nhà đầu tư sẽ không tha thứ sự thất bại và không sẵn sàng chấp nhận sự tha thứ và lòng trung thành với các nhà quản lý tiền không phải là đặc điểm thường tìm thấy. Với bằng chứng giống như vậy công việc đánh giá chỉ quan trọng đối với nhà đầu tư cá nhân những người tự xây dựng cho mình danh mục , bởi vì phản hồi từ đó có thế quyết định hầu hệt việc đầu tư trong tương lai của các nhà đầu tư. Các tổ chức liên quan Các tổ chức liên quan trực tiếp và mật thiết với dịch vụ quản lý danh mục đầu tư là Công ty chứng khoán, Ngân hàng lưu ký và Tổ chức định giá. Công ty chứng khoán là những công ty hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán, có thể đảm nhạn một hoặc nhiều trong số các nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, môi giới, tự doanh, quản lý quỹ đầu tư, và tư vấn đầu tư chứng khoán. Công ty chứng khoán có chức năng cơ bản nhất là môi giới chứng khoán, cung cấp phương tiện để các nhà quản lý tìm kiếm và thực hiện các hoạt động đầu tư. Ngân hàng lưu ký Tổ chức định giá Đạo đức nghề nghiệp kinh doanh chứng khoán Bản chất đạo đức của tất cả mọi nghề nghiệp là tính tin cậy, bất cứ một cá nhân nào, ngành nghề nào khi thực hiện đều phải dựa trên nguyên tắc có nghiệp vụ chuyên môn cao và có một quyền hạn nhất định xuất phát từ tính chất nghề nghiệp mang lại. Bản chất đạo đức nghề nghiệp thể hiện qua 4 điểm: Có trình độ và năng lực tức là có khả năng thực thi công việc một cách hiệu quả và chất lượng cao, hay còn gọi là giỏi. Làm việc có tiêu chuẩn hành nghề: thực thi công việc đúng theo tiêu chuẩn và quy trình đã được quy định sẵn cho từng công việc. Có đạo đức tức là thực hiện công việc một cách thẳng thắn, trung thực, trong sạch và công bằng, hay còn gọi là tốt. Có niềm tự hào tức là có quá trình thực thi công việc và có cuộc sống trong sạch, không có những hành vi làm cho người khác coi thường nghề nghiệp của mình. Đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động kinh doanh chứng khoán là tập hợp các chuẩn mực hành vi, cách cư xử và ứng xử được quy định cho nghề nghiệp kinh doanh chứng khoán nhằm bảo vệ và tăng cường vai trò, tính tin cậy, niềm tự hào của nghề nghiệp kinh doanh chứng khoán trong xã hội. Những nguyên tắc cơ bản của đạo đức nghề nghiệp: Tính trung thực trong hành nghề: Công ty phải hoạt động trung thực và trong sạch dựa trên nguyên tắc bình đẳng trong việc cung cấp dịch vụ. Chú tâm đến công việc và cẩn trọng khi hành nghề: Công ty phải xây dựng quy trình hoạt động theo tiêu chuẩn thống nhất, xây dựng đội ngũ cán bộ có trình độ, tận tụy và tinh thần trách nhiệm trong công việc. Tính chấp hành các chế tài trong hoạt động kinh doanh: Công ty phải hoạt động đúng pháp luật, chấp hành nghiêm chỉnh các quy chế, tiêu chuẩn hành nghề liên quan. Công ty phải có đủ dữ liệu thông tin liên quan đến khách hàng làm cơ sở xem xét địa vị và mục đích đầu tư của khách hàng. Thông tin cung cấp cho khách hàng phải chính xác, đầy đủ và công bằng cho mọi khách hàng. Công ty phải tránh những xung đột về lợi ích có thể xảy ra với khách hàng, nếu có xảy ra phải xử lý một cách công bằng và thấu rình đạt lý, tuyệt đối không được trục lợi từ khách hàng. Công ty phải quản lý tài sản của khách hàng riêng rẽ với tài sản của công ty và phải có biện pháp bảo quản phù hợp riêng rẽ cho từng khách hàng. Công ty phải đảm bảo có đủ nguồn vốn đáp ứng được mọi cam kết trong hoạt động kinh doanh cũng như mọi rủi ro có thể phát sinh. Công ty phải có bộ máy và kiểm soát nội bộ công ty. Công ty phải có sự phối hợp chặt chẽ trong toàn ngành vì lợi ích chung. Công ty phải tránh những hành vi vu khống lẫn nhau hoặc có hành vi gây mất đoàn kết với các công ty khác trong ngành. Công ty thành viên phải cung cấp và hợp tác chặt chẽ với các cơ quan quản lý. THỰC TRẠNG DỊCH VỤ QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN QUẢN LÝ QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN AN BÌNH Tổng quan và thị trường chứng khoán Việt Nam Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển đòi hỏi trong nước phải có một nguồn vốn lớn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế. Vì vậy, Việt Nam cần phải có chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực tài chính trong và ngoài nước để chuyển các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế thành nguồn vốn đầu tư và thị trường chứng khoán tất yếu sẽ ra đời vì nó giữ vai trò quan trọng đối với việc huy động vốn trung và dài hạn cho hoạt động kinh tế. Nhận thức rõ việc xây dựng thị trường chứng khoán là một nhiệm vụ chiến lược có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với tiến trình xây dựng và phát triển đất nước, trước yêu cầu đổi mới và phát triển kinh tế, phù hợp với các điều kiện kinh tế – chính trị và xã hội trong nước và xu thế hội nhập kinh tế quốc tế, trên cơ sở tham khảo có chọn lọc các kinh nghiệm và mô hình thị trường chứng khoán trên thế giới, thị trường chứng khoán Việt Nam đã ra đời. Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam được đánh dấu bằng việc đưa vào vận hành Trung tâm giao dịch chứng khoán TP.Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000 và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000. Thị trường tập trung Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) Ngày 20/07/2000, TTGDCK Tp.HCM đã chính thức khai trương đi vào vận hành, và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 với 02 loại cổ phiếu niêm yết. Qua 7 năm với sự tăng trưởng của thị trường và hội nhập với TTCK thế giới, Trung tâm giao dịch chứng khoán Tp.HCM đã chính thức được Chính phủ ký Quyết định số:599/QĐ-TTg ngày 11/05/2007 chuyển đổi thành Sở giao dịch Chứng khoán Tp.HCM. Ngày 08/08/2007, SGDCK TP.HCM đã chính thức được khai trương. Quy mô niêm yết trên sàn HOSE tới ngày 23/10/2008: Bảng 2.1 Quy mô niêm yết trên HOSE Toàn thị trường Cổ phiếu Chứng chỉ Trái phiếu Số CK niêm yết 236 160 4 72 Khối lượng niêm yết 5.102.697.120 4.690.541.340 252.508.990 159.646.800 Giá trị niêm yết (tỷ đồng) 65.509 46.905 2.521 16.083 Nguồn: HOSE - 2008 Tính đến ngày 23/10/2008, toàn thị trường đã có 236 loại chứng