Phát triển hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam – Chi nhánh Koàn Kiếm

LỜI MỞ ĐẦU Sự cần thiết của việc nghiên cứu đề tài Thực hiện đường lối đổi mới của Đảng tại Đại hội VI đã đề cập đến và lãnh đạo nền kinh tế nước ta theo định hướng cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Sau hơn 20 năm thực hiện, đất nước ta đã đạt được những thành tựu đáng kể về kinh tế chính trị - văn hoá xã hội và quốc phòng an ninh. Về kinh tế, ngành ngân hàng đã có nhiều đổi mới và thu được những thành tựu to lớn, đặc biệt kiềm chế lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ, là kênh

doc69 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1248 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng thương mại cổ phần Kỹ thương Việt Nam – Chi nhánh Koàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
huy động vốn cho sự phát triển của nền kinh tế. Trong bối cảnh kinh tế thế giới bất ổn như hiện nay thì để đạt được những thành tựu đó là nhờ sự dẫn đường chỉ lối sáng suốt của Đảng và Nhà nước. Quá trình phát triển kinh tế nước ta đã thừa nhận sự tồn tại của một nền kinh tế nhiều thành phần, mà trong đó thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đóng một vai trò vô cùng quan trọng. Nhờ có tinh thần đổi mới của Đảng mà khu vực kinh tế ngoài quốc doanh có điều kiện để phát triển. Tuy nhiên sự phát triển của khu vực kinh tế này còn hạn chế, chưa phát huy hết được vai trò của mình đối với sự phát triển của kinh tế đất nước. Lý do là các doanh nghiệp còn khó khăn về nguồn lực tài chính, các doanh nghiệp này rất khó để tiếp cận được nguồn vốn tín dụng của ngân hàng. Trong khi các doanh nghiệp lại cần nắm bắt các cơ hội đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, đổi mới công nghệ và phải cạnh tranh với các doanh nghiệp khác. Việc đáp ứng các nhu cầu vốn trung, dài hạn nói chung cho nền kinh tế và cho doanh nghiệp ngoài quốc doanh (DNNQD) nói riêng vừa là trách nhiệm vừa là cơ hội cho các hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại. Vì vậy làm sao để mở rộng quy mô cho vay trung, dài hạn tại các ngân hàng thương mại đối với thành phần kinh tế này để phát triển kinh tế bền vững. Nhận thức được tính cấp thiết của vấn đề này, cùng với những kiến thức đã được học tập và nghiên cứu tại trường và nhất là trong thời gian thực tập tại: Phòng dịch vụ khách hàng doanh nghiệp, thuộc Chi nhánh Techcombank Hoàn Kiếm, em đã chọn đề tài: “Phát triển hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam – Chi nhánh Koàn Kiếm”. Mục đích nghiên cứu Như ta đã biết, phát triển hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh có vai trò rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Techcombank Hoàn Kiếm. Vì thế, mục đích nghiên cứu đề tài là tìm hiểu thực trạng hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Techcombank Hoàn Kiếm trong những năm gần đây với những thành tựu đạt được và hạn chế và từ đó đưa ra những giải pháp nhằm phát triển hoạt động này. Phạm vi và phương pháp nghiên cứu Cho vay đối với doanh nghiệp là một phạm vi khá rộng nên trong phạm vi đề tài của mình em chỉ nghiên cứu hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Techcombank Hoàn Kiếm. Phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong đề tài là: phương pháp thống kê, phân tích, so sánh để đưa ra đánh giá, nhận xét,… Kết cấu của đề tài Ngoài phần: lời mở đầu, kết luận, đề tài có kết cấu gồm 3 chương: Chương 1. Những vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay trung, dài hạn của NHTM đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Chương 2. Thực trạng hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh tại Chi nhánh Techcombank Hoàn Kiếm. Chương 3. Giải pháp phát triển cho vay trung, dài hạn đối với DNNQD tại Chi nhánh Techcombank Hoàn Kiếm. Qua quá trình nghiên cứu lý thuyết và tìm hiểu thực tế tại Ngân hàng, em xin đưa ra một vài đóng góp nhỏ góp phần hoàn thiện công tác cho vay trung, dài hạn đối với DNNQD tại Chi nhánh Techcombank Hoàn Kiếm. Vì khả năng kiến thức và thời gian nghiên cứu còn hạn chế, bài chuyên đề không thể tránh khỏi những thiễu xót, em rất mong được sự chỉ bảo của các thầy cô. Chương 1. Những vấn đề cơ bản về hoạt động cho vay trung, dài hạn của NHTM đối với doanh nghiệp ngoài quốc doanh 1.1. TỔNG QUAN VỀ NHTM 1.1.1. Khái niệm và các hoạt động cơ bản của NHTM 1.1.1.1. Khái niệm và vai trò của NHTM Khái niệm: Ngân hàng là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, bao gồm nhiều loại tuỳ thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về quy mô tài sản, thị phần và số lượng các ngân hàng. Ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại ngân hàng. Ngân hàng đóng vai trò là người thủ quỹ cho toàn xã hội. Lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng gắn liền với sự phát triển của nền sản xuất hàng hoá. Quá trình phát triển kinh tế là điều kiện và đòi hỏi sự phát triển của ngân hàng; đến lượt mình, sự phát triển của hệ thống ngân hàng trở thành động lực thúc đẩy phát triển kinh tế. Hiện nay có nhiều quan điểm khác nhau về NHTM. Perter S. Rose: xem xét các ngân hàng trên phương diện những loại hình dịch vụ mà chúng cung cấp cho rằng: “Ngân hàng là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất - đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm và dịch vụ thanh toán – và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế”. Theo quan điểm của các nhà kinh tế thì NHTM là một doanh nghiệp hoạt động và kinh doanh trên lĩnh vực tài chính - tiền tệ và tín dụng. Theo luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1997 thì: “Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ, dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng và cung ứng các dịch vụ thanh toán chi trả hộ...”. Vai trò của ngân hàng trong nền kinh tế: Ngân hàng được coi là một sản phẩm của nền kinh tế hàng hoá, là một bộ phận không thể tách rời và tồn tại như một tất yếu lịch sử trong nền kinh tế hiện đại. Trong khi nhiều người tin rằng các ngân hàng chỉ đóng một vai trò rất nhỏ trong nền kinh tế đó là: nhận tiền gửi và cho vay. Thì trên thực tế ngân hàng đã phải thực hiện nhiều vai trò mới để có thể duy trì khả năng cạnh tranh và đáp ứng nhu cầu xã hội. Các ngân hàng này có những vai trò cơ bản sau: + Vai trò trung gian: Ngân hàng đóng vai trò là một trung gian tài chính, chuyển các khoản tiết kiệm, tiền gửi thanh toán - chủ yếu từ hộ gia đình, thành các khoản tín dụng cho các tổ chức kinh doanh và thành các phần khác để đầu tư vào nhà cửa, thiết bị và các tài sản khác. + Vai trò thanh toán: Ngân hàng thay mặt khác hàng thực hiện thanh toán cho việc mua hàng hoá và dịch vụ bằng cách phát hành thẻ và bù trừ séc, cung cấp mạng lưới thanh toán điện tử, kết nối các quỹ và phân phối tiền giấy, tiền đúc. + Vai trò ngưòi bảo lãnh: Ngân hàng cam kết sẽ bảo lãnh cho khách hàng bằng cách trả nợ cho khách hàng khi khách hàng mất khả năng thanh toán. Do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng nên ngân hàng có uy tín trong việc bảo lãnh cho khách hàng. + Vai trò đại lý: Ngân hàng thay mặt khách hàng quản lý và bảo về tài sản của họ, phát hành hoặc mua lại chứng khoán. + Vai trò thực hiện chính sách: Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế của Chính phủ, góp phần điều tiết sự tăng trưởng kinh tế và theo đuổi các mục tiêu xã hội. 1.1.1.2. Câc hoạt động cơ bản của NHTM Theo V. Lênin: “Ngân hàng chẳng qua là một xí nghiệp đặc biệt kinh doanh tiền tệ”. Xét về bản chất, ngân hàng cũng là một DN như bất kỳ DN nào trong nền kinh tế. Mọi hoạt động của ngân hàng cũng đều nhằm mục đích cơ bản là phát triển bền vững và tối đa hoá lợi nhuận. Các hoạt động cơ bản của NHTM bao gồm: Hoạt động huy động vốn: Đây là một trong những nghiệp vụ đầu tiên, là sự khởi đầu tạo điều kiện cho hoạt động của ngân hàng. Cho vay được coi là hoạt động sẽ mang lại lợi nhuận cao và nó là một trong những hoạt động chính của ngân hàng. Chính vì vậy các ngân hàng đã tìm kiếm mọi cách để huy động vốn cho vay. Ngân hàng huy động vốn nhàn rỗi trong xã hội thông qua các hình thức: tiền gửi tiết kiệm của dân cư, tiền gửi thanh toán, tiền gửi có kỳ hạn của các DN, các tổ chức kinh tế, tiền gửi của các ngân hàng khác… - Nhận tiền gửi của các cá nhân và các tổ chức kinh tế. Đây là nguồn vốn chủ lực trong kinh doanh của ngân hàng. - Nguồn tiền đi vay: trong quá trình kinh doanh, đôi khi NHTM cũng lâm vào tình trạng thiếu hụt vốn tạm thời. Để đáp ứng nhu cầu thanh toán, chi trả cũng như nhu cầu vay vốn của khách hàng, NHTM có thể vay tiền của NHNN, vay trên thị trường liên ngân hàng… Đây là nguồn vốn rất cần thiết và quan trọng vì nó đáp ứng được kịp thời và đảm bảo cho mọi hoạt động của ngân hàng diễn ra một cách liên tục. Khi gửi khách hàng gửi tiền hay ngân hàng đi vay thì khách hàng sẽ được hưởng những mức lãi suất và những tiện ích nhất định tuỳ vào loại hình vốn mà ngân hàng huy động. Và các ngân hàng luôn ra sức cạnh tranh về lãi suất nhằm thu hút nhiều hơn nữa luồng tiền gửi trong dân cư. Hoạt động sử dụng vốn: Sử dụng vốn là nghiệp vụ chủ yếu nhất, quan trọng nhất của ngân hàng thương mại. Từ nguồn vốn huy động được ngân hàng sẽ đầu tư vào khoản mục tài sản khác nhau nhằm đạt được những mục tiêu nhất định mà ngân hàng đã đề ra. - Hoạt động tín dụng: tín dụng là hình thức kinh doanh chủ yếu của ngân hàng, hoạt động này chiếm tỷ trọng lớn nhất, mang lại lợi nhuận chủ yếu của ngân hàng thương mại. Vì thế các ngân hàng luôn coi trọng việc cấp tín dụng cho khách hàng, là thế mạnh của ngân hàng. Tín dụng do ngân hàng cấp có nhiều loại: cho vay, chiết khấu, tín dụng thuê mua, bảo lãnh, mở L/C… Tuy nhiên, hoạt động này lại chứa đựng nhiều rủi ro, ảnh hưởng đến sự an toàn của ngân hàng. + Cho vay: Ngân hàng thương mại được cho các tổ chức, cá nhân vay vốn dưới các hình thức sau: cho vay ứng trước, cho vay theo dự án, cho vay ngắn hạn, cho vay trung – dài hạn… Khoản mục cho vay chiếm hơn nửa giá trị tổng tài sản và tạo ra từ 1/2 đến 2/3 nguồn thu đối với hầu hết các ngân hàng. Đồng thời, rủi ro trong hoạt động ngân hàng có xu hướng tập trung vào danh mục các khoản cho vay. + Bảo lãnh: Ngân hàng thương mại thực hiện bảo lãnh vay, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh đấu thầu và các hình thức bảo lãnh ngân hàng khác bằng uy tín và bằng khả năng tài chính của mình đối với người nhận bảo lãnh. Mức bảo lãnh đối với một khách hàng và tổng mức bảo lãnh của ngân hàng thương nại không vượt quá tỷ lệ so với vốn tự có của ngân hàng thương mại. + Chiết khấu: Ngân hàng thương mại thực hiện chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đối với tổ chức, cá nhân và có thể tái chiết khấu các thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đới với các tổ chức tín dụng khác. + Cho thuê tài chính: Ngân hàng thương mại có hoạt động cho thuê tài chính nhưng phải thành lập công ty cho thuê tài chính riêng. Việc thành lập, tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính thực hiện theo Nghị định của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính. - Hoạt động đầu tư: tín dụng là hoạt động chủ yếu tạo ra lợi nhuận cho ngân hàng, nhưng ngân hàng không chỉ sử dụng toàn bộ số vốn huy động được để cho vay. Ngân hàng còn tham gia vào các hoạt động khác nhằm đa dạng hoá danh mục đầu tư: góp vốn, mua cổ phần của công ty, đầu tư chứng khoán, đầu tư bất động sản,… * Các hoạt động khác: Ngoài hai hoạt động chính trên, các NHTM còn thực hiện các hoạt động khác mà xã hội có nhu cầu: Mua bán ngoại tệ, bảo quản vật có giá, cung cấp các tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán, quản lý ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, cung cấp dịch vụ tư vấn và uỷ thác, cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp dịch vụ bảo hiểm… Các hoạt động này không trực tiếp tạo ra nguồn thu cho ngân hàng nhưng ngân hàng có thể thu lợi nhuận từ việc thu phí dịch vụ. - Mua bán ngoại tệ: Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi (mua bán) ngoại tệ - một ngân hàng đứng ra mua bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. - Bảo quản vật có giá: các ngân hàng thực hiện kưu giữ vàng và các vật có giá khác cho khách hàng trong kho bảo quản. Ngân hàng giữ vàng và giao cho khách hàng tờ biên nhận. Ngày này, vật có giá được tách khỏi tiền gửi và khách hàng phải trả phí bảo quản. - Quản lý ngân quỹ: Các ngân hàng mở tài khoản và giữ tiền của nhiều cac nhân và phần lớn các doanh nghiệp. Nhờ đó ngân hàng thường có mối liên hệ chặt chẽ với nhiều khác hàng. - Cung cấp các dịch vụ bảo hiểm: Từ nhiều năm nay các ngân hàng đã bán bảo hiểm cho khách hàng. Điều đó bảo đảm việc hoàn trả trong trường hợp khách hàng bị chết, tàn phế hay gặp rủi ro trong hoạt động kinh doanh hay mất khả năng thanh toán. Ngày nay nhu cầu của khách hàng là rất lớn vì vậy các ngân hàng càng phải chú trọng phát triển các dịch vụ này. Một mặt nhằm đa dạng hoá các hoạt động của ngân hàng, làm giảm thiểu rủi ro từ việc cho vay, mặt khác còn gắn kết mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng ngày càng thân thiết. 1.1.2. Hoạt động cho vay của NHTM 1.1.2.1. Khái niệm hoạt động cho vay của NHTM * Khái niệm: Theo Nghị định số 49/2000/NĐ-CP ngày 12/09/2000 của Chính phủ về tổ chức và hoạt động của NHTM thì: Ngân hàng thương mại được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Trong các hoạt động cấp tín dụng, cho vay là hoạt động quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn nhất. Hoạt động cho vay là một trong những hoạt động đầu tiên của ngân hàng. Cho vay là một phạm trù của nền kinh tế hàng hoá, nó phản ánh quan hệ kinh tế giữa hai chủ thể. Trong đó, một bên chuyển giao tiền hoặc tài sản cho bên kia được sử dụng vào mục đích và trong một thời gian nhất định. Đồng thời bên nhận tiền hoặc tài sản cam kết sẽ hoàn trả tiền hoặc tài sản sau khoảng thời gian đã thoả thuận và phải trả thêm một khoản lãi do việc sử dụng tài sản của bên chuyển giao trong thời gian đó. Hoạt động cho vay của ngân hàng có mối quan hệ mật thiết với tình hình phát triển kinh tế tại khu vực ngân hàng phục vụ, bởi vì cho vay thúc đẩy sự tăng trưởng của các doanh nghiệp, tạo ra sức sống cho nền kinh tế. Hơn nữa, thông qua các khoản cho vay của ngân hàng, thị trường sẽ có thêm thông tin về chất lượng tín dụng của từng khách hàng và nhờ đó giúp cho họ có khả năng nhận thêm các khoản tín dụng mơi từ những nguồn khác vớ chi phí thấp hơn. 1.1.2.2. Phân loại các khoản cho vay của NHTM Tín dụng ngân hàng hay các khoản có thể phân chia ra thành nhiều loại khác nhau tuỳ theo những tiêu thức khác nhau. Dựa vào mục đích của tín dụng: Theo tiêu thức này cho vay ngân hàng được chia thành các loại sau: - Cho vay tiêu dùng cá nhân: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng như: mua sắm các vật dụng đắt tiền, đồ dùng lâu bền,… - Cho vay bất động sản: là loại cho vay dùng để đầu tư mua sắm bất động sản, xây dựng nhà ở. - Cho vay nông nghiệp: là loại cho vay dùng để trang trải các chi phí liên quan đến sản xuất nông nghiệp như: phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, thức ăn cho gia súc, … - Cho vay kinh doanh xuất nhập khẩu: là loại cho vay DN hoạt động sản xuất kinh doanh các sản phẩm, hàng hoá dùng để xuất