Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cho các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái

LỜI MỞ ĐẦU Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”. Người luôn quan tâm, chăm lo xây dựng cấp xã, đã tổng kết và rút ra bài học ý nghĩa cực kỳ quan trọng “ cấp xã là gần gũi nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi việc đều xong xuôi”. Bên cạnh đó, xã hội ngày càng phát triển đồng nghĩa với việc khoảng cách chênh lệch giữa đồng bằng và miền núi, thành thị và nông thôn ngày càng t

doc71 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1436 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cho các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ăng cao. Để giải quyết vấn đề này, Đảng và Nhà nước rất quan tâm và chú trọng tới việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho các xã vùng cao, đặc biệt là các xã có đông đồng bào dân tộc thiểu số, Yên Bái cũng là một tỉnh miền núi phía Bắc có đông đồng bào dân tộc thiểu số, việc nâng cao chất lượng cuộc sống cho đồng bào dân tộc ở các xã vùng cao là nhiệm vụ quan trọng cần được đẩy mạnh. Để làm được điều đó thì trước hết cần phải phát triển đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và quản lý cho các xã vùng cao, có được một đội ngũ cán bộ cấp xã tốt thì mới có thể phát triển xã tốt được. Chính vì vậy em đã chọn đề tài nghiên cứu “Phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cho các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái” Bố cục của đề tài bao gồm 3 phần chính: Chương 1: Sự cần thiết khách quan phát triển đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao. Chương 2: Thực trạng phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cho các xã vùng cao tỉnh Yên Bái giai đoạn 2000 - 2007 Chương 3: Phương hướng và giải pháp phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cho các xã vùng cao tỉnh Yên Bái đến 2015 Em xin chân thành cảm ơn cô giáo TS. Nguyễn Thị Kim Dung và cán bộ hướng dẫn Trần Thanh Chương – phó trưởng phòng Tổng hợp, quy hoạch kinh tế và văn hóa xã hội, Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Yên Bái đã giúp đỡ nhiệt tình để em hoàn thành bài viết này. Trong quá trình thực hiện đề tài do còn hạn chế về kiến thức nên không tránh khỏi những thiếu xót. Em rất mong được sự góp ý của cô giáo để bài viết được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1. SỰ CẦN THIẾT KHÁCH QUAN PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CÁC XÃ VÙNG CAO 1.1. KHÁI QUÁT VỀ CHÍNH QUYỀN CẤP XÃ VÀ ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ 1.1.1. Chính quyền cấp xã và vai trò của chính quyền cấp xã 1.1.1.1. Chính quyền cấp xã Mỗi quốc gia thường phân chia lãnh thổ của mình thành nhiều địa phương lớn nhỏ khác nhau nhằm mục tiêu quản lý. Theo đó có các tổ chức thực hiện chức năng quản lý nhà nước và được gọi là tổ chức chính quyền. Đơn vị lãnh thổ được thiết lập trong đó có các tổ chức chính quyền gọi là các đơn vị hành chính - lãnh thổ hay là đơn vị hành chính. Tùy theo thứ bậc với quy mô và thẩm quyền quản lý khác nhau tạo thành các cấp hành chính khác nhau, tương ứng có các cấp chính quyền như: Chính quyền cấp xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) là một bộ phận cấu thành của hệ thống chính quyền 3 cấp ở Việt Nam hiện nay. Tổ chức chính quyền địa phương ở nước ta hiện nay cơ bản được xây dựng theo cấp hành chính trên cơ sở phân loại bộ máy nhà nước theo cấu trúc hành chính lãnh thổ và phạm vi thẩm quyền. Điều 118 Hiến pháp năm 1992 quy định: “Các đơn vị hành chính của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam được phân định như sau: Nước chia thành tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Tỉnh chia thành huyện, thành phố thuộc tỉnh và thị xã; thành phố trực thuộc trung ương chia thành quận, huyện và thị xã; Huyện chia thành xã, thị trấn; thành phố trực thuộc tỉnh, thị xã chia thành phường và xã; quận chia thành phường;” Theo quy định trên, đơn vị hành chính lãnh thổ của nước ta được chia thành 3 cấp: Tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương gọi chung là cấp tỉnh; Huyện, thành phố thuộc tỉnh, quận, thị xã gọi chung là cấp huyện; Xã, phường và thị trấn gọi chung là cấp xã. (cấp cơ sở) Tương ứng với việc phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ này, mô hình tổ chức chính quyền địa phương ở Việt Nam gồm 3 cấp hành chính: chính quyền cấp tỉnh, chính quyền cấp huyện và chính quyền cấp cơ sở (gồm xã, phường, thị trấn). Cán bộ, công chức cấp xã được đề cập đến trong đề tài này nằm trong hệ thống chính quyền cấp xã là cấp hành chính trực tiếp quan hệ với dân trong hệ thống tổ chức của bộ máy hành chính nhà nước; là cấp trực tiếp thực hiện quản lý nhà nước ở địa phương có chức năng quản lý, điều hành các lĩnh vực của đời sống xã hội theo Hiến pháp và pháp luật; là nơi trực tiếp thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nâng cao đời sống mọi mặt của nhân dân. 1.1.1.2. Đặc điểm của chính quyền cấp xã Chính quyền cấp xã trong hệ thống đơn vị hành chính của nước ta là cấp có địa giới hành chính nhỏ nhất và là cấp thấp nhất trong hệ thống chính quyền (còn gọi là cấp cơ sở). Theo quy định của pháp luật, tổ chức bộ máy chính quyền cấp xã bao gồm Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, không có các cơ quan tổ chức chuyên môn như phòng, ban. Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan trực tiếp thực hiện công việc quản lý địa phương, là nơi hàng ngày giải quyết các vấn đề liên quan đến đời sống sinh hoạt của nhân dân như: dân quyền, dân sinh, dân trí. Hội đồng nhân dân cấp xã là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương do cử tri trong xã bầu ra, cơ cấu tổ chức gồm: Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Phó chủ tịch hội đồng nhân dân, các... Uỷ ban nhân dân là cơ quan chấp hành của Hội đồng nhân dân cùng cấp, đồng thời là cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, do Hội đồng nhân dân xã bầu. Cơ cấu của Uỷ ban nhân dân xã bao gồm: Chính quyền cấp xã có chức năng và nhiệm vụ thực hiện các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, các mục tiêu kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng ở địa phương; thực hiện việc quản lý hành chính nhà nước trên địa bàn theo thẩm quyền được giao. Bên cạnh đó chính quyền cấp xã còn hướng dẫn và giám sát các hoạt động tự quản của nhân dân, tạo thuận lợi cho nhân dân và các doanh nghiệp làm ăn theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, chính quyền cấp xã còn được cấp trên ủy quyền thực hiện việc thu một số loại thuế, quản lý tài nguyên, thực hiện chính sách xã hội bằng thu kinh phí ngân sách nhà nước, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh... trên địa bàn. 1.1.2. Vai trò của chính quyền cấp xã Để thấy rõ được sự quan trọng và cần thiết của chính quyền cấp xã đối với cuộc sống của nhân dân cũng như sự phát triển của đất nước chúng ta cần xem xét vai trò của chính quyền cấp xã trong hệ thống chính quyền 3 cấp của nước ta. Có thể nói, chính quyền cấp xã là chính quyền cấp cơ sở, trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, ở ngay trong nhân dân. Vì vậy, chính quyền cấp xã là cầu nối trực tiếp của hệ thống chính quyền nhà nước với nhân dân, là người thực hiện hoạt động quản lý nhà nước về chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh trật tự, an toàn xã hội của địa phương theo thẩm quyền quy định, đảm bảo cho chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của nhà nước đi vào trong cuộc sống. Chính quyền cấp xã có vị trí quan trọng trong việc tổ chức, vận động nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Hội đồng nhân dân cấp xã phải thực sự là đại biểu cho nhân dân. Ủy ban nhân dân cấp xã là cơ quan hành chính nhà nước ở cơ sở, phải xử lý kịp thời những yêu cầu hàng ngày của nhân dân, phát huy quyền làm chủ, tự giác tuân thủ Hiến pháp, pháp luật, đồng thời tích cực tham gia quản lý nhà nước, quản lý xã hội, góp phần gìn giữ trật tự, an ninh xã hội ở địa phương. 