khoán được niêm yết, trong đó có 160 cổ phiếu với tổng giá trị niêm yết đạt 46 ngàn tỷ đồng, đặc biệt có 6 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài tham gia niêm yết; 04 chứng chỉ quỹ đầu tư với khối lượng 252 triệu đơn vị và 72 trái phiếu các loại. Dự kiến thời gian tới, số lượng cổ phiếu niêm yết tại SGDCK TP.HCM sẽ tăng lên rất nhiều do Chính phủ đã có chủ trương đưa cổ phiếu của một số tổng công ty lớn, các ngân hàng thương mại quốc doanh cổ phần hoá vào niêm yết trên thị trường Biểu đồ 2.1 Biểu đồ số lượng cổ phiếu niêm yết trên HOSE Nguồn: HOSE - 2008 Sự gia tăng nhanh chóng lượng cổ phiếu niêm yết trên thị trường đã thu hút được thêm nhiều nhà đầu tư, trong cũng như ngoài nước, cá nhân cũng như có tổ chức. Đến cuối năm 2006, số lượng tài khoản của nhà đầu tư mở tại các công ty chứng khoán thành viên lên tới trên 106 ngàn tài khoản, thì cho đến hết năm 2007 số lượng tài khoản của nhà đầu tư mở tại các CTCK đã lên tới gần 298 ngàn tài khoản trong đó có trên 7 ngàn tài khoản của nhà đầu tư nước ngoài. Đối với hoạt động giao dịch, SGDCK TP.HCM đã thực hiện giao dịch khớp lệnh liên tục từ ngày 30/07/2007 và từng bước triển khai giao dịch nhập lệnh từ xa để đáp ứng với tình hình thị trường đang phát triển. Tính đến ngày 31/12/2007, SGDCK TP.HCM đã thực hiện được 1.699 phiên giao dịch với khối lượng khoảng 4.225 triệu chứng khoán và gía trị khoảng 384.452 tỷ đồng. Riêng trong năm 2007, khối lượng giao dịch đạt khoảng gần 2.390 triệu chứng khoán với tổng giá trị giao dịch là 245.651 tỷ đồng. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (HaSTC) Ngày 11 tháng 07 năm 1998, Chính phủ ra Quyết định số 127/1998/QÐ-TTg thành lập hai Trung tâm giao dịch chứng khoán trực thuộc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Theo đó, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân sách Nhà nước cấp. Biên chế của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội thuộc biên chế của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. Ngày 11/7/1998, Chính phủ ra Quyết định số 127/1998/QĐ-TTg thành lập hai TTGDCK trực thuộc UBCKNN. Theo đó, TTGDCK Hà Nội, là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân sách nhà nước cấp. Ngày 05/8/2003 Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt chiến lược phát triển TTCK Việt Nam đến 2010. Theo đó, xây dựng thị trường giao dịch cổ phiếu của các doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội, chuẩn bị điều kiện để sau 2010 chuyển thành Thị trường giao dịch chứng khoán phi tập trung (OTC). Ngày 8.3.2005 TTGDCK Hà Nội chính thức khai trương hoạt động, đánh dấu một bước phát triển mới của TTCK Việt Nam. Tính đến ngày 23/10/2008, tổng giá trị niêm yết trên TTGDCK Hà Nội đạt 18.822 tỷ đồng với 153 mã cổ phiếu niêm yết. Bảng 2.2 Quy mô niêm yết trên HaSTC Toàn thị trường Cổ phiếu Trái phiếu Số chứng khoán niêm yết 659 153 506 Tổng khối lượng niêm yết 3.424.255.744 1.882.242.758 1.542.012.986 Tổng giá trị niêm yết (tỷ đồng) 173.024 18.822 154.201 Nguồn: HaSTC - 2008 Tính tới ngày 23/10/2008, trên HaSTC đã có 153 cổ phiếu niêm yết với tổng giá trị niêm yết là gần 19 ngàn tỷ đồng, có 506 trái phiếu các loại với tổng giá trị niêm yết là 154 ngàn tỷ đồng. Biểu đồ 2.2 Biểu đồ số lượng cổ phiếu niêm yết trên HaSTC Nguồn: HaSTC - 2008 Thị trường phi tập trung (OTC market) Ở Việt Nam hiện nay đang có sự ngộ nhận ở khá nhiều người trong xã hội, kể cả người ở cơ quan quản lý và một số phương tiện thông tin đại chúng, về thị trường OTC khi đề cập đến các giao dịch mua bán cổ phiếu bên ngoài sàn giao dịch chứng khoán chính thức hiện nay. thị trường mà nhiều người đang gán cho nó cái tên là OTC thực chất gọi theo quốc tế là thị trường xám, “grey market”, là thị trường tự do - nơi mua bán cổ phiếu trao tay. Trong khi đó, đúng nghĩa của thị trường OTC (over the counter), tức thị trường giao dịch phi tập trung, là thị trường giao dịch mua bán cổ phiếu chưa đủ điều kiện niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung hiện nay nhưng vẫn được tổ chức quy củ, có sự giám sát, quản lý của các cơ quan chức năng. Hiện tại đã có các quy định về công ty cổ phần đại chúng và các công ty này chịu sự chi phối bởi Luật Chứng khoán cũng như chịu sự quản lý của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước. Đề án Quản lý thị trường OTC đã được xây dựng nhằm tạo điều kiện cho nhà đầu tư và doanh nghiệp giao dịch cổ phiếu minh bạch và hiệu quả hơn. Qua đó, cơ quan quản lý nhà nước có được thông tin để định hướng và phát triển thị trường. Sắp tới giao dịch mua bán cổ phiếu của các công ty cổ phần đại chúng chưa niêm yết sẽ phải thực hiện trên thị trường OTC. Với mô hình tổ chức thị trường OTC sắp tới, các công ty cổ phần đại chúng sẽ phải lưu ký cổ phiếu tại Trung tâm Lưu ký chứng khoán; giao dịch mua bán các cổ phiếu này sẽ được thực hiện tại Trung tâm Giao dịch chứng khoán Hà Nội. Nhà đầu tư phải mở tài khoản giao dịch tại công ty chứng khoán. Thị trường tự do (Grey market) Hiếm có một thị trường chứng khoán mới ra ràng nào trên thế giới lại có một thị trường cổ phiếu không chính thức hoạt động thoải mái và thiếu kiểm soát như ở Việt Nam. Các công ty cổ phần thoải mái phát hành cổ phiếu vô tội vạ ra công chúng, cho hàng ngàn nhà đầu tư cá nhân không có một khái niệm lờ mờ về công ty mà mình mua. Song song với việc người giữ cổ phiếu bán cổ phiếu ra ngoài là việc tung các tin có lợi về công ty qua các kênh truyền thông chính thức hoặc truyền miệng khiến cho giá cổ phiếu tăng mạnh. Với cách này, nhiều người đang thu về mức lời trên vốn hàng chục lần, một mức lợi nhuận không tưởng nếu dựa trên hoạt động kinh doanh đơn thuần. Thực chất hoạt động kinh doanh của các công ty này ra sao? Tình hình tài chính và chiến lược phát triển của họ như thế nào? Rất ít người nắm được thực chất, nhưng trong không khí phấn khích của thị trường, nhà đầu tư đang lờ đi những phân tích có lý trí. Những nhà đầu tư đang lao vào cuộc có ý thức hết được những rủi ro này không? Sự hấp dẫn của thị trường chứng khoán đã kéo rất nhiều nhà đầu tư nhỏ lẻ vào cuộc. Với hiểu biết hạn