khẩu hay cần nhập khẩu nguyên vật liệu tư bên ngoài. Dựa vào thời hạn cho vay: Theo tiêu thức này, cho vay có thể được chia thành các loại sau: - Cho vay ngắn hạn: là hình thức cho vay có thời hạn dưới 1 năm. Mục đích của loại cho vay này thường được sử dụng để đầu tư vào sự thiếu hụt vốn lưu động của các DN và các nhu cầu chi tiêu vốn ngắn hạn cảu các cá nhân. - Cho vay trung hạn: là hình thức cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm. mục đích của loại cho vay này là nhằm tài trợ để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới các trang thiết bị, mở rộng sản xuất kinh doanh. - Cho vay dài hạn: là hình thức cho vay có thời hạn trên 5 năm. Mục đích của loại cho vay này thường là nhằm tài trợ cho các dự án đầu tư như: xây dựng các công trình cơ bản, đàu tư các phương tiện vận tải có quy mô lớn, … Dựa vào mức độ tín nhiệm của khách hàng: Theo tiêu thức này, cho vay có thể được chia thành các loại sau: - Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay không có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh của người khác mà chỉ dựa vào uy tín của chính khách hàng vay vốn để quyết định cho vay. - Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay dựa trên cơ sở có các bảo tiền vay như: cầm cố, thế chấp hoặc bảo lãnh của bên thứ ba. Dựa vào phương thức cho vay: Theo tiêu thức này, cho vay có thể được chia thành các loại sau: - Cho vay thấu chi: là nghiệp vụ cho vay qua đó ngân hàng cho phép người vay được chi vượt trên số dư tiền gửi thanh toán của mình đến một giới hạn nhất định và trong khoảng thời gian xác định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. - Cho vay theo món: là hình thức cho vay tương đối phổ biến của ngân hàng đối với những khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chính, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt họ mới vay ngân hàng. Tức là vốn ngân hàng chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kỳ sản xuất kinh doanh. - Cho vay theo hạn mức: đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó ngân hàng thoả thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kỳ hoặc cuối kỳ. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. - Cho vay luân chuyển: là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hoá. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn, ngân hàng có thể cho DN vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi DN bán hàng. - Cho vay trả góp: là hình thức tín dụng, theo đó ngân hàngcho phép khách hàng trả làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thoải thuận. Cho vay trả góp thường được đối với khách hàng vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc lâu bền. - Cho vay gián tiếp: Phần lớn cho vay của ngân hàng là cho trực tiếp, bên cạnh đó ngân hàng cũng phat triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. 1.2. HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRUNG, DÀI HẠN CỦA NHTM ĐỐI VỚI DNNQD 1.2.1. Khái niệm và vai trò của DNNQD 1.2.1.1. Khái niệm và đặc điểm của DNNQD * Khái niệm: Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế độc lập, có tư cách pháp nhân, hoạt động kinh doanh trên thị trường nhằm tăng giá trị của chủ sở hữu. Theo luật doanh nghiệp được Quốc hội Việt Nam thông qua ngày 12/06/1999 thì “Doanh nghiệp là một tổ chức có tên riêng, có tài sản, có trụ sở giao dịch ổn định, được đăng ký kinh doanh theo quy định của pháp luật nhằm mục đích thực hiện các hoạt động kinh doanh”. Tức là thực hiện một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản xuất đến tiêu thị sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục đích sinh lợi. Tuỳ theo tiêu thức, doanh nghiệp có thể có nhiều loại khác nhau. Phân loại theo chủ sở hữu thì doanh nghiệp được phân thành: Doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Doanh nghiệp Nhà nước là doanh nghiệp mà 100% vốn của Nhà nước hoặc vốn của Nhà nước chiêm tỷ trọng lớn. Doanh nghiệp ngoài quốc doanh là các doanh nghiệp còn lại, không phải là doanh nghiệp Nhà nước. Từ trước năm 1986 nền kinh tế ngoài quốc doanh ở nước ta chỉ duy nhất là kinh tế tập thể với hình thức sở hữu tập thể về tư liệu sản xuất. Sau năm 1986, khi nền kinh tế chuyển sang vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, khu vực kinh tế ngoài quốc doanh cũng được mở rộng hơn, gồm: DNNQD và hộ sản xuất nhỏ. Trong đó DNNQD là thành phần quan trọng nhất. Ngày nay, có thể hiểu DNNQD là các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế ngoài quốc doanh, là các doanh nghiệp được thành lập dựa trên sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. DNNQD bao gồm: Công ty trách nhiệm hữu hạn (TNHH) một thành viên, công ty cổ phần, công ty tư nhân,… - Công ty cổ phần: là loại hình doanh nghiệp mà số vốn điều lệ được chia thành dựa trên sự đóng góp của các thành viên trong công ty, vốn được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Người sở hữu cổ phần là cổ đông, cổ đông chỉ phải chịu trách nhiệm về các quyền và nghĩa vụ đối với công ty dựa trên số vốn góp. - Doanh nghiệp tư nhân: là loại hình doanh nghiệp do một cá nhân đứng ra thành lập, làm chủ và tự chịu trách nhiệm về toàn bộ hoạt động của công ty bằng tất cả tài sản của mình. - Công ty TNHH một thành viên: là loại hình doanh nghiệp do một tổ chức đứng ra làm chủ sở hữu, chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. - Công ty TNHH hai thành viên trở lên: là loại công ty mà có hai hay nhiều đơn vị tổ chức, cá nhân đứng ra thành lập. Các tổ chức cá nhân chỉ chịu trách nhiệm về các khoản nợ của công ty dựa trên số vốn góp. - Công ty hợp danh: phải có ít nhất hai hợp danh và có thêm thành viên góp vốn. - Công ty có vốn đầu tư nước ngoài: là loại hình công ty có thể 100% số vốn đầu tư nước ngoài hoặc có sự góp vốn của doanh nghiệp trong nước. Ở nước ta hiện nay, DNNQD đống một vai trò quan trọng trong nền kinh tế. DNNQD là một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế, đóng góp phần không nhỏ cho ngân sách quốc gia, tham gia giải quyết các vấn đề xã hội: tạo ra nhiều công ăn việc làm cho người dân, giúp xoá bớt đói, giảm bớt nghèo… Vì vậy, nghiên cứu và tìm hiểu các DNNQD sẽ giúp chúng ta nhận thức rõ hơn và thành phần kinh tế này với các góc độ khác nhau để từ đó đưa ra các chính sách phù hợp với sự phát triển của thành phần quan trọng này. Tạo điều kiện để các DNNQD có thể phát huy những điểm mạnh để nền kinh tế ngày càng phát triển. * Đặc điểm của DNNQD: DNNQD bao gồm các doanh nghiệp không thuộc sở hữu nhà nước nhưng loại hình doanh nghiệp này cũng được thành lập và hoạt động theo luật doanh nghiệp, có những đặc điểm của doanh nghiệp nhà nước nói chung. Tuy nhiên, do điều kiện cũng như hoàn cảnh ra đời nên chúng có những đặc điểm riêng khi đem so sánh với các loại hình doanh nghiệp khác: Thứ nhất, DNNQD được thành lập và hoạt động chủ yếu dựa vào tính chất tư hữu về tư liệu sản xuất. Nói cách khác, không có yếu tố sở hữu Nhà nước hoặc Nhà nước chiếm tỷ trọng nhỏ. Do đó, chủ sở hữu có quyền tự lựa chọn ngành nghề kinh doanh: sản xuất cái gì, sản xuất cho ai, sản xuất như thế nào, có quyền quyết định và chịu trách nhiệm về các quyết định của mình. Thứ hai, Các DNNQD rất đông về số lượng, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp ở nước ta và tốc độ tăng cũng rất nhanh. Nếu như năm 1991 chỉ có 414 DN, thì sau 1 năm số DN đã tăng lên 5.189 DN, năm 1998 là 39.180 DN và đến năm 1999 có 45.602 DN. Cùng với các chính sách đổi mới, luật doanh nghiệp năm 2005 (sửa đổi của năm 1999) là khâu đột phá trong cải cách hành chính và kinh tế, tạo môi trường và điều kiện kinh doanh thuận lợi cho