Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Công ty tài chính Dầu khí

Mục lục Trang Mở đầu 3 Danh mục các chữ viết tắt 5 Danh mục bảng, biểu, sơ đồ 6 CHƯƠNG 1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH 7 1.1. Tổng quan về Công ty tài chính 7 Khái niệm về Công ty tài chính 7 Các hoạt động của Công ty tài chính 8 1.2. Hoạt động bảo lãnh của Công ty tài chính 1.2.1. Các khái niệm liên quan đến hoạt động bảo lãnh 1.2.2. Các loại hình bảo lãnh tại Công ty tài chính 1.2.2.1. Phân loại theo mục đích 1.2.2.2. Phân loại theo đi

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1368 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Công ty tài chính Dầu khí, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ều kiện thanh toán 1.2.3. Đặc điểm của bảo lãnh 1.2.4. Chức năng và vai trò của bảo lãnh 1.2.5. Quy chế bảo lãnh 1.2.6. Quy trình bảo lãnh 1.3. Phát triển hoạt động bảo lãnh 1.3.1. Các chỉ tiêu phản ánh sự phát triển của hoạt động bảo lãnh 1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của hoạt động bảo lãnh CHƯƠNG 2 – THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI PVFC 2.1. Giới thiệu về PVFC 2.1.1. Quá trình phát triển và cơ cấu tổ chức 2.1.2. Tình hình hoạt động kinh doanh 2.2. Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại PVFC 2.2.1. Hướng dẫn bảo lãnh tại PVFC 2.2.2. Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại PVFC 2.3. Đánh giá thực trạng hoạt động bảo lãnh tại PVFC 2.3.1. Kết quả đạt được 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân CHƯƠNG 3 – GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI PVFC 3.1. Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh tại PVFC 3.1.1. Định hướng phát triển chung tại PVFC 3.1.2. Định hướng phát triển hoạt động bảo lãnh tại PVFC 3.2. Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại PVFC 3.2.1. Hoàn thiện chính sách về hoạt động bảo lãnh 3.2.2. Nâng cao kiến thức nghiệp vụ và kinh nghiệm cho chuyên viên tín dụng 3.2.3. Điều chỉnh quy trình thực hiện bảo lãnh 3.2.4. Tiếp nhận, xử lý tài sản đảm bảo cẩn trọng và linh hoạt 3.2.5. Đẩy mạnh hoạt động quảng cáo 3.3. Kiến nghị 3.3.1. Kiến nghị với Chính Phủ và cơ quan Nhà nước 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 3.3.3. Kiến nghị với PVFC Kết luận Danh sách tài liệu tham khảo 11 12 14 14 17 18 19 22 24 25 25 27 31 31 31 34 36 36 42 49 49 50 55 55 55 57 57 57 58 59 60 60 61 61 62 62 64 65 MỞ ĐẦU Đất nước ta hiện nay đang trong quá trình mở cửa và hội nhập vào nền kinh tế thế giới, các hoạt động kinh tế đang ngày càng đa dạng, sôi động và đi kèm với nó là sự mở rộng của các giao dịch thương mại cả về hình thức cũng như quy mô. Tuy nhiên, trong các giao dịch, các bên thường gặp khó khăn khi tìm hiểu thông tin về đối tác, về khả năng thực hiện hợp đồng, về uy tín của đối tác vì thế rủi ro là rất lớn. Vấn đề này sẽ được khắc phục bằng cam kết bảo lãnh của các tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng với uy tín của mình đứng ra cam kết với bên thứ ba về việc khách hàng được bảo lãnh sẽ thực hiện đúng nghĩa vụ đã thỏa thuận. Tổ chức tín dụng sẽ có trách nhiệm thanh toán số tiền bảo lãnh cho bên thứ ba nếu khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết của mình. Bảo lãnh không chỉ đáp ứng được nhu cầu giảm rủi ro cho các bên trong giao dịch thương mại mà trên thực tế nó đem lại nhiều lợi ích cho tổ chức tín dụng thực hiện bảo lãnh. Các tổ chức tín dụng sẽ được thu phí bảo lãnh đồng thời lại quảng cáo được hình ảnh của mình ra bên ngoài. Tổ chức tín dụng có quy mô bảo lãnh lớn kết hợp với một chất lượng tốt sẽ được khách hàng tin tưởng và thúc đẩy các hoạt động khác của tổ chức tín dụng phát triển. Vì vậy các tổ chức tín dụng rất mong muốn mở rộng quy mô bảo lãnh của mình. Nhận thấy hoạt động bảo lãnh tại PVFC chưa được chú trọng đến như các hoạt động khác nên tôi chọn đề tài: “Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Công ty tài chính Dầu khí”. Chuyên đề được nghiên cứu theo hướng tìm hiểu lý luận chung về phát triển bảo lãnh, căn cứ vào lý luận chung để phân tích đánh giá thực trạng bảo lãnh của PVFC, từ đó đưa ra các giải pháp để phát triển bảo lãnh. Song chuyên đề muốn nhấn mạnh việc phát triển bảo lãnh không chỉ là tăng doanh số, tăng số lượng khách hàng mà còn là tăng chất lượng bảo lãnh. Kết cấu của chuyên đề gồm ba chương: Chương 1. Cơ sở lý luận về hoạt động bảo lãnh của Công ty tài chính Chương 2. Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại PVFC Chương 3. Giải pháp phát triển hoạt động bảo lãnh tại PVFC Tôi hi vọng chuyên đề này sẽ giúp mọi người hiểu rõ hơn về hoạt động bảo lãnh tại các Công ty tài chính nói chung và tại PVFC nói riêng. Danh mục các chữ viết tắt CTTC: Công ty tài chính PVFC: Công ty tài chính Dầu khí NHNN: Ngân hàng Nhà nước NH: Ngân hàng TSĐB: Tài sản đảm bảo CVTD: Chuyên viên tín dụng CVKH: Chuyên viên khách hàng Danh mục bảng, biểu, sơ đồ STT Tên bảng, biểu, sơ đồ Trang 1 Sơ đồ 1.1. Mối quan hệ giữa các bên trong nghiệp vụ bảo lãnh 13 2 Bảng 2.1. Bảng các chỉ tiêu tài chính 36 3 Biểu đồ 2.1. Số lượng thư bảo lãnh qua các năm 44 4 Bảng 2.2. Giá trị bảo lãnh theo loại hình doanh nghiệp qua các năm 45 5 Bảng 2.3.Giá trị từng loạibảo lãnh qua các năm 46 6 Biểu đồ 2.2. Cơ cấu bảo lãnh qua các năm 47 CHƯƠNG 1 – CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI CÔNG TY TÀI CHÍNH 1.1. Tổng quan về Công ty tài chính 1.1.1. Khái niệm Trong bất kỳ một thời đại nào cũng vậy, nền kinh tế muốn phát triển thì không thể không chú ý đến việc thúc đẩy hoạt động lưu thông vốn. Có nhiều tổ chức tài chính tham gia vào việc thúc đẩy đó như: Ngân hàng, Quỹ tín dụng, Quỹ tiết kiệm, công ty Chứng khoán và CTTC. Ở Việt Nam, khái niệm CTTC được quy định rõ tại điều 2 Nghị định 79/2002/NĐ - CP như sau: “ Công ty Tài chính là loại hình tổ chức tín dụng phi Ngân hàng, với chức năng là sử dụng vốn tự có, vốn huy động và các nguồn vốn khác để cho vay, đầu tư; cung ứng các dịch vụ tư vấn về tài chính, tiền tệ và thực hiện một số dịch vụ khác theo quy định của pháp luật, nhưng không được làm dịch vụ thanh toán, không được nhận tiền gửi dưới 1 năm”. Sở dĩ CTTC được gọi là “phi Ngân hàng” vì Ngân hàng và CTTC đều là một trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư, nhưng sự khác biệt là ở chỗ: - Ngân hàng được cung cấp mọi dịch vụ tài chính còn CTTC thì chỉ được phép cung cấp một số dịch vụ tài chính mà pháp luật cho phép. Sự khác biệt đó cũng đã phần nào được thể hiện ở ngay chính khái niệm của nó, đó là không được làm dịch vụ thanh toán và chỉ được nhận tiền gửi từ 1 năm trở lên. Vậy CTTC được thực hiện những hoạt động cụ thể nào, điều đó sẽ được làm rõ ở phần 1.1.2 – Hoạt động của CTTC. - Một điểm khác biệt quan trọng nữa giữa CTTC và Ngân hàng là: các CTTC gần như không bị điều hành chặt chẽ bởi Chính phủ. Chính phủ chỉ điều hành số tiền cực đại mà các CTTC có thể cho các cá nhân người tiêu dùng vay và kỳ hạn của hợp đồng nợ, nhưng không có hạn chế nào về việc mở chi nhánh, về những tài sản mà họ nắm giữ và sự thu nhận vốn của các CTTC. Việc không can thiệp và điều hành chặt chẽ của Chính phủ giúp cho các CTTC có thể phục vụ tốt các nhu cầu của khách hàng hơn là các Ngân hàng. Ngoài ra còn một số khác biệt nữa giữa 2 tổ chức này như cơ cấu vốn, phương thức huy động vốn,… song trên đây là những điểm khác biệt quan trọng nhất mà ta cần nắm được. 1.1.2. Hoạt động của Công ty tài chính Huy động vốn Vốn là yếu tố sống còn đối với tất cả các doanh nghiệp trong nền kinh tế. Trong mọi doanh nghiệp, vốn đều gồm hai bộ phận là vốn chủ sở hữu và nợ vay. Tùy từng loại hình doanh nghiệp mà cơ cấu vốn và phương thức huy động vốn khác nhau, những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh thông thường thì vốn chủ sở hữu sẽ chiếm phần lớn. Nhưng đối với các tổ chức trung gian tài chính như CTTC thì vốn chủ sở hữu lại chiếm tỷ lệ ít hơn so với nợ vay. Huy động vốn là hoạt động tạo nguồn vốn cho CTTC, đóng vai trò quan trọng ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của công ty. Trong điều kiện kinh tế thị trường, các phương thức huy động vốn được đa dạng hóa nhằm khai thác mọi nguồn vốn trong nền kinh tế. Đầu tiên phải kể đến vốn chủ sở hữu là lượng vốn nhất định để CTTC hoạt động (vốn pháp định). Tùy tính chất mỗi CTTC mà nguồn hình thành ban đầu khác nhau, có thể là vốn do các cổ đông đóng góp, do các bên liên doanh đóng góp hoặc sở hữu tư nhân hoặc vốn của công ty mẹ… Ngoài ra trong quá trình hoạt động CTTC còn huy động thêm từ việc phát hành cổ phiếu, từ lợi nhuận hàng năm. Để huy động vốn CTTC cũng có thể vay của các tổ chức tín dụng khác hoặc vay trên thị trường vốn. Vay trên thị trường vốn, cũng giống như các doanh nghiệp khác, CTTC tiến hành phát hành các giấy nợ (kì phiếu, trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi và các giấy tờ có giá khác). Trước khi quyết định phát hành trái phiếu thì có rất nhiều vấn đề mà công ty cần quan tâm, chẳng hạn như: chi phí trả lãi, cách thức trả lãi, khả năng lưu hành và tính hấp dẫn của trái phiếu. Trên thị trường tài chính ở nhiều nước, hiện nay thường lưu hành loại trái phiếu có lãi suất cố định, lãi suất có lãi suất thay đổi, trái phiếu có thể thu hồi. Vay trên thị trường vốn là khoản vay trung và dài hạn, không có đảm bảo, những CTTC có uy tín hoặc trả lãi cao sẽ vay được nhiều hơn. Bên cạnh đó, một kênh huy động vốn lớn khác là huy động tiền gửi của các tổ chức, cá nhân nhưng ở đây ta lưu ý chỉ được nhận tiền gửi từ 1 năm trở lên. Hoạt động tín dụng - Cho vay: Việc cung cấp tín dụng của CTTC góp phần hỗ trợ sự phát triển cộng đồng, đáp ứng nhu cầu tín dụng của doanh nghiệp và người tiêu dùng với một mức lãi suất hợp lý, cho vay là chức năng kinh tế hàng đầu của CTTC. CTTC có thể cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn; cho vay theo ủy thác của Chính Phủ, của tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; cho vay tiêu dùng bằng hình thức cho vay trả góp. - Chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác: Đây được coi là một nghiệp vụ đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa CTTC và những người ký tên trên thương phiếu. Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hóa và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người mua (hoặc người thụ hưởng) có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua (hoặc người phải trả) hoặc mang đến CTTC để xin chiết khấu trước hạn. Trong trường hợp người thụ hưởng mang đến xin chiết khấu thì sau khi kiểm tra độ an toàn của thương phiếu, CTTC có thể đưa tiền cho người bán và nắm giữ thương phiếu. CTTC có thể tái chiết khấu thương phiếu tại Ngân hàng Nhà nước để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp. - Bảo lãnh: Bảo lãnh của CTTC là cam kết của CTTC dưới hình thức thư bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của mình khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Nói cách khác bản chất của bảo lãnh chính là một hình thức tài trợ của CTTC cho khách hàng, qua đó khách hàng có thể có được nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trong trường hợp CTTC thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thay cho khách hàng, khách hàng phải nhận nợ vô điều kiện với CTTC đó trên cơ sở số tiền được trả thay với lãi suất theo quy định của CTTC. Mở tài khoản và dịch vụ ngân quỹ Cũng giống như Ngân hàng, các CTTC được mở tài khoản tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước, được thực hiện dịch vụ thu và phát tiền mặt cho khách hàng. CTTC cung cấp cho khách hàng dịch vụ quản lý ngân quỹ, đó là quản lý thu, chi cho một công ty kinh doanh và tiến hành đầu tư thặng dư tiền mặt tạm thời với các chứng khoán sinh lợi và tín dụng ngắn hạn đến khi khách hàng cần tiền mặt để thanh toán. Các hoạt động khác Ngoài 3 hoạt động chính ở trên, CTTC còn có thể thực hiện các hoạt động khác như: - Góp vốn, mua cổ phần của các doanh nghiệp và các tổ chức tín dụng khác - Đầu tư cho các dự án theo hợp đồng - Tham gia thị trường tiền tệ - Thực hiện các dịch vụ kiều hối, kinh doanh vàng - Làm đại lý phát hành trái phiếu, cổ phiếu và các giấy tờ có giá cho các doanh nghiệp - Được quyền nhận ủy thác, làm đại lý trong các lĩnh vực liên quan đến tài chính, Ngân hàng, bảo hiểm và đầu tư, kể cả việc quản lý tài sản, vốn đầu tư của các tổ chức, cá nhân theo hợp đồng - Cung ứng các dịch vụ về ngân hàng, tài chính, tiền tệ, đầu tư cho khách hàng - Cung ứng các dịch vụ bảo quản hiện vật quý, giấy tờ có giá, cho thuê tủ két, cầm đồ và các dịch vụ khác 1.2. Hoạt động bảo lãnh của Công ty tài chính Hoạt động ngoại bảng (Off- Balance- Sheet) là những sản phẩm dịch vụ mà công ty đưa ra nhằm phục vụ nhu cầu của khách hàng và mang lại thu nhập cho công ty, song công ty lại không phải sử dụng nguồn vốn của mình để thực hiện nghĩa vụ ngay khi ký kết hợp đồng. Đây chính là lợi thế của loại hình hoạt động này. Chình vì vậy mà ngày càng có nhiều loại hoạt động ngoại bảng xuất hiện trên thế giới, các tổ chức trung gian tài chính ráo riết tìm kiếm lợi nhuận bằng những hoạt động này. Điều đó làm cho quy mô hoạt động được mở rộng hơn, các loại hình sản phẩm dịch vụ cũng đa dạng hơn. Có thể kể đến ở đây một số hoạt động ngoại bảng như: kinh doanh trên thị trường ngoại hối, mua bán các món vay, cung cấp các dịch vụ cho khách hàng, bảo lãnh… Nghiệp vụ bảo lãnh xuất hiện lần đầu vào giữa những năm 60 của thế kỷ XX tại thị trường nội địa nước Mỹ. Sau đó, vào đầu những năm 70, bảo lãnh bắt đầu được sử dụng trong các giao dịch thương mại quốc tế xuất phát từ nhu cầu của các nước Trung Đông. Vào khoảng thời gian đó, các nước Trung Đông đã phát triển nhanh chóng nhờ vào việc khai thác nguồn dầu mỏ dồi dào của mình. Song song với tốc độ phát triển đó thì nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng; dự án canh tân công, nông nghiệp; an ninh quốc phòng… cũng tăng lên. Trung Đông ký kết nhiều hợp đồng với các nước phương Tây để đáp ứng nhu cầu đó, song một vấn đề đặt ra là: giá trị các hợp đồng quá lớn nhưng lại không có gì đảm bảo là các nước phương Tây sẽ thực hiện đúng theo hợp đồng. Và vậy là nghiệp vụ bảo lãnh đã được thực hiện lần đầu tiên trong giao dịch thương mại giữa hai nước. Những bảo lãnh độc lập do NH của các nước phương Tây phát hành đã thực sự đáp ứng được yêu cầu về sự thuận lợi và an toàn cho các nước Trung Đông. Kể từ đó đến nay nghiệp vụ bảo lãnh luôn khẳng định được vai trò quan trọng của mình trong nền kinh tế. Ở Việt Nam, hoạt động bảo lãnh mới chỉ xuất hiện vào đầu những năm 90-khi nền kinh tế nước ta bắt đầu gia nhập với kinh tế thế giới và khu vực do vậy nó không tránh khỏi những thiếu sót cần được khắc phục. 1.2.1. Các khái niệm liên quan đến hoạt động bảo lãnh Bảo lãnh: là cam kết bằng văn bản của tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) với bên có quyền (bên nhận bảo lãnh) về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng (bên được bảo lãnh) khi khách hàng không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Khách hàng phải nhận nợ và hoàn trả cho tổ chức tín dụng số tiền đã được trả thay. Từ khái niệm trên ta có thể thấy có 3 bên liên quan trong một nghiệp vụ bảo lãnh: bên bảo lãnh, bên được bảo lãnh, bên nhận bảo lãnh. Các bên được hiểu như sau: Bên bảo lãnh (The Guarantor): là các tổ chức tín dụng thực hiện việc phát hành bảo lãnh. Đó có thể là NH hay các tổ chức tín dụng phi NH. Các tổ chức tín dụng này được quy định rõ trong