1.1.3. Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã 1.1.3.1. Khái niệm Đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là một trong những bộ phận cấu thành nên đội ngũ cán bộ, công chức của nhà nước. Để hiểu được thế nào là cán bộ, công chức cấp xã có thể tiếp cận theo hai hướng: Theo nghĩa rộng thì cán bộ, công chức cấp xã là toàn bộ những người hiện đảm nhiệm các nhiệm vụ trong các cơ quan, tổ chức thuộc hệ thống chính trị ở cấp xã (tổ chức Đảng, Chính quyền, tổ chức chính trị, xã hội...) theo đúng luật định của Nhà nước Theo nghĩa hẹp thì cán bộ, công chức cấp xã là những người đang đảm đương các nhiệm vụ trong các cơ quan, tổ chức thuộc bộ máy chính quyền cấp xã, bao gồm cán bộ chuyên trách và cán bộ chuyên môn ( hay còn gọi là công chức) cấp xã. Cụ thể theo pháp lệnh cán bộ, công chức được sửa đổi, bổ sung năm 2003 quy định về đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã: Cán bộ chuyên trách là những người do bầu cử để đảm nhiệm chức vụ lãnh đạo theo nhiệm kỳ trong Thường trực Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân; Bí thư, Phó Bí thư Đảng uỷ; người đứng đầu tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội xã, phường, thị trấn Đối với công chức xã là những người được tuyển dụng, giao giữ một chức danh chuyên môn nghiệp vụ thuộc Uỷ ban nhân dân cấp xã, bao gồm 7 chức danh cụ thể: Chỉ huy trưởng quân sự; Trưởng công an; Văn phòng - Thống kê; Tài chính - Kế toán; Địa chính; Tư pháp - Hộ tịch; Văn hoá - Xã hội. Nội dung nghiên cứu của đề tài cũng dựa trên nghĩa hẹp về khái niệm cán bộ, công chức cấp xã, chủ yếu đi sâu vào đánh giá số lượng cũng như chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc cho bộ máy chính quyền cấp xã để từ đó đưa ra được những giải pháp cụ thể để khắc phục những nhược điểm còn tồn tại và phát huy những điểm mạnh sẵn có. 1.1.3.2. Vai trò của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã Trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như hiện nay đội ngũ cán bộ, công chức chủ chốt cấp xã đóng vai trò vô cùng quan trọng. Thể hiện: Thứ nhất: Cán bộ, công chức cấp xã là người lãnh đạo tổ chức thực hiện mọi chủ trương đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, là lực lượng giữ vai trò nòng cốt, điều hành hoạt động của bộ máy tổ chức xã, đồng thời là người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực hiện mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội như: được ủy quyền thực hiện việc thu hút một số loại thuế, quản lý về tài nguyên, thực hiện chính sách xã hội bằng kinh phí ngân sách nhà nước, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng, an ninh... có liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ, quyền lợi thiết thực của các tổ chức và cá nhân trên địa bàn. Vì vậy yêu cầu đối với cán bộ, công chức cấp xã phải là công bộc của dân, chịu sự giám sát của nhân dân Thứ hai là người thực thi quyền hành pháp, trực tiếp quản lý điều hành các hoạt động, nhiệm vụ được giao từ cấp trên xuống. Cán bộ, công chức không những phải thi hành tốt nhiệm vụ được giao mà còn phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về những gì mình đã làm. Qua đó cho thấy cán bộ, công chức cấp xã không chỉ biết về những gì thuộc về chuyên môn nghiệp vụ của mình mà còn cần nắm rõ về pháp luật, những quy định của nhà nước để không bị phạm sai lầm trong công tác thực hiện. Thứ ba cán bộ, công chức cấp xã là người đại diện cho nhân dân do làm việc tại cấp thấp nhất trong bộ máy chính quyền của nước ta, vì vậy thường xuyên tiếp xúc và làm việc với nhân dân, đại diện ý chí và quyền lợi của người dân tại địa phương. Có thể nói rằng cán bộ, công chức xã là người hiểu rõ tâm tư và nguyện vọng của nhân dân nhất, không chỉ vậy còn biết được phong tục tập quán, địa bàn lãnh thổ cụ thể của từng địa phương nên có thể đưa ra được những giải pháp phù hợp nhất. 1.1.3.3. Đặc điểm của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã Cán bộ, công chức cấp xã là người thay mặt chính quyền trực tiếp tiếp xúc với nhân dân, vì vậy đây là đội ngũ gần gũi và gắn bó mật thiết với người dân nhất. Đội ngũ cán bộ, công chức xã sinh sống và công tác tại địa phương, tiếp nhận công việc của cấp trên giao cho đồng thời trực tiếp chỉ đạo và hướng dẫn cho nhân dân làm. Chính vì vậy, cán bộ, công chức xã là người nắm rõ những tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, biết được những lợi thế cũng như khó khăn của xã mình đang hoạt động nên phải có trách nhiệm đề đạt những yêu cầu của người dân đến các cơ quan có thẩm quyền, gần gũi nhân dân hơn để có thể xây dựng xã thực sự là của dân, do dân và vì dân. Phần lớn đội ngũ cán bộ, công chức hoạt động tại các xã là người dân tại địa phương nên có mối quan hệ mật thiết với người dân, không thoát ly hẳn với những hoạt động sản xuất kinh doanh của địa phương. Cán bộ, công chức bên cạnh những nhiệm vụ thực hiện cho các cơ quan, tổ chức nhà nước thì cũng có những hoạt động khác như kinh doanh, buôn bán, sản xuất,... trên địa bàn của xã. Những hoạt động này góp phần tăng lượng thu nhập và liên quan đến quyền lợi sát sườn của bản thân cũng như gia đình các cán bộ, công chức, chính vì vậy có ảnh hưởng không nhỏ tới cách thức làm việc cũng như đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ này. Để có thể có một đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã trong sạch, vững mạnh và có trách nhiệm với nhiệm vụ được giao thì chính những cán bộ, công chức ở xã phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức, lý luận chính trị, tránh tình trạng tham ô, tham nhũng, cửa quyền gây khó khăn cho nhân dân. Một đặc điểm đáng quan tâm của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã là trình độ học vấn thấp và không đồng đều, có ít cơ hội và điều kiện được học tập, đào tạo nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn. Lực lượng cung cấp cho đội ngũ cán bộ, công chức ở các xã rất dồi dào nhưng thường xuyên biến động, không ổn định. Nguồn cung cấp cán bộ, công chức cho các xã bao gồm: thanh niên không thoát ly ở địa phương; bộ đội sau khi hoàn thành nghĩa vụ quân sự; các cán bộ hưu trí tại địa phương; cán bộ được tăng cường từ cấp trên xuống; cán bộ chủ chốt làm việc theo nhiệm kỳ bầu cử;...Bên cạnh đó còn có các cán bộ chuyên môn cũng được sắp xếp, thay đổi lại theo từng thời kỳ. Chính vì vậy đội ngũ cán bộ, công chức ở các xã vùng cao không được ổn định, thường xuyên có sự thay đổi, cán bộ vừa mới làm quen với điều kiện làm việc, cách thức tổ chức ở xã thì đã hết nhiệm kỳ, phải thay đổi cho người khác. Yêu cầu đối với đội ngũ cán bộ, công chức là phải có khả năng thích ứng nhanh với công việc, biết cách phối hợp với các cơ quan cấp trên và cơ quan ban ngành để hoàn thành tốt những nhiệm vụ được giao. Bên cạnh đó cần có những cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn và nghiệp vụ tốt để có thể nâng cao chất lượng làm việc về mọi mặt của xã. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức làm việc tại các xã là người địa phương cho nên có lợi thế là am hiểu về địa hình lãnh thổ, phong tục tập quán của xã, tuy nhiên kỹ năng nghề nghiệp và tính chuyên môn hóa lại thấp. Đội ngũ cán bộ ở các xã làm việc thường theo kinh nghiệm, cảm tính, thường thiếu tính đồng bộ và nhất quán trong công tác chỉ đạo. Với trình độ chuyên môn thấp, cộng thêm việc cán bộ làm việc theo nhiệm kỳ nên chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã chưa thực sự đạt hiệu quả cao. Yêu cầu đặt ra đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước là thường xuyên rèn luyện, tu dưỡng và bổ sung thêm kiến thức chuyên môn, tham gia đầy đủ các khóa đào tạo theo yêu cầu của nhà nước. Cán bộ, công chức cần nâng cao tinh thần học hỏi, phát huy khả năng sáng tạo trong công việc. 1.2. CÁC TIÊU CHÍ ĐÁNH GIÁ SỰ PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CẤP XÃ 1.2.1. Phân loại cán bộ, công chức cấp xã Có nhiều cách phân loại cán bộ, công chức cấp xã khác nhau, tuy nhiên ở đây chỉ đề cập đến hai cách phân loại đó là phân loại theo nguồn hình thành và theo loại hình đơn vị hành chính. Theo nguồn hình thành thì cán bộ, công chức cấp xã bao gồm có hai nguồn chính: cán bộ, công chức được hình thành từ bầu cử và cán bộ, công chức được hình thành từ công tác thi tuyển, xét tuyển. Đối với cán bộ, công chức xã được hình thành từ nguồn bầu cử để đảm nhiệm chức vụ theo nhiệm kỳ sẽ là các cán bộ chuyên trách giữ chức vụ lãnh đạo trong Hội đồng nhân dân; Ủy ban nhân dân; Đảng ủy; các tổ chức chính trị - xã hội của xã. Đối với cán bộ, công chức hình thành từ việc thi tuyển, xét tuyển thì sẽ được giữ những chức danh chuyên môn nghiệp vụ nhất định theo quy định của pháp luật. Theo loại hình đơn vị hành chính thì cán bộ, công chức cấp xã được chia làm ba loại khác nhau, đó là: cán bộ, công chức xã; cán bộ, công chức phường; cán bộ, công chức thị trấn. Tuy cùng là cấp cơ sở nhưng do đặc điểm khác nhau về kết cấu hạ tầng, cơ sở kinh tế, xã hội, kết cấu dân cư, trình độ dân cư của xã, phường, thị trấn nên cán bộ, công chức ở mỗi nơi sẽ có những chức năng và nhiệm vụ khác nhau. Đối với cán bộ, công chức ở phường thì sẽ không quản lý toàn diện các hoạt động sản xuất, đời sống dân cư trên địa bàn như cán bộ, công chức ở xã và thị trấn, song có nhiệm vụ quan trọng trong quản lý đô thị, đặc biệt là trong việc quản lý đô thị, đất đai, quy hoạch, hộ tịch, vệ sinh môi trường và trật tự đô thị. 1.2.2. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển về số lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã Đánh giá sự phát triển của đội ngũ cán bộ, công chức cần được xét dựa trên cả hai mặt số lượng và chất lượng. Tiêu chí đánh giá về số lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã nhằm thể hiện quy mô và tốc độ tăng trưởng theo thời gian. Có hai tiêu chuẩn thường xuyên được sử dụng để đánh giá số lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã như sau: - Quy mô đội ngũ cán bộ, công chức của xã. - Tốc độ tăng của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. 1.2.3. Các tiêu chí đánh giá sự phát triển về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã 1.2.3.1. Chỉ tiêu biểu hiện trình độ học vấn Trình độ học vấn của cán bộ, công chức là sự hiểu biết vủa cán bộ, công chức đối với những kiến thức phổ thông về tự nhiên và xã hội. Trình độ học vấn được biểu hiện thông qua các chỉ tiêu: - Số người có trình độ tiểu học. - Số người có trình độ trung học cơ sở. - Số người có trình độ trung học phổ thông. - Số người có trình độ đại học và trên đại học... Trình độ học vấn là một chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng của cán bộ, công chức và có tác động mạnh mẽ tới quá trình phát triển kinh tế xã hội. Trình độ học vấn cao tạo khả năng tiếp thu và vận dụng một cách nhanh chóng những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào thực tiễn. 1.2.3.2. Chỉ tiêu phản ánh trình độ chuyên môn, lý luận chính trị và quản lý Trình độ chuyên môn là sự hiểu biết, khả năng thực hành về chuyên môn nào đó, nó biểu hiện trình độ được đào tạo ở các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng, đại học và sau đại học, có khả năng chỉ đạo quản lý một công việc thuộc một chuyên môn nhất định. Do đó trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức được đo bằng: - Tỷ lệ cán bộ, công chức có trình độ sơ cấp - Tỷ lệ cán bộ, công chức có trình độ trung cấp - Tỷ lệ cán bộ, công chức có trình độ cao đẳng - Tỷ lệ cán bộ, công chức có trình độ đại học - Tỷ lệ cán bộ, công chức có trình độ trên đại học... Trình độ lý luận chính trị cũng là một chỉ tiêu đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, bao gồm: - Tỷ lệ cán bộ, công chức có trình độ lý luận chính trị sơ cấp - Tỷ lệ cán bộ, công chức có trình độ lý luận chính trị trung cấp - Tỷ lệ cán bộ, công chức có trình độ lý luận chính trị cao cấp - Tỷ lệ cán bộ, công chức có trình độ lý luận chính trị cử nhân Trình độ quản lý nhà nước của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đóng vai trò quan trọng trong công tác tổ chức hoạt động của chính quyền cấp xã, bao gồm các chỉ tiêu: - Số lượng cán bộ, công chức đã qua bồi dưỡng về quản lý nhà nước - Số lượng cán bộ, công chức có trình độ sơ cấp về quản lý nhà nước - Số lượng cán bộ, công chức có trình độ trung cấp về quản lý nhà nước - Số lượng cán bộ, công chức có trình độ đại học về quản lý nhà nước - Số lượng cán bộ, công chức có trình độ sau đại học về quản lý nhà nước Bên cạnh những chỉ tiêu trên thì chỉ tiêu về trình độ tin học, ngoại ngữ góp phần không nhỏ trong việc nâng cao chất lượng cán bộ, công chức cấp xã để có thể theo kịp với nhịp độ phát triển của xã hội và của toàn thế giới. 1.2.3.3. Chỉ tiêu phản ánh phẩm chất đạo đức đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã Đây là chỉ tiêu phản ánh mặt định tính nên rất khó có thể đo lường hay định lượng được, do đó nội dung của chỉ tiêu này sẽ được xem xét thông qua những quy định cụ thể về những việc không được làm của đội ngũ cán bộ, công chức (theo pháp lệnh cán bộ, công chức đã sửa đổi năm 2003): “- Cán bộ, công chức không được chây lười trong công tác, trốn tránh trách nhiệm hoặc thoái thác nhiệm vụ, công vụ; không được gây bè phái, mất đoàn kết, cục bộ hoặc tự ý bỏ việc. - Cán bộ, công chức không được cửa quyền, hách dịch, sách nhiễu, gây khó khăn, phiền hà đối với cơ quan tổ chức, cá nhân trong khi giải quyết công việc. - Cán bộ, công chức không được thành lập, tham gia thành lập hoặc tham gia quản lý, điều hành các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp danh, hợp tác xã, bệnh viện tư, trường học tư và tổ chức nghiên cứu khoa học tư. - Người đứng đầu hoặc cấp phó của người đứng đầu cơ quan, tổ chức không được bố trí vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con, anh, chị, em ruột của mình giữ chức vụ lãnh đạo về tổ chức nhân sự, kế toán - tài vụ; làm thủ quỹ, thủ kho trong cơ quan, tổ chức hoặc mua bán vật tư, hàng hoá, giao dịch, ký kết hợp đồng cho cơ quan tổ chức đó.” 1.2.3.4. Chỉ tiêu phản ánh cơ cấu của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã Khi đánh giá chất lượng về nguồn nhân lực của một tổ chức thì không thể thiếu chỉ tiêu phản ánh về cơ cấu của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. Có nhiều cách phân chia cơ cấu khác nhau, riêng đối với đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã thường đánh giá cơ cấu theo các chỉ tiêu sau: - Cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo độ tuổi - Cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo giới tính - Cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo dân tộc - Cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo tôn giáo - Cơ cấu đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã theo ngạch công chức 1.3. SỰ CẦN THIẾT PHẢI PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CHO CÁC XÃ VÙNG CAO 1.3.1. Sự phát triển kinh tế các xã vùng cao và nhu cầu về cán bộ, công chức cấp xã có trình độ cao Khi nền kinh tế ngày càng phát triển thì tình trạng bất bình đẳng, khoảng cách giàu nghèo giữa nông thôn và thành thị, giữa đồng bằng và miền núi ngày càng tăng cao. Trong những năm gần đây, tốc độ phát triển kinh tế của nước ta luôn đạt ở mức rất cao, cùng với nó là khoảng cách giàu nghèo cũng không ngừng giãn ra. Mà ta có thể khẳng định đội ngũ cán bộ chủ chốt cấp xã là lực lượng giữ vai trò nòng cốt, điều hành hoạt động của bộ máy tổ chức xã, đồng thời là người trực tiếp lãnh đạo, tổ chức thực hiện mọi mặt đời sống kinh tế - xã hội. Vì vậy, đội ngũ cán bộ chủ chốt của hệ thống chính