các DNNQD phát triển. Do đó khu vực kinh tế tư nhân đã có bước phát triển vượt bậc về số lượng DN. Cho đến năm 2006 thi số DNNQD cả nước có khoảng 260.000 DN. Thứ ba, Về quy mô vốn của các DNNQD: Mặc dù số lượng các DN này là rât nhiều nhưng lượng vốn tập trung cho các DNNQD lại chưa cao. Số doanh nghiệp có quy mô vốn hầu như rất ít. Với các doanh nghiệp kinh doanh công nghiệp thì các DN vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có vốn kinh doanh không quá 5 tỷ đồng và số lao động thường xuyên nhỏ hơn 300 nguời. Với các doanh nghiệp thương mại, doanh nghiệp vừa và nhỏ là các doanh nghiệp có số vốn kinh doanh nhỏ hơn 2 tỷ đồng và số lao động không quá 200 người. Ở nước ta hiện nay số DN có quy mô lớn tập trung chủ yếu là các DN Nhà nước như: Tổng công ty 90, tổng công ty 91… còn lại phần lớn là các DN vừa và nhỏ. Nếu dựa trên tiêu chí đánh giá quy mô thì ta có thể thấy rằng các DNNQD hầu hết là các DN vừa và nhỏ. Chỉ có khoảng 26% tổng số DNNQD có số vốn trên 1 tỷ đồng và có đến hơn 69,5% DNNQD có số vốn nhỏ hơn 500 triệu đồng. Thứ tư, trình độ công nghệ và quản lý của các DN này phần lớn còn rất lạc hậu. Đây không chỉ là đặc điểm riêng của các DNNQD mà là vấn đề bức xúc của các tất cả DN Việt Nam nói chung. Do hạn chế về vốn sản xuất nên trình độ công nghệ của các DNNQD là không cao, chủ yếu vẫn dùng sức nguời. Theo số liệu thống kê thì ở các DNNQD chỉ có khoảng 22% thiết bị để sản xuất là hiện đại, 57% thiết bị ở mức trung bình và còn lại là các thiết bị ở mức lại hậu. Mặc dù các DN xác định được công nghệ của mình là lạc hậu nhưng các DN vẫn phải sản xuất kinh doanh vì không có đủ vốn để đổi mới công nghệ. Đây là một khó khăn chung đối với các DN trong nền kinh tế thị trường. Bên cạnh công nghệ lạc hậu thì trình độ của các cán bộ công nhân viên vẫn còn thấp mặc dù đã được cải thiện. Trình độ cán bộ quản lý trong cơ chế thị trường không chỉ là người có trình độ mà còn đòi hỏi phải có kinh nghiệm thương trường dầy dạn. Nhưng phần lớn các chủ DN tư nhân ở nước ta kiêm luôn chức giám đốc điều hành chứ không có doanh nghiệp nào thuê giám đốc bên ngoài. Các chủ DN chỉ có số ít người là co năng lực chuyên môn và kinh nghiệm kinh doanh thực sự còn lại đa số là thiếu kinh nghiệm quản lý kinh doanh. Thứ năm, sức cạnh tranh trên thị trường: DNNQD đang dần lớn mạnh và khẳng định được vị trí của mình trên thị trường. Tuy nhiên, các yếu tố khách quan như chính sách của Nhà nước, các yếu tố môi trường kinh doanh đã làm ảnh hưởng đến sức cạnh tranh trên thị trường của các DNNQD. Sự không thuận lợi của môi trường kinh doanh làm cho các doanh nghiệp này gặp rất nhiều khó khăn vì không được đầu tư hoặc đầu tư quá ít. Dẫn đến sức cạnh tranh của các DN là nhỏ bé. Tóm lại, đặc điểm quan trọng nhất của DNNQD đó là quy mô vốn thưòng là nhỏ, năng lực tài chính chưa cao vì thế các doanh nghiệp này thường gặp khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn tài trợ. Chính vì thế đứng trên góc độ là nhà Ngân hàng cần có những chính sách hợp lý để DNNQD có thể tiếp cận được nguồn vốn vay một cách thuận lợi hơn. 1.2.1.2. Vai trò của DNNQD trong nền kinh tế thị trường Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng đã đưa ra quyết định chuyển nền kinh tế nước ta từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, DNNQD hình thành và phát triển gắn liền với nền kinh tế thị trường, với thời kỳquá độ lên CNXH ở Việt Nam. Trải qua những thăng trầm của nền kinh tế, các DNNQD ngày càng khẳng định vị trí và vai trò của mình trong nền kinh tế. * Đóng góp của các DNNQD vào ngân sách Nhà nước ngày càng nhiều, từ hơn 6% đầu những năm 2000 tăng lên đến 7.5% năm 2005. Ngoài ra, các DNNQD đã đóng góp phần tăng nguồn thu như thuế môn bài, thuế VAT trong nhập khẩu và các loại phí khác. DNNQD phát triển là nhân tố kích thích và làm sống động đời sống kinh tế đất nước, tạo áp lực cạnh tranh, thúc đẩy các DN Nhà nước đổi mới hoạt động kinh doanh góp phần phá bỏ tính độc quyền của một số công ty nhà nước. * DNNQD khai thác hiệu quả hơn các nguồn lực kinh tế: Thực tế đã chứng minh, nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế nước ta. * Huy động được các nguồn lực tiềm ẩn trong dân cư vào phát triển kinh doanh. Thật vậy, các DNNQD có khả năng tập trung vốn, trí tuệ và các nguồn lực tiềm ẩn trong dân cư vào các ngành kinh tế phát triển hay các ngành nghề đòi hỏi trí tuệ cao như công nghệ thông tin…hay cũng có khả năng lấp đầy khoảng trốngtrong các lĩnh vực sản xuất kinh doanh không cần nhiều vốn mà có mức lợi nhuận thấp mà các nhà đầu tư ít quan tâm tới. * Tạo ra đại đa số các công ăn việc làm cho một lượng lớn lao động bảo đảm đời sống và do đó góp phần đáng kể vào việc ổn định xã hội và tăng trưởng GDP. Vai trò này càng có ý nghĩa to lớn hơn trong điều kiện nước ta khi mà khả năng thu hút lao động của khu vực kinh tế nhà nước còn hạn chế. Việc làm hay một tỷ lệ thất nghiệp cao là một vấn đề nan giải đối với bất kỳ một quốc gia nào. Với dân số trên 80 triệu dân như nước ta hiện nay và hàng năm có thêm khoảng 1,8 triệu người bước vào độ tưổi lao động. Để giải quyết được một số lượng lớn công việc như vậy là một vấn đề lớn, không hề đơn giản. Trong khi đó các DN Nhà nước lại chỉ có thể giúp một phần trong số đó, các DNNQD thực sự là một sự cứu cánh cho số còn lại. Từ việc giảm tỷ lệ thất nghiệp, sự xuất hiện và phát triển của các DNNQD đã góp phần đáng kể vào sự ổn định xã hội. * Góp phần duy trì và phát triển các làng nghề truyền thống, các kinh nghiệm sản xuất kinh doanh, kinh nghiệm quản lý đã tích luỹ qua nhiều thế hệ, tạo lập sự cân đối và phát triển giữa các vùng, góp phần tích cực vào việ chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá nông nghiệp nông thôn. * Góp phần mạnh mẽ vào thúc đẩy sức cạnh tranh của nền kinh tế. Việc các DNNQD phát triển trên nhiều lĩnh vực, ngành nghề đã làm cho thị trường hàng hoá trở nên phong phú, đa dạng và sôi động hơn.Người tiêu dùng có nhiều cơ hội để lựa chon hàng hoá và dịch vụ đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của mình. Mặt khác, DNNQD với ưu thế vầ quy mô cộng thêm sự nhạy bén của thị trường đã thực sự trở thành một đối thủ cạnh tranh trên thị trường của rất nhiều các DN khác, đặc biệt là khu vực kinh tế Nhà nước. Đây thực sự là sự thúc đẩy nền kinh tế phát triển. * Từ loại hình DN nghiệp này đã hình thành nên nột tầng lớp xã hội mới, đó là doanh nhân - những con người rất năng động và tài năng. Doanh nhân trong khu vực kinh tế NQD rất đáng được tôn vinh và họ là những người đã mạnh dạn bỏ vốn ra để kinh doanh trong điều kiện đầy khó khăn, bất trắc như hiện nay. Nhưng trên thực tế thì họ vẫn bị phân biệt đối xử. Tuy nhiên cuộc sống sẽ tự điều chỉnh những ứng xử thực tiễn, hình thành những dư luận xã hội phù hợp với đòi hỏi của sự phát triển. Xã hội sẽ tôn vinh những người làm tròn nhiệm vụ mà xã hội trao cho họ là đầu tư vào sản xuất kinh doanh, giải quyết công ăn việc làm cho người lao động, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới, góp phần đẩy nhanh quá trình hội nhập vào kinh tế quốc tế. 1.2.1.3. Nguồn vốn của DNNQD Trong mỗi doanh nghiệp, vốn bao giờ cũng gồm có: Vốn chủ sở hữu và nợ. Mỗi bộ phận lại được cấu thành bởi nhiều khoản mục khác nhau, tuỳ theo tính chất của chúng. Vốn chủ sở hữu: - Vốn góp ban đầu: Khi doanh nghiệp mới được thành lập bao giờ chủ doanh nghiệp cũng phải có một số vốn ban đầu nhất định do các cổ đông - chủ sở hữu góp. Nguồn hình thành nên bộ phận này cũng khác nhau, tuỳ thuộc vào hình thức sở hữu của doanh nghiệp. - Nguồn vốn từ lợi nhuận không chia: Quy mô số vốn ban đầu của chủ doanh nghiệp là một