chế về kinh doanh cổ phiếu và cùng với việc thiếu thông tin đáng tin cậy, những nhà đầu tư này sẽ là những nạn nhân không tránh khỏi của những cổ phiếu dỏm. Việc mua bán trao tay trên thị trường tự do không có sự bảo trợ của pháp luật càng làm cho khả năng này lớn hơn, và có thể dẫn đến những hậu quả xã hội chưa lường trước được. Sự giám sát, điều chỉnh của các cơ quan có chức năng như Uỷ ban Chứng khoán và Bộ Tài chính trong lúc này là hết sức cấp thiết. Rủi ro và lợi nhuận trên thị trường chứng khoán Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE): Biến động giá cổ phiếu được phản ánh rõ nét qua biến động chỉ số VN INDEX. Bắt đầu từ 100 điểm năm 2000, trải qua 8 năm, VN Index đã có những lúc tăng mạnh đạt tới hơn 1.000 điểm nhưng sau đó lại rơi mạnh xuống quanh 400 điểm như hiện nay. Biểu đồ 2.3 Biểu đồ chỉ số VN Index Nguồn: Công ty quản lý quỹ An Bình - 2008 Để thấy được tỷ lệ lợi nhuận và rủi ro trên sàn giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh, chúng ta tính toán tỷ lệ lợi nhuận trung bình và rủi ro đối với chỉ số VN Index và một số cổ phiếu có mức vốn hóa lớn. Dữ liệu tính toán từ ngày 28/12/2007 đến ngày 31/07/2008, kỳ tính toán là 1 tháng. Kết quả cho thấy nếu đầu tư theo chỉ số VN Index sẽ có mức lợi nhuận trung bình là -8,95% và mức rủi ro là 12,41%. Qua đó có thể thấy việc đầu tư trên sàn HOSE là khá rủi ro. Sau đây là bảng phân bổ lợi nhuận và rủi ro của chỉ số VN Index và một số cổ phiếu trên sàn HOSE: Hình 2.1 Tỷ lệ lợi nhuận và rủi ro trên HOSE Nguồn: Công ty quản lý quỹ An Bình - 2008 Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (HaSTC): Biến động giá cổ phiếu trên sàn HaSTC được phản ánh rõ nét qua biến động chỉ số HASTC Index. Bắt đầu từ 100 điểm năm 2005, trải qua 3 năm, VN Index đã có những lúc tăng mạnh đạt tới hơn 400 điểm nhưng sau đó lại rơi mạnh xuống trên mức 100 điểm như hiện nay. Biểu đồ 2.4 Biểu đồ chỉ số HASTC Index Nguồn: Công ty quản lý quỹ An Bình - 2008 Để thấy được tỷ lệ lợi nhuận và rủi ro trên trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, chúng ta tính toán tỷ lệ lợi nhuận trung bình và rủi ro đối với chỉ số HaSTC và một số cổ phiếu có mức vốn hóa lớn. Dữ liệu tính toán từ ngày 28/12/2007 đến ngày 31/07/2008, kỳ tính toán là 1 tháng. Kết quả cho thấy nếu đầu tư theo chỉ số HaSTC Index sẽ có mức lợi nhuận trung bình là -9,51% và mức rủi ro là 17,14%. Qua đó có thể thấy việc đầu tư trên sàn HaSTC thậm chí còn rủi ro hơn trên sàn HOSE. Sau đây là bảng phân bổ lợi nhuận và rủi ro của chỉ số HaSTC Index và một số cổ phiếu trên sàn HaSTC: Hình 2.2 Tỷ lệ lợi nhuận và rủi ro trên HaSTC Nguồn: Công ty quản lý quỹ An Bình - 2008 Thị trường OTC thì chưa được xây dựng xong nên chưa có số liệu để đánh giá mức độ sinh lời và rủi ro cụ thể. Đối với thị trường tự do (grey market) thì rủi ro là rất lớn. Trong thời gian qua đã xuất hiện nhiều trường hợp phát hành cổ phiếu dởm để lừa đảo chiếm đoạt tiền của nhà đầu tư. Các dạng rủi ro khi mua bán trên thị trường tự do ở Việt Nam hiện nay bao gồm: Một là, tranh chấp hay thiệt hại về quyền mua cổ phiếu mới tăng vốn. Một trong những kỳ vọng lớn nhất về lợi ích của người mua cổ phiếu là quyền mua cổ phiếu phát hành tăng vốn. Đây là một khoản thu nhập, một khoản lợi lớn của người sở hữu cổ phiếu. Tuy nhiên, thông thường trước khi phát hành cổ phiếu tăng vốn, công ty tiến hành chốt danh sách cổ đông. Tại thời điểm đó, những ai sở hữu cổ phiếu nằm trong danh sách cổ đông của HĐQT sẽ được mua thêm cổ phiếu mới theo tỷ lệ được ấn định dựa trên số cổ phiếu đang sở hữu. Với những nhà đầu tư mới, người mua cổ phiếu mới trong giai đoạn giao thời, hoặc khi danh sách cổ đông đã được chốt, nếu không biết, tiền đã thanh toán cho người chuyển nhượng, mặc dù cổ phiếu mình đã nắm giữ, nhưng chưa làm xong thủ tục chuyển nhượng, nên mất quyền mua. Quyền mua cổ phiếu mới vẫn thuộc về người chuyển nhượng, trong khi người chuyển nhượng đã bán cổ phiếu của mình đi rồi theo giá thị trường tại thời điểm đó. Như vậy, các nhà đầu tư cổ phiếu trên thị trường tự do cần chú ý luôn luôn thỏa thuận bằng giấy, bằng hợp đồng chuyển nhượng với người chuyển nhượng cổ phiếu, ghi rõ ràng quyền lợi mua cổ phiếu mới tăng vốn thuộc về ai. Loại rủi ro nói là phổ biến nhất trên thị trường tự do trong thời gian qua. Hai là, tranh chấp hay thiệt hại về cổ tức. Cổ tức của công ty được chia cho cổ đông dựa trên số lượng cổ phần cổ đông đang nắm giữ. Rủi ro là ở chỗ, khi mua cổ phiếu, người được chuyển nhượng không nắm bắt được thông tin, không thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng chuyển nhượng. Do đó người mua mặc dù nắm giữ cổ phiếu đúng tên mình rồi, nhưng không nhận được cổ tức. Ba là, rủi ro trong mua bán cổ phiếu chưa được chuyển nhượng. Có cổ phiếu theo quy định nội bộ công ty sau 1 năm mới được chuyển nhượng, nhưng nhiều nhà đầu tư không nắm được thông tin, mua loại cổ phiếu đó. Và trong thời hạn 1 năm chưa làm được thủ tục chuyển nhượng, thì các quyền lợi về quyền mua thêm cổ phiếu tăng vốn, chia cổ tức…, vẫn thuộc về người đứng tên sở hữu cổ phiếu, còn người đã bỏ tiền ra mua, đang nắm giữ cổ phiếu thì bị chiếm đoạt mất quyền lợi. Bốn là, rủi ro trong mua bán cổ phiếu ở thời điểm phát hành. Loại cổ phiếu này trong giới mua bán trên thị trường tự do còn gọi là cổ phiếu cũ và cổ phiếu mới, tức là thời điểm phát hành, kèm theo đó là quyền lợi mà nhà đầu tư có được: cổ tức, cổ phiếu thưởng, quyền mua cổ phiếu. Bởi vì, thông thường các công ty căn cứ vào năm phát hành cổ phiếu để phân phối quyền lợi cho cổ đông. Người sở hữu cổ phiếu chỉ được hưởng lợi ích tương ứng với số tháng mà cổ phiếu đó đã phát hành. Bởi vậy bỏ tiền ra mua cổ phiếu cùng với giá mua như nhau, nhưng quyền lợi giữa cổ phiếu cũ và cổ phiếu mới là khác nhau. Nhà đầu tư cần hết sức chú ý chi tiết này. Năm là, rủi ro trong mua bán cổ phiếu khi biến động giá. Thông thường để chắc ăn và “nắm đằng chuôi”, người bán luôn yêu cầu người mua cổ phiếu phải đặt cọc tiền một tỷ lệ nào đó. Khi đó nếu giá cổ phiếu giảm, buộc người mua phải mua số cổ phiếu với giá đã cam kết, nếu không bị mất tiền đặt cọc. Ngư._. thức chuyên nghiệp, công ty quản lý quỹ sẽ là một tổ chức đóng vai trò quan trọng trong việc bình ổn thị trường, tránh được những hiệu ứng không tốt của tâm lý đám đông, mua vào bằng mọi giá khi thị trường tăng và tháo chạy một cách hoảng loạn khi thị trường suy giảm. Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình là một trong các công ty quản lý quỹ được cấp phép hoạt động khá sớm ở Việt Nam. Trải qua gần 2 năm hoạt động, bước đầu Công ty đã phát triển được một số khách hàng tổ chức và quản lý đầu tư cho họ. Tuy nhiên để phát triển dịch vụ một cách chuyên nghiệp thì công ty vẫn còn nhiều việc phải hoàn thiện. Xuất phát từ tình cấp thiết đó, phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào nghiên cứu những lý thuyết cơ bản về quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Sau đó đề tài phân tích thực trạng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư của Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình. Từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị để phát triển dịch vụ này. Các giải pháp, kiến nghị xuất phát từ phân tích, đánh giá chủ quan của tác giả dựa trên những lý thuyết mà tác giả được tiếp thu trong quá trình học tập. Do vấn đề mà đề tài đề cập tới là khá phức tạp và chưa được ứng dụng nhiều ở Việt Nam nên đề tài không tránh khỏi những sai sót, hạn chế. Vì vậy, các nội dung này cần được liên tục nghiên cứu và cập nhật để dịch vụ ngày càng hoàn thiện hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT Nguyễn Văn Định (2005), Đầu tư tài chính, Nhà xuất bản tài chính, Hà Nội. Đặng Quang Gia (2001), Từ điển thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội. Đào Lê Minh (2002), Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán, Nhà xuất bản chính trị quốc gia, Hà Nội. Phan Thị Bích Nguyệt (2005), Đầu tư tài chính, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội. Ủy ban chứng khoán nhà nước (2005), Tài liệu tìm hiểu nghiệp vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán, Nhà xuất bản thống kê, Hà Nội. TIẾNG ANH Aswath Damodaran (2003), Investment Philosophies, Wiley Finance, USA. Bruce J. Feibel (2003), Investment Performance Measurement, John Wiley & Sons, USA. Christine Brentani (2004), Portfolio Management in Practice, Elsevier Butterworth-Heinemann, USA. Fabozzi Frank J. (2003), Portfolio and Investment Management, 4th Edition, McGraw-Hill, USA. Frank K. Reilly and Keith C. Brown (2003), Investment Analysis and Portfolio Management, 7th Edition, McGraw-Hill, USA. James L. Farrell (1997), Portfolio Management Theory and Application, McGraw-Hill, USA. Kane Alex and J. Marcus Alan (2002), Essentials of Investment, 2th Edition, McGraw-Hill, USA. Michael Sincere (2004), Understanding Stock, McGraw-Hill, USA. Stephen Satchell and Alan Scowcroft (2003), Advance in Portfolio Construction and Impementation, Butterworth-Heinemann, USA. William A. Rini (2002), Fundamentals of the Securities Industry, McGraw-Hill, USA. William F. Sharpe (2000), Portfolio Theory and Capital Markets, McGraw-Hill, USA. PHỤ LỤC Phụ lục 1: Lợi nhuận kỳ vọng và tỷ lệ rủi ro trên sàn HOSE Stt Mã cổ phiếu LN kỳ vọng / tháng (%) Tỷ lệ rủi ro (%) 1 VN-Index -8,95% 12,41% 2 ANV -10,00% 14,20% 3 BMC -9,02% 29,44% 4 BMI -18,25% 8,24% 5 BMP -12,00% 17,58% 6 BT6 -1,41% 14,44% 7 CII -10,15% 15,17% 8 DHG -7,39% 9,86% 9 DMC -7,97% 10,97% 10 DPM -1,64% 18,58% 11 DPR -1,97% 16,96% 12 DRC -11,94% 18,84% 13 FPC -9,82% 20,51% 14 FPT -13,64% 20,57% 15 GMD -14,38% 12,54% 16 HPG -0,84% 22,26% 17 HRC -15,38% 13,85% 18 HT1 -16,63% 5,25% 19 IMP -6,30% 13,17% 20 ITA -1,72% 15,10% 21 KDC -12,31% 11,04% 22 MPC -19,56% 8,99% 23 NKD -11,86% 12,69% 24 NTL -15,26% 24,95% 25 PAC -4,44% 14,96% 26 PET -6,97% 28,75% 27 PPC -8,84% 12,60% 28 PVD -1,53% 17,89% 29 PVT -20,51% 11,02% 30 REE -16,54% 18,26% 31 RIC -16,46% 8,61% 32 SAM -20,19% 12,13% 33 SJS -13,67% 26,89% 34 SSI -15,36% 20,90% 35 STB -10,41% 16,61% 36 TAC -9,47% 12,35% 37 TDH -14,02% 9,55% 38 TSC 0,51% 26,72% 39 TRC -5,98% 16,57% 40 VHC -13,76% 12,81% 41 VIC 1,07% 15,62% 42 VIP -14,06% 13,51% 43 VNM -4,82% 13,58% 44 VSH -4,64% 16,93% 45 VTO -16,59% 11,41% Nguồn: HOSE - 2008 Phụ lục 2: Lợi nhuận kỳ vọng và tỷ lệ rủi ro trên sàn HaSTC Stt Mã cổ phiếu LN kỳ vọng / tháng (%) Tỷ lệ rủi ro (%) 1 HA-Index -9,51% 17,14% 2 ACB -10,58% 20,44% 3 PVS -6,62% 38,19% 4 KBC -2,06% 21,18% 5 PVI -11,76% 19,17% 6 VNR -8,49% 24,70% 7 VSP -4,64% 16,93% 8 BVS -21,66% 13,81% 9 NTP -9,11% 24,97% 10 BCC -10,88% 7,80% 11 BTS -12,64% 11,61% 12 TBC -8,68% 10,63% 13 VCS -3,36% 33,99% Nguồn: HaSTC - 2008 Phụ lục 3: Bảng cân đối kế toán Công ty quản lý quỹ An Bình BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN Tại ngày 31 tháng 12 năm 2007 Đơn vị tính: VND Nguồn: Công ty quản lý quỹ An Bình - 2007 BẢNG CÂN ĐỐI KẾ TOÁN (tiếp) Nguồn: Công ty quản lý quỹ An Bình - 2007 Phụ lục 4: Báo cáo kết quả kinh doanh Công ty quản lý quỹ An Bình BÁO CÁO KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH Cho năm tài chính kết thúc tại ngày 31/12/2007 Đơn vị tính: VND Nguồn: Công ty quản lý quỹ An Bình - 2007 Phụ lục 5: Mẫu bản tìm hiểu thông tin khách hàng cá nhân Thông Tin Chung Họ và tên: Ngày sinh: Giới tính: Nam Nữ Quốc tịch: Dân tộc: Số CMTND: Ngày cấp: Nơi cấp: Tel: Mobile: Fax: Email: Nghề nghiệp: Địa chỉ thường trú: Địa chỉ liên lạc: Kinh nghiệm đầu tư: năm. Thu Nhập Hàng Năm Ước tính tổng thu nhập hàng năm Số Vốn Ủy Thác Số vốn ủy thác dự kiến Xác định lợi nhuận kỳ vọng và tỷ lệ rủi ro Xin hãy xác định các con số phần trăm (%) của tổng số tiền dự định đầu tư mà phù hợp với các miêu tả về rủi ro và lợi nhuận bên cạnh. Tổng các con số này là 100 %. Đây chính là cơ sở để Công ty quản lý quỹ xây dựng cơ cấu danh mục đầu tư phù hợp với khả năng chịu đựng rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của Nhà đầu tư. Tỷ lệ (%) Miêu tả về rủi ro và lợi nhuận % “Tôi muốn bảo vệ giá trị của tài khoản. Tôi chấp nhận có lợi nhuận thấp từ các khoản đầu tư ổn định và rủi ro mất vốn là rất nhỏ.” % “Tôi chấp nhận một số rủi ro