trị các xã có tầm quan trọng đặc biệt về nhiều mặt và là một trong những nhân tố có ý nghĩa chiến lược, quyết định sự thành bại của công cuộc xây dựng và phát triển cho các xã vùng cao. Để tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng cuộc sống cho đồng bào tại các xã vùng cao thì đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức xã cũng phải được phát triển cả về mặt số lượng và chất lượng sao cho phù hợp với yêu cầu của xã hội. Để nâng cao chất lượng cuộc sống cho các xã vùng cao, đặc biệt là các xã có đông dân tộc thiểu số và giải quyết vấn đề bất bình đẳng giữa các vùng, miền cần phải có những chính sách và những giải pháp thiết thực. Một trong những yêu cầu cấp thiết để giải quyết tình trạng đó là thu hút và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức cho các xã vùng cao. Khi đã thu hút được một đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ và năng lực lên phục vụ các xã vùng cao thì việc phát triển kinh tế xã hội cho các vùng, miền núi sẽ dễ dàng và sớm bắt kịp với nhịp độ phát triển ở khu vực thành thị. 1.3.2. Một số hạn chế của đội ngũ cán bộ, công chức cho các xã vùng cao Địa hình của các xã vùng cao chủ yếu là đồi núi, đất đai và khí hậu không được thuận lợi cho phát triển kinh tế - xã hội. Tuy hiện nay đã có hầu hết đường giao thông lên các xã vùng cao nhưng chưa thực sự hoàn thiện, vẫn còn khó khăn trong việc giao thông liên lạc. Bên cạnh đó, người dân sống tại các xã này chiếm phần lớn là đồng bào dân tộc, có phong tục tập quán, lối sống và lối canh tác còn lạc hậu, chưa bắt kịp với nhịp độ phát triển của cả nước. Hiện tại, đội ngũ cán bộ, công chức làm việc tại các xã vùng cao chiếm phần lớn là người dân sở tại, lớn lên và sinh sống tại chính các xã này. Đây là đội ngũ cán bộ, công chức có ưu thế trong năng lực hoạt động (bản thân họ là người địa phương, hiểu được phong tục tập quán cũng như lối sống của đồng bào tại đây) tuy nhiên họ lại hạn chế về trình độ chuyên môn và nghiệp vụ. Tuy vậy nhưng tâm lý của cán bộ, công chức là người dân tộc lại có xu hướng không thích đi xa nhà, ngại đi học tập, bồi dưỡng thêm kiến thức. Vì vậy đây cũng là một trong số những hạn chế về vấn đề khuyến khích đội ngũ cán bộ, công chức đi đào tạo, và đào tạo lại cần được giải quyết kịp thời. Nếu cán bộ, công chức cấp xã đã và đang làm việc tại xã là người sinh sống tại các xã này thì không muốn đi học nâng cao trình độ, thì ngược lại các cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn ở các vùng đồng bằng lại không thích công tác làm việc tại các xã vùng cao. Đa phần những người có chuyên môn, kỹ năng hoạt động và quản lý tốt sau khi học tập và nghiên cứu đều có xu hướng thích làm việc tại các thành phố lớn, vừa có điều kiện về vật chất vừa có khả năng phát triển trình độ chuyên môn của mình. Có rất ít cán bộ chấp nhận công tác tại các xã vùng cao dù chỉ là trong vòng vài năm. Điều đó xuất phát từ nhận thức và tính trách nhiệm đối với xã hội của mỗi một cán bộ, công chức nói chung. Do đó để có thể thay đổi được nhận thức và nâng cao được tinh thần trách nhiệm cho đội ngũ cán bộ, công chức cần phải trải qua cả một quá trình và phải được kết hợp với nhiều yếu tố khác. Đây là hạn chế về vấn đề thu hút cán bộ, công chức có năng lực và trình độ. Ngoài những yếu tố xuất phát từ ý thức chủ quan của đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước thì tác động của chính sách và chế độ ưu đãi của nhà nước cũng là một trong những hạn chế trong phát triển đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Tính đến thời điểm hiện tại, Đảng và nhà nước đã có nhiều chính sách về khuyến khích đào tạo và thu hút đội ngũ cán bộ, công chức có chuyên môn, trình độ và năng lực thực sụ lên làm việc tại các xã vùng cao. Tuy nhiên các chính sách vẫn chưa thực sự đáp ứng được nhu cầu, mong muốn của đội ngũ cán bộ, công chức một cách thoả đáng nên việc phát triển đội ngũ này tại các xã vùng cao còn chưa hiệu quả. 1.3.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã 1.3.3.1. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển số lượng đội ngũ cán bộ, công chức cho các xã vùng cao 1.3.3.1.1. Nhân tố ảnh hưởng tới phía cung Phía cung ở đây là nguồn cung cấp cho đội ngũ cán bộ, công chức xã bao gồm: những người dân tại địa phương đang hoạt động tích cực trong các phong trào xã hội (già làng, trưởng bản, những người có tiếng nói trong xã); học sinh được xã cử đi học theo chế độ cử tuyển; những nguời của địa phương thực hiện xong nghĩa vụ quân sự; sinh viên các trường đại học ra trường có nguyện vọng tham gia công tác tại các xã vùng cao; cán bộ được bổ nhiệm từ trên xuống công tác theo nhiệm kỳ... Đối với cán bộ, công chức cấp xã là người địa phương đang hoạt động tích cực trong các phong trào kinh tế xã hội của xã, họ có những ràng buộc về phong tục tập quán, lối sống cũng như mối quan hệ dòng tộc, họ hàng tại xã. Với phong tục tập quán còn lạc hậu nên nữ giới ở các xã vùng cao ít khi được tham gia vào công tác xã hội, còn nam giới lại là trụ cột của gia đình, do đời sống thấp kém, cuộc sống của họ phụ thuộc vào nông nghiệp nên thời gian chủ yếu là lên nương làm rẫy. Vì thế các xã vùng cao còn thiếu rất nhiều cán bộ, công chức có trình độ chuyên môn và trách nhiệm đối với công việc. Đối với đội ngũ cán bộ, công chức đang đi học, đào tạo lại; những người tại địa phương hết nghĩa vụ quân sự và học sinh được cử đi học sau khi đã được đào tạo, bồi dưỡng tại các trường đại học, cao đẳng,.. lại thường có tâm lý thích làm việc tại những nơi có điều kiện vật chất tốt, kinh tế xã hội phát triển, nhất là tại các đô thị lớn, ít có ai mong muốn trở về làm việc tại những vùng cao còn nhiều khó khăn. Để thay đổi được tâm lý của đội ngũ cán bộ, công chức có trình độ này cần phải tăng cường những chính sách đãi ngộ phù hợp. 1.3.3.1.2. Nhân tố ảnh hưởng tới phía cầu Về phía cầu chính là các cơ quan tổ chức tại các xã vùng cao. Tại mỗi xã vùng cao lại có những điều kiện địa hình, lãnh thổ và khí hậu khác nhau, ngoài ra còn có định hướng phát triển đã được đặt ra cho từng xã là khác nhau vì vậy mỗi xã sẽ có những yêu cầu cụ thể về chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức khác nhau, tuỳ theo những lĩnh vực hoạt động và mục tiêu phát triển cụ thể của từng xã. Các xã vùng cao hoạt động kinh tế chủ yếu của đồng bào dân tộc ở đây là ngành nông lâm nghiệp, do đó đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã ít nhất cũng phải biết qua về những lĩnh vực hoạt động của xã. Nếu đội ngũ cán bộ, công chức tại xã không đáp ứng được yêu cầu thì cần phải có những chính sách bồi dưỡng, đào tạo thêm. Ngoài ra, các cơ quan, tổ chức của xã hiện nay ở một số nơi có đội ngũ cán bộ, công chức không đáp ứng được yêu cầu của công việc nhưng đã quá tuổi không thể đào tạo được nữa thì cần phải bổ sung thêm lực lượng đội ngũ trẻ, có năng lực và trình độ để thay thế. Đây cũng là một nhân tố ảnh hưởng tới việc thu hút đội ngũ cán bộ, công chức về làm việc tại các xã vùng cao. 1.3.