yếu tố quan trọng. Tuy nhiên, thông thường, số vốn này cần được tăng ._.theo quy mô phát triển. Nguồn vốn tái đầu tư từ lợi nhuận không chia chỉ có thể thực hiện được nếu như doanh nghiệp đã và đang hoạt động hiệu quả và có lãi. Đối với các công ty cổ phần thì việc sử dụng lợi nhuận để tái đầu tư càn phụ thuộc vào tính định hướng hoạt động sản xuất kinh doanh của công ty, chính sách cổ tức và quyền lợi của cổ đông. - Phát hành cổ phiếu: Trong hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có thể tăng vốn chủ sở hữu bằng cách phát hành cổ phiếu mới. Phát hành cổ phiếu mới là một nguồn tài chính dài hạn rất quan trọng đối với các công ty cổ phần. Song phát hành cổ phiếu làm “loãng” quyền sở hữu donh nghiệp. Thêm vào đó, việc paht s hành cổ phiếu muốn tiến hành thuận lợi phải có một thị trường chứng khoán tương đối phát triển. Nợ: Để bổ sung vốn cho quá trình sản xuất kinh doanh, hầu hết các DN cần có thêm vốn vay từ các tổ chức, cá nhân khác. Vì vốn chủ sở hữu không đủ để đáp ứng nhu cầu sản xuất tăng cao. DN có thể sử dụng nợ từ các nguồn: Vay người thân, bạn bè, vay từ những người cho vay nặng lãi… Đó là trong trường hợp doanh nghiệp cần vốn nhưng gặp khó khăn trong việc tiếp cận nguồn vốn chính thức như nguồn vốn Ngân hàng. DNNQD buộc phải tìm đến những nguồn vốn không chính thức này. Tuy nhiên quy mô vốn vay từ các nguồn này thương không lớn, mà nguồn vốn từ những người cho vay nặng lãi thường phải chịu mức lãi suất rất cao. Nguồn vốn tín dụng ngân hàng; tín dụng thương mại và vay thông qua phát hành trái phiếu…Các ngân hàng có thể đáp ứng được nhu cầu vốn cho các DNNQD có thể vài ngày đến vài năm vốn số lượng vốn tuỳ thuộc vào nhu cầu sản xuất kinh doanh của DN. Tuy nhiên, hiện nay các DNNQD ở nước ta vẫn rất khó để tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng. 1.2.2. Hoạt động cho vay trung, dài hạn của NHTM đối với DNNQD 1.2.2.1. Đặc điểm cho vay trung, dài hạn đối với DNNQD Cho vay là một trong rất nhiều dịch vụ của NHTM, chiếm vị trí rất quan trọng trong hoạt động của các NHTM. Hoạt động chính của một NHTM là huy động vốn và sử dụng vốn huy động nhằm thu được lợi nhuận. Việc sử dụng vốn là qúa trình tạo nên các khoản tài sản khác nhau của ngân hàng, trong đó hoạt động cho vay là khoản mục tài sản lớn nhất và cũng quan trọng nhất. Cho vay là quan hệ tín dụng bình đẳng, xuất phát từ lợi ích của doanh nghiệp và ngân hàng. Đây không phải là quan hệ cấp phát, xin – cho mà theo nguyên tắc bên vay phải hoàn trả cả gốc và lãi cho ngân hàng sau một khoảng thời gian nhất định được xác định trong hợp đồng cho vay. Thời gian của hợp đồng có thể là một tháng, một năm hay vài năm là tuỳ nhu cầu vốn của doanh nghệp. Cho vay trung, dài hạn đối với doanh nghiệp là một bộ phận trong hoạt động cho vay của ngân hàng, là hoạt động tài trợ tài vốn cho khách hàng có thời hạn trên 1 năm nhằm bổ sung nhu cầu tài chính trung – dài hạn của doanh nghiệp, thực hiện các dự án phát triển sản xuất kinh doanh. Dựa vào định nghĩa về cho vay trung, dài hạn đối với doanh nghiệp ta có thể thấy cho vay trung, dài hạn đối với DNNQD có những đặc điểm sau: - Mục đích sử dụng vốn: Thông thường các vay này có thời hạn trên 1 năm phần lớn dùng để đầu tư vào tài sản cố định phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp: công cụ lao động, đổi mới dây truyền sản xuất, mua quyền sử dụng đất… và đầu tư vào một phần tài sản lưu động thường xuyên. - Lãi suất: Lãi suất cho vay trung, dài hạn đối với doanh nghiệp thường cao hơn lãi suất cho vay ngắn hạn đối với doanh nghiệp và cao hơn lãi suất cho vay trung, dài hạn đối với cá nhân cùng thời hạn. - Thời hạn vay: thời hạn các khoản vay trung hạn là từ 1 đến 5 năm, các khoản vay dài hạn là trên 5 năm. - Về mức độ rủi ro: Do thời hạn của khoản vay là trung - dài hạn, mà là cho vay các DNNQD nên mức độ rủi ro của các khoản vay này khá cao, cao hơn mức rủi ro khi cho vay ngắn hạn và cao hơn khi cho vay đối với DN Nhà nước. - Về tài sản đảm bảo: Hoạt động tín dụng trung, dài hạn là hoạt động chứa đựng nhiều rủi ro nhất, do đó các khoản vay này luôn yêu cầu phải có tài sản đảm bảo chắc chắn. Tài sản đảm bảo đó phải có giá trị lâu dài và không bị mất giá theo thời gian. Giá trị các tài sản đảm bảo nợ vay phải được xem xét, đánh giá một cách chính xác và giá trị khoản vay phải luôn nhỏ hơn giá trị tài sản đảm bảo. - Nguồn trả nợ của các khoản vay trung, dài hạn: tín dụng trung và dài hạn phần lớn để tài trợ cho bất động sản, công cụ lao động, đổi mới công nghệ của doanh nghiệp nên cần lượng vốn lớn, thời gian đầu tư dài. Do đó những khoản tín dụng trung, dài hạn này có nguồn trả nợ gốc và lãi chủ yếu dựa vào khấu hao của tài sản và lợi nhuận của dự án đầu tư. 1.2.2.2. Tầm quan trọng của vốn vay trung, dài hạn đối với DNNQD Tín dụng Ngân hàng là một trong nguồn vốn quan trọng nhất, không chỉ đối với sự phát triển của bản thân các DN mà còn đối với toàn bộ nền kinh tế nói chung. Đối với một doanh nghiệp, để thực hiện quá trình sản xuất phải có một nguồn vốn đủ để mua sắm trang thiết bị, xây dựng nhà xưởng, cải tiến kỹ thuật, mua công nghệ… hoặc bổ sung vào nhu cầu vốn lưu động, giúp cho nhà sản xuất có thể sản xuất được liên tục và góp phần ổn định, phát triển nền kinh tế. Với sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ, để tồn tại và phát triển, nhu cầu vốn trung và dài hạn ngày càng cao. Đặc biệt là các DNNQD, bởi vì ngay từ khi mới thành lập số vốn tự có của các DN này là rất ít, nó chỉ có thể đáp ứng được một phần nhỏ nhu cầu, còn lại là phải đi vay để hoạt động. Do đó vốn từ các tổ chức tín dụng đã trở thành nguồn cung cấp chính cho các DN. Như vậy, tín dụng ngân hàng đóng một vai trò quan trọng trong nền kinh tế thị trường đối với lĩnh vực sản xuất, lưu thông hàng hoá cũng như lĩnh vực lưu thông tiền tệ, đặc biệt là tín dụng trung và dài hạn đối với các DNNQD. - Cho vay trung, dài hạn đáp ứng nhu cầu vốn lâu dài cho hoạt động của các DNNQD, giúp các DN mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, đổi mới trang công nghệ, nâng cao khả năng cạnh tranh đồng thời tạo điều kiện cho các DNNQD tồn tại và phát triển. - Tín dụng tạo điều kiện cho các DNNQD phát triển theo đúng định hướng của nhà nước. Tín dụng ngân hàng với sự năng động trong huy động và cho vay, tăng hoặc giảm đầu tư bằng lãi xuất linh hoạt theo yêu cầu của chính sách kinh tế sẽ ổn định tiền tệ, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp phát triển đúng hướng. Qua việc nghiên cứu tầm quan trọng của tín dụng trung, dài hạn đối với DNNQD ta thấy cần phải phát triển nhiều hơn nữa hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với các DNNQD tại các NHTM trong thời gian tới. Nhưng phát triển như thế nào thì ta cùng tìm hiểu phần dưới đây. Phát triển cho vay trung, dài hạn đối với DNNQD Phát triển hoạt động cho vay trung, dài hạn của NHTM đối với các DNNQD có thể hiểu là sự gia tăng về khối lượng cho vay của ngân hàng đối với DNNNQD bao gồm sự mở rộng quy mô dư nợ cho vay đối với DNNQD, số lượng khách hàng là DNNQD… Bên cạnh đó, phát triển cho vay trung, dài hạn phải trên cơ sở nâng cao chất lượng của hoạt động cho vay như: thay đổi tinh chất, cơ cấu theo hướng hợp lý của các khoản vay, giảm tỷ lệ nợ quá hạn… Có như vậy thì phát triển hoạt động cho vay mới mang tính bền vững. Tóm lại, phát triển hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với DNNQD là việc gia tăng khối lượng trên cơ sở nâng cao chất lượng các khoản vay. Trong bối cảnh hiện nay nước ta đang hội nhập kinh tế quốc tế, các NHTM Việt Nam đang còn phải đối mặt với sự cạnh tranh của các NHTM nước ngoài tại Việt