điều 3 của quy chế bảo lãnh do NHNN ban hành. Bên được bảo lãnh (The Principal): là khách hàng được tổ chức tín dụng bảo lãnh. Những khách hàng này được quy định trong điều 4 của quy chế bảo lãnh do NHNN ban hành. Bên nhận bảo lãnh (The Beneficiary): là các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước có quyền thụ hưởng các cam kết bảo lãnh của tổ chức tín dụng. Ngoài ra còn có Các bên liên quan: là các bên có liên quan đến nghiệp vụ bảo lãnh của tổ chức tín dụng, như bên bảo lãnh đối ứng, bên xác nhận bảo lãnh và các bên khác (nếu có). Cam kết bảo lãnh: là cam kết bằng văn bản với bên nhận bảo lãnh về việc tổ chức tín dụng sẽ thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của mình khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ đã cam kết với bên nhận bảo lãnh. Đó có thể là cam kết đơn phương của tổ chức tín dụng hoặc cũng có thể là thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng và bên được bảo lãnh với bên nhận bảo lãnh. Hợp đồng bảo lãnh: là văn bản thỏa thuận giữa tổ chức tín dụng với khách hàng về quyền lợi và nghĩa vụ các bên trong việc bảo lãnh và hoàn trả Thư bảo lãnh: là cam kết đơn phương bằng văn bản của tổ chức tín dụng với bên nhận bảo lãnh về nghĩa vụ tài chính sẽ thực hiện thay cho khách hàng được bảo lãnh. Để có thể dễ dàng hình dung ra mối quan hệ giữa các bên trong nghiệp vụ bảo lãnh ta hãy xem xét sơ đồ sau: Sơ đồ 1.1: Mối quan hệ giữa các bên trong nghiệp vụ bảo lãnh Tổ chức tín dụng (bên bảo lãnh) Người thứ ba (bên hưởng bảo lãnh) Khách hàng (bên được bảo lãnh) (a) Khách hàng ký các hợp đồng với bên thứ ba về thanh toán, về xây dựng hay vay vốn… Bên thứ ba yêu cầu phải có bảo lãnh của tổ chức tín dụng (1) Khách hàng làm đơn xin được bảo lãnh gửi tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng sẽ thực hiện phân tích khách hàng để tìm hiểu về yêu cầu bảo lãnh cũng như mức độ rủi ro. Nếu đồng ý, tổ chức tín dụng và khách hàng sẽ ký hợp đồng bảo lãnh và phát hành thư bảo lãnh (2) Tổ chức tín dụng hoặc khách hàng thông báo về thư bảo lãnh cho bên thứ ba (3) Theo như đã thỏa thuận với khách hàng và bên thứ ba, tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh với bên thứ ba nếu nghĩa vụ đó xảy ra (4) Theo như hợp đồng bảo lãnh đã ký với khách hàng, tổ chức tín dụng yêu cầu khách hàng phải thực hiện các nghĩa vụ tài chính đối với tổ chức tín dụng (trả nợ gốc, lãi hoặc phí). 1.2.2. Các loại hình bảo lãnh tại Công ty tài chính Tùy vào từng mục đích nghiên cứu mà người ta chia bảo lãnh theo các tiêu chí khác nhau. Có thể phân chia theo phạm vi bảo lãnh (bảo lãnh trong nước và ngoài nước), theo phương thức phát hành (bảo lãnh trực tiếp và bảo lãnh gián tiếp), theo mục đích bảo lãnh (gồm 6 loại chính: bảo lãnh vay vốn, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm, bảo lãnh hoàn thanh toán). 1.2.2.1. Phân loại theo mục đích Theo điều 5 của Quy chế bảo lãnh do NHNN ban hành thì bảo lãnh được chia thành 6 loại chính, đó là: Bảo lãnh vay vốn: hiện nay các DN, các tổ chức tín dụng ngoài cách vay vốn từ NH thì họ còn có thể vay trên thị trường vốn, nghĩa là phát hành trái phiếu. Tuy nhiên, nếu uy tín của công ty trên thị trường chưa cao thì việc phát hành sẽ rất khó khăn do chưa tạo được niềm tin cho người cho vay. Để tăng sự tin tưởng của người cho vay thì công ty sẽ ký một hợp đồng bảo lãnh với tổ chức tín dụng, khi đó tổ chức tín dụng sẽ cam kết trả nợ thay cho phía công ty trong trường hợp công ty không trả được nợ đầy đủ và đúng hạn. Đây chính là bảo lãnh vay vốn hay còn gọi là bảo lãnh đảm bảo hoàn trả vốn vay. Nói cách khác, bảo lãnh vay vốn chính là phương tiện đảm bảo cho người cho vay. Bảo lãnh thanh toán: loại bảo lãnh này xuất phát từ hoạt động tín dụng thương mại, nó được dùng như môt phương tiện đảm bảo thanh toán trong hợp đồng mua bán, hợp đồng thuê mua tài chính, hợp đồng xây dựng.... Để đảm bảo an toàn cho người bán, người mua sẽ ký hợp đồng bảo lãnh với tổ chức tín dụng, tổ chức tín dụng cam kết thanh toán cho người bán trong trường hợp người mua không thanh toán đầy đủ và đúng hạn. Số tiền và thời hạn thanh toán do hai bên đối tác quy định trong hợp đồng, thường bằng 100% giá trị hợp đồng cơ sở còn thời hạn do hai bên thỏa thuận. Loại bảo lãnh này về mục đích cũng giống như thư tín dụng L/C là bảo đảm cho nghĩa vụ thanh toán.Tuy nhiên chúng lại hoàn toàn khác nhau về bản chất. Thư tín dụng thương mại thông thường là cam kết thanh toán của người phát hành cho người thụ hưởng khi người thụ hưởng xuất trình giấy tờ, chứng từ thương mại phù hợp, chứng tỏ thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của người thụ hưởng. Trong khi đó, bảo lãnh thanh toán là một cam kết của người phát hành bồi hoàn cho người thụ hưởng trong trường hợp người được bảo lãnh không thực hiện nghĩa vụ được quy định trong hợp đồng. Điều đó có nghĩa là: thư tín dụng là một phương thức thanh toán còn bảo lãnh thanh toán là một phương thức bảo đảm thanh toán. Bảo lãnh dự thầu: Thông thường đối với các hợp đồng lớn , đặc biệt là các hợp đồng trong lĩnh vực xây dựng, thiết kế hay cung cấp thiết bị thì người chủ công trình thường lựa chọn đối tác thông qua đấu thầu. Tuy nhiên, khi tổ chức đấu thầu có thể gặp một số rủi ro như: trúng thầu nhưng không thực hiện hợp đồng hay kê khai không đúng như yêu cầu gây nhầm lẫn khi bỏ thầu. Để hạn chế những rủi ro đó, chủ thầu thường yêu cầu các nhà thầu phải ký quỹ hay có bảo lãnh dự thầu. Số tiền này sẽ được dùng để trang trải cho những chi phí phải dùng đến khi rủi ro xảy ra. Do ký quỹ gây nhiều thủ tục phức tạp cho cả hai bên, đặc biệt làm đọng vốn của bên tham gia dự thầu nên nhiều chủ thầu yêu cầu thay thế tiền ký quỹ bằng bảo lãnh. Bảo lãnh dự thầu có giá trị tương đương với số tiền ký quỹ của các nhà thầu không có bảo lãnh, và thường bằng 1% đến 5% giá trị hợp đồng đấu thầu. Khi xem xét cấp thư bảo lãnh, tổ chức tín dụng phải đánh giá chính xác khả năng về tài chính, kỹ thuật và năng lực thực hiện cam kết với chủ đầu tư của nhà thầu, do đó bảo lãnh dự thầu còn có ý nghĩa để đảm bảo rằng chỉ có các nhà thầu có uy tín, năng lực về chuyên môn và kỹ thuật mới tham gia dự thầu tạo điều kiện thuận lợi cho chủ đầu tư trong việc xem xét đánh giá các đơn vị thầu. Bảo lãnh dự thầu không có hiệu lực thanh toán khi người được bảo lãnh (người dự thầu) không trúng thầu. Thư bảo lãnh của người không trúng thầu sẽ tự động hết hiệu lực với điều kiện người dự thầu không rút lui khỏi cuộc đấu thầu trước khi đơn thầu của họ hết hiệu lực. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng: Là cam kết của bên bảo lãnh về việc chi trả tổn thất hộ khách hàng nếu khách hàng không thực hiện đầy đủ hợp đồng như cam kết, gây tổn thất cho bên thứ ba. Các hợp đồng được bảo lãnh như: hợp đồng cung cấp hàng hóa, xây dựng, thiết kế… Việc khách hàng vi phạm hợp đồng như cung cấp không đúng thời hạn, không đúng chất lượng đã cam kết… đều có thể gây thiệt hại cho bên thứ ba. Bảo lãnh thực hiện hợp đồng một mặt bù đắp tổn thất cho bên thứ ba, một mặt thúc đẩy khách hàng nghiêm chỉnh thực hiện hợp đồng Tùy theo quy mô của từng hợp đồng, số tiền bảo lãnh thường chiếm 5% -15% giá trị của hợp đồng cơ sở, trong trường hợp đặc biệt số tiền này có thể chiếm trên 15% nhưng phải được người có thẩm quyền quyết định đầu tư chấp thuận. Số tiền bảo lãnh có thể giảm dần theo tiến độ thực hiện hợp đồng. Bảo lãnh bảo đảm chất lượng sản phẩm: Là việc bên bảo lãnh đảm bảo khách hàng thực hiện đúng các thỏa thuận về chất lượng sản phẩm theo hợp đồng đã ký kết với bên nhận bảo lãnh. Trong trường hợp khách hàng bị phạt tiền do không thực hiện đúng các yêu cầu trong hợp đồng về chất lượng sản phẩm với bên nhận bảo lãnh mà không nộp hoặc không nộp đủ tiền phạt cho bên nhận bảo lãnh thì bên bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đã cam kết. Bảo lãnh hoàn thanh toán hay Bảo lãnh bảo đảm hoàn trả tiền ứng trước: Nhiều nhà cung cấp yêu cầu khách hàng phải đặt trước một phần tiền trong giá trị hợp đồng cung cấp. Tiền đặt cọc vừa giúp bên cung cấp có một phần vốn để sản xuất kinh doanh, vừa có tác dụng ràng buộc người mua phải mua hàng đã đặt. Tuy nhiên, đề phòng người cung cấp không cung cấp hàng hóa đồng thời lại không trả tiền đặt cọc, bên mua yêu cầu bên cung cấp phải có bảo lãnh của tổ chức tín dụng về việc sẽ trả tiền ứng trước. Vậy bảo lãnh hoàn thanh toán là cam kết của bên bảo lãnh về việc sẽ hoàn trả tiền ứng trước cho bên mua nếu người cung cấp không trả. 1.2.2.2. Phân loại theo điều kiện thanh toán của bảo lãnh Bảo lãnh theo yêu cầu Bảo lãnh theo yêu cầu là một bảo lãnh mà điều kiện thanh toán của nó là người thụ hưởng chỉ cần xuất trình một văn bản yêu cầu thanh toán bảo lãnh mà không cần xuất trình bất kỳ một loại chứng từ nào khác hoặc các tài liệu chứng minh sự vi phạm của người được bảo lãnh cũng như sự thiệt hại của người thụ hưởng. Đơn thuần chỉ là yêu cầu đơn vị bảo lãnh thực hiện các điều khoản đã cam kết trong bảo lãnh. Có thể nói bảo lãnh theo yêu cầu thể hiện tính độc lập rất cao, theo đó đơn vị phát hành không có quyền viện dẫn bất kỳ lý do nào liên quan đến hợp đồng gốc để trì hoãn thanh toán. Loại bảo lãnh này tạo cho người thụ hưởng những thuận lợi rất lớn bởi khả năng đảm bảo chắc chắn và tính thanh khoản kịp thời. Đối với đơn vị phát hành, việc kiểm tra chứng từ trước thanh toán khá đơn giản, không đòi hỏi những thủ tục và thao tác nghiệp vụ phức tạp. Tuy nhiên, việc lập yêu cầu thanh toán hoàn toàn dựa trên những nhận định chủ quan của người thụ hưởng nên có thể gây ra những bất lợi đối với người được bảo lãnh. Đặc biệt trong trường hợp xuất hiện khả năng lừa đảo từ phía người thụ hưởng thì việc ngăn chặn rủi ro cho người được bảo lãnh là tương đối khó khăn. Bảo lãnh kèm chứng từ Là loại bảo lãnh trong đó văn bản yếu cầu thanh toán phải có chứng từ của bên thứ ba xác nhận sự vi phạm của người được bảo lãnh. Chứng từ có thể được xuất trình theo một trong hai cách sau: - Người thụ hưởng xuất trình các chứng từ chứng minh sự vi phạm nghĩa vụ từ phía người được bảo lãnh. Những chứng từ này do bên thứ ba có tư cách độc lập phát hành. - Người thụ hưởng xuất trình yêu cầu thanh toán ngoài ra không cần xuất trình bất cứ loại chứng từ nào khác, tương tự như trong bảo lãnh theo yêu cầu. Tuy nhiên, quyền thanh toán của người thụ hưởng sẽ bị đình lại nếu người được bảo lãnh cung cấp các chứng từ của bên thứ ba độc lập xác định việc không vi phạm hợp đồng. Bảo lãnh kèm chứng từ bảo vệ quyền lợi cho người được bảo lãnh tốt hơn so với bảo lãnh theo yêu cầu và như vậy quyền lợi của người thụ hưởng sẽ bị giảm đi. Đứng về phía tổ chức phát hành thì loại bảo lãnh này đòi hỏi trách nhiệm kiểm tra chứng từ trước khi thanh toán khá phức tạp bởi tính đa dạng và không theo tiêu chuẩn thống nhất của các chứng từ. 1.2.3. Đặc điểm của hoạt động bảo lãnh Bảo lãnh là một hình thức tài trợ của tổ chức phát hành bảo lãnh cho khách hàng qua đó khách hàng có thể tìm được nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh để thu lợi. Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. Các tổ chức tín dụng không phải sử dụng nguồn vốn của mình trong các hoạt động bảo lãnh ngay khi giao kết với khách hàng (trong khi vẫn có nguồn thu là phí bảo lãnh), vì vậy việc theo dõi và hạch toán được thực hiện ngoài bảng. Tổ chức tín dụng chỉ phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi khách hàng không thực hiện đúng cam kết với người thụ hưởng. Khi đó, hạch toán ngoài bảng sẽ chuyển vào nội bảng dưới hình thức một khoản vay bắt buộc của khách hàng tại tổ chức tín dụng. Chính vì thế, bảo lãnh cũng chứa đựng rủi ro như một khoản cho vay và đòi hỏi tổ chức tín dụng phải phân tích khách hàng như cho vay. Bảo lãnh tạo mối liên kết trách nhiệm tài chính và san sẻ rủi ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hàng, trách nhiệm của tổ chức tín dụng là thứ cấp khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Do mối liên hệ giữa tổ chức tín dụng với khách hàng có khả năng ràng buộc khách hàng phải thực hiện các cam kết. Bảo lãnh góp phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra. Một đặc điểm quan trọng của bảo lãnh là tính độc lập tương đối với hợp đồng chính. Vì việc thanh toán bảo lãnh chỉ hoàn toàn căn cứ vào các điều khoản và điều kiện ghi trong cam kết bảo lãnh mà không căn cứ vào quyền kháng nghị phát sinh trong hợp đồng chính. 1.2.4. Chức năng và vai trò của bảo lãnh 1.2.4.1. Chức năng của bảo lãnh Bảo lãnh được dùng như một công cụ đảm bảo Chức năng quan trọng nhất của bảo lãnh là cung cấp một sự đảm bảo cho người thụ hưởng. Trong các giao dịch kinh tế, thương mại giữa các đối tác, đặc biệt là các đối tác ở các quốc gia khác nhau, các bên tham gia ký hợp đồng không có sự hiểu biết lẫn nhau thì một trong những yêu cầu đầu tiên để hợp đồng có thể ký kết là có sự đảm bảo của các tổ chức tín dụng. Bên bảo lãnh cam kết sẽ chi trả bồi thường cho người thụ hưởng (bên nhận bảo lãnh) khi bên được bảo lãnh vi phạm những điều khoản đã ký kết. Chính sự cam kết đó đã tạo ra một đảm bảo chắc chắn cho người thụ hưởng và cũng chính vì thế mà hợp đồng được ký kết một cách suôn sẻ hơn. Việc thanh toán dựa trên cơ sở người được bảo lãnh có vi phạm hay không, trên thực tế thì chỉ có khoảng 1% (theo thống kê của các NH Hoa Kỳ) là các tổ chức tín dụng phải đứng ra thanh toán cho bên được bảo lãnh. Qua đó ta càng thấy rõ hơn bảo lãnh là một công cụ bảo đảm chứ không phải là công cụ thanh toán. Với chức năng này, bảo lãnh thực sự là chất xúc tác giúp các hợp đồng thương mại, xây dựng, các giao dịch hang hóa trong và ngoài nước được ký kết một cách thuận lợi. Bảo lãnh được dùng như công cụ đôn đốc thực hiện hợp đồng Trong suốt thời hạn hiệu lực của bảo lãnh, người thụ hưởng luôn có quyền yêu cầu thanh toán bảo lãnh nếu như người được bảo lãnh vi phạm hợp đồng (bất kể mức độ vi phạm như thế nào và thiệt hại của người thụ hưởng là bao nhiêu). Chính vì thế mà tổ chức đứng ra bảo lãnh cũng luôn có biện pháp giám sát việc thực hiện hợp đồng của người được bảo lãnh. Có hai bên luôn giám sát việc thực hiện hợp đồng, việc đó đôn đốc bên được bảo lãnh làm việc cẩn thận hơn, hoàn thành hợp đồng một cách tốt nhất. Trên thực tế, người thụ hưởng cũng luôn mong muốn người được bảo lãnh hoàn thành hợp đồng chứ không muốn được bồi hoàn tài chính từ tổ chức đứng ra bảo lãnh đặc biệt là trong lĩnh vực xây dựng. Vì việc tìm kiếm một công ty khác để thi công tiếp công trình dở dang là điều không dễ dàng, tốn kém thời gian và chi phí. Nên bảo lãnh thực hiện hợp đồng có ý nghĩa đôn đốc thực hiện hợp đồng hơn là bồi hoàn. Bảo lãnh được dùng như một công cụ tài trợ Không chỉ là công cụ bảo đảm cho người thụ hưởng mà còn là công cụ tài trợ thực sự về mặt tài chính cho bên được bảo lãnh. Chức năng này được thể hiện rõ trong các hợp đồng xây dựng hay buôn bán lớn phải thực hiện trong thời gian dài mới hoàn tất. Người thi công sẽ gặp nhiều khó khăn về tài chính và chịu nhiều rủi ro khi chủ thầu thanh toán theo hạng mục công trình hoặc hoàn tất công trình. Vì thế, bên thi công thường thương lượng với chủ công trình về khoản tiền tài trợ cho mình. Tổ chức tài chính của công ty xây dựng sẽ phát hành bảo lãnh hoàn thanh toán như một công cụ tài trợ để công ty xây dựng nhận được khoản tiền ứng trước từ chủ công trình. Việc tổ chức tài chính chấp nhận phát hành bảo lãnh cho công ty thi công cũng là một hình thức tài trợ. 1.2.4.2. Vai trò của hoạt động bảo lãnh Với