để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn, nhưng tôi thích đầu tư phần lớn vào các khoản đầu tư có rủi ro thấp.” % “Tôi chấp nhận rủi ro vừa phải để có mức lợi nhuận vừa phải, đạt được lợi nhuận cao hơn và giảm thiểu rủi ro là quan trọng đối với tôi.” % “Tôi chấp nhận rủi ro cao vừa phải để đạt mức lợi nhuận cao vừa phải. Vì vậy tôi chấp nhận những biến động trong ngắn hạn để tìm kiếm lợi nhuận cao.” % “Tôi chấp nhận những rủi ro, biến động lớn trong các khoản đầu tư để tìm kiếm lợi nhuận cao. Tối đa hóa lợi nhuận là mối quan tâm chính của tôi.” ∑= 100% LỜI MỞ ĐẦU Hiện nay, thị trường chứng khoán Việt Nam đang phát triển mạnh mẽ và chỉ số VNIndex được coi là chỉ số phản ánh sự phát triển của thị trường. Chỉ số VNIndex đã tăng từ 100 điểm ngày 28/07/2000 đến 1.103,88 điểm đóng cửa ngày 16/10/2007 sau hơn 7 năm. Tuy nhiên, trong hơn 7 năm đó chỉ số VNIndex tăng trưởng không thật sự ổn định, mà dao động lên xuống rất mạnh. Qua đó, có thể thấy tiềm năng tăng trưởng của thị trường chứng khoán Việt Nam rất cao nhưng cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro. Trong những năm qua, trên thị trường chứng khoán Việt Nam, phần lớn cả các nhà đầu tư cá nhân và tổ chức đều chủ yếu tự mình tham gia đầu tư. Những nhà đầu tư này phần lớn không được đào tạo bài bản về chứng khoán. Để đảm bảo sự phát triển bền vững của thị trường chứng khoán, Luật chứng khoán đã ra đời và có hiệu lực từ 01/01/2007. Sau đó, Quy chế tổ chức và hoạt động của công ty quản lý quỹ đã được ban hành kèm theo quyết định số 35/2007/QĐ-BTC ngày 15/05/2007 của Bộ Tài chính. Theo quy chế này, Công ty quản lý quỹ được phép thực hiện nghiệp vụ Quản lý danh mục đầu tư. Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình được thành lập vào cuối năm 2006. Hiện nay, Công ty đã được Ủy ban chứng khoán nhà nước cho phép thực hiện 2 nghiệp vụ cơ bản là quản lý quỹ đầu tư và quản lý danh mục đầu tư. Trong đó, quản lý danh mục đầu tư là việc công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện quản lý theo uỷ thác của từng nhà đầu tư trong mua, bán, nắm giữ chứng khoán. Nhu cầu thị trường đã có, cơ sở pháp lý cho dịch vụ quản lý danh mục đầu tư cũng bước đầu được thiết lập. Vì vậy, Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình cần phải phát triển dịch vụ Quản lý danh mục đầu tư một cách bài bản, chuyên nghiệp để tối đa hóa lợi ích trên cơ sở giảm thiểu rủi ro cho khách hàng. 1. Lý do chọn đề tài Tôi lựa chọn đề tài “Phát triển dịch vụ Quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình” làm đề tài luận văn thạc sĩ với các lý do sau: Xuất phát từ tính cấp thiết của đề tài, dịch vụ quản lý danh mục đầu tư là hết sức cần thiết trong sự phát triển của thị trường chứng khoán nói chung và Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình nói riêng. Với những kiến thức được trang bị trong quá trình học cao học tại Trường đại học Kinh tế quốc dân, tôi mong muốn có thể ứng dụng những lý thuyết đã nghiên cứu vào thực tế thị trường chứng khoán Việt Nam. 2. Mục đích nghiên cứu Nghiên cứu những nội dung lý thuyết cơ bản về quản lý danh mục đầu tư và dịch vụ quản lý danh mục đầu tư. Tìm hiểu thực tế thị trường chứng khoán Việt Nam và dịch vụ quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình. Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị phát triển dịch vụ Quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình. 3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu Dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình từ khi thành lập đến nay. 4. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài Đề tài đã đi vào nghiên cứu các nội dung cơ bản về quản lý danh mục đầu tư và dịch vụ quản lý danh mục đầu tư. Đây là một nội dung không mới ở nước ngoài nhưng còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Đề tài đã chỉ ra những vấn đề cơ bản, cốt lõi nhất của lý thuyết quản lý danh mục đầu tư hiện đại. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN Danh mục đầu tư chứng khoán Chứng khoán Chứng khoán là hàng hóa của thị trường chứng khoán, đó là những tài sản tài chính vì nó mang lại thu nhập và khi cần người sở hữu có thể bán nó để thu tiền về. Chứng khoán là các loại giấy tờ có giá và có thể mua bán trên thị trường, gọi là thị trường chứng khoán, khi đó chứng khoán là hàng hóa trên thị trường đó. Danh mục đầu tư Theo Từ điển thuật ngữ thị trường chứng khoán: “Danh mục đầu tư là kết hợp sở hữu từ hai trở lên các đầu tư chứng khoán, trái phiếu, hàng hóa, bất động sản, công cụ tương đương tiền mặt, hay các tài sản khác bởi một cá nhân hay nhà đầu tư thuộc tổ chức. Mục đích của danh mục đầu tư là làm giảm rủi ro bằng cách đa dạng hóa đầu tư”. Danh mục đầu tư chứng khoán Như vậy, kết hợp giữa hai khái niệm “chứng khoán” và “danh mục đầu tư” ở trên chúng ta có thể hiểu Danh mục đầu tư chứng khoán là kết hợp sở hữu từ hai trở lên các đầu tư chứng khoán bởi một cá nhân hay nhà đầu tư thuộc tổ chức. Lợi nhuận và rủi ro trong đầu tư chứng khoán Lợi nhuận và rủi ro Lợi nhuận Lợi nhuận (return) là thu nhập có được từ một khoản đầu tư, thường được biểu thị bằng tỷ lệ phần trăm1 giữa thu nhập và giá trị khoản đầu tư bỏ ra. Ví dụ bạn bỏ ra 100$ để mua một cổ phiếu, được hưởng cổ tức là 7$ một năm và sau một năm giá thị trường của cổ phiếu đó là 106$. Lợi nhuận bạn có được khi đầu tư cổ phiếu này là: (7$ + 6$)/100 = 13%. Rủi ro Rủi ro được định nghĩa là sự sai biệt của lợi nhuận thực tế so với lợi nhuận kỳ vọng. Giả sử bạn mua trái phiếu kho bạc để có được lợi nhuận là 8%. Nếu bạn giữ trái phiếu này đến cuối năm bạn sẽ được lợi nhuận là 8% trên khoản đầu tư của mình. Nếu bạn không mua trái phiếu mà dùng số tiền đó để mua cổ phiếu và giữ đến hết năm, bạn có thể có hoặc có thể không có được cổ tức như kỳ vọng. Thái độ đối với rủi ro Để minh họa và phân biệt thái độ của nhà đầu tư đối với rủi ro, chúng ta xem xét trò chơi có tên Let’s Make a Deal do Monty Hall điều khiển chương trình như sau: Monty Hall giải thích rằng bạn được phép giữ lấy bất cứ thứ gì bạn tìm thấy khi mở cửa số 1 hoặc số 2. Đằng sau một trong hai cửa này