Phát triển hoạt động tư vấn cổ phần hoá tại Công ty chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank)

LỜI MỞ ĐẦU Nước ta đang trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới và khu vực nên việc thay đổi cách thức hoạt động là hết sức cần thiết. Vấn đề đặt ra là cần phải thay đổi thế nào sao cho phù hợp, sao cho khi hội nhập với nền kinh tế thế giới thì các DN của ta có thể đứng vững trong môi trường cạnh tranh khốc liệt này. Những năm gần đây Đảng và Nhà nước ta đã nhận thấy ưu điểm của mô hình công ty cổ phần, do vậy đã chỉ đạo triển khai thực hiện một cách vững chắc chủ trương cổ phần hoá D

doc77 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1157 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển hoạt động tư vấn cổ phần hoá tại Công ty chứng khoán Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
NNN góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của các DNNN. Song trên thực tế tiến trình CPH DNNN diễn ra chậm chạp, cổ phần hoá mang tính khép kín nội bộ do nhiều nguyên nhân mà nguyên nhân chủ yếu là do các DN còn mơ hồ về cổ phần hoá, gặp khó khăn trong quy trình, thủ tục khi tiến hành CPH. Chính vì điều này mà các Công ty chứng khoán bên cạnh các nghiệp vụ môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành… đã triển khai dịch vụ tư vấn cổ phần hoá. Với trình độ chuyên môn cao, mang tính chuyên nghiệp các CTCK sẽ giúp DN giải quyết các khó khăn, vướng mắc. Tuy nhiên, hoạt động tư vấn cổ phần hoá là một hoạt động tương đối mới và phức tạp nên đòi hỏi phải đi sâu tìm hiểu và phát triển hơn nữa. Nhận thấy được tầm quan trọng và tính cấp thiết của vấn đề phát triển hoạt động tư vấn cổ phần hoá, sau một thời gian thực tập ở Công ty Chứng khoán Ngân hàng Công thương em đã chọn đề tài: “Phát triển hoạt động tư vấn cổ phần hoá tại công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương”. NỘI DUNG CHƯƠNG 1 NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN CỔ PHẦN HOÁ CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.1. TỔNG QUAN VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN 1.1.1. Khái niện về công ty chứng khoán Thị trường chứng khoán theo quan niệm hiện đại, thì đó là nơi diễn ra các giao dịch mua bán, trao đổi các loại chứng khoán (GTrình TTCK, ĐHKTQD trang 19). Còn hiểu theo nghĩa rộng, thì đó là nơi tập trung và phân phối các nguồn tiết kiệm để phân phối lại cho những ai muốn sử dụng các nguồn tiết kiệm đó. Chính vì vậy thị trường chứng khoán có vai trò và chức năng đặc biệt quan trọng, nó huy động vốn đầu tư cho nền kinh tế; cung cấp môi trường đầu tư cho công chúng; tạo tính thanh khoản cho các chứng khoán và thông qua đó đánh giá hoạt động của các doanh nghiệp và tạo môi trường giúp Chính phủ thực hiện các chính sách kinh tế vĩ mô. Để hình thành và phát triển một thị trường chứng khoán hoàn thiện và hiệu quả thì phải tạo ra và phát triển các chủ thể tham gia thị trường bao gồm các nhà phát hành, các nhà đầu tư và các tổ chức có liên quan đến chứng khoán trong đó có các công ty chứng khoán. Mục tiêu của việc hình thành thị trường chứng khoán là tạo nên kênh huy động vốn trung và dài hạn cho nền kinh tế và tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. Thị trường chứng khoán không giống như các thị trường hàng hoá thông thường khác vì hàng hoá của thị trường là các chứng khoán - một loại hàng hoá đặc biệt. Với loại hàng hoá này người mua người bán không trực tiếp có thể mua bán do chứng khoán là loại hàng hoá chỉ có giá trị chứ không có giá trị sử dụng nên không thể đánh giá cũng như nhận xét được loại hàng hoá này có thực sự là tốt hay xấu. Do vậy công ty chứng khoán ra đời làm trung gian giữa người mua và người bán chứng khoán bởi vì chỉ có các công ty chứng khoán với đội ngũ nhân viên có đủ năng lực trình độ, có khả năng phân tích sẽ đứng ra kết nối giữa người mua và người bán. Để thúc đẩy thị trường chứng khoán