những đặc điểm và chức năng kể trên ta thấy rõ rằng hoạt động bảo lãnh có vai trò hết sức quan trọng trong các hoạt động thương mại quốc tế cũng như các hợp đồng thương mại, xây dựng… trong nước. Vai trò nổi bật nhất của hoạt động bảo lãn._.h là giảm thiểu rủi ro cho người thụ hưởng vì họ đã có sự đảm bảo thanh toán của bên bảo lãnh. Đối với bên được bảo lãnh, do nhờ có hoạt động bảo lãnh mà họ tạo được sự tin tương hơn ở đối tác, đồng thời được hưởng những thuận lợi về ngân quỹ như khi được vay thực sự. Trong rất nhiều trường hợp thông qua hoạt động bảo lãnh, bên được bảo lãnh không phải xuất quỹ, được thu hồi vốn nhanh chóng, được vay vốn hay kéo dài thời gian thanh toán hàng hóa, dịch vụ,… Đối với bên bảo lãnh, hoạt động bảo lãnh không chỉ góp phần làm tăng doanh thu thông qua việc thu phí mà còn nâng cao uy tín, thương hiệu của tổ chức trên thị trường tài chính trong và ngoài nước. Khi khách hàng ký quỹ để được bảo lãnh, nguồn tiền này sẽ trở thành nguồn vốn huy động với giá rẻ, tương đối ổn định trong thời gian có thể dự tính trước được. Bên cạnh đó, họat động bảo lãnh chịu mức rủi ro thấp hơn nhiều so với hoạt động cho vay, họ không phải xuất quỹ cho doanh nghiệp đồng thời đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ góp phần hạn chế rủi ro. Đối với nền kinh tế, hoạt động bảo lãnh đáp ứng yêu cầu kịp thời về phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh, làm giảm bớt sự căng thẳng về nguốn vốn huy động của các doanh nghiệp từ đó thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Bảo lãnh xuất hiện giải quyết được vấn đề không tin tưởng lẫn nhau giữa các bên trong quá trình đàm phán tiến đến thực hiện hợp đồng. Chính vì thế đã tạo điều kiện cho các hợp đồng kinh tế được ký kết thuận lợi. 1.2.5. Quy chế bảo lãnh Trong giai đoạn đầu xuất hiện của hoạt động bảo lãnh do chưa có quy định cụ thể của Nhà nước nên hoạt động bảo lãnh còn thực hiện một cách tùy tiện, thiếu hiệu quả và gây nhiều tranh cãi. Để đáp ứng yêu cầu của các Doanh nghiệp ngày 21/2/1994 Thống đốc NHNN ban hành quyết định 23/QĐ-NH14 về Quy chế bảo lãnh và tái bảo lãnh vay vốn nước ngoài nhằm đưa họat động bảo lãnh vào thống nhất. Tiếp theo, ngày 16/9/1994, NHNN ban hành quyết định 196/QĐ-NH14 về Quy chế nghiệp vụ bảo lãnh của các NH thì hành lang pháp lý về hoạt động này tương đối hoàn chỉnh. Và sau đó đã có vài quyết định mới để bổ sung, sửa đối các quy chế đã được ban hành. Từ đó đến nay, hoạt động bảo lãnh bắt đầu phát triển, mang lại lợi nhuận cao cho các tổ chức tín dụng. Với yêu cầu hội nhập và phát triển, hoạt động bảo lãnh ngày càng yêu cầu cao hơn trong việc hoàn thiện các quy định cho phù hợp với các thông lệ quốc tế. Quyết định 283/2000/QĐ-NH14 ra đời ngày 25/8/2000 được coi là Quy chế bảo lãnh chính tại Việt Nam. Đến năm 2006, NHNN ban hành quyết định 26/2006/QĐ-NH để bổ sung, sửa đổi một số điều khoản trong quyết định 283 cho phù hợp hơn. Có thể nêu ra một số điều khoản cần quan tâm khi nói đến hoạt động bảo lãnh, đó là: Về số dư bảo lãnh - Tổng số dư bảo lãnh của tổ chức tín dụng cho một khách hàng không được vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng. Trong trường hợp tổ chức tín dụng phải trả thay cho khách hàng dẫn đến tổng dư nợ cho vay và dư nợ do trả thay vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng thì phải ngừng ngay việc cho vay và bảo lãnh mới đối với khách hàng đó. - Trường hợp khách hàng yêu cầu bảo lãnh vượt quá 15% vốn tự có của tổ chức tín dụng thì tổ chức tín dụng này có thể kết hợp với các tổ chức khác thực hiện đồng bảo lãnh. Khi phải thanh toán thay cho khách hàng thì tổ chức đầu mối sẽ đứng ra thanh toán còn các tổ chức tham gia đồng bảo lãnh phải có trách nhiệm hoàn trả cho tổ chức đầu mối đó. Còn nếu tổ chức đầu mối không thanh toán hoặc không thanh toán hết thì người thụ hưởng có thể yêu cầu bất kỳ tổ chức nào tham gia đồng bảo lãnh phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh. Về bồi hoàn cho tổ chức tín dụng Sau 15 ngày kể từ ngày tổ chức tín dụng thanh toán hộ khách hàng mà khách hàng không hoàn trả hoặc chưa có văn bản xác nhận nợ thì tổ chức tín dụng phải hạch toán ghi nợ cho khách hàng (ngày ghi nợ là ngày tổ chức thanh toán hộ khách hàng). Khi đó, khách hàng phải chịu lãi suất nợ quá hạn do các bên thỏa thuận nhưng không được vượt quá 1.5 lần lãi suất trong hợp đồng giữa khách hàng với bên nhận bảo lãnh hoặc lãi suất cho vay ngắn hạn mà tổ chức tín dụng đang thực hiện, kể từ ngày tổ chức tín dụng thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với số tiền đã trả thay. Về miễn thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh - Nếu người thụ hưởng miễn việc thực hiện nghĩa vụ cho tổ chức tín dụng thì người được bảo lãnh vẫn phải thực hiện nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh. - Trong trường hợp đồng bảo lãnh, nếu chỉ một tổ chức được miễn thực hiện nghĩa vụ thì những tổ chức tín dụng khác vẫn phải thực hiện nghĩa vụ của mình nhưng không phải chịu trách nhiệm về phần nghĩa vụ của tổ chức được miễn. 1.2.6. Quy trình bảo lãnh Bước 1: Khách hàng làm đơn xin bảo lãnh gửi tổ chức tín dụng có ghi rõ số tiền và điều kiện bảo lãnh. Tổ chức tín dụng phân tích khách hàng, hợp đồng kinh tế giữa khách hàng và bên thứ ba, yêu cầu bảo lãnh của bên thứ ba. Qua đó, tổ chức tín dụng xác định rủi ro và các biện pháp phòng ngừa. Bước 2: Ký hợp đồng bảo lãnh với khách hàng Hợp đồng bảo lãnh là hợp đồng độc lập với hợp đồng kinh tế, là hợp đồng giữa khách hàng với tổ chức tín dụng thể hiện ràng buộc tài chính giữa tổ chức tín dụng với bên thứ ba. Nội dung chính của hợp đồng gồm: - Số tiền và thời hạn bảo lãnh - Các điều khoản vi phạm hợp đồng kinh tế dẫn đến nghĩa vụ chi trả của tổ chức tín dụng - Các tài liệu cần thiết mà bên thứ ba cần có để chứng minh sự vi phạm hợp đồng của bên được bảo lãnh - Hình thức bảo lãnh - Phí bảo lãnh, số tiền ký quỹ hoặc tài sản đảm bảo cho bảo lãnh mà khách hàng phải thực hiện đối với tổ chức tín dụng - Trách nhiệm trả nợ cho tổ chức tín dụng khi tổ chức tín dụng phải thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba Bước 3: Hình thức bảo lãnh: có các hình thức bảo lãnh sau: - Phát hành thư bảo lãnh - Mở thư tín dụng - Ký hối phiếu nhận nợ Lựa chọn hình thức nào là tùy thuộc chủ yếu vào yêu cầu của bên thứ ba. Để hạn chế rủi ro, bên thứ ba có thể yêu cầu đích danh tổ chức bảo lãnh và hình thức bảo lãnh. Phát hành thư bảo lãnh có thể áp dụng cho mọi loại bảo lãnh; bảo lãnh thanh toán được thực hiện dưới hình thức mở thư tín dụng (bảo lãnh mở L/C trả chậm). Độ an toàn của hình thức này rất cao do tính pháp lý quốc tế của L/C. Bảo lãnh vay vốn (thường vay của các tổ chức tín dụng nước ngoài) được thực hiện dưới hình thức ký phát hối phiếu: thư bảo lãnh kèm theo hối phiếu trả tiền đã được tổ chức tín dụng ký với ngày trả tiền đúng vào ngày khách hàng phải trả cho bên thứ ba. 1.3. Phát triển hoạt động bảo lãnh tại Công ty tài chính 1.3.1. Các chỉ tiêu phản ánh mức độ phát triển của hoạt động bảo lãnh tại Công ty tài chính Trong bất cứ hoạt động nào cũng vậy, tổ chức tín dụng đều phải xem xét, đánh giá các mặt của hoạt động đó. Xem xét để biết hoạt động đó đã tốt chưa? cần phải thay đổi gì để phù hợp hơn không? Xem xét để có những biện pháp phòng ngừa rủi ro tốt nhất, để có những cách thức phục vụ khách hàng tốt nhất. Và ở đây cũng thế, muốn phát triển hoạt động bảo lãnh thì ta không chỉ xem xét đến mức độ mở rộng của hoạt động mà còn phải xem xét đến chất lượng của dịch vụ. Một dịch vụ không thể nói là phát triển nếu chất lượng của dịch vụ đó chưa tốt. Dưới đây là một số chỉ tiêu phản ánh mức độ phát triển của hoạt động bảo lãnh. Số lượng loại hình bảo lãnh: Quy mô bảo lãnh của một tổ chức tín dụng thể hiện ở số lượng loại hình bảo lãnh mà họ đang cung cấp. Khi một tổ chức có khả năng mở rộng sang nhiều loại hình bảo lãnh khác nhau thì tổ chức đó sẽ thu hút được nhiều khách hàng đến với mình hơn. Tình hình hoạt động kinh doanh của nền kinh tế thay đổi từng ngày, nhu cầu của các khách hàng về hoạt động bảo lãnh vì thế cũng sẽ không ngừng lại, nên một tiêu chí để đánh giá mức độ mở rộng hoạt động bảo lãnh của một tổ chức là khả năng thâm nhập thị trường, mở rộng thêm các loại hình bảo lãnh mà khách hàng đang có hoặc sẽ có nhu cầu. Số lượng khách hàng: Khách hàng là yếu tố quyết định sự tồn tại của một sản phẩm, dịch vụ trên thị trường. Người ta thường dựa vào lượng khách hàng hiện tại và khách hàng tiềm năng trong tương lai để quyết định tiếp tục duy trì, mở rộng hay chấm dứt sự tồn tại của một sản phẩm, dịch vụ. Lấy ví dụ đơn giản, một sản phẩm, dịch vụ ngày càng có nhiều khách hàng sử dụng thì sẽ được sản xuất hoặc cung cấp thêm để đáp ứng nhu cầu thị trường, đó chính là sự tăng quy mô. Theo đó, khi khách hàng sử dụng bảo lãnh ngày càng đông cho thấy quy mô của hoạt động này đang tăng lên. Để đánh giá mức độ mở rộng của một hoạt động người ta hay xem xét lượng khách hàng năm nay so với năm trước tăng hay giảm. Lượng khách hàng tăng chứng tỏ ngày càng có nhiều khách hàng có nhu cầu mở thư bảo lãnh, những khách hàng này chính là một kênh quảng cáo cho tổ chức, tạo điều kiện mở rộng hoạt động hơn nữa. Giá trị hợp đồng bảo lãnh Bên cạnh tiêu chí về lượng khách hàng thì tiêu chí về giá trị hợp đồng bảo lãnh cũng đóng vai trò quan trọng không kém trong việc đánh giá mức độ mở rộng của hoạt động bảo lãnh. Nếu lượng khách hàng tăng nhưng giá trị hợp đông không tăng lên thì chưa thể nói quy mô của hoạt đồng nay đang được mở rộng. Mục đích của mở rộng là để tăng doanh thu từ hoạt động bảo lãnh và từ đó thu được nhiều lợi nhuận hơn. Các tổ chức tín dụng phấn đấu tăng lượng khách hàng cũng là để có tổng giá trị các hợp đồng bảo lãnh lớn hơn. Giá trị hợp đồng lớn thì phí thu được lớn và nguồn thu của tổ chức tín dụng cũng tăng lên. Doanh thu Doanh thu được xác định dựa vào mức phí đối với các khoản bảo lãnh. Vì thế nếu giá trị bảo lãnh và số lượng thư bảo lãnh nhiều thì doanh thu sẽ cao. Ở đây ta còn cần phải quan tâm đến tỷ lệ doanh thu từ bảo lãnh trên tổng thu từ phí và dịch vụ, tỷ lệ này phản ánh vị trí của hoạt động đó trong hoạt động của công ty. Nếu tỷ lệ này cao nghĩa là hoạt động bảo lãnh chiếm vị trí quan trọng, ảnh hưởng nhiều đến tổng doanh thu của cả công ty, ngược lại nếu tỷ lệ này thấp chứng tỏ hoạt động bảo lãnh vẫn chưa thực sự phát triển, chưa chiếm được vị trí quan trọng trong hoạt động chung của công ty. Tỷ lệ phát sinh nợ Trong trường hợp khách hàng vi phạm những điều khoản đã cam kết với bên nhận bảo lãnh thì tổ chức tín dụng sẽ phải thực hiện nghĩa vụ với bên nhận bảo lãnh, khi đó tổ chức tín dụng sẽ thông báo với khách hàng của mình và nếu sau 15 ngày mà họ không thanh toán hoặc không có văn bản xác nhận nợ thì tổ chức tín dụng sẽ hạch toán ghi nợ. Vì thế nếu tỷ lệ phát sinh nợ cao nghĩa là công tác thẩm định khách hàng chưa được tốt, chưa chọl lọc được những khách hàng tốt, gây rủi ro cho công ty. Thời gian xem xét hồ sơ Trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay thì việc tiến hành các thủ tục cần thiết phải diễn ra một cách thuận tiện, nhanh chóng vì nếu mất nhiều thời gian thì có thể sẽ bỏ lỡ một cơ hội kinh doanh. Vì thế, ngoài chất lượng, uy tín thì khách hàng cần bảo lãnh còn lựa chọn tổ chức bảo lãnh dựa vào thời gian xem xét hồ sơ. Khoảng thời gian này càng ngắn thì càng thuận tiện cho khách hàng và nó cũng phản ánh năng lực làm việc của cán bộ tín dụng. Như vậy, muốn đánh giá mức độ mở rộng hoạt động bảo lãnh tổ chức tín dụng cần phải kết hợp phân tích, nhận xét một cách tổng hợp các chỉ tiêu trên, không nên đánh giá chỉ dựa trên việc quan sát một số tiêu chí riêng lẻ. 1.3.2. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển hoạt độngbảo lãnh tại Công ty tài chính 1.3.2.1. Các nhân tố thuộc về tổ chức bảo lãnh Trình độ cán bộ: Trình độ chuyên môn và phẩm chất của nhân viên tín dụng có ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng tín dụng nói chung và chất lượng bảo lãnh nói riêng. Mà chất lượng bảo lãnh có tốt thì lượng khách hàng đến với tổ chức mới tăng lên, quy mô bảo lãnh mới được mở rộng. Hoạt động bảo lãnh cũng là một hoạt động tín dụng vì thế quy trình của bảo lãnh cũng giống như của cho vay, cũng phải thẩm định khách hàng trước khi ký hợp đồng. Nếu nhân viên chưa thạo nghiệp vụ hay khả năng thẩm định kém sẽ không thực hiện được các bước trong quy trình một cách chính xác, nhanh chóng và làm giảm chất lượng của khoản bảo lãnh. Những gian dối, sai sót của nhân viên tín dụng sẽ dẫn đến sự đánh giá sai lệch về khách hàng và khoản bảo lãnh, có thể gây hậu quả nghiêm trọng làm tổ chức bị thiệt hại, làm giảm chất lượng bảo lãnh và đồng nghĩa với nó là lượng khách hàng đến với tổ chức tín dụng sẽ ít đi. Khả năng tiếp thị: Bất kỳ một sản phẩm nào khi ra thị trường cũng đều phải có kế hoạch tiếp thị để khách hàng biết đến và sử dụng nó. Hoạt động cũng là một sản phẩm cần được tiếp thị như vậy. Có những trường hợp khách hàng chưa có nhu cầu nhưng có những doanh nghiệp cần nhưng lại chưa biết “đường” đến với tổ chức của mình. Nếu như tổ chức tín dụng không tiếp thị để khách hàng biết rằng dịch vụ của mình tốt, có uy tín, mức phí hợp lý thì khách hàng sẽ đến với tổ chức khác hoặc phải mất nhiều thời gian họ mới nhận ra uy tín của ta. Do đó, khả năng tiếp thị tốt hay không tốt ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của tổ chức tín dụng bởi nó quyết định lượng khách hàng và rút ngắn thời gian để khách hàng và ngân hàng gặp được nhau. Chính sách của tổ chức về hoạt động bảo lãnh: Nếu bản thân tổ chức đánh giá chưa đúng về vai trò của hoạt động bảo lãnh để từ đó có định hướng thích hợp thì sẽ cản trở sự phát triển của hoạt động này. Chiến lược kinh doanh cho thấy tổ chức tín dụng đó đang hướng đến thị trường nào và những phương pháp tiếp cận thị trường đó. Nếu tổ chức có chiến lược kinh doanh thống nhất, khoa học, phù hợp với khả năng và tiềm lực của tổ chức sẽ làm tăng chất lượng hoạt động của tổ chức và ngược lại. Khả năng quản trị rủi ro: Khả năng quản lý rủi ro bảo lãnh là khả năng nhận diện được rủi ro có thể xảy ra của khoản bảo lãnh, đánh giá rủi ro đó và đưa ra các biện pháp phòng ngừa, hạn chế rủi ro. Có thể kể đến một số rủi ro thường gặp trong nghiệp vụ bảo lãnh như: rủi ro đạo đức của khách hàng, rủi ro về người phát hành, rủi ro về chứng từ và rủi ro bất khả kháng. Quy trình thực hiện bảo lãnh: Quy trình bảo lãnh ảnh hưởng trực tiếp đến thời gian xem xét hồ sơ. Một quy trình hợp lý, khoa học sẽ tạo thuận tiện cho các cán bộ tín dụng làm việc và rút ngắn được tối đa thời gian xem xét hồ sơ. Ngược lại một quy trình không hợp lý sẽ gây khó khăn cho các cán bộ tín dụng trong việc thực hiện bảo lãnh. 1.3.2.2. Những nhân tố thuộc về khách hàng Năng lực của khách hàng: Năng lực của khách hàng được đánh giá trên các khía cạnh như năng lực quản lý, tư cách pháp lý, năng lực sản xuất kinh doanh và năng lực tài chính. Năng lực của khách hàng cho thấy khách hàng có thể thực hiện được hợp đồng hay không. Nếu năng lực của khách hàng yếu thì khoản bảo lãnh sẽ có rủi ro cao, có thể dẫn đến chất lượng thấp. Tư cách đạo đức của khách hàng: Yếu tố chủ yếu trong tư cách đạo đức của khách hàng là tính trung thực. Chất lượng của khoản bảo lãnh phụ thuộc rất nhiều vào công tác thẩm định và quản lý của khách hàng, điều này chỉ có thể thực hiện được dựa trên sự hợp tác của khách hàng. Nếu khách hàng cố tình lừa dối tổ chức tín dụng bằng