là 10.000$ trong khi cửa còn lại là một đống vỏ xe đã sử dụng có giá trị thị trường là 0. Đo lường lợi nhuận kỳ vọng và rủi ro Có nhiều quan niệm về cách thức đo lường rủi ro. Một cách đo lường rủi ro phổ biến nhất là phương sai, hoặc độ lệch chuẩn của lợi nhuận kỳ vọng. Một cách khác đo lường rủi ro là biên độ dao động của lợi nhuận kỳ vọng. Biên độ dao động càng lớn thì rủi ro càng lớn. Lợi nhuận và rủi ro của danh mục đầu tư Lợi nhuận của danh mục đầu tư Lợi nhuận kỳ vọng của danh mục đầu tư đơn giản chỉ là trung bình có trọng số của các lợi nhuận kỳ vọng của từng chứng khoán trong danh mục đầu tư. Trọng số ở đây chính là tỷ trọng của từng loại chứng khoán trong danh mục đầu tư. Rủi ro của danh mục đầu tư Rủi ro của danh mục đầu tư được đo lường bởi độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư. Không giống lợi nhuận, việc xác định độ lệch chuẩn của danh mục đầu tư rất phức tạp do ảnh hưởng của yếu tố hiệp phương sai (covariance), tức là mức độ quan hệ giữa rủi ro của các chứng khoán trong danh mục đầu tư. Phân loại rủi ro Rủi ro hệ thống (Systematic risk) Trong đầu tư, những rủi ro do các yếu tố nằm ngoài công ty, không kiểm soát được và có ảnh hưởng rộng rãi đến cả thị trường và tất cả mọi loại chứng khoán được gọi là rủi ro hệ thống hay là rủi ro không phân tán được. Rủi ro hệ thống là những rủi ro từ bên ngoài của một ngành công nghiệp hay của một doanh nghiệp, chẳng hạn như chiến tranh, lạm phát, sự kiện kinh tế và chính trị... Rủi ro phi hệ thống (Unsystematic risk) Rủi ro phi hệ thống là những rủi ro do các yếu tố nội tại gây ra, nó có thể kiểm soát được và chỉ tác động đến một ngành, một công ty, một hoặc một số chứng khoán. Rủi ro phi hệ thống do các yếu tố như khả năng quản lý điều hành, đình công hay những yếu tố khác gắn với những thay đổi của một công ty gây ra. Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Mục đích quản lý danh mục đầu tư Đa dạng hoá danh mục đầu tư là nhu cầu của người đầu tư, có trường hợp giá cả của mọi chứng khoán được định giá đúng nhưng mỗi chứng khoán vẫn chứa đựng rủi ro và những rủi ro này có thể san sẻ thông qua việc đa dạng hoá danh mục đầu tư. Nội dung quản lý danh mục đầu tư Quản lý danh mục đầu tư là việc xây dựng một danh mục đầu tư đáp ứng tốt nhất mục tiêu của nhà đầu tư và sau đó thực hiện theo dõi, giám sát và điều chỉnh danh mục đầu tư nhằm đạt được tốt nhất mục tiêu đầu tư đã đề ra. Các kiểu danh mục đầu tư Dựa trên tính chất rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của các loại chứng khoán khác nhau có thể kết hợp các loại chứng khoán thành các kiểu danh mục đầu tư khác nhau. Kiểu danh mục đầu tư thiên về tăng trưởng sẽ có tỷ trọng cổ phiếu lớn. Kiểu danh mục đầu tư thiên về thu nhập sẽ có tỷ trọng trái phiếu lớn. Các chiến lược quản lý danh mục đầu tư Chiến lược đầu tư chủ động Đầu tư chủ động là chiến lược quản lý danh mục đầu tư trong đó nhà đầu tư tiến hành việc đầu tư với mục tiêu đạt kết quả tốt hơn các chỉ số chuẩn mực trên thị trường. Chiến lược đầu tư thụ động Chiến lược đầu tư thụ động là chiến lược đầu tư trong đó nhà quản lý quĩ cố gắng đưa ra càng ít quyết định đầu tư càng tốt để giảm thiểu chi phí giao dịch, bao gồm cả thuế thu nhập tài chính. Dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Theo Mục 26, Điều 6 Luật Chứng khoán do Quốc hội ban hành và chính thức có hiệu lực từ ngày 01 tháng 01 năm 2007: “Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán là việc công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán thực hiện quản lý theo uỷ thác của từng nhà đầu tư trong mua, bán, nắm giữ chứng khoán”. Mô hình dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Quản lý danh mục đầu tư là việc Công ty quản lý thực hiện quản lý đầu tư cho nhiều khách hàng riêng lẻ, mỗi khách hàng có một tài khoản tách biệt và có mục tiêu đầu tư khác nhau. Việc mua, bán chứng khoán sẽ được tập trung trong cùng lệnh để giảm các chi phí giao dịch, sau đó Công ty quản lý sẽ phân bổ tài sản, tiền cho các tài khoản của các Nhà đầu tư một cách phù hợp với mục tiêu đầu tư của từng Nhà đầu tư. Quy trình dịch vụ quản lý danh mục đầu tư chứng khoán Để thấy được triết lý đầu tư khác nhau phù hợp với hoạt động đầu tư, chúng ta hãy bắt đầu nhìn vào quá trình tạo ra danh mục đầu tư. Chú ý rằng đây là quá trình mà tất cả chúng ta tuân theo - kể cả đầu tư chuyên hay không chuyên - mặc dù vậy việc xây dựng danh mục đầu tư cho một cá nhân có thể đơn giản hơn đối với một nhà quản lý quỹ với một khách hàng hay thay đổi và có nhiều yêu cầu. Bước 1: Tìm hiểu khách hàng (Understanding the Client) Bước 2: Xây dựng danh mục đầu tư (Portfolio Construction) Bước 3: Đánh giá hiệu quả danh mục đầu tư (Evaluate portfolio performance) Các tổ chức liên quan Các tổ chức liên quan trực tiếp và mật thiết với dịch vụ quản lý danh mục đầu tư là Công ty chứng khoán, Ngân hàng lưu ký và Tổ chức định giá. Đạo đức nghề nghiệp kinh doanh chứng khoán Bản chất đạo đức của tất cả mọi nghề nghiệp là tính tin cậy, bất cứ một cá nhân nào, ngành nghề nào khi thực hiện đều phải dựa trên nguyên tắc có nghiệp vụ chuyên môn cao và có một quyền hạn nhất định xuất phát từ tính chất nghề nghiệp mang lại. THỰC TRẠNG DỊCH VỤ QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN QUẢN LÝ QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN AN BÌNH Tổng quan và thị trường chứng khoán Việt Nam Sự ra đời của thị trường chứng khoán Việt Nam Để thực hiện mục tiêu đến năm 2020 phấn đấu đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp phát triển đòi hỏi trong nước phải có một nguồn vốn lớn để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nền kinh tế. Vì vậy, Việt Nam cần phải có chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực tài chính trong và ngoài nước để chuyển các nguồn vốn nhàn rỗi trong nền kinh tế thành nguồn vốn đầu tư và thị trường chứng khoán tất yếu sẽ ra đời vì nó giữ vai trò quan trọng đối với việc huy động vốn trung và dài hạn cho hoạt động kinh tế. Thị trường tập trung Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE) Ngày 20/07/2000, TTGDCK Tp.HCM đã chính thức khai trương đi vào vận hành, và thực hiện phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/07/2000 với 02 loại cổ phiếu niêm yết. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (HaSTC) Ngày 11 tháng 07 năm 1998, Chính phủ ra Quyết định số 127/1998/QÐ-TTg thành lập hai Trung tâm giao dịch chứng khoán trực thuộc Uỷ ban chứng khoán Nhà nước. Theo đó, Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội, là đơn vị sự nghiệp có thu, có tư cách pháp nhân, có trụ sở, con dấu và tài khoản riêng, kinh phí hoạt động do ngân sách Nhà nước cấp. Biên chế của Trung tâm Giao dịch Chứng khoán Hà Nội thuộc biên chế của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước. Thị trường phi tập trung (OTC market) Ở Việt Nam hiện nay đang có sự ngộ nhận ở khá nhiều người trong xã hội, kể cả người ở cơ quan quản lý và một số phương tiện thông tin đại chúng, về thị trường OTC khi đề cập đến các giao dịch mua bán cổ phiếu bên ngoài sàn giao dịch chứng khoán chính thức hiện nay. thị trường mà nhiều người đang gán cho nó cái tên là OTC thực chất gọi theo quốc tế là thị trường xám, “grey market”, là thị trường tự do - nơi mua bán cổ phiếu trao tay. Thị trường tự do (Grey market) Hiếm có một thị trường chứng khoán mới ra ràng nào trên thế giới lại có một thị trường cổ phiếu không chính thức hoạt động thoải mái và thiếu kiểm soát như ở Việt Nam. Rủi ro và lợi nhuận trên thị trường chứng khoán Sở giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (HOSE): Biến động giá cổ phiếu được phản ánh rõ nét qua biến động chỉ số VN INDEX. Bắt đầu từ 100 điểm năm 2000, trải qua 8 năm, VN Index đã có những lúc tăng mạnh đạt tới hơn 1.000 điểm nhưng sau đó lại rơi mạnh xuống quanh 400 điểm như hiện nay. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán Trước sự tăng trưởng của TTCK, số lượng công ty chứng khoán thành viên của SGDCK TP.HCM cũng không ngừng tăng về số lượng, quy mô và chất lượng dịch vụ. Tính đến hết ngày 23/10/2008, toàn thị trường đã có 99 công ty chứng khoán đăng ký làm thành viên của Sở với tổng số vốn đăng ký là tỷ đồng. Các thành viên hầu hết được cấp giấy phép hoạt động kinh doanh với các nghiệp vụ gồm: môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành và tư vấn đầu tư. Khuôn khổ pháp lý Đối với thị trường tập trung, hiện nay các văn bản pháp lý đã có bước tiến rõ nét so với những năm trước. Các văn bản pháp luật có liên quan tới hoạt động quản lý danh mục đầu tư: Đạo đức nghề nghiệp trên thị trường chứng khoán Việt Nam Khi nền kinh tế Việt Nam bước sang vận hành theo cơ chế thị trường, câu nói đầu tiên phá bỏ tư tưởng bao cấp "xin - cho" được nhiều người cho là một sự đổi mới triệt để, đó là câu: "Khách hàng là thượng đế". Từ khi TTCK Việt Nam ra đời vào năm 2000, hoạt động kinh doanh chứng khoán đã được coi là một nghề, lúc đầu còn mới mẻ, nhưng nay đã trở nên khá phổ biến trong một bộ phận những tri thức trẻ. Định hướng phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam Mục tiêu phát triển của TTCK Việt Nam trong thời gian tới là: Tập trung đẩy mạnh phát triển thị trường cả về quy mô và chất lượng hoạt động để TTCK thật sự đóng vai trò là kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế, phấn đấu đưa tổng giá trị vốn hoá thị trường cổ phiếu niêm yết đạt khoảng 40-50% GDP vào cuối năm 2010. Gắn việc phát triển TTCK với thúc đẩy chuyển đổi, sắp xếp lại doanh nghiệp nhà nước và chuyển doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thành công ty cổ phần. Hành nghề kinh doanh Lập và Quản lý quỹ đầu tư chứng khoán. Quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Các dịch vụ khác theo quy định của pháp luật. Dịch vụ quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình Mô hình dịch vụ: Sơ đồ sau mô tả dịch vụ quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình hiện nay: Danh sách khách hàng hiện nay: Hiện nay, Công ty quản lý quỹ An Bình đang quản lý danh mục đầu tư cho 2 khách hàng là tổ chức trong nước: Tháng 8/2007 Công ty quản lý quỹ An Bình ký Hợp đồng quản lý danh mục đầu tư với khách hàng đầu tiên. Tới nay Công ty đã có 2 khách hàng tổ chức với số vốn ủy thác lên tới hơn 66 tỷ đồng. Kết quả hoạt động kinh doanh Do Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình mới thành lập được gần 2 năm. Hiện Công ty mới chỉ có 2 khách hàng tổ chức với số vốn quản lý là 66 tỷ đồng và chưa gây được quỹ thành công. Trong khi đó chi phí đầu tư ban đầu và duy trì bộ máy vẫn phải trả đều đặn. Do đó, trong những năm qua, Công ty đang bị lỗ từ hoạt động kinh doanh. Theo số liệu kiểm toán báo cáo tài chính năm 2007 thì Công ty đang lỗ hơn 1,5 tỷ đồng. Đánh giá hoạt động quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình Những thuận lợi và khó khăn trong hoạt động quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình Đánh giá hoạt động quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình Qua các phân tích về tình hình dịch vụ quản lý danh mục đầu tư và thuận lợi, khó khăn của Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình trên, có thể rút ra những đánh giá cơ bản về hoạt động của Công ty trong thời gian qua như sau: Nguyên nhân Những hạn chế, khó khăn của việc phát triển dịch vụ quản lý danh mục đầu tư tại Công ty quản lý quỹ An Binh xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó các nguyên nhân chủ yếu bao gồm: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ QUẢN LÝ DANH MỤC ĐẦU TƯ TẠI CÔNG TY CỔ PHẦN QUẢN LÝ QUỸ ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN AN BÌNH Định hướng phát triển dịch vụ quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình. Định hướng Thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay còn mới ở giai đoạn sơ khai, các điều kiện để phát triển dịch vụ quản lý danh mục đầu tư còn nhiều hạn chế. Chính phủ đã có định hướng phát triển thị trường chứng khoán nói chung, trong đó có đề cập đến sự phát triển của các tổ chức tài chính chuyên nghiệp như công ty quản lý quỹ. Lộ trình phát triển Trên cơ sở định hướng trên, lộ trình phát triển dịch vụ quản lý danh mục đầu tư tại Công ty