hoạt động một cách có hiệu quả, trật tự và công bằng thì không thể thiếu sự có mặt của công ty chứng khoán. Theo Giáo trình Thị trường chứng khoán, ĐHKTQD Công ty chứng khoán là một tổ chức tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán (GTrình TTCK, ĐHKTQD trang 120). Tại Việt Nam theo quyết định số 04/1998/QĐ – UBCK ngày 13 tháng 10 năm 1998 của Uỷ ban chứng khoán Nhà nước,CTCK là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn thành lập hợp pháp tại Việt Nam, công ty có vốn đầu tư nước ngoài, chi nhánh công ty chứng khoán nước ngoài, được UBCKNN cấp giấy phép thực hiện một số loại hình kinh doanh chứng khoán: môi giới chứng khoán, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư chứng khoán. Dựa trên khái niệm trên có thể thấy đặc điểm của công ty chứng khoán như sau: -Là một tổ chức tài chính, công ty chứng khoán hoạt động trong lĩnh vực tài chính. - Là tổ chức trung gian các hoạt động của công ty chứng khoán thường là theo nguyên tắc trung gian giữa một bên là công ty phát hành và một bên là nhà đầu tư. Công ty chứng khoán thực hiện một hay nhiều nghiệp vụ trên thị trường chứng khoán, các nghiệp vụ này có thể là bảo lãnh phát hành, tự doanh, môi giới, tư vấn đầu tư chứng khoán. Để được cấp giấy phép thành lập, các tổ chức phải đáp ứng các điều kiện: Điều kiện về vốn: CTCK phải có mức vốn điều lệ tối thiểu bằng mức vốn pháp định. Vốn pháp định thường được quy định cụ thể cho từng loại hình hoạt động. Tại Việt Nam, theo NĐ14/2007 quy định mức vốn cho từng loại hình kinh doanh như sau: - Môi giới: 25 tỷ đồng - Tự doanh: 100 tỷ đồng - Bảo lãnh phát hành: 165 tỷ đồng - Tư vấn đầu tư chứng khoán: 10 tỷ đồng Trường hợp CTCK xin cấp giấy phép cho từng loại hình kinh doanh thì vốn pháp định là tổng số vốn của từng loại hình riêng lẻ. Điều kiện về nhân sự: Những người quản lý hay nhân viên giao dịch của công ty phải đáp ứng đủ các yêu cầu về kiến thức, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, cũng như mức độ tín nhiệm, tính trung thực. Hầu hết các nước đều yêu cầu nhân viên của CTCK phải có giấy phép hành nghề. Những người giữ chức năng quản lý còn phải đòi hỏi có giấy phép đại diện. Điều kiện về cơ sở vật chất: Các tổ chức, các cá nhân sáng lập CTCK phải đảm bảo yêu cầu cơ sở vật chất tối thiểu cho CTCK. Tại Việt Nam,theo Luật chứng khoán mới ban hành quy định các yêu cầu về vốn pháp định như trên, các CTCK muốn thành lập phải đáp ứng các điều kiện sau đây: Có phương án kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và phát triển ngành chứng khoán. Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho việc kinh doanh chứng khoán. Giám đốc (TGĐ), các nhân viên kinh doanh (không kể nhân viên kế toán, văn thư hành chính, thủ quỹ) của CTCK phải có giấy phép hành nghề do UBCK Nhà nước cấp. 1.1.2. Phân loại Công ty chứng khoán Dựa vào các tiêu thức khác nhau, các mục đích nghiên cứu khác nhau ta có thể phân chia CTCK thành các loại như sau: 1.1.2.1. Theo hình thức kinh doanh Có quan điểm phân chia CTCK thành các loại sau: - Công ty môi giới chứng khoán: Loại công ty này còn được gọi là công ty thành viên vì nó là thành viên của Sở Giao dịch chứng khoán. Công việc kinh doanh chủ yếu của công ty môi giới là mua và bán chứng khoán cho khách hàng của họ trên Sở giao dịch chứng khoán mà công ty đó là thành viên. - Công ty bảo lãnh phát hành chứng khoán: Là CTCK có lĩnh vực hoạt động chủ yếu là thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh để hưởng phí hoặc chênh lệch giá. - Công ty kinh doanh chứng khoán: Là CTCK chủ yếu thực hiện nghiệp vụ tự doanh, có nghĩa là bỏ vốn và tự chịu trách nhiệm về hậu quả kinh doanh. - Công ty trái phiếu: Là CTCK chuyên mua bán các loại trái phiếu. - Công ty chứng khoán không tập trung: Là các CTCK hoạt động chủ yếu trên thị trường OTC và họ đóng vai trò là các nhà tạo thị trường. 