Nam, mà họ lại có ưu thế vượt trội so với NHTM trong nước. Trước nhưng đối thủ cạnh tranh khổng lồ như vậy, đã buộc các ngân hàng phải tìm kiếm khai thác tối đa đối tượng khách hàng cho mình. Và khối khách hàng là DNNQD trở thành đối tượng thích hợp để các NHTM trong nước mở rộng quan hệ tín dụng trong giai đoạn hiện nay. Mặt khác, nhu cầu vốn để đổi mới công nghệ sản xuất kinh doanh luôn là vấn đề cấp thiết vơi mọi doanh nghiệp. Trong khi việc tiếp cận nguồn vốn chính thức gặp nhiều khó khăn nên nhiều doanh nghiệp đã phải tìm đến những nguồn vốn với lãi suất cao, bị hạn chế về quy mô. Còn thị trường chứng khoán trong nước còn non trẻ, chưa phát triển lại là một trở ngại lớn kìm hãm sự phát triển của các DNNQD, đặc biệt trong việc đầu tư theo chiều rộng, mở rộng sản xuất. 1.2.3. Phân loại cho vay trung, dài hạn đối với DNNQD Cho vay trung, dài hạn nhằm mục đích giúp khách hàng có đủ vốn để đầu tư vào tài sản cố định. Dựa vào mục đích vay, ngân hàng có thể cho khách hàng vay vốn dài hạn để đầu tư mua sắm tài sản cố định như máy móc thiết bị hay cho khách hàng vay vốn dài hạn để đầu tư vào một dự án đầu tư. Về phương thức cho vay có thể phân theo các căn cứ như: Căn cứ vào thời hạn cho vay: - Cho vay trung hạn: là hình thức cho vay có thời hạn từ 1 đến 5 năm, chủ yếu để đầu tư mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới thiết bị, công nghệ, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô và thời gian thu hồi vốn nhanh. - Cho vay dài hạn: là loại cho vay có thời hạn trên 5 năm, chủ yếu để đáp ứng nhu cầu vốn dài hạn phục vụ cho xây dựng các công trình như: nhà ở, nhà máy, xí nghiệp hoặc mua sắm dây truyền sản xuất lớn có thời gian thu hồi vốn lâu. Căn cứ vào mục đích sử dụng vốn vay: - Cho vay tiêu dùng: là loại cho vay để đáp ứng các nhu cầu tiêu dùng, chủ yếu là nhu cầu mua sắm các vật dụng đắt tiền. - Cho vay tài trợ tài sản lưu động và tài sản cố định: loại cho vay này chủ yếu áp dụng đối với các doanh nghiệp có nhu cầu về vốn để hình thành tài sản đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh. Căn cứ vào hình thức cho vay: - Cho vay bằng cách mua trái phiếu: Các ngân hàng có thể mua các trái phiếu trung và dài hạn của doanh nghiệp nhằm tài trợ cho quá trình hình thành tài sản cố định. Kỳ hạn và khả năng chuyển đổi của trái phiếu, lãi suất trái phiếu, tình hình tài chính doanh nghiệp cũng như các kế hoạch tương lai… đều đã được ngân hàng tính toán khi mua trái phiếu. - Cho vay bằng cách tài trợ dự án: Khi khách hàng có kế hoạch mua sắm, xây dựng tài sản cố định… nhằm thực hiện một dự án nào đó, khách hàng có thể xin ngân hàng tài trợ. Ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng phải xây dựng dự án, thể hiện mục đích, kế hoạch đầu tư cũng như quá trình thực hiện dự án. Sau đó ngân hàng sẽ tiến hành thẩm định dự án để quyết định phần vốn cho vay là điều kiện không thể thiếu và xác định khả năng trả nợ của doanh nghiệp. Dự án được xây dựng gồm nhiều mục như: phân tích thị trường, nguồn nhân lực, địa điểm, công nghệ, quy trình sản xuất, phân tích tài chính… trong đó phân tích tài chính là mục tiêu quan tâm hàng đầu của ngân hàng. Sau khi phân tích nhu cầu vốn đầu tư của người vay, ngân hàng sẽ xem xét kỹ lưỡng các nguồn vốn tài trợ như nguồn tự có, chiếm dụng của người cung cấp, vay các tổ chức tín dụng khác… Ngân hàng sẽ phân tích các yếu tố sau khi xem xét nguồn tài trợ: + Quy mô và thời hạn của mỗi nguồn vốn. + Tính khả thi của mỗi nguồn vốn và các điều kiện để dự án tiếp cận được nguồn vốn. 1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG CHO VAY TRUNG, DÀI HẠN ĐỐI VỚI CÁC DNNQD TẠI NHTM 1.3.1. Nhân tố chủ quan Đó là những nhân tố thuộc về phía Ngân hàng như chính sách tín dụng, phương hướng hoạt động của ngân hàng… - Đầu tiên phải xét đến là thị trường - nơi mà ngân hàng hoạt động có ảnh hưởng tới quy mô cho vay của ngân hàng đối với DNNQD. Nếu ngân hàng hoạt động tại một địa điểm có nhiều DNNQD hoạt động thì số lượng cho vay đối với các DN cũng nhiều hơn. Còn ngược lại nếu ngân hàng hoạt động ở những nơi không có các điều kiện thuận lợi để mà các DNNQD phát triển thì quy mô cho vay cũng bị hạn chế hơn. - Vốn cho vay của ngân hàng chủ yếu từ nguồn huy động được từ các tổ chức, cá nhân thông qua nhiều hình thức khác nhau hay vay từ các từ NHNN và các tổ chức tín dụng khác. Khi ngân hàng có nguồn vốn huy động trung, dài hạn; kể cả nguồn ngắn hạn lớn thì ngân hàng cũng sẽ sẵn sàng cho các DNNQD vay trung, dài hạn. Còn nếu năng lực về vốn của ngân hàng bị hạn chế thì ngân hàng chỉ có thể duy trì cho vay đối với các khách hàng truyền thống như các DN Nhà nước và một số DNNQD lớn chứ chưa mở rộng ra nhiều khách hàng DNNQD nhỏ. - Chính sách tín dụng của ngân hàng: Để có thể thực hiện hoạt động cho vay và thu hút khách hàng một cách có hiệu quả thì việc xây dựng một chính sách tín dụng hợp lý là điều rất cần thiết đối với các NHTM. Nếu chính sách tín dụng của ngân hàng mà chú trọng đến việc phát triển hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với DNNQD thì số lượng cho vay trung, dài hạn đối với DNNQD sẽ tăng lên. Còn nếu chính sách tín dụng chú trọng đến việc phát triển hoạt động bán lẻ thì quy mô của hoạt động bán lẻ tăng lên. - Thông tin tín dụng: trong môi trường cạnh tranh giữa các ngân hàng như hiện nay, muốn thu hút được nhiều khách hàng thì các NHTM cần phải nắm bắt được nhiều thông tin chính xác và kịp thời về đối tượng khách hàng mà mình muốn tìm kiếm. Ngày nay, công nghệ thông tin đã trở thành vấn đề thiết yếu, thông qua hệ thống thông tin ngân hàng sẽ tiến hành phân tích, xử lý thông tin một cách đầy đủ để đưa ra những quyết định đúng đắn trong việc lựa chọn khách hàng cho vay, mở rộng khả năng tiếp cận vốn của DN. Để có thể phát triển được cho vay đối với các DNNQD thì ngân hàng cần phải nắm rõ các thông tin liên quan đến DNNQD, từ đó đưa ra những quyết định cho vay hay không. Thông tin càng chính xác thì càng tốt. - Trình độ của cán bộ Ngân hàng: trình độ của cán bộ ngân hàng không chỉ ảnh hưởng đến hoạt động cho vay mà ảnh hưởng đến tất cả các hoạt động trong ngân hàng. Cán bộ tín dụng mà có trình độ, năng lực, trách nhiệm cũng là một nhân tố quyết định đến chất lượng của khoản cho vay đối với DNNQD. Bởi vì lúc đó ngân hàng có thể dự đoán được rủi ro có thể xảy ra, nhanh chóng nắm bắt được sự biến động của thị trường, có sự tư vấn phù hợp cho khách hàng nên đầu tư vào đâu để đem lại kết quả tốt. Đồng thời tạo được niềm tin của khách hàng đối với ngân hàng, tăng uy tín và khả năng phát triển hoạt động tín dụng của ngân hàng. Khi khách hàng đến vay vốn tại ngân hàng thì thái độ cởi mở, nhiệt tình của cán bộ cũng ấn tượng đối với khách hàng, có thể khách hàng không vay ngay nhưng họ sẽ quay lại khi có nhu cầu. 1.3.2. Nhân tố khách quan Nhân tố khách quan là những nhân tố thuộc về bản thân khách hàng là các DNNQD. Về phía khách hàng thì có các nhân tố ảnh hưởng như: - Tình hình tài chính của doanh nghiệp: DNNQD có quy mô càng lớn, năng lực tài chính càng vững mạnh thì khả năng đáp ứng các điều kiện cho vay của ngân hàng đối với DNNQD càng lớn. Nếu DNNQD sử dụng vốn kinh doanh vượt quá khả năng về vốn tự có thì hiện tượng chiếm dụng vốn xẽ sảy ra, dễ nảy sinh ý định lừa đảo, chiếm dụng vốn. Do đó khả năng trả nợ cho ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng. - Năng lực quản lý kinh doanh cũng như đạo đức của chủ DNNQD có ảnh hưởng đến chất lượng của khoản vay. Nếu người quản lý có trình độ, năng lực quản lý tốt, và có trách nhiệm thì tính khả thi của dự án cũng cao hơn, khả năng hoàn trả nợ của khách hàng cao hơn. - Nhu cầu