quản lý quỹ An Bình như sau: Giải pháp phát triển dịch vụ quản lý danh mục đầu tư tại Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình. Tăng cường năng lực cán bộ chuyên môn Dịch vụ quản lý danh mục đầu tư là một trong các dịch vụ phức tạp nhất trong lĩnh vực tài chính. Do đó, một trong các giải pháp trước mắt và mang tính cấp thiết là đào tạo nhân sự cho Công ty về lĩnh vực quản lý danh mục đầu tư. Kinh nghiệm thực tế cho thấy hoạt động của các tổ chức trong lĩnh vực tài chính thì yếu tố con người là quan trọng nhất, góp phần quyết định vào việc thành công trong hoạt động của công ty. Hoàn thiện bộ máy hoạt động và công tác quản trị Bên cạnh việc tăng cường năng lực, chất lượng cho đội ngũ cán bộ, Công ty quản lý quỹ An Bình cần tập trung hoàn thiện khâu tổ chức bộ máy nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của toàn bộ hệ thống cũng như của từng cá nhân. Xây dựng và hoàn thiện các quy trình hoạt động Hoạt động quản lý danh mục đầu tư là nghiệp vụ phức tạp, liên quan nhiều khâu tác nghiệp, nhiều bộ phận liên quan nên cần phải có hệ thống các quy trình cụ thể để liên kết hiệu quả luồng công việc. Phát triển các gói dịch vụ Để phát triển nhanh các khách hàng, giảm thời gian tùy biến các sản phẩm, Công ty cần chuẩn hóa dịch vụ quản lý quản lý danh mục đầu tư thành các gói dịch vụ tùy thuộc vào mức độ chịu đựng rủi ro và lợi nhuận kỳ vọng của nhà đầu tư. Tăng cường năng lực tài chính Năng lực tài chính luôn là một nhân tố quan trọng của bất kỳ một doanh nghiệp, trong bất kỳ một thời điểm nào. Hiện nay, số vốn điều lệ của Công ty mới chỉ là 30 (ba mươi) tỷ đồng. Phát triển khách hàng Như đã phân tích ở Chương 2, Công ty quản lý quỹ An Bình có thế mạnh về cổ đông và các đối tác liên quan. Trong giai đoạn trước mắt, Công ty cần tập trung khai thác sức mạnh của các cổ đông, đối tác. Công ty có thể thuyết phục để quản lý danh mục đầu tư cho các đối tượng khách hàng này. Chiến lược quản lý danh mục Như đã phân tích ở Chương 2, thị trường chứng khoán Việt Nam trong các năm qua và dự báo trong thời gian tới là hết sức rủi ro, bên cạnh đó tính hiệu quả của thị trường cũng ở mức thấp. Kỹ thuật tính toán Hiện nay, dữ liệu về chứng khoán trên 2 sàn chứng khoán tập trung (HOSE và HaSTC) tuy chưa phải là nhiều nhưng cũng khó có thể quản lý hiệu quả bằng các phần mềm thông dụng như Excel. Kiến nghị. Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý nhà nước. Hoàn thiện khung pháp lý, thể chế và chính sách: Đẩy mạnh triển khai thực thi Luật Chứng khoán thông qua việc ban hành các văn bản hướng dẫn; xây dựng các văn bản về quản lý phát hành riêng lẻ của công ty đại chúng. Tăng cường số lượng và chất lượng cung - cầu trên TTCK Tái cấu trúc Thị trường chứng khoán Nâng cao năng lực hoạt động của các tổ chức trung gian Nâng cao năng lực của các công ty chứng khoán, công ty quản lý quỹ theo tiêu chí mới (quy mô vốn; quản trị công ty; nhân lực; công nghệ; mạng lưới dịch vụ) để đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn phát triển mới. Đồng thời phát triển các tổ chức như Ngân hàng lưu ký, các tổ chức định giá, các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm … Kiến nghị đối với Công ty cổ phần quản quỹ An Bình Tuyển dụng thêm và liên tục đào tạo con người Tuyển dụng cán bộ có khả năng chuyên môn sâu về lĩnh vực đầu tư tài chính, đặc biệt ưu tiên những người được các tổ chức hành nghể quốc tế thừa nhận như CFA, ACCA, CPA ... Liên tục đào tạo cán bộ theo sát các chương trình về quản lý danh mục đầu tư, hàng năm cập nhật kiến thức pháp luật do Ủy ban chứng khoán tổ chức. Đặc biệt chú ý nâng cao ý thức của các nhà quản lý danh mục về đạo đức nghề nghiệp. Xây dựng quy trình nghiệp vụ chi tiết Xây dựng bản tìm hiểu khách hàng một cách chi tiết, liên tục cập nhật các thông tin về tình hình tài chính của các khách hàng. Đây chính là cơ sở quyết định để tiến hành xây dựng danh mục đầu tư phù hợp cho từng khách hàng. Xây dựng và hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ, đặc biệt là về phân tích, đầu tư và phân bổ tài sản. Xây dựng và hoàn thiện quy trình kiểm soát nội bộ. Theo đuổi chiến lược quản lý danh mục chủ động, tìm kiếm các cổ phiếu có khả năng sinh lợi cao hơn so với các tiêu chuẩn đề ra. Tìm hiểu và ký kết hợp đồng dịch vụ về hệ thống dữ liệu chứng khoán với nhà cung cấp dịch vụ. Đó sẽ là cơ sở để Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình tập trung vào nghiệp vụ chính là phân tích và quản lý. Ứng dụng các kỹ thuật quản lý hiện đại vào quản lý KẾT LUẬN Đảng và Nhà nước ta đã vạch ra đường lối, chiến lược phát triển kinh tế và đã đạt được những thành tựu nhất định. Trong những năm qua Việt Nam luôn được các tổ chức thế giới thừa nhận là một trong những nước phát triển kinh tế thành công, được coi là điểm đến hấp dẫn cho các nhà đầu tư, cả các nhà đầu tư trực tiếp và gián tiếp. Việc phát triển một thị trường chứng khoán ổn định, lành mạnh và hoạt động hiệu quả không thể thiếu được vai trò của các nhà đầu tư chuyên nghiệp, các nhà đầu tư tổ chức, đặc biệt là các công ty quản lý quỹ đầu tư. Với vai trò là nhà quản lý đầu tư, Công ty quản lý quỹ có vai trò thu hút các nguồn vốn từ các nhà đầu tư ít có thời gian, kiến thức để tham gia trực tiếp vào thị trường chứng khoán. Xuất phát từ tình cấp thiết đó, phạm vi nghiên cứu của đề tài tập trung vào nghiên cứu những lý thuyết cơ bản về quản lý danh mục đầu tư chứng khoán. Sau đó đề tài phân tích thực trạng dịch vụ quản lý danh mục đầu tư của Công ty cổ phần quản lý quỹ đầu tư chứng khoán An Bình. Từ đó đưa ra những giải pháp và kiến nghị để phát triển dịch vụ này. Các giải pháp, kiến nghị xuất phát từ phân tích, đánh giá chủ quan của tác giả dựa trên những lý thuyết mà tác giả được tiếp thu trong quá trình học tập. Do vấn đề mà đề tài đề cập tới là khá phức tạp và chưa được ứng dụng nhiều ở Việt Nam nên đề tài không tránh khỏi những sai sót, hạn chế. Vì vậy, các nội dung này cần được liên tục nghiên cứu và cập nhật để dịch vụ ngày càng hoàn thiện hơn. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docThS-70.doc
Tài liệu liên quan