1.1.2.2. Theo hình thức tổ chức hoạt động của công ty chứng khoán Theo cách phân chia này thì hiện nay CTCK có các loại hình đó là công ty cổ phần, công ty TNHH, công ty hợp danh. Công ty cổ phần: Công ty cổ phần là một pháp nhân độc lập, với các chủ sở hữu là các cổ đông. Đại hội cổ đông có quyền bầu hội đồng quản trị. Hội đồng này sẽ định ra các chính sách của công ty và chỉ định giám đốc cùng các chức vụ quản lý khác để điều hành công ty theo các sách lược kinh doanh đã đề ra. Giấy chứng nhận cổ phiếu không thể hiện một món nợ của công ty, mà thể hiện quyền lợi của người sở hữu nó đối với tài sản của công ty. Theo loại hình công ty này thì có các công ty như: Công ty cổ phần chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh; Công ty cổ phần chứng khoán Bảo Việt; Công ty cổ phần chứng khoán Sài Gòn; Công ty cổ phần chứng khoán Đệ Nhất... Công ty Trách nhiệm hữu hạn: Đây là công ty đòi hỏi trách nhiệm của những thành viên giới hạn trong số vốn mà họ đã góp. Vì thế điều này gây tâm lý nhẹ nhàng hơn đối với người đầu tư. Công ty TNHH có hai loại hình chính là công ty TNHH một thành viên và công ty TNHH nhiều thành viên. Tuỳ vào lượng vốn góp của các bên mà xác định chức Chủ tịch hội động quản trị. Theo loại hình công ty này thì có các công ty như: Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Công Thương Việt Nam; Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Ngoại Thương Việt Nam; Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn Việt Nam; Công ty TNHH chứng khoán Ngân hàng Á Châu ACB, Công ty TNHH Chứng khoán Thăng Long … Công ty hợp danh: Là loại hình công ty có từ hai thành viên góp vốn tạo nên. Tuỳ vào số vốn góp của các bên tham gia mà xác định thành viên ban giám đốc. Thành viên tham gia vào việc điều hành công ty được gọi là thành viên hợp danh. Các thành viên phải chịu trách nhiệm vô hạn, tức là phải chịu trách nhiệm với những khoản nợ của công ty hợp danh bằng toàn bộ tài sản của mình. Ngược lại, các thành viên không tham gia điều hành công ty được gọi là thành viên góp vốn, họ chỉ chịu trách nhiệm với những khoản nợ của công ty giới hạn trong số vốn góp của họ. Theo loại hình công ty này thì hiện nay ở Việt Nam chưa có công ty chứng khoán nào. 1.1.3. Các hoạt động cơ bản của Công ty chứng khoán Dựa trên nguyên tắc hoạt động của Thị trường chứng khoán, CTCK hoạt động theo hai nguyên tắc cơ bản là nhóm nguyên tắc mang tính đạo đức và nhóm nguyên tắc mang tính tài chính. Những nguyên tắc này đảm bảo cho vai trò hoạt động của CTCK, phát huy những chức năng của CTCK trên Thị trường chứng khoán. Vai trò của CTCK trước hết thể hiện ở các hoạt động của CTCK. 1.1.3.1. Các hoạt động chính Công ty chứng khoán có rất nhiều hoạt động, tuy nhiên về cơ bản có một số hoạt động sau: Hoạt động môi giới chứng khoán: Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó một công ty chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng sẽ phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó. Rủi ro mà nhà môi giới hay gặp phải là các khách hàng của mình hoặc nhà môi giới giao dịch khác không thể thực hiện thanh toán đúng thời hạn. Thông qua hoạt động này các nhân viên môi giới sẽ cung cấp cho khách hàng những sản phẩm, dịch vụ tư vấn đầu tư và kết nối giữa nhà đầu tư bán chứng khoán và nhà đầu tư mua chứng khoán. Trong những trường hợp nhất định người môi giới sẽ trở thành người bạn, người chia sẻ những lo âu, căng thẳng và có thể đưa ra những lời động viên kịp thời khi cần thiết. Chính vì đặc điểm của nghề môi giới chứng khoán mà các nhân viên trong nghề môi giới cần có một số các kỹ năng sau: - Kỹ năng truyền đạt thông tin: Phẩm chất hay thái độ của người môi giới đối với công việc, với bản thân và với khách hàng được truyền đạt rõ ràng tới hầu hết các khách hàng mà người môi giới thực hiện giao dịch. Để thành công trong việc bán hàng (cung ứng dịch vụ mua, bán) người môi giới phải đặt khách hàng lên trên hết và doanh thu của mình là yếu tố thứ yếu. Đây là điểm then chốt trong hoạt động trong dịch vụ tài chính và phải được thể hiện ngay từ khi tiếp xúc với khách hàng. - Kỹ năng tìm kiếm khách hàng: có nhiều phương pháp để tìm kiếm khách hàng nhưng tựu trung có thể được gộp vào nhóm sáu phương cách sau: những đầu mối được gây dựng từ công ty hoặc các tài khoản chuyển nhượng lại; những lời giới thiệu khách hàng; mạng lưới kinh doanh; các chiến dịch viết thư; các cuộc hội thảo; gọi điện làm quen. - Kỹ năng khai thác thông tin: một trong những nguyên tắc trong hành nghề môi giới là phải hiểu khách hàng, biết được khả năng tài chính, mức độ chấp nhận rủi ro của khách hàng. Ngoài ra nó còn giúp cho nhà môi giới tăng được khối lượng tài sản quản lý, có chiến lược khách hàng thích hợp. Hoạt động tự doanh: Tự doanh là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua, bán chứng khoán cho chính mình. Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua cơ chế giao dịch trên Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường OTC. Tại một số thị trường vận hành theo cơ chế khớp giá hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán được thực hiện thông qua hoạt động tạo lập thị trường. Lúc này, công ty chứng khoán đóng vai trò là nhà tạo lập thị trường, nắm giữ một số lượng chứng khoán nhất định của một số loại chứng khoán và thực hiện mua bán chứng khoán với các khách hàng để hưởng chênh lệch giá. Mục đích của hoạt động tự doanh là nhằm thu lợi nhuận cho chính công ty thông qua hành vi mua, bán chứng khoán với khách hàng. Nghiệp vụ này hoạt động song hành với nghiệp vụ môi giới, vừa phục vụ lệnh giao dịch cho khách hàng đồng thời cũng phục vụ cho chính mình, vì vậy trong quá trình hoạt động có thể dẫn đến xung đột lợi ích giữa thực hiện giao dịch cho khách hàng và cho bản thân công ty. Do đó, luật pháp của các nước đều yêu cầu tách biệt rõ ràng giữa các nghiệp vụ môi giới và tự doanh, công ty chứng khoán phải ưu tiên thực hiện lệnh của khách hàng trước khi thực hiện lệnh của mình. Thậm chí luật pháp ở một số nước còn quy định có hai loại hình công ty chứng khoán là công ty môi giới chứng khoán chỉ làm chức năng môi giới và công ty chứng khoán có chức năng tự doanh. Khác với hoạt động môi giới, công ty chứng khoán chỉ làm trung gian thực hiện lệnh cho khách hàng để hưởng hoa hồng, trong hoạt động tự doanh công ty chứng khoán kinh doanh bằng chính nguồn vốn của công ty. Vì vậy, công ty chứng khoán đòi hỏi phải có nguồn vốn rất lớn và đội ngũ nhân viên có trình độ chuyên môn, khả năng phân tích và đưa ra các quyết định đầu tư hợp lý, đặc biệt trong trường hợp đóng vai trò là các nhà tạo lập thị trường. Yêu cầu đối với công ty chứng khoán: - Tách biệt quản lý: các công ty chứng khoán phải có sự tách biệt giữa nghiệp vụ tự doanh và nghiệp vụ môi giới để đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng trong hoạt động. Sự tách biệt này bao gồm tách biệt về: yếu tố con người; quy trình nghiệp vụ; vốn và tài sản của khách hàng và công ty. - Ưu tiên khách hàng: công ty chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc ưu tiên khách hàng khi thực hiện nghiệp vụ tự doanh. Điều đó có nghĩa là lệnh giao dịch của khách hàng phải được xử lý trước lệnh tự doanh của công ty. Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng cho các khách hàng trong quá trình giao dịch chứng khoán. Do có tính đặc thù về khả năng tiếp cận thông tin và chủ động trên thị trường nên các công ty chứng khoán có thể dự đoán trước được diễn biến của thị trường và sẽ mua hoặc bán tranh của khách hàng nếu không có nguyên tắc trên. - Góp phần bình ổn thị trường: Các công ty chứng khoán hoạt động tự doanh nhằm góp phần bình ổn giá cả thị trường. Trong trường hợp này, hoạt động tự doanh được tiến hành bắt buộc theo luật định. Luật các nước đều quy định các công ty chứng khoán phải dành một tỷ lệ % nhất định các giao dịch của mình cho hoạt động