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến phát triển chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao Có rất nhiều nhân tố ảnh hưởng đến chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức của các xã vùng cao, tuy nhiên phải nói đến đầu tiên chính là năng lực quản lý và điều hành của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là những cán bộ đứng đầu của cơ quan, tổ chức tại các xã vùng cao. Một đội ngũ làm việc tốt, có kỷ cương, trật tự trước hết phải có một người lãnh đạo và quản lý tốt, biết cách sắp xếp tổ chức các hoạt động, phân công công tác và nhiệm vụ phù hợp với năng lực và trình độ của mỗi cán bộ, công chức cấp dưới. Một người lãnh đạo tốt thôi chưa đủ, để phát triển vững mạnh thì năng lực quản lý và điều hành của đội ngũ cán bộ, công chức cũng cần phải đảm bảo đáp ứng yêu cầu của công việc. Với phần lớn đội ngũ cán bộ, công chức là người dân tộc và là người bản địa cho nên họ là những người có tiếng nói ở xã và được đồng bào dân tộc nghe theo, tuy nhiên về trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật thì lại kém, không đáp ứng được yêu cầu phát triển. Vì vậy, đào tạo và đào tạo lại bằng cách cử cán bộ đi tập huấn, học tập hay mở các lớp đào tạo tại chính địa phương là cách tốt nhất để nâng cao thêm trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức đang làm việc, là nhân tố có ảnh hưởng lớn đến quá trình phát triển của đội ngũ này. Ngày nay chất lượng làm việc và hiệu quả công việc liên quan khá lớn tới tác phong, tinh thần thái độ và tính kỷ luật của cán bộ, công chức. Không chỉ riêng khu vực thành thị mà cả khu vực miền núi thì điều kiện làm việc ngày càng có xu hướng hiện đại hóa. Sự phối hợp trong công việc giữa các cá nhân trong cùng một tổ chức và giữa các tổ chức với nhau có xu hướng gia tăng và đặt ra yêu ._.cầu cao (tính nhịp nhàng, tính hiệu quả...) đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức phải có tác phong công nghiệp, tinh thần tự giác, thái độ hợp tác và tính kỷ luật chặt chẽ. Đánh giá một tổ chức hoạt động có tốt hay không thì trước hết phải nhìn vào tác phong làm việc, tính kỷ luật và trách nhiệm của đội ngũ cán bộ, công chức hoạt động trong tổ chức đó. Đạo đức nghề nghiệp của đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao đóng vai trò vô cùng quan trọng, bởi phẩm chất của người cán bộ có tốt thì họ mới có thể làm việc tốt và có tinh thần trách nhiệm với những gì mình làm được. Do đó rèn luyện tính kỷ luật và đạo đức nghề nghiệp cho đội ngũ cán bộ, công chức tại các xã vùng cao lại là điều vô cùng cần thiết nhất là khi điều kiện quản lý cán bộ tại đây chưa thực sự chặt chẽ. 1.3.3.3. Các nhân tố về cơ chế chính sách Cơ sở là cấp thấp nhất trong hệ thống chính trị bốn cấp của Nhà nước, là nơi có nhiều dân cư sinh sống nhất, là cấp gần dân nhất, là hình ảnh thu nhỏ của xã hội, là vùng nhạy cảm nhất của đời sống xã hội, có tầm quan trọng đặc biệt đối với sự sống còn, thành bại của chế độ. Phần lớn chủ trương, đường lối, Nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều hội tụ ở cơ sở (xã) và được tổ chức thực hiện. Trong đó, chính sách về phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã được Đảng và Nhà nước đặc biệt chú trọng. Những chính sách khuyến khích, ưu đãi cho các xã vùng cao có tác động rất lớn đến việc thu hút và nâng cao chất lượng cho đội ngũ cán bộ, công chức tới làm việc tại đây. Nếu Đảng và nhà nước có những chính sách thu hút tốt thì các cán bộ, công chức có trình độ và năng lực sẽ sẵn sàng lên làm việc tại các xã vùng cao còn nhiều khó khăn và thách thức. Ngược lại thì cán bộ, công chức sẽ có tâm lý ngại làm việc và công tác tại các xã vùng cao, vùng sâu vùng xa. Do đó có được những chính sách hợp lý và phù hợp đối với đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật và quản lý là điều vô cùng cần thiết để có thể xây dựng được một đội ngũ cán bộ, công chức vùng cao mạnh cả về mặt lượng và mặt chất. Tính đến thời điểm hiện tại thì nước ta đã có những chính sách nhằm phát triển kinh tế xã hội và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước như: chính sách xóa đói giảm nghèo; chương trình 134 (xây dựng cơ sở hạ tầng); chương trình 135 đối với các xã đặc biệt khó khăn; chính sách về đào tạo bồi dưỡng cho công chức cấp xã; chính sách thu hút cán bộ, công chức lên công tác tại các xã vùng cao... Bên cạnh những chính sách của Đảng và Nhà nước ban hành chung cho đội ngũ cán bộ cấp xã cả nước thì mỗi tỉnh thành đều có những chính sách đãi ngộ riêng của mình nhằm thu hút nhân tài và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức làm việc tại tỉnh, đặc biệt là các xã vùng cao, vùng sâu vùng xa. Những chính sách của tỉnh và huyện càng tạo điều kiện thuận lợi càng dễ thu hút đội ngũ cán bộ, công chức lên làm việc tại các xã nghèo, các xã vùng cao còn nhiều khó khăn. Tỉnh nào càng nhiều chính sách trải thảm đỏ để thu hút nhân tài thì càng có những cán bộ xuất sắc và sẵn sàng đến làm việc tại những xã vùng cao, là tiền đề để phát triển kinh tế xã hội. CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CHO CÁC XÃ VÙNG CAO TỈNH YÊN BÁI GIAI ĐOẠN 2000 - 2007 2.1. THỰC TRẠNG VỀ SỐ LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CÁC XÃ VÙNG CAO CỦA TỈNH YÊN BÁI GIAI ĐOẠN 2000 - 2007 2.1.1. Khái quát về điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của tỉnh Yên Bái. 2.1.1.1. Điều kiện tự nhiên - xã hội Yên Bái là tỉnh miền núi phía bắc, có vị trí địa lý nằm giữa hai vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Phía Bắc của tỉnh giáp tỉnh Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp tỉnh Hà Giang và Tuyên Quang, phía Tây giáp tỉnh Sơn La và Lai Châu. Địa hình chia xẻ, nhiều núi cao, vực sâu, sông, suối, giao thông đi lại khó khăn, có thể chia thành 2 vùng lớn là vùng cao (độ cao trung bình so với mặt biển từ 600m trở lên) chiếm 67,56% diện tích toàn tỉnh và vùng thấp (độ cao trung bình so với mặt biển từ 600m trở xuống) chiếm 32,44% diện tích toàn tỉnh. Diện tích tự nhiên là 6.822,922 km2 chiếm 2,1% diện tích cả nước, trong đó 76% là đồi núi, 10% là đất nông nghiệp. Tỉnh có 9 đơn vị hành chính gồm 7 huyện, 1 thành phố và 1 thị xã với 180 xã, phường, thị trấn, riêng vùng cao có 70 xã và 2 thị trấn, chiếm 67% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Yên Bái nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa cộng thêm địa hình có nhiều núi cao và bị chia cắt mạnh nên đã tạo ra các tiểu vùng khí hậu khác nhau tạo ra sự đa dạng trong việc phát triển ngành nông nghiệp của tỉnh. Thêm vào đó tài nguyên khoáng sản của Yên Bái rất đa dạng nhưng đều thuộc loại mỏ nhỏ, chỉ phù hợp với sản xuất công nghiệp địa phương, nhưng cũng là một lợi thế so với các tỉnh lân cận. Tổng số hiện nay tỉnh có 257 mỏ và điểm mỏ thuộc các nhóm năng lượng, vật liệu xây dựng, khoáng chất công nghiệp, kim loại và nước khoáng. Hiện nay, dân số của tỉnh có 72 vạn người, mật độ bình quân 105 người/km2, với 30 dân tộc cùng chung sống, dân tộc thiểu số chiếm 50,4%, trong đó dân tộc Tày 18,6%; dân tộc Dao 10,3%; dân tộc Mông 8,9%; dân tộc Thái 6,7%; dân tộc Mường 2,7%; dân tộc Nùng 1,9% và các dân tộc khác 1,3%. Yên Bái là tỉnh có địa hình đa dạng từ đồi núi cho tới đồng bằng cộng thêm nguồn lao động dồi dào giúp cho nền kinh tế của tỉnh có khá nhiều tiềm năng phát triển cả về tài nguyên và nguồn nhân lực. Tuy nhiên, tỉnh có nhiều dân tộc nhưng phần lớn sống rải rác, mật độ dân cư thưa thớt nên công tác xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng cao gặp nhiều khó khăn, phức tạp; trình độ dân trí thấp, nhiều phong tục tập quán lạc hậu nên việc áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất và đời sống rất khó khăn, năng suất lao động thấp, kinh tế chậm phát triển, đời sống văn hóa tinh thần khó có điều kiện phát triển. Riêng đối với đội ngũ cán bộ, công chức xã nói chung đều là người địa phương nên cũng mang đậm nét đặc thù của người vùng cao. Trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ, công chức xã còn nhiều hạn chế, cơ sở vật chất tại các xã còn nghèo nàn. Điều kiện kinh tế xã hội có tác động rất lớn đến hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã. 2.1.1.2. Tình hình phát triển kinh tế xã hội của tỉnh Yên Bái Yên Bái trong những năm vừa qua đã có nhiều sự thay đổi trong qua trình phát triển kinh tế xã hội thể hiện qua mức tăng trưởng cao của tỉnh, trong năm 2000 tốc độ tăng trưởng là 8,48%, năm 2005 là 10,15% và đến năm 2007 thì con số này là 11,66%. Có thể nói tuy điều kiện thời tiết có nhiều biến đổi, dịch bệnh và lạm phát trong năm qua tăng cao nhưng với sự nỗ lực của tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh cùng sự phấn đấu tích cực của các ngành, địa phương nên đạt