vốn đầu tư của DNNQD: tất cả các DN không phân biệt là thuộc loại hình DN nào thì đều có nhu cầu vốn để sản xuất kinh doanh. Đặc biệt là vốn trung, dài hạn từ ngân hàng để đổi mới công nghệ, trang thiết bị. Đối với DNNQD thì vấn đề đó đặc biệt quan trọng, vì các DNNN vẫn có một phần vốn do ngân sách NN cung cấp, còn các DNNQD thì muốn hoạt động kinh doanh được, vốn hoàn toàn là vốn tự có và vốn vay. Và ngân hàng là nơi doanh nghiệp rất muốn vay. Điều quan trọng là DNNQD phải biết cách để tiếp cận được nguồn đó. Nghĩa là phải đưa ra các phương án kinh doanh có tính khả thi cao, tạo niềm tin cho ngân hàng đối với các DNNQD. Các nhân tố khác: Ngoài những nhân tố về phía khách hàng và ngân hàng thì còn có những nhân tố khác cũng ảnh hưởng đến hoạt động cho vay trung, dài hạn của NHM đối với các DNNQD, như các nhân tố về: môi trường kinh doanh, pháp luật, chính trị - xã hội,… - Môi trường kinh doanh: môi trường kinh tế có ảnh hưởng rất lớn đến việc cho vay của ngân hàng. Môi trường kinh tế mà thuận lợi, lạm phát ở mức thấp, không có biến động kinh tế lớn là một môi trường thuận lợi đối với hoạt động cho vay của ngân hàng. Nếu Nhà nước khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân thì cũng là một thuận lợi để các DNNQD hoạt động tốt. - Môi trường pháp luật: mọi thành phần kinh tế đều bình đẳng trong nền kinh tế thị trường nhưng phải trong khuôn khổ pháp luật. Hoạt động cho vay cũng không ngoại lệ, nếu các quy định của pháp luật không rõ ràng thì sẽ gây khó khăn cho ngân hàng khi cho vay và các DNNQD cũng sẽ không yên tâm khi vay vốn tại ngân hàng. - Môi trường chính trị - xã hội: một đất nước mà có tình hình an ninh trật tự, an toàn xã hội … cũng ảnh hưởng trực tiếp đến ngân hàng và các hoạt động cho vay của ngân hàng, đặc biệt là cho vay trung, dài hạn đối với các DNNQD. Còn một xã hội có tình hình an ninh không được ổn định, hay có bạo loạn thì các DNNQD sẽ không phát triển theo đúng nghĩa. Chương 2. Thực trạng hoạt động cho vay trung, dài hạn đối với DNNQD tại Chi nhánh Techcombank Hoàn Kiếm KHÁI QUÁT VỀ CHI NHÁNH TECHCOMBANK HOÀN KIẾM Quá trình hình thành và phát triển Quá trình hình thành và lịch sử phát triển Chi nhánh Techcombank Hoàn Kiếm là một trong 19 Chi nhánh cấp 1 thuộc hệ thống Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam - Techcombank, được thành lập vào năm 2002, có trụ sở chính tại số 72 - Trần Hưng Đạo - quận Hoàn Kiếm – Hà Nội. Tuy mới hoạt động được hơn 5 năm nhưng Techcombank Hoàn kiếm đã trở thành một trong những Chi nhánh có đóng góp quan trọng nhất của hệ thống, chiếm 10,2% tổng tài sản của Techcombank. Với định hướng “ổn định-an toàn-hiệu quả-phát triển”, với việc nâng cấp phần mềm corebanking GLOBUS lên phiên bản mới nhất T24 R5 hỗ trợ giao dịch 24/24, các hoạt động tiền tệ của chi nhánh đã tăng cả về quy mô và tốc độ. Từ tổng nguồn vốn huy động hơn 890,6 tỷ đồng vào cuối năm 2005, sau 2 năm đã tăng lên 1476,0 tỷ đồng vào cuối năm 2007. Tổng dư nợ từ 481,5 tỷ đồng tăng lên 628,8 tỷ đồng. 2.1.1.2. Chức năng, nhiệm vụ của chi nhánh Techcombank Hoàn kiếm ngày càng thực hiện đa dạng hóa các nghiệp vụ của mình. Các hoạt động chính của chi nhánh là: + Mở tài khoản tiền gửi, nhận tiền tiết kiệm không kỳ hạn, có kỳ hạn, tiền gửi thanh toán bằng VNĐ, ngoại tệ đối với các đơn vị, tổ chức kinh tế, cá nhân trong và ngoài nước. Trên cơ sở số vốn huy động được, Chi nhánh thực hiện cho vay ngắn hạn, trung và dài hạn đối với khách hàng thuộc mọi thành phần kinh tế và mọi tầng lớp dân cư. + Thực hiện các nghiệp vụ hùn vốn, góp vốn, liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế. Cung cấp các dịch vụ tư vấn đầu tư phát triển kinh doanh. Thực hiện nghiệp vụ cho vay thế chấp động sản , bất động sản và cho vay tiêu dùng đối với mọi đối tượng dân cư. + Thanh toán ngoài hệ thống và thanh toán điện tử chuyển tiền qua mạng vi tính trong hệ thống với thời gian nhanh nhất. Thực hiện nghiệp vụ kinh doanh, mua bán ngoại tệ, dịch vụ thanh toán quốc tế và chi trả kiều hối cho mọi đối tượng. Techcombank Hoàn Kiếm cũng như các Chi nhánh khác có trách nhiệm : + Chủ động tiếp cận các khách hàng trong danh sách, các khách hàng mục tiêu. Hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn, thẩm định và lập tờ trình cấp hạn mức tín dụng ngắn hạn. Cho vay, theo dõi, quản lý việc sử dụng vốn vay theo quy định hiện hành của Pháp luật và của Techcombank. + Quán triệt, triển khai thực hiện nghiêm túc các nội dung hướng dẫn này. Trong quá trình phát sinh vướng mắc thì Giám đốc Chi nhánh sẽ gửi bản báo cáo và đề xuất biện pháp trình Tổng giám đốc xem xét kịp thời giải quyết. Cơ cấu tổ chức bộ máy của Chi nhánh Sơ đồ tổ chức bộ máy của Chi nhánh Giám đốc CN Phó giám đốc Phó giám đốc Phòng dịch vụ NH cá nhân Phòng dịch vụ NH DN Ban thẩm định và quản lý rủi ro TD Ban kiểm soát và hỗ trợ kinh doanh Các điểm giao dịch trực thuộc CN Phòng kế toán giao dịch và kho quỹ Điểm GD Bát Đàn Điểm GD Lý Thường Kiệt Điểm GD Cửa Nam Tổng số nhân viên của Chi nhánh Techcombank Hoàn Kiếm hiện có là 78 cán bộ công nhân viên, trong đó 10,4% có trình độ trên đại học, 65,2% có trình độ đại học, còn lại có trình độ cao đẳng hay trung học chuyên ngành Ngân hàng. Giám đốc Chi nhánh là người điều hành và chịu trách nhiệm về mọi hoạt động của toàn chi nhánh. Giám đốc được sự giúp đỡ của 2 phó giám đốc, trong đó có một phó giám đốc phụ trách hoạt động thanh toán, một phó giám đốc phụ trách hoạt động tín dụng, đồng thời là phó giám đốc thường trực. Đây cũng là người được giám đốc ủy quyền điều hành khi giám đốc đi vắng. Chi nhánh gồm 5 phòng ban và 3 điểm giao dịch trực thuộc là Techcombank Cửa Nam, Techcombank Lý Thường Kiệt, Techcombank Bát Đàn. Các phòng nghiệp vụ thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ quy định. Theo đó, các trưởng phòng phải chịu trách nhiệm trước giám đốc về việc triển khai thực hiện nhiệm vụ được giao. Dưới đây là nhiệm vụ và chức năng chủ yếu của các phòng nghiệp vụ. Kết quả hoạt động kinh doanh chủ yếu trong thời gian qua Một số sản phẩm chính của Chi nhánh Tín dụng bán lẻ phục vụ khách hàng cá nhân: Sản phẩm tín dụng bán lẻ để phục vụ khách hàng cá nhân của Chi nhánh Techcombank Hoàn Kiếm, nhằm đáp ứng nhu cầu mua nhà ở, du học nước ngoài, mua ô tô, cho vay hộ kinh doanh cá thể…. Thông qua các sản phẩm tín dụng bán lẻ, khách hàng được đáp ứng các nhu cầu về vốn để thực hiện các hoạt động của mình. Trình tự giao dịch: Khách hàng đề xuất nhu cầu về vốn, ngân hàng tiến hành thẩm định và xét duỵêt cho vay. Nếu ngân hàng đồng ý cho vay thì hai bên sẽ ký hợp đồng tín dụng, tiến hành giải ngân và kiểm soát sau cho vay. Bên cạnh đó khách hàng cũng phải đáp ứng một số yêu cầu từ phía ngân hàng như: phải có tài sản đảm bảo và chứng minh tính hợp pháp, hợp lệ của tài sản đảm bảo. Chứng minh khả năng tài chính của cá nhân và năng lực hành vi dân sự. Tín dụng doanh nghiệp: Các sản phẩm tín dụng doanh nghiệp bao gồm: Tài trợ vốn lưu động, cho vay đầu tư trung và dài hạn (cho vay theo nhóm hoặc theo dự án). Chi nhánh Techcombank Hoàn Kiếm cung cấp các sản phẩm này nhằm đáp ứng nhu cầu vốn của khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng đầu tư vào các tài sản lưu động, tài sản cố định, … Quy trình cho vay vốn như sau: Khách hàng đề xuất vay vốn với chuyên viên khách hàng tại chi nhánh. Ngân hàng sẽ yêu cầu khách hàng cung cấp đầy đủ các loại giấy tờ cần thiết, các thông tin liên quan đến khách hàng. Sau đó hai bên cùng ký hợp đồng tín dụng, hợp đồng thế châp hoặc cầm cố tài sản. Bên cạnh sản phẩm tín dụng, ngân hàng còn cung cấp các sản phẩm dịch vụ đi kèm: bảo lãnh, thanh toán quốc