bình ổn thị trường. Theo đó, các công ty chứng khoán có nghĩa vụ mua vào khi giá chứng khoán bị giảm và bán ra khi giá chứng khoán lên nhằm giá chứng khoán ổn định. - Hoạt động tạo lập thị trường: khi được phát hành, các chứng khoán mới chưa có thị trường giao dịch. Để tạo lập thị trường cho các chứng khoán này, các công ty chứng khoán thực hiện tự doanh thông qua việc mua và bán chứng khoán, tạo tính thanh khoản trên thị trường cấp hai. Trên những thị trường chứng khoán phát triển, các nhà tạo lập thị trường sử dụng nghiệp vụ mua bán chứng khoán trên thị trường OTC để tạo thị trường. Theo đó, họ liên tục có những báo giá để mua hoặc bán chứng khoán với các nhà kinh doanh chứng khoán khác. Như vậy, họ sẽ duy trì một thị trường liên tục đối với chứng khoán mà họ kinh doanh. Các hình thức giao dịch trong hoạt động tự doanh: - Giao dịch gián tiếp: Công ty chứng khoán đặt các lệnh mua và bán chứng khoán trên Sở giao dịch, lệnh của họ có thể thực hiện với bất kỳ khách hàng nào không được xác định trước. - Giao dịch trực tiếp: Là giao dịch tay đôi giữa hai công ty chứng khoán hay giữa công ty chứng khoán với một khách hàng thông qua thương lượng. Đối tượng của các giao dịch trực tiếp là các loại chứng khoán đăng ký giao dịch ở thị trường OTC. Hoạt động bảo lãnh phát hành chứng khoán: Để thực hiện thành công các đợt chào bán chứng khoán ra công chúng đòi hỏi tổ chức phát hành phải cần đến các công ty chứng khoán tư vấn cho đợt phát hành và thực hiện bảo lãnh, phân phối chứng khoán ra công chúng. Đây chính là nghiệp vụ bảo lãnh phát hành của các công ty chứng khoán và là nghiệp vụ chiếm tỷ lệ doanh thu khá cao trong tổng doanh thu của công ty chứng khoán. Như vậy, hoạt động bảo lãnh phát hành là việc công ty chứng khoán có chức năng bảo lãnh giúp tổ chức phát hành thực hiện các thủ tục trước khi chào bán chứng khoán, tổ chức việc phân phối chứng khoán và giúp bình ổn giá chứng khoán trong giai đoạn đầu sau khi phát hành. Trên thị trường chứng khoán, tổ chức bảo lãnh phát hành không chỉ có công ty chứng khoán mà còn bao gồm các định chế tài chính khác như ngân hàng đầu tư, nhưng thông thường việc công ty chứng khoán nhận bảo lãnh phát hành thường kiêm luôn việc phân phối chứng khoán, còn các ngân hàng đầu tư thường đứng ra nhận bảo lãnh phát hành sau đó chuyển phân phối chứng khoán cho các công ty chứng khoán tự doanh hoặc các thành viên khác. Khi một tổ chức muốn phát hành chứng khoán, tổ chức đó gửi yêu cầu bảo lãnh phát hành đến công ty chứng khoán. CTCK có thể sẽ ký một hợp đồng tư vấn quản lý để tư vấn cho tổ chức phát hành về loại chứng khoán cần phát hành, số lượng chứng khoán cần phát hành, định giá chứng khoán và phương thức phân phối chứng khoán đến các nhà đầu tư thích hợp. Để được phép bảo lãnh phát hành, CTCK phải đệ trình một phương án bán và cam kết bảo lãnh lên Uỷ ban chứng khoán. Khi các nội dung cơ bản của phương án phát hành được Uỷ ban chứng khoán thông qua, CTCK có thể trực tiếp ký hợp đồng bảo lãnh hoặc thành lập nghiệp đoàn bảo lãnh để ký hợp đồng bảo lãnh giữa nghiệp đoàn và tổ chức phát hành. Khi Uỷ ban chứng khoán cho phép phát hành chứng khoán và đến thời hạn giấy phép phát hành có hiệu lực, CTCK (hoặc nghiệp đoàn bảo lãnh) thực hiện phân phối chứng khoán. Các hình thức phân phối chứng khoán chủ yếu là: Bán riêng cho các tổ chức đầu tư tập thể, các quỹ đầu tư, quỹ bảo hiểm, quỹ hưu trí. Bán trực tiếp cho các cổ đông hiện thời hay những nhà đầu tư có quan hệ với tổ chức phát hành. Bán rộng rãi ra công chúng Đến đúng ngày theo hợp đồng, công ty bảo lãnh phát hành phải giao tiền bán chứng khoán cho các tổ chức phát hành. Số tiền phải thanh toán là giá trị chứng khoán phát hành trừ đi chi phí bảo lãnh. Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán: Cũng như các loại hình tư vấn khác, tư vấn đầu tư chứng khoán là việc CTCK thông qua hoạt động phân tích để đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc dịch vụ khác liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Hoạt động tư vấn chứng khoán được phân loại theo các tiêu chí sau: - Theo hình thức của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn trực tiếp (gặp gỡ khách hàng trực tiếp hoặc thông qua thư từ, điện thoại) và tư vấn gián tiếp (thông qua các ấn phẩm, sách báo) để tư vấn cho khách hàng. - Theo mức độ uỷ quyền của tư vấn: bao gồm tư vấn gợi ý (gợi ý cho khách hàng về phương cách đầu tư hợp lý, quyết định đầu tư là của khách hàng) và tư vấn uỷ quyền ( vừa tư vấn vừa quyết định theo sự phân cấp, uỷ quyền thực hiện của khách hàng). - Theo đối tượng của hoạt động tư vấn: bao gồm tư vấn cho người phát hành (tư vấn cho tổ chức dự kiến phát hành: cách thức, hình thức phát hành, tổ chức bảo lãnh, phân phối chứng khoán) và tư vấn đầu tư (tư vấn cho khách hàng đầu tư chứng khoán trên thị trường thứ cấp về giá, thời gian, định hướng đầu tư vào các loại chứng khoán…) Nguyên tắc cơ bản của hoạt động tư vấn: Hoạt động tư vấn là việc người tư vấn sử dụng kiến thức, đó chính là vốn chất xám mà họ đã bỏ ra để kinh doanh nhằm đem lại lợi nhuận (hiệu quả) cho khách hàng. Nhà đầu tư đòi hỏi phải hết sức thận trọng trong việc đưa ra các lời khuyên đối với khách hàng, vì với lời khuyên đó khách hàng có thể thu về lợi nhuận lớn hoặc thua lỗ, thậm chí phá sản, còn người tư vấn thu về cho mình khoản thu phí về dịch vụ tư vấn (bất kể tư vấn đó thành công hay không). Hoạt động tư vấn đòi hỏi phải tuân thủ một số nguyên tắc cơ bản sau: - Không đảm bảo chắc chắn về giá trị chứng khoán: giá trị chứng khoán không phải là một số cố định, nó luôn thay đổi theo các yếu tố kinh tế, tâm lý và diễn biến thực tế của thị trường. - Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình dựa trên cơ sở phân tích các yếu tố lý thuyết và những diễn biến trong quá khứ, có thể là không hoàn toàn chính xác và khách hàng là người quyết định cuối cùng trong việc sử dụng các thông tin từ nhà tư vấn để đầu tư, nhà tư vấn sẽ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại kinh tế do lời khuyên đưa ra. - Không được dụ dỗ, mời chào khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách quan là quá trình phân tích, tổng hợp một cách khoa học, logic các vấn đề nghiên cứu. 1.1.3.2. Các hoạt động phụ trợ Lưu ký chứng khoán: là việc lưu giữ, bảo quản chứng khoán của khách hàng thông qua các tài khoản lưu ký chứng khoán. Đây là quy định bắt buộc trong giao dịch chứng khoán, bởi vì giao dịch chứng khoán trên thị trường tập trung là hình thức giao dịch ghi sổ, khách hàng phải mở tài khoản lưu ký chứng khoán tại các công ty chứng khoán (nếu chứng khoán phát hành dưới hình thức ghi sổ) hoặc ký gửi các chứng khoán (nếu phát hành dưới hình thức chứng chỉ vật chất). Khi thực hiện dịch vụ lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ nhận được các khoản thu phí lưu ký chứng khoán, phí gửi, phí rút và phí chuyển nhượng chứng khoán. Quản lý thu nhập của khách hàng (quản lý cổ tức): xuất phát từ việc lưu ký chứng khoán cho khách hàng, CTCK sẽ theo dõi tình hình thu lãi, cổ tức của chứng khoán và đứng ra làm dịch vụ thu nhận và chi trả cổ tức cho khách hàng thông qua tài khoản của khách hàng. Nghiệp vụ tín dụng: Đối với các thị trường chứng khoán phát triển, bên cạnh hoạt động môi giới chứng khoán cho khách hàng để hưởng hoa hồng, CTCK còn triển khai dịch vụ cho vay chứng khoán để khách hàng thực hiện giao dịch bán khống hoặc cho khách hàng vay tiền để khách hàng thực hiện nghiệp vụ mua ký quỹ. Cho vay ký quỹ là hình thức cấp tín dụng của CTCK cho khách hàng của mình để họ mua chứng khoán và sử dụng các chứng khoán đó làm vật thế chấp cho khoản vay đó. Khách hàng chỉ cần ký quỹ một phần, số còn lại sẽ do CTCK ứng trước tiền thanh toán. Đến kỳ hạn thoả thuận khách hàng phải hoàn trả đủ số gốc vay cùng với lãi cho CTCK. Trường hợp khách hàng