cách đưa ra các thông tin giả, các báo cáo tài chính không chính xác thì công tác thẩm định của tổ chức có thể đưa ra những kết luận không đúng về khả năng tài chính của khách hàng. 1.3.2.3. Những nhân tố khác Bảo lãnh cũng giống như các hoạt động khác đều phải chịu sự điều tiết của cơ quan Nhà nước. Các quy định của Nhà nước về bảo lãnh có tác dụng quản lý và giám sát hoạt động bảo lãnh của tổ chức tín dụng. Nếu hệ thống quy định, chính sách của Nhà nước lạc hậu, kìm hãm sự phát triển của hoạt động bảo lãnh sẽ làm giảm chất lượng của loại dịch vụ này. Và ngược lại, nếu quy định, chính sách phù hợp với thực tế, điều tiết hiệu quả hoạt động bảo lãnh thì sẽ góp phần nâng cao chất lượng bảo lãnh. Chương 1 đã cung cấp cho chúng ta những kiến thức tổng quát nhất về hoạt động bảo lãnh, về vai trò cũng như chức năng của hoạt động này đối với một Công ty tài chính. Và để hiểu rõ hơn, ta đi tìm hiểu hoạt động bảo lãnh tại PVFC ở chương 2: Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại PVFC. CHƯƠNG 2 – THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG BẢO LÃNH TẠI PVFC 2.1. Giới thiệu về Công ty tài chính Dầu khí (PVFC) 2.1.1. Quá trình phát triển và cơ cấu tổ chức Quá trình phát triển của PVFC + Ngày 1/10/2000: Công ty Tài chính Dầu khí chính thức đặt trụ sở hoạt động đầu tiên tại 34B Hàn Thuyên - Hà Nội và Khai trương hoạt động phòng giao dịch số 10. + Ngày 5/02/2001: Lễ khai trương hoạt động Công ty Tài chính Dầu khí đã được tổ chức trọng thể tại Hà Nội. + Ngày 19/6/2002: Khai trương hoạt động phòng giao dịch chứng khoán BSC – PVFC. + Ngày 1/10/2002: Khai trương website Công ty Tài chính Dầu khí tại địa chỉ: + Ngày 3/9/2003: Phát hành thành công Trái phiếu Dầu khí. + Ngày 21/5/2003: Khai trương hoạt động Chi nhánh Công ty Tài chính Dầu khí tại thành phố Hồ Chí Minh. + Ngày 5/5/2004: Nhận chứng chỉ Hệ thống quản lý chất lượng phù hợp tiêu chuẩn ISO 9001:2000 do tổ chức SGS (Thuỵ Sỹ) cấp. + Ngày 28/02/2005: Khai trương hoạt động Chi nhánh Công ty Tài chính Dầu khí tại Vũng Tàu. + Ngày 3/09/2005: Nhận Cúp vàng Thương hiệu và Nhãn hiệu 2005. + Ngày 15/09/2005: Nhận giải thưởng Sao Vàng Đất Việt 2005. + Ngày 15/12/2005: PVFC được xếp hạng Công ty Nhà nước loại 1. + Tháng 12/2005: Quy mô hoạt động của PVFC đạt trên 8000 tỷ đồng. + Tháng 12/2005: Triển khai thành công việc lắp đặt và đưa vào sử dụng hệ thống mạng WAN trong toàn hệ thống. + Ngày 26/04/2006: PVFC chính thức tăng vốn điều lệ lên 1000 tỷ đồng. + Ngày 4/07/2006: Khai trương Chi nhánh Công ty Tài chính Dầu khí tại Đà Nẵng. + Ngày 24/10/2006: Khai trương Phòng Giao dịch Chứng khoán SSI – PVFC + Ngày 14/02/2007: PVFC chính thức tăng vốn điều lệ lên 3000 tỷ đồng, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong quá trình hoạt động và phát triển của Công ty. + Tháng 4/2007: PVFC vinh dự đón nhận giải thưởng “Thương hiệu mạnh Việt Nam” và lọt vào “TOP 50 nhà tuyển dụng hàng đầu Việt Nam”. + Ngày 5/05/2007: PVFC nhận giải thưởng “Quả Cầu Vàng” dành cho doanh nghiệp Nhà nước hoạt động trong ngành tài chính. + Ngày 18/05/2007: Khai trương Chi nhánh tại thành phố Hải Phòng. + Ngày 26/06/2007: Khai trương Công ty Tài chính Dầu khí- Chi nhánh Cần Thơ. + Ngày 15/07/2007: PVFC đón nhận “Cúp vàng Thương hiệu và Nhãn hiệu 2007". + Ngày 24/07/2007: Chính thức khai trương và đi vào hoạt động Công ty Tài chính Dầu khí - Chi nhánh Sài Gòn. + Ngày 8/09/2007: PVFC là đơn vị duy nhất trong ngành Tài chính – Ngân hàng được cùng lúc trao tặng hai giải thưởng “Nhà quản lý giỏi 2007” và “Cúp vàng ISO 2007”. + Ngày 8/10/2007: Khai trương hoạt động ba công ty thành viên: Công ty Cổ phần Đầu tư và Tư vấn Tài chính Dầu khí (PVFC Invest); Công ty Cổ phần Kinh doanh Bất động sản Tài chính Dầu khí (PVFC Land); Công ty Cổ phần Truyền thông Tài chính Dầu khí (PVFC Media). Cơ cấu tổ chức của PVFC PVFC là một công ty tài chính lớn và đang vươn tới một định chế tài chính ở Việt Nam. Hiện nay công ty đang có 4 ban, đó là: Ban đầu tư, Ban thu xếp vốn và tín dụng doanh nghiệp, Ban dịch vụ tài chính doanh nghiệp, Ban quản lý dòng tiền. Nhiệm vụ, chức năng các phòng, ban đã được PVFC quy định rõ trong các quyết định số 6063, 6072, 6073 QĐ – TCDK – TCNS&TL và một số quyết định khác. PVFC có mặt ở nhiều thành phố như: Hà Nội, Hải Phòng, Nam Định, Đà Nẵng, Sài Gòn, Cần Thơ, Vũng Tàu. PVFC còn có 3 công ty con là: : Công ty Cổ phần Đầu tư và Tư vấn Tài chính Dầu khí (PVFC Invest); Công ty Cổ phần Kinh doanh Bất động sản Tài chính Dầu khí (PVFC Land); Công ty Cổ phần Truyền thông Tài chính Dầu khí (PVFC Media). 2.1.3. Tình hình hoạt động kinh doanh của PVFC Tình hình chung Sau 7 năm hoạt động, PVFC đã có những thành công rất đáng khích lệ. Từ một định chế tài chính non trẻ với rất nhiều những khó khăn, thách thức đến nay PVFC đã có được vị thế nhất định trong Tập đoàn Dầu khí Quốc gia Việt Nam cũng như trên thị trường tài chính tiền tệ. Với những nỗ lực trong quản lý và kinh doanh, đến nay PVFC đã nhận được nhiều giải thưởng của các tổ chức trao tặng như giải Sao Vàng Đất Việt do Hội doanh nghiệp trẻ Việt Nam tổ chức năm 2005; giải thưởng Thương hiệu mạnh dành cho các doanh nghiệp Việt Nam có thành tích xuất sắc trong sản xuất kinh doanh và phát triển thương hiệu bền vững, nâng cao sức cạnh tranh trong công cuộc hội nhập kinh tế quốc tế do Thời báo Kinh tế Việt Nam kết hợp với Cục xúc tiến thương mại (Bộ thương mại) tổ chức năm 2006; giải thưởng công nhận đơn vị tuyển dụng hàng đầu và nhiều giải thưởng khác. Tình hình hoạt động kinh doanh Tổng tài sản, doanh thu và lợi nhuận qua các năm đều rất khả quan, phản ánh tốc độ tăng trưởng bền vững và hiệu quả trong mọi hoạt động của công ty, đặc biệt trong năm 2006 tổng tài sản đạt 18.143 tỷ đồng gấp 2,65 lấn so với năm 2005 và tốc độ tăng trưởng tài sản bình quân trong giai đoạn 2002 – 2006 đạt 130%. Tốc độ tăng trưởng tài sản gắn liền với chiến dịch tăng vốn điều lệ của công ty qua các năm như: năm 2004 tăng lên 300 tỷ đồng, năm 2006 tăng lên 1000 tỷ đồng. Năm 2006 đánh dấu bước phát triển quan trọng trong hoạt động kinh doanh của công ty, sau 6 năm thành lập và hoạt động, PVFC đã chính thức gia nhập CLB các doanh nghiệp có doanh thu trên 1000 tỷ đồng. Các khoản thu nộp Ngân sách Nhà nước và Tập đoàn đều được hoàn thành vượt mức kế hoạch được giao. Năm 2006 nộp Ngân sách Nhà nước 31,269 tỷ đồng, nộp Tập đoàn 9,71 tỷ đồng bằng 129% và 130% kế hoạch được giao. Hoạt động tín dụng tăng trưởng bền vững, đáp ứng nhu cầu vốn cho các dự án và vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các đơn vị thành công của Tập đoàn. Mức tăng trưởng cho vay các tổ chức tín dụng trong giai đoạn 2002 – 2006 trung bình đạt 164%/năm; mức tăng trưởng cho vay trực tiếp các tổ chức kinh tế, cá nhân đạt 148%/năm. Số dư nợ tín dụng năm 2006 đạt 5350 tỷ đồng, tăng 177% so với năm 2005. Cơ cấu tín dụng có sự thay đổi hợp lý hơn, dư nợ tín dụng trung và dài hạn chiếm 43% trên tổng dư nợ, cho vay các tổ chức kinh tế chiếm 47% tổng dư nợ. Công ty luôn duy trì và đảm bảo các hệ số an toàn tín dụng theo đúng quy định của NHNN. Hoạt động huy động vốn của công ty đã có những bước tiến vững chắc, đáp ứng nhu cầu kinh doanh của công ty. Tốc độ tăng trưởng vốn huy động cao và ổn định, giai đoạn 2002 – 2006 bình quân đạt 151%/năm. Nguồn vốn quan trọng nhất là nguồn vốn vay các TCTD và nguồn ủy thác của các tổ chức, cá nhân. Năm 2006, nguồn vốn vay và nguồn ủy thác đầu tư đạt 11000 tỷ đồng, bằng 309% so với năm 2005. Tuy nhiên tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn tăng chậm hơn tỷ trọng tăng trưởng tín dụng trung và dài hạn, nguồn vốn ngắn hạn còn chiếm tỷ trọng cao trong quy mô vốn (chiếm 83% trong tổng vốn huy động). Huy động vốn bằng ngoại tệ vẫn còn hạn chế và mới tập trung vào một số khách hàng nhất định. Ngoài ra để đáp ứng nhu cầu vốn trung và dài hạn, năm 2006 PVFC đã phát hành thành công trái phiếu Tài chính Dầu khí với tổng số tiền thu được là 665 tỷ đồng. Sau đây là bảng một số chỉ tiêu tài chính: STT Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Năm 2005 Năm 2006 1 Tồng tài sản 1.230 2.895 4.207 6.828 18.143 2 Nguồn vốn chủ sở hữu 106 112 318 359 1.134 3 Vốn điều lệ 100 100 300 300 1.000 4 Doanh thu 65 133 214 422 1.023 -Thu từ lãi 31 114 185 418 955 -Thu ngoài lãi 34 19 29 4 68 5 Lợi nhuận trước thuế 5,1 5,9 8,3 28,8 126 6 Nợ phải trả 216 803 3.887 6.456 16.330 7 Nợ phải thu 900 2.072 3.949 5.917 14.874 8 Thu nhập bq (1000/người/tháng) 3 3,3 3,7 5,3 7 Bảng 2.1: Bảng các chỉ tiêu tài chính Đơn vị: tỷ đồng (Nguồn: Báo cáo tài chính đã được kiểm định các năm: 2002, 2003, 2004, 2005, 2006). 