tế… Tín dụng bán lẻ phục vụ khách hàng doanh nghiệp: Sản phẩm tín dụng bán lẻ phục vụ khách hàng doanh nghiệp của Chi nhánh gồm các sản phẩm: Dịch vụ trả lương cho ngưòi lao động, thu chi tiền mặt tại chổ, cho vay cổ phần hoá… Nhờ có các sản phẩm này đã giúp các doanh nghiệp giảm đi một số nghiệp vụ không tạo ra lợi nhuận, tiết kiệm thời gian để nâng cao năng suất lao động, giảm chi phí, rủi ro tiền mặt, hổ trợ thực hiện thành công các chương trình cổ phần hoá. Quy trình giao dịch: Khách hàng đăng ký sử dụng sản phẩm của Chi nhánh tuỳ theo yêu cầu của mỗi doanh nghiệp. Ngân hàng sẽ tiếp nhận hồ sơ và hướng dẫn cho doanh nghiệp thực hiện. Dịch vụ thẻ F@STACCESS: Chi nhánh Techcombank Hoàn Kiếm cung cấp thẻ cho khác hàng nhằm giúp cho khách hàng có được phương tiện thanh toán không cần dùng tiền mặt rất an toàn, hiện đại, và thuận tiện. Có thể sử dụng 24/7. Quy trình sử dụng thẻ: Khách hàng đăng ký phát hành thẻ, Chi nhánh thực hiện phát hành thẻ cho khách hàng. Sau đó khách hàng có thể kích hoạt và sử dụng thẻ. Bảo lãnh: Chi nhánh Techcombank Hoàn Kiếm thực hiện các dịch vụ bảo lãnh cho khách hàng như: Bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh vay vốn. Đó là việc ngân hàng bảo lãnh cho khách hàng vay vốn từ một tổ chức tài chính khác, hoặc là cam kết thanh toán cho người bán trong trường hợp người mua không thanh toán hoặc không thanh toán đúng hạn. 2.1.3.2. Một số nét về kết quả hoạt động của Chi nhánh trong thời gian qua Hoạt động huy động vốn: Bất kỳ ngân hàng nào ra đời cũng có hai hoạt động chính là đi vay và cho vay. Trong đó nghiệp vụ huy động vốn đóng vai trò quan trọng để duy trì hoạt động kinh doanh thường nhật và đảm bảo cho các NHTM nói chung và Ngân hàng TMCP Kỹ thương Việt Nam – Chi nhánh Hoàn Kiếm nói riêng có khả năng phát triển bền vững và ngày càng lớn mạnh. Hiểu rõ tầm quan trọng này, Chi nhánh Techcombank Hoàn Kiếm đã tận dụng được ưu thế về địa bàn và mạng lưới tiết kiệm tăng số dư tiền gửi của dân cư một cách ổn định. Chi nhánh Hoàn Kiếm là một trong những chi nhánh có khả năng huy động vốn tốt nhất trong hệ thống Techcombank. Trong những năm vừa qua, Techcombank Hoàn Kiếm luôn chú trọng đến công tác huy động vốn và đã đạt được những kết quả khả quan. Nhân dân và các tổ chức, đơn vị tin tưởng gửi tiền vào chi nhánh với khối lượng lớn, số dư tiền gửi tăng đều đặn, vững chắc. Cụ thể là: tổng nguồn vốn huy động qua 3 năm 2005, 2006, 2007 lần lượt là 890,59 tỷ đồng; 1233,9 tỷ đồng; 1467,0 tỷ đồng. Với tốc độ tăng là: 2006 so với 2005 là 38,6% (343,345 tỷ); năm 2007 so với 2006 là 20,88% (233,04 tỷ). Riêng năm 2006 số lượng vốn huy động được của chi nhánh tăng cao hơn nhiều so với dự báo từ đầu năm, tăng 343,345 tỷ đồng so với 31/12/2005; năm 2007 tuy số vốn tăng không nhiều so với năm 2006 nhưng số vốn huy động được cũng khá cao. Bảng 2.1. Tình hình huy động vốn tại Techcombank Hoàn Kiếm (Đơn vị: Tỷ đồng) Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Số dư % Số dư % Số dư % Tổng NV huy động 890,6 100 1233,9 100 1467,0 100 Theo TPKT - Dân cư 633,2 71,1 864,4 70,1 1005,2 68,6 - Tổ chức KT 257,4 28,9 368,5 29,9 461,18 31,4 Theo kỳ hạn - Có kỳ hạn 587,8 66 771,2 62,5 978,7 66,7 - Không kỳ hạn 302,8 34 462,7 37,5 489,3 33,3 Theo thời gian - Ngắn hạn 730,3 82 1024,1 83 1208,9 82,4 - Dài hạn 160,3 18 209,8 17 258,1 17,6 Theo đơn vị tiền tệ - VNĐ 554,o 62,8 823,0 66,7 916,3 62,5 - Ngoại tệ quy đổi 336,6 37,2 410,9 33,3 553,7 37,5 (Nguồn: Phòng Kiểm soát sau của Chi nhánh giai đoạn 2005 -2007). Tính đến thời điểm 31/12/2007, số vốn chi nhánh huy động được chiếm 15,4% so với tổng nguồn vốn huy động của toàn hệ thống. Có thể nói tốc độ tăng trưởng nguồn vốn của Techcombank Hoàn kiếm khá cao. Có thể lý giải một số nguyên nhân chủ yếu sau đây. + Nguyên nhân khách quan: Thu nhập của người dân ngày càng cải thiện. Việc Chính phủ ra quyết định tăng mức lương cơ bản lên 540.000/tháng trong năm 2007 cũng phần nào tăng giúp nhân dân có điều kiện tích lũy nguồn tiết kiệm bằng tiền lớn hơn. Thực tế này không chỉ thấy ở qua kênh tiền gửi ở Techcombank Hoàn Kiếm cũng như toàn hệ thống ngân hàng nói chung mà còn thấy ở một lượng vốn không nhỏ của người dân đầu tư vào chứng khoán, mua cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hóa, … + Nguyên nhân chủ quan: Để có được kết quả như trên, Chi nhánh đã luôn chú trọng việc mở rộng các điểm giao dịch, bổ sung thêm trang thiết bị máy móc đảm bảo phục vụ khách hàng kịp thời. Năm 2006, chi nhánh đã mở thêm một điểm giao dịch trực thuộc là Techcombank Bát Đàn. Không chỉ vậy, từng cán bộ tại các điểm giao dịch luôn chú ý đến phong cách giao dịch đối với khách hàng. Hình thức huy động vốn cũng rất phong phú. Các loại tiền gửi, kỳ phiếu bằng ngoại tệ hay nội tệ với loại hình đa dạng như tiền gửi bậc thang, tiền gửi lãi suất lũy tiến, tiền gửi ngắn hạn,… với các hình thức trả lãi rất linh hoạt gồm trả lãi hàng tháng, theo quý,… tạo sự thuận tiện cho việc lựa chọn khách hàng, nhất là khách hàng chưa dự tính chính xác được thời điểm phải sử dụng tiền trong tương lai gần. Hoạt động tín dụng: Trên cơ sở nguồn vốn ổn định và liên tục phát triển, Chi nhánh đã mở rộng hoạt động tín dụng, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trên địa bàn khu vực nói riêng và nền kinh tế nói chung. Trong điều kiện tình hình kinh tế nước ta có nhiều biến đổi, lãi suất đầu vào biến động theo xu thế ngày càng tăng lên, bên cạnh đó sức cạnh tranh của các NHTM khác trên địa bàn ngày càng tăng mạnh mẽ hơn, nên hoạt động tín dụng tai Chi nhánh đã gặp rất nhiều khó khăn, thách thức. Nhưng với sự nỗ lực tìm kiếm thị trường và áp dụng nhiều hình hình thức đầu tư mới cho các doanh nghiệp phát triển sản xuất kinh doanh, đa dạng hóa hoạt động tín dụng của Chi nhánh và đã đạt được những kết quả khả quan. Cụ thể: mức dư nợ tín dụng của Techcombank Hoàn Kiếm qua các năm như: Năm 2005 dư nợ tín dụng ở mức là 481,5 tỷ đồng. Năm 2006 là 540,8tỷ đồng, tăng 12,3% (tương đương với 59,387 tỷ) so với năm 2005; năm 2007 là 628,89 tỷ đồng, tăng 14% (tương đương với 88,05 tỷ đồng). Bảng 2.2. Cơ cấu tín dụng tại Techcombank Hoàn Kiếm (Đơn vị:tỷ đồng) Năm Chỉ tiêu 2005 2006 2007 % % % Tổng dư nợ 481,5 100 540,8 100 628,8 100 Theo thời hạn - Ngắn hạn 366,4 76,1 377,0 69,7 439,3 69,9 - Trung và dài hạn 115,1 23,9 163,9 30,3 189,5 30,1 Theo đơn vị tiền tệ - VNĐ 323,5 67,2 272,8 50,4 335,6 54,7 - Ngoại tệ quy đổi 158,0 32,8 268,1 49,6 294,4 45,3 (Nguồn: Báo cáo tín dụng của Chi nhánh giai đoạn 2005 - 2007) + Về cơ cấu nợ: Dư nợ tín dụng của Chi nhánh tập trung vào cho vay ngắn hạn là chủ yếu. Theo bảng 2.2 ta thấy dư nợ ngắn hạn năm 2005 là 366,4 tỷ đồng chiếm 76,1%; năm 2006 là 377,0 tỷ đồng chiếm 69,7%; năm 2007 là 439,4 tỷ đồng, chiếm 69,9%. Mặc dù tỷ trọng nợ có giảm nhưng số tuyệt đối qua các năm vẫn tăng. Nguyên nhân chủ yếu là do các doanh nghiệp vẫn có nhu cầu đầu tư nhiều vào tài sản lưu động hơn là đầu tư vào để mở rộng quy mô sản xuất, mua máy móc thiết bị. Mặt khác, trong cơ cấu nguồn vốn huy động của Chi nhánh tỷ trọng nợ ngắn hạn chiếm tỷ trọng cao hơn đã là một yếu tố bất lợi đối với việc cho vay trung và dài hạn. Tuy nhiên, cho vay ngắn hạn cao lại có độ rủi ro thấp hơn so với cho vay trung và dài hạn, kèm theo đó lãi suất cho vay thấp hơn. Do vậy, nếu tập trung vào cho vay ngắn hạn thì sẽ ảnh hưởng không tốt đến lợi nhuận của ngân hàng. Đối tượng cho vay chủ của Techcombank Hoàn Kiếm là các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp vừa và nhỏ (chiếm khoảng 60% dư nợ tín dụng doa._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7591.doc
Tài liệu liên quan