không trả được nợ, thì công ty sẽ phát mãi số chứng khoán đã mua để thu hồi nợ. Nghiệp vụ quản lý quỹ: ở một số thị trường chứng khoán, pháp luật về thị trường chứng khoán còn cho phép CTCK được thực hiện nghiệp vụ quản lý quỹ đầu tư. Theo đó, CTCK cử đại diện của mình để quản lý quỹ và sử dụng vốn và tài sản của quỹ đầu tư để đầu tư vào chứng khoán. CTCK được thu phí dịch vụ quản lý quỹ đầu tư. 1.1.4. Vai trò của hoạt động tư vấn cổ phần hoá của công ty chứng khoán. Cổ phần hoá DNNN là một quá trình mới mẻ và phức tạp về mặt kỹ thuật, thủ tục và có liên quan đến nhiều vấn đề trong quá trình phát triển của DN. Muốn CPH doanh nghiệp phải nắm vững hệ thống văn bản pháp luật, các quy định hiện hành và chính sách về CPH cũng như hệ thống pháp lý điều chỉnh hoạt động của công ty cổ phần. DNNN sẽ xử lý nhiều vấn đề liên quan để chuyển thành một công ty cổ phần như tập huấn cho cán bộ công nhân viên về cổ phần hoá, kiểm kê phân loại tài sản, xử lý các vấn đề tài chính, xác định giá trị DN, lập phương án sắp xếp lại lao động, lập phương án bán cổ phần… Tư vấn CPH là một trong những hoạt động tư vấn của CTCK, là một hoạt động thu phí của CTCK đối với khách hàng, ở đây là các DNNN trong việc tư vấn và hỗ trợ DN về quy trình, thủ tục để chuyển DNNN sang công ty cổ phần. Với các CTCK Việt Nam, đây là nghiệp vụ được triển khai ngay từ đầu khi bắt đầu hoạt động trên TTCK. Là một nghiệp vụ mà được hầu hết các CTCK thực hiện, tư vấn CPH có vai trò quan trọng trong hoạt động của CTCK: - Là hoạt động đem lại doanh thu cho CTCK. Tư vấn CPH có mặt ở hầu hết các CTCK, doanh thu từ hoạt động này chiếm một tỷ trọng lớn trong doanh thu từ hoạt động chứng khoán của CTCK. - Tư vấn CPH có mối quan hệ chặt chẽ với các hoạt động khác của CTCK như: Tư vấn niêm yết, tư vấn phát hành,… Việc phát triển hoạt động Tư vấn CPH giúp công ty cung cấp cho khách hàng một quy trình hoàn chỉnh từ việc xác định giá trị doanh nghiệp, tư vấn đấu giá cổ phần tới việc tư vấn niêm yết, tư vấn phát hành cổ phiếu ra công chúng hay phát hành thêm, tìm kiếm những cơ hội phát triển trên thị trường vốn. Do đó việc phát triển hoạt động tư vấn CPH có vai trò hỗ trợ các hoạt động của CTCK phát triển. - Đa dạng hoá hoạt động của Công ty. - Giúp quảng bá hình ảnh của Công ty. Khách hàng của CTCK trong lĩnh vực tư vấn CPH là những DNNN, có nguồn vốn lớn, có vai trò quan trọng trong nền kinh tế. Thông qua hoạt động tư vấn CPH, CTCK có mối quan hệ chặt chẽ với các DN này. Mỗi lần tư vấn thành công là một lần khẳng định được chất lượng hoạt động của công ty. Do đó, đây là một trong những biện pháp quảng bá hình ảnh của công ty một cách hiệu quả nhất. Ngoài ra, thông qua mối quan hệ này còn đem lại cho công ty khách hàng của những dịch vụ khác như: tư vấn niêm yết, bảo lãnh phát hành… Song hoạt động tư vấn CPH cũng là hoạt động đặc thù, gắn với một giai đoạn lịch sử, sẽ hết khi thực hiện CPH xong. Do đó, CTCK phải có phương hướng hoạt động sau khi quá trình cổ phần hoá kết thúc. Với các CTCK hiện nay, doanh thu từ hoạt động CPH chiếm tỷ trọng khá lớn. Khi quá trình CPH kết thúc cũng là lúc công ty mất một khoản doanh thu lớn. So với các hoạt động khác thì hoạt động tư vấn CPH là hoạt động chiếm nhiều nhân lực, chi phí và cũng là hoạt động chịu rủi ro cao, nhất là rủi ro uy tín nếu việc tư vấn có khiếu nại, tố cáo. 1.2. HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN CỔ PHẦN HOÁ CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN. 1.2.1. Khái niệm hoạt động tư vấn cổ phần hoá Cổ phần hoá về cơ bản là việc chuyển công ty (với các loại hình sở hữu khác nhau) thành công ty cổ phần (do các cổ đông sở hữu), chẳng hạn như chuyển từ DNNN sang công ty cổ phần, chuyển từ DN có vốn đầu tư nước ngoài sang công ty cổ phần, chuyển công ty TNHH sang công ty cổ phần… Tuy nhiên việc cổ phần hoá DNNN là công việc khó khăn nhất đòi hỏi nhiều thời gian công sức nhất. Chính