mức tăng trưởng vượt chỉ tiêu kế hoạch đề ra là 11,5%. Trong đó nông lâm nghiệp 5,71%, công nghiệp xây dựng đạt 14,5%, dịch vụ đạt 15,41%. Cơ cấu kinh tế của tỉnh tiếp tục chuyển dịch đúng hướng, năm 2007 cơ cấu kinh tế như sau: Nông lâm nghiệp chiếm 36,58%, công nghiệp xây dựng chiếm 29,48%, dịch vụ chiếm 33,94%. Như vậy cơ cấu kinh tế của tỉnh đã chuyển dịch theo đúng hướng giảm dần tỷ trọng của ngành nông lâm nghiệp và tăng tỷ trọng ngành công nghiệp xây dựng và dịch vụ. Nhờ hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ đề ra trong phát triển kinh tế xã hội nên thu nhập bình quân đầu người đạt 6 triệu đồng, bằng 45,2% so với cả nước, đạt được chỉ tiêu đề ra và tăng 19% so với năm 2006. Không chỉ vậy, tỉnh còn có những thành công lớn trong công tác giải quyết vấn đề lao động – việc làm và xóa đói giảm nghèo. Tỉnh Yên Bái đã tổ chức thực hiện đồng bộ và lồng ghép có hiệu quả các chương trình, dự án phát triển kinh tế, giải quyết được nhiều việc làm, bình quân mỗi năm giải quyết được 17.000 – 18.000 người. Thêm vào đó tỉnh đã quan tâm và triển khai chương trình xuất khẩu lao động đi lao động nước ngoài và ngoài tỉnh. Số lao động ở thành thị giảm từ 5,7% năm 2000 xuống 4% năm 2005 và tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 28,7% năm 2007 tăng 1,73% so với năm 2006. Cơ cấu lao động đã có hướng chuyển biến tích cực, lao động trong lĩnh vực nông lâm nghiệp giảm còn trong lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ thì tăng cao. Bên cạnh đó, công tác xóa đói giảm nghèo được các cấp, các ngành quan tâm chỉ đạo và thực hiện có hiệu quả. Toàn tỉnh đã hoàn thành chương trình xóa nhà dột nát cho các hộ nghèo và hộ chính sách, cùng việc thực hiện chương trình 135 có hiệu quả nên tỷ lệ hộ nghèo giảm xuống chỉ còn dưới 5% (theo chuẩn cũ). Tỉnh còn ưu tiên nguồn lực cho phát triển kinh tế vùng cao và các xã đặc biệt khó khăn, tập trung vào xây dựng kết cấu hạ tầng, định canh định cư, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Tỉnh đã thực hiện tốt các chính sách trợ giá, trợ cước và các mặt hàng chính sách phục vụ sản xuất và đời sống cho đồng bào vùng cao… Tập trung vào việc khai hoang ruộng ruộng nước, thâm canh đưa vào sản xuất lương thực 1 vụ lên 2 vụ; phát triển sản xuất cây màu như khoai tây, đậu tương, lạc… thực hiện trồng mới chè vùng cao; bảo vệ và trồng mới rừng phòng hộ, khoanh nuôi tái sinh rừng, phát triển chăn nuôi đại gia súc, ổn định cuộc sống cho đồng bào vùng cao. Sự nghiệp y tế, giáo dục, văn hóa của vùng cao được quan tâm phát triển, trình độ dân trí được nâng lên, đời sống của nhân dân được cải thiện, số hộ đói nghèo giảm. Tuy nhiên, phát triển kinh tế vùng cao còn hạn chế như việc sử dụng các công trình thủy lợi đã đầu tư hiệu quả chưa cao, chất lượng trồng chè vùng cao thấp, công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp chưa phát triển. Tuy nhiên tỉnh vẫn còn những hạn chế như tăng trưởng kinh tế cao, nhưng chưa vững chắc,chưa tương xứng với mức đầu tư và tiềm năng, chưa chủ động và sáng tạo trong khai thác thế mạnh của địa phương để tạo ra sự phát triển. Việc khai thác tiềm năng thế mạnh, nhất là huy động sức mạnh của các địa phương, các thành phần kinh tế và trong dân còn hạn chế. Tư tưởng bao cấp, trông chờ vào nguồn lực đầu tư từ ngân sách còn nặng nề và phổ biến trong đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh. Công tác quản lý Nhà nước về quy hoạch của các cấp chính quyền, các sở, các ngành còn nhiều hạn chế, chất lượng chưa cao, công tác rà soát, điều chỉnh quy hoạch chưa kịp thời, tổ chức thực hiện quy hoạch còn nhiều bất cập. Chất lượng một số hoạt động thuộc lĩnh vực giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân còn hạn chế, nhất là trong việc thực hiện các chương trình phổ cập trung học cơ sở, chuẩn hóa y tế xã. Chất lượng làng, bản văn hóa còn thấp kém, tội phạm về ma túy, vi phạm an toàn giao thong vẫn diễn ra, chưa có chiều hướng thuyên giảm. Bên cạnh đó công tác cải cách hành chính tiến bộ chậm, chưa đáp ứng được nhu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Công tác quản lý nhà nước trên một số lĩnh vực còn yếu kém, nhất là trong quản lý quy hoạch đất đai, quản lý đô thị, quản lý môi trường và bảo vệ rừng. Đội ngũ cán bộ, công chức nhất là ở cơ sở còn nhiều hạn chế, phẩm chất, tinh thần trách nhiệm của bộ phận viên chức, công chức nhà nước còn gây phiền hà, khó khăn, chậm trễ trong việc giải quyết các yêu cầu của dân. Chính vì những hạn chế đó nên việc phát triển đội ngũ cán bộ, công chức cho các xã vùng cao còn gặp không ít trở ngại và khó khăn, để có thể thực hiện tốt được việc nâng cao chất lượng cho đội ngũ này cần phải có sự nỗ lực cố gắng của các cấp, các ngành, các xã vùng cao trong tỉnh cùng với sự quan tâm thích đáng của Đảng và Nhà nước. 2.1.2. Thực trạng về số lượng đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao tỉnh Yên Bái giai đoạn 2000 - 2007 Tuy số lượng dân tại các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái không lớn nhưng vẫn cần phải có một đội ngũ cán bộ, công chức đảm bảo cả về số lượng và chất lượng. Xét riêng về số lượng cán bộ, công chức các xã vùng cao hiện nay của tỉnh thì vẫn còn nhiều bất cập, chưa hoàn toàn phù hợp được với yêu cầu của xã vùng cao, cần phải có những điều chỉnh cụ thể. Để đánh giá được số lượng đội ngũ cán bộ, công chức cho các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái cần dựa vào quy mô và tốc độ tăng của đội ngũ này, so sánh số lượng cán bộ, công chức của riêng các xã vùng cao với tổng số cán bộ, công chức cấp xã trong toàn tỉnh thông qua bảng số liệu sau: Bảng 1: Quy mô và tốc độ tăng của đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao tỉnh Yên Bái Năm Quy mô(người) Tốc độ tăng (%) %(cán bộ, công chức xã vùng cao)/ tổng cán bộ, công chức xã CBCT CC CBCT CC CBCT CC 2000 530 238 28,11% 23,06% 2005 673 410 26,98% 72,69% 33,32% 28,77% 2007 683 423 1,49% 3,17% 33.67% 29,12% Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Yên Bái (CBCT: cán bộ chuyên trách; CC: công chức) Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy quy mô của đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao tăng dần từ năm 2000 cho tới năm 2007. Tính đến thời điểm năm 2005 thì tốc độ tăng về quy mô so với năm 2000 của đội ngũ cán bộ chuyên trách là 26,98%, trung bình mỗi năm là 5,4%, còn đối với đội ngũ công chức thì tăng tới 72,69%, trung bình mỗi năm tăng 14,5%. Có thể nói quy mô của đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao của tỉnh có sự thay đổi đáng kể, có bước ngoặt lớn trong công tác tăng cường và bổ sung thêm số lượng cho đội ngũ này. Tuy nhiên trong vài năm gần đây tốc độ tăng không đáng kể đó là do đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã đã dần được ổn định về quy mô. Cụ thể như tốc độ tăng của năm 2007 so với năm 2005 là 1,49% đối với cán bộ chuyên trách và 3,17% đối với công chức, như vậy so với tốc độ tăng của những năm trước thì quy mô cán bộ, công chức các xã vùng cao của tỉnh vẫn tăng nhưng không còn tăng nhiều như trước nữa mà đã dần đi vào ổn định hơn. Bên cạnh đó, số lượng cán bộ, công chức của các xã vùng cao so với tổng số cán bộ, công chức cấp xã của toàn tỉnh cũng gia tăng. Điều này cho thấy tỉnh đã có sự quan tâm chú trọng tới đội ngũ cán bộ, công chức ở các xã vùng cao, không chỉ nâng cao chất lượng cho đội ngũ này mà còn tăng cường thêm những cán bộ, công chức có trình độ lên làm việc tại vùng cao, bên cạnh đó còn thu hút được những người có năng lực từ địa phương khác đến công tác. 2.2. THỰC TRẠNG VỀ CHẤT LƯỢNG ĐỘI NGŨ CÁN BỘ, CÔNG CHỨC CÁC XÃ VÙNG CAO TỈNH YÊN BÁI GIAI ĐOẠN 2000 – 2007 Để đánh giá được chính xác về cán bộ, công chức cấp xã nhất là các xã vùng cao thì không thể chỉ xem xét về mặt quy mô, số lượng mà còn phải nhận định, đánh giá thông qua chất lượng của đội ngũ này. Các tiêu chí