2.2. Thực trạng hoạt động bảo lãnh tại PVFC 2.2.1. Hướng dẫn bảo lại tại PVFC Bước 1: Tiếp xúc và hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ đề nghị cấp bảo lãnh Sau khi tiếp xúc, tìm hiểu nhu cầu của khách hàng, CVKH có trách nhiệm báo cáo lãnh đạo Bộ phận khách hàng phương án xử lý. Nếu khách hàng đáp ứng điều kiện về việc cấp bảo lãnh của PVFC, CVKH hướng dẫn khách hàng hoàn thiện hồ sơ đề nghị cấp bảo lãnh. Trong vòng không quá 03 ngày làm việc, CVKH có Báo cáo đánh giá sơ bộ khách hàng trình lãnh đạo đơn vị cấp tín dụng xem xét để chuyển hồ sơ sang CVTD trực tiếp thẩm định tín dụng. Bước 2: Thẩm định tín dụng và lập Tờ trình cấp tín dụng Trong trường hợp phải bổ sung tài liệu phục vụ công tác thẩm định, CVTD phối hợp với CVKH yêu cầu khách hàng bổ sung, tất cả tài liệu bổ sung CVTD nhận được cũng phải cập nhật vào Sổ theo dõi hồ sơ của phòng để theo dõi việc nhận lại các thông tin và tài liệu đã yêu cầu. Thời gian thẩm định tín dụng hồ sơ bảo lãnh không quá 05 ngày làm việc. Trường hợp phát sinh những vướng mắc, CVTD báo cáo kịp thời lên Lãnh đạo đơn vị cấp tín dụng để xử lý. Trường hợp phải kéo dài thời gian thẩm định so với quy định của PVFC, CVTD phải thông báo rõ cho khách hàng biết lý do. Trong quá trình thẩm định hồ sơ bảo lãnh của khách hàng, CVTD cần phải xem xét, đánh giá khả năng đáp ứng các điều kiện của PVFC, theo các nội dung như sau: Thẩm định tín dụng - Khoản bảo lãnh phải đáp ứng đủ các điều kiện theo các quy định của Ngân hàng Nhà nước và quy định tại Quy chế hoạt động tín dụng của PVFC hiện hành. - Mục đích đề nghị PVFC bảo lãnh phải hợp pháp. - Năng lực tài chính để thực hiện nghĩa vụ được PVFC bảo lãnh trong thời hạn cam kết. - Ngoài các điều kiện nêu trên, khách hàng phải tuân thủ các quy định về quản lý ngoại hối của Việt Nam. - Các rủi ro liên quan đến khoản vay và biện pháp xử lý. Trường hợp PVFC thực hiện đồng bảo lãnh hoặc phát hành bảo lãnh trên cơ sở có bảo lãnh đối ứng của Ngân hàng/Tổ chức tín dụng khác, CVTD phải thẩm định năng lực tài chính, thẩm quyền tham gia đồng bảo lãnh hoặc thẩm quyền phát hành bảo lãnh đối ứng, uy tín … của Ngân hàng/ tổ chức tín dụng đó. Thẩm định tài sản bảo đảm (nếu có) Trường hợp bảo đảm bằng tài sản là Quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền trên đất: - Chuyển hồ sơ tài sản bảo đảm ( một bản photo) và soạn thảo công văn đề nghị đến Bộ phận định giá thực hiện. Việc định giá được thực hiện theo “Hướng dẫn thẩm định tài sản bảo đảm của PVFC” - Sau khi hoàn tất công tác thẩm định tài sản bảo đảm, Bộ phận định giá lập Báo cáo thẩm định tài sản bảo đảm và Biên bản thoả thuận giá trị tài sản bảo đảm được ký kết giữa khách hàng và Trưởng Bộ phận định giá, gửi về đơn vị cấp tín dụng. Trường hợp bảo đảm bằng tài sản là chứng từ có giá/cổ phiếu/hợp đồng uỷ thác cổ phiếu/chứng chỉ quỹ đầu tư: - CVTD thực hiện định giá tài sản bảo đảm căn cứ vào “Danh mục chứng từ có giá và cổ phiếu nhận cầm cố của Công ty Tài chính Dầu khí” và Quy chế hoạt động tín dụng của PVFC. Đối với tài sản bảo đảm khác: - Thực hiện định giá theo quy định tại Quy chế hoạt động tín dụng của PVFC. Lập tờ trình cấp bảo lãnh Sau khi hoàn tất công tác thẩm định khoản bảo lãnh của khách hàng, CVTD lập Tờ trình cấp bảo lãnh Bước 3: Thẩm định độc lập Đối với khoản bảo lãnh phải thẩm định độc lập theo quy định tại Quy chế hoạt động tín dụng của PVFC, CVTD tập hợp toàn bộ hồ sơ bảo lãnh của khách hàng (bản photo) và soạn công văn đề nghị gửi Bộ phận thẩm định độc lập tiến hành thẩm định khoản bảo lãnh. Sau khi hoàn tất công tác thẩm định độc lập, Bộ phận thẩm định độc lập có Báo cáo thẩm định độc lập theo đúng quy định tại Quy chế Tổ chức và hoạt động Thẩm định độc lập của PVFC, gửi về đơn vị cấp tín dụng. Bước 4: Phê duyệt Sau khi hoàn tất công việc thẩm định tín dụng và công tác thẩm định độc lập (nếu có) đối với khoản bảo lãnh của khách hàng, CVTD trình hồ sơ cấp bảo lãnh của khách hàng tới cấp có thẩm quyền phê duyệt Bước 5: Thực hiện các thủ tục về bảo đảm tín dụng Các thủ tục về bảo đảm tín dụng theo “Hướng dẫn thực hiện các thủ tục về bảo đảm tín dụng tại Công ty Tài chính Dầu khí”. Sau khi hoàn tất các thủ tục về bảo đảm tín dụng, CVTD nhận bàn giao (các) giấy tờ tài sản gốc của khách hàng, hai bên ký nhận Biên bản giao nhận giấy tờ tài sản. Nhập kho (các) giấy tờ tài sản gốc theo mẫu Phiếu đề nghị gửi kho tài sản. Bước 6: Ký kết hợp đồng bảo lãnh Sau khi hoàn tất thủ tục về bảo đảm tiền vay, CVTD soạn thảo Hợp đồng bảo lãnh theo mẫu của PVFC, chuyển cho khách hàng ký trước, sau đó trình lên cấp thẩm quyền ký kết hợp đồng bảo lãnh tại PVFC. Bước 7: Phát hành thư bảo lãnh Căn cứ Đề nghị bảo lãnh của khách hàng, CVTD kiểm tra, xem xét hồ sơ đề nghị phát hành thư bảo lãnh. Bước 8: Quản lý phát hành thư bảo lãnh Theo dõi thực hiện Hợp đồng: Sau mỗi lần kiểm tra, CVTD lập Biên bản kiểm tra mục đích bảo lãnh của khách hàng theo từng lần phát hành thư bảo lãnh. Nếu khách hàng sử dụng sai mục đích hoặc phát sinh những vấn đề có nguy cơ ảnh hưởng đến khả năng trả nợ của khách hàng trong trường hợp PVFC phải thực hiện nghĩa vụ cam kết, CVTD có báo cáo Lãnh đạo đơn vị cấp tín dụng, trình cấp phê duyệt tín dụng xem xét để cùng khách hàng tìm giải pháp khắc phục hoặc ra quyết định ngừng cấp bảo lãnh (đối với khoản bảo lãnh trong hạn mức) hoặc có biện pháp thu hồi nợ khi PVFC phải thực hiện nghĩa vụ cam kết. Thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh Khi PVFC nhận được văn bản yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh của Bên nhận bảo lãnh, CVTD có trách nhiệm tiến hành các thủ tục cần thiết như sau: - Kiểm tra lại Thư bảo lãnh phát hành - Báo cáo Lãnh đạo đơn vị cấp tín dụng xem xét, trình cấp phê duyệt tín dụng có quyết định trong trường hợp yêu cầu thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh khi Bên được bảo lãnh đáp ứng đầy đủ các điều kiện đã đề ra: - CVTD tiến hành các thủ tục thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết bảo lãnh. Xử lý phát sinh Bước 9: Thanh lý Hợp đồng bảo lãnh và lưu hồ sơ Sau khi khách hàng hoàn tất các nghĩa vụ đối với PVFC theo các Hợp đồng và các nghĩa vụ đối với Bên nhận bảo lãnh hoặc thời hạn theo Hợp đồng Bảo lãnh/Thư bảo lãnh thì nghĩa vụ bảo lãnh của PVFC chấm dứt trong trường hợp sau: Bên nhận bảo lãnh có văn bản xác nhận chấm dứt cam kết bảo lãnh và đã gửi trả lại PVFC bản gốc của cam kết bảo lãnh. Khách hàng đã thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối với PVFC. PVFC đã thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh theo cam kết bảo lãnh. Việc bảo lãnh được huỷ bỏ hoặc thay thế bằng biện pháp bảo đảm khác; Thời hạn của các Thư bảo lãnh đã phát hành theo Hợp đồng bảo lãnh đã hết hiệu lực. - PVFC đã thực hiện._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7649.doc
Tài liệu liên quan