đánh giá chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức đã được trình bày ở chương 1, bao gồm: đánh giá về trình độ học vấn; trình độ chuyên môn; trình độ quản lý nhà nước; lý luận chính trị; trình độ tin học và ngoại ngữ; cơ cấu độ tuổi, giới tính, số cán bộ là người dân tộc và kỹ năng, kinh nghiệm của đội ngũ cán bộ, công chức xã vùng cao. Để đánh giá được chất lượng cán bộ, công chức các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái ta xem xét cụ thể như sau: 2.2.1. Về trình độ học vấn Trình độ học vấn chính là sự hiểu biết của mỗi người về những kiến thức phổ thông gồm hai mặt chính là tự nhiên và xã hội. Một người có trình độ học vấn sẽ có những kiến thức cơ bản nhất làm nền tảng để từ đó phát triển khả năng của bản thân mình. Xem xét đánh giá trình độ học vấn sẽ thể hiện rõ được chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức xã vùng cao. Đối với các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái thì chất lượng cán bộ, công chức xét theo trình độ học vấn còn nhiều điều đáng quan tâm và chú ý, thể hiện thông qua 2 bảng số liệu về trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ chuyên trách và công chức xã vùng cao năm 2005 như sau: Bảng 2a: Trình độ học vấn của đội ngũ cán bộ chuyên trách các xã vùng cao tỉnh Yên Bái năm 2005 Chức danh Cấp tiểu học THCS THPT Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) A. CBCT 76 11,33 390 58,03 206 30,66 I. Bí thư 5 8,47 34 57,63 20 33,9 II. Phó Bí thư 2 6,45 21 67,74 8 25,81 III.Thường trực Đảng 1 4,17 15 62,5 8 33,33 IV. HĐND 4 5,71 42 60 24 34,29 1. Chủ tịch HĐND 1 7,14 8 57,14 5 35,72 2. Phó Chủ tịch HĐND 4 7,14 34 60,71 18 32,15 V. UBND 5 3,94 68 53,54 54 42,52 1. Chủ tịch UBND 2 3,92 27 52,94 22 43,14 2. Phó CT UBND pt kinh tế 3 4,84 35 56,45 24 38,71 3. Phó CT UBND pt xã hội 0 0 6 42,85 8 57,16 VI. Xã đội phó 8 13,33 33 55 19 31,67 VII. Đoàn thể 49 16,39 177 59,2 73 24,41 1. CT ủy ban MTTQ xã 13 21,67 38 63,33 9 15 2. CT hội cựu chiến binh 11 18,33 38 63,34 11 18,33 3. CT hội nông dân 11 18,33 39 65 10 16,67 4. CT hội liên hiệp phụ nữ 10 16,95 37 62,71 12 20,04 5. Bí thư đoàn thanh niên 4 6,67 25 41,67 31 51,66 Nguồn: Thống kê tổng hợp số lượng, chất lượng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái Cán bộ chuyên trách các xã vùng cao của tỉnh có trình độ học vấn phần lớn là tốt nghiệp cấp trung học cơ sở, chiếm tới hơn một nửa, như vậy có thể nói cán bộ chuyên trách chỉ mới đạt đến tiêu chuẩn của nhà nước, tuy nhiên vẫn còn một số người chỉ tốt nghiệp tiểu học cần được cho đi học các lớp bổ túc để nâng cao thêm kiến thức. Riêng đối với cán bộ chuyên trách làm việc tại Ủy ban nhân dân và Hội đồng nhân dân của các xã vùng cao qua bảng số liệu ta thấy phần lớn trình độ học vấn của đội ngũ này mới đạt chuẩn và vẫn còn có những người có trình độ dưới mức đó, mà đây lại là đội ngũ nằm trong ban lãnh đạo của xã, là những người đứng đầu có vai trò quan trọng trong việc đưa xã phát triển theo đúng hướng đã đề ra. Cần phải có những giải pháp cụ thể để nâng cao chất lượng cho những cán bộ lãnh đạo như Chủ tịch, Phó chủ tịch Ủy ban nhân dân; Chủ tịch, Phó chủ tịch Hội đồng nhân dân, vì những người đứng đầu có trình độ cao thì mới có thể lãnh đạo và quản lý cấp dưới có hiệu quả, nhân dân mới nể trọng. Bên cạnh đó đối với các cơ quan đoàn thể khác như hội phụ nữ, hội cựu chiến binh, hội nông dân… xét về trình độ học vấn vẫn còn khá nhiều người chưa đạt chuẩn, mà đây là đội ngũ góp phần tích cực trong việc phát triển kinh tế, xã hội của toàn xã. Bảng 2b: Trình độ học vấn của đội ngũ công chức các xã vùng cao tỉnh Yên Bái năm 2005 Chức danh Cấp tiểu học THCS THPT Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) B. Công chức 32 6,75 141 29,75 301 63,5 1.Chỉ huy trưởng quân sự 9 15,25 33 55,93 17 28,82 2. Trưởng công an 5 8,92 26 46,42 25 44,66 3. Văn phòng– thống kê 2 8,33 8 33,33 14 58,34 4.Văn phòng– tổng hợp 1 3,03 7 21,21 25 75,76 5. Tài chính – Kế toán 3 5,08 12 20,33 44 74,59 6. Kế toán thu 3 17,64 3 17,64 11 64,72 7. Địa chính– Xây dựng 4 6,89 10 17,24 44 75,87 8. Địa chính– Kinh tế 2 7,4 8 29,62 17 62, 98 9. Tư pháp– Hộ tịch 3 5,08 14 23,72 42 71,2 10. Văn hóa– Xã hội 1 1,64 19 31,14 41 67,22 Nguồn: Thống kê tổng hợp số lượng, chất lượng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái Đối với cán bộ chuyên trách thì trình độ học vấn chủ yếu tập trung là cấp trung học cơ sở, nhưng đối với công chức xã vùng cao trình độ học vấn cao hơn, tập trung chủ yếu là cấp trung học phổ thông. Điều này hoàn toàn hợp lý vì đối với công chức là những người làm việc trong những lĩnh vực cụ thể của xã, đa phần để có được trình độ chuyên môn thì cũng phải có được trình độ học vấn cao, đạt từ mức tiêu chuẩn trở lên, bên cạnh đó đội ngũ này khi tham gia vào công tác tại các cơ quan, đoàn thể nhà nước đều phải thi tuyển hoặc xét tuyển nên đã sàng lọc được những người có trình độ và khả năng. Còn đối với cán bộ chuyên trách thì có được các chức danh là do dân bầu cử, tín nhiệm và được điều động từ địa phương khác về vì vậy có thể còn nhiều hạn chế trong việc đánh giá trình độ và năng lực của mỗi người. 2.2.2. Về trình độ chuyên môn Trình độ chuyên môn đóng vai trò rất quan trọng trong công việc, nhiệm vụ của đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao. Cán bộ, công chức phải có trình độ chuyên môn, phải thực sự am hiểu về lĩnh vực mà mình đang làm công việc mới thực sự có hiệu quả. Để đánh giá về trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao tỉnh Yên Bái ta có số liệu của bảng sau: Bảng 3: Trình độ chuyên môn của đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái Năm Chưa qua đào tạo Trình độ sơ cấp Trung cấp, cao đẳng Đại học, trên đại học Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) 2000 560 72,54 40 5,18 162 20,98 10 1,3 2005 712 62,07 75 6,54 329 28,68 31 2,71 2007 618 57,76 82 7,66 334 31,21 36 3,37 Nguồn: Thống kê tổng hợp số lượng, chất lượng cán bộ, công chức xã, phường, thị trấn của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái Số lượng cán bộ, công chức hiện đang làm việc tại các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái qua bảng số liệu trên chủ yếu là chưa được qua đào tạo như trong năm 2000 số cán bộ, công chức chưa qua đào tạo chiếm đến 72,54%, đến năm 2005 giảm xuống còn 63,07% và chỉ còn 57.76% vào năm 2007. Tuy nhiên con số này vẫn chiếm hơn nửa trong tổng số cán bộ, công chức các xã vùng cao của tỉnh cho thấy trình độ chuyên môn chưa thực sự được quan tâm của các cơ quan của tỉnh mà còn thiếu sự coi trọng từ chính bản thân những người cán bộ, công chức. Trong quá trình tuyển chọn tỉnh vẫn chưa đánh giá và lựa chọn những người có năng lực và trình độ, mà vẫn còn hiện tượng tuyển trước rồi đào tạo sau. Nhìn chung thì trình độ chuyên môn của cán bộ, công chức các xã vùng cao của tỉnh có xu hướng tăng dần số lượng những người có trình độ sơ cấp,trung cấp, cao đẳng và đại học, trên đại học, giảm dần số lượng những người chưa qua đào tạo. Đây là xu hướng tích cực thúc đẩy sự phát triển của đội ngũ cán bộ, công chức xã vùng cao, làm tiền đề cho việc phát triển kinh tế xã hội của xã từ đó phát triển kinh tế xã hội chung trong toàn tỉnh. 2.2.3. Về trình độ quản lý, lý luận chính trị và trình độ tin học, ngoại ngữ Bên cạnh kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ mà mỗi người cán bộ, công chức cần có thì trình độ quản lý, lý luận chính trị và trình độ tin học, ngoại ngữ lại góp phần không nhỏ giúp cán bộ, công chức các xã vùng cao, nhất là với cán bộ quản lý tăng cường khả năng hoạt động, tổ chức trong việc quản lý nhân dân, tu dưỡng đạo đức và có tư tưởng chính trị vững vàng. Sử dụng kinh nghiệm thực tế và cảm nhận của bản thân để điều hành, quản lý thì chưa đủ để trở thành một người lãnh đạo tốt, mà cần phải có một nền tảng vững vàng. Để có một nền tảng vững vàng thì cần phải được đào tạo, bồi dưỡng một cách bài bản và có cơ sở lý luận. Chính vì vậy trình độ quản lý nhà nước sẽ giúp đánh giá được chính xác khả năng quản lý của đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái, thông qua bảng số liệu sau: Bảng 4: Trình độ quản lý nhà nước của đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao tỉnh Yên Bái Năm Bồi dưỡng Sơ cấp Trung cấp Cử nhân Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) 2000 140 43,75 0 180 56,25 0 2005 103 31,02 38 11,45 188 56,63 3 0,9 2007 96 29,45 32 9,82 194 59,5 4 1,23 Nguồn: Báo cáo tổng hợp của Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh Yên Bái Qua bảng số liệu trên cho ta thấy phần lớn đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái có trình độ quản lý nhà nước có trình độ trung cấp về quản lý nhà nước,chiếm hơn nửa số cán bộ, công chức và sự thay đổi qua các năm là rất nhỏ, không đáng kể như năm 2000 tỷ trọng cán bộ, công chức có trình độ trung cấp về quản lý nhà nước chiếm 56,25%, năm 2005 là 56,63% và đến năm 2007 là 59,5. Bên cạnh đó số lượng cán bộ, công chức chỉ qua bồi dưỡng cũng chiếm phần không nhỏ, nhưng cũng đã giảm đáng kể từ 43,75% năm 2000 xuống chỉ còn 29,45% năm 2007, điều này cũng thể hiện sự nỗ lực không ngừng trong công tác đào tạo bồi dưỡng cán bộ, công chức về quản lý nhà nước trong thời gian qua của tỉnh Yên Bái. Tuy nhiên vẫn cần phải được chú trọng hơn nữa vì số lượng cán bộ, công chức có trình độ cử nhân thì chỉ đếm trên đầu ngón tay. Để có thể quản lý, tổ chức bộ máy chính quyền cấp cơ sở tốt thì không chỉ có trình độ quản lý nhà nước là đủ mà cần phải có cả trình độ lý luận chính trị vững vàng, sắc bén để lãnh đạo xã đi theo đúng chủ trương và đường lối của Đảng và Nhà nước. Đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái hầu hết đều được đưa đi đào tạo về lý luận chính trị từ trình độ sơ cấp cho đến cao cấp thể hiện thông qua bảng số liệu sau: Bảng 5: Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao tỉnh Yên Bái Năm Sơ cấp Trung cấp Cao cấp Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) 2000 65 16,41 328 82,83 3 0,76 2005 96 21,67 343 77,43 4 0,9 2007 89 20,18 347 78,68 5 1,14 Nguồn: Báo cáo chất lượng cán bộ, công chức xã của Sở Nội vụ tỉnh Yên Bái Đội ngũ cán bộ, công chức ở các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái có trình độ lý luận chính trị chủ yếu ở mức trung cấp nhưng lại có xu hướng giảm dần: năm 2000 là 82,83%, đến năm 2007 chỉ có 78,68%. Trong khi đó số lượng người ở trình độ cao cấp về lý luận chính trị lại rất ít, mà gia tăng cũng không đáng kể, còn đối với trình độ sơ cấp lại có xu hướng gia tăng từ 16,41% năm 2000 lên 20,18% năm 2007. Có hiện tượng này xảy ra vì trong những năm gần đây quy mô của đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao của tỉnh tăng mạnh, trong khi đó công tác đào tạo về lý luận chính trị thì chưa có nhiều bước tiến mới, nên việc gia tăng số lượng người có trình độ sơ cấp là dễ hiểu. Để đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã có tư tưởng chính trị vững vàng, đi theo đúng đường lối của Đảng cần phải nâng cao trình độ lý luận chính trị bằng cách thường xuyên cho cán bộ đi bồi dưỡng và học tập về chính trị. Bên cạnh những kiến thức đóng vai trò chủ yếu trong công tác quản lý, lãnh đạo, tổ chức thực hiện những công việc của xã như trình độ chuyên môn, lý luận chính trị, quản lý nhà nước thì trình độ tin học và ngoại ngữ đối với cán bộ, công chức cấp xã trong điều kiện hội nhập như hiện nay là vô cùng cần thiết. Để có thể nắm kịp với sự phát triển của xã hội hiện nay thì mỗi cán bộ, công chức đều nên biết ngoại ngữ, am hiểu về tin học để phục vụ cho công việc ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, đối với các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái thì dường như quan điểm này chưa thực sự được đánh giá cao, vì thế chất lượng cán bộ, công chức về tin học và ngoại ngữ còn thấp kém, thể hiện trong bảng sau: Bảng 6: Trình độ ngoại ngữ và tin học của đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao tỉnh Yên Bái Năm Trình độ Ngoại ngữ Trình độ Tin học 2000 0 2 2005 1 3 2007 3 5 Nguồn: tổng hợp thống kê của sở nội vụ tỉnh Yên Bái Ngày nay khi thời đại công nghệ ngày càng phát triển và đất nước đang trong thời kỳ hội nhập thì yêu cầu đối với cán bộ, công chức ngày càng nâng cao, nhất là đối với tin học và ngoại ngữ. Qua bảng số liệu trên ta thấy đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái có trình độ tin học và ngoại ngữ rất thấp, hay có thể nói là không bắt kịp được với sự phát triển của tỉnh và cả nước. Trong 7 năm mà số lượng cán bộ, công chức có bằng tin học và ngoại ngữ gần như không thay đổi đáng kể, con số đến thời điểm hiện tại mới có 3 người có bằng ngoại ngữ và 5 người có bằng tin học trên tổng số 70 xã vùng cao. Như vậy ta có thể thấy khả năng tiếp cận khoa học kỹ thuật và đổi mới của cán bộ, công chức các xã vùng cao còn rất yếu. Để có thể nâng cao trình độ tin học và ngoại ngữ cho đội ngũ này cần phải có sự quan tâm thích đáng của Đảng và Nhà nước, bên cạnh đó chính những cán bộ, công chức cũng phải chủ động học hỏi, tiếp nhận thêm những kiến thức mới. 2.2.4. Về cơ cấu của đội ngũ cán bộ, công chức xã vùng cao tỉnh Yên Bái Đánh giá chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức cho các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái cần phải xem xét về cơ cấu đội ngũ, trong đó có cơ cấu về độ tuổi và giới tính, số lượng cán bộ là người dân tộc. Bảng 7: Cơ cấu về độ tuổi đội ngũ cán bộ, công chức cho các xã vùng cao tỉnh Yên Bái Năm Dưới 35 35 - 45 45 - 55 Trên 55 Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người Tỷ trọng (%) Số lượng (người Tỷ trọng (%) Số lượng (người Tỷ trọng (%) 2000 171 22,32 294 38,38 249 32,51 52 6,79 2005 334 30,84 395 36,47 321 29,64 33 3,05 2007 346 31,74 397 36,42 312 28,62 35 3,22 Nguồn: báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái Đối với cơ cấu về độ tuổi cho biết đội ngũ cán bộ, công chức là đội ngũ trẻ hay già, từ đó cho thấy chất lượng làm việc có nhiều kinh nghiệm hay khả năng sáng tạo, năng động cao hay không. Qua bảng số liệu về cơ cấu độ tuổi của đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái ta thấy trong năm 2000 thì đội ngũ cán bộ trẻ dưới 35 tuổi chỉ chiếm một phần nhỏ là 22,32%, nhưng đến năm 2005 và năm 2007 thì số lượng cán bộ, công chức trẻ đã tăng lên đáng kể đến 30,84% và 31,74% giúp trẻ hóa đội ngũ, tăng cường khả năng sáng tạo trong công việc, tăng cả sự năng động và nhiệt tình từ những người trẻ tuổi, giảm thiểu tình trạng thụ động, ỷ lại, giảm sức ì của đội ngũ những cán bộ, công chức già. Nguyên nhân chính là năm 2007 tỉnh đã tăng cường thêm đội ngũ cán bộ, công chức trẻ và tinh giảm biên chế cho những cán bộ, công chức đã có tuổi, không còn khả năng làm việc hay làm việc không còn hiệu quả. Chính vì vậy bảng số liệu về cơ cấu độ tuổi có xu hướng giảm số lượng những cán bộ cao tuổi và tăng số lượng đội ngũ cán bộ trẻ tuổi. Bên cạnh cơ cấu về độ tuổi ta cần xem xét và đánh giá về cơ cấu giới tính của đội ngũ cán bộ, công chức cấp xã, nhất là các xã vùng cao, bởi đây là vùng thường có nhiều phong tục tập quán lạc hậu nên việc bình đẳng tham gia các công tác xã hội giữa nam giới và nữ giới chưa thực sự hiệu quả. Đối với các xã vùng cao của tỉnh Yên Bái tuy đã có sự nỗ lực thay đổi tư duy của Đảng bộ và các cơ quan của tỉnh nhưng vẫn còn nhiều bất cập chưa được giải quyết, cụ thể như sau: Bảng 8: Cơ cấu về giới tính và số lượng dân tộc ít người trong đội ngũ cán bộ, công chức các xã vùng cao tỉnh Yên Bái Năm Giới tính Dân tộc ít người Nam Nữ Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) Số lượng (người) Tỷ trọng (%) 2000 666 86,95 100 13,05 393 51,31 2005 907 83,75 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28528.doc
Tài liệu liên quan