vì vậy ở đây ta chỉ nghiên cứu về CPH DNNN. 1.2.1.1. Cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước Cổ phần hoá Doanh nghiệp Nhà nước là việc chuyển DNNN thành công ty cổ phần. Công ty cổ phần là một loại hình doanh nghiệp chịu sự điều chỉnh của luật doanh nghiệp. Với lịch sử phát triển khoảng 200 năm, công ty cổ phần đã khẳng định vị thế của mình trong nền kinh tế hiện đại. Về cơ bản công ty cổ phần có những đặc điểm sau: - Công ty cổ phần là tổ chức có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp giấy phép kinh doanh. - Vốn điều lệ được chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần. Người sở hữu cổ phần được gọi là cổ đông của công ty. Các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm tương ứng với số cổ phần mà mình đã mua. Cổ đông có quyền chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác trừ cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết. - Công ty cổ phần có quyền phát hành các chứng khoán ra công chúng theo quy định của pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. - Vốn là một điều không thể thiếu cho hoạt động của một DN. So với các loại hình DN khác như DN tư nhân, DN Nhà nước… thì công ty cổ phần có ưu thế trong việc huy động vốn nhờ khả năng tích tụ và tập trung cao, phạm vi huy động rộng không giới hạn về địa lý, dân tộc… có thể chuyển kỳ hạn của vốn từ vốn đầu tư ngắn hạn sang trung và dài hạn. Công ty cổ phần là công ty duy nhất được phát hành cổ phiếu nên có khả năng đa dạng hoá được nguồn vốn. - Do nguồn vốn được chia thành nhiều phần nhỏ do nhiều cổ đông nắm giữ nên có khả năng phân tán rủi ro cao, đa dạng hoá đầu tư do quy mô của DN lớn, tính thanh khoản cao. - Do việc tách biệt giữa quyền quản lý và quyền sở hữu nên công ty cổ phần có cơ chế quản lý năng động. Công ty cổ phần được tổ chức như sau: Đại hội đồng cổ đông: Là cơ quan quyền lực cao nhất của công ty thể hiện trong quyền được quy định điều lệ và thay đổi chiến lược phát triển, bầu hội đồng quản trị, Ban kiểm soát. Quyền và nghĩa vụ của Đại hội đồng cổ đông được quy định tại Điều 70 chương IV Luật doanh nghiệp 2003. Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để quyết định mọi vấn đề liên quan đến mục đích, quyền lợi của công ty, trừ những vấn đề thuộc thẩm quyền của Đại hội đồng cổ đông. Quyền và nghĩa vụ của Hội đồng quản trị được quy định tại Điều 80, chương IV Luật Doanh nghiệp 2003. Ban kiểm soát: Công ty cổ phần có từ mười một cổ đông trở lên phải có Ban kiểm soát. Ban kiểm soát từ ba đến năm thành viên, trong đó ít nhất một thành viên phải có trình độ chuyên môn kế toán. Quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát được quy định tại Điều 88 chương IV Luật Doanh nghiệp 2003. Giám đốc (hoặc Tổng giám đốc) công ty: là người điều hành hoạt động hàng ngày của công ty và chịu trách nhiệm trước Hội đồng quản trị về việc thực hiện các quyền và nhiệm vụ được giao. Quyền và nghĩa vụ của Giám đốc (Tổng giám đốc) được quy định tại Điều 85 chương IV Luật Doanh nghiệp 2003. Do những đặc điểm trên đã chứng tỏ rằng mặc dù mô hình công ty cổ phần mới ra đời được khoảng 200 năm trong lịch sử thế giới nhưng có tốc độ phát triển khá nhanh. Công ty cổ phần và thị trường chứng khoán có mối quan hệ chặt chẽ với nhau và là hai tổ chức tài chính đặc trưng của nền kinh tế thị trường. Ở Việt Nam, đa số các doanh nghiệp ra đời trong cơ chế kế hoạch hoá tập trung, hiệu quả kinh doanh còn thấp. Khi nền kinh tế nước ta chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước thì những DN này bộc lộ không ít những hạn chế. Chính vì vậy, từ những năm 1992 đến nay, Nhà nước ta có xu hướng CPH các DNNN. Nghị định 187/2004/NĐ – CP ngày 16/11/2004 do chính phủ ban hành đã nêu rõ mục tiêu về chuyển DNNN thành công ty cổ phần: Thứ nhất, chuyển đổi những công ty Nhà nước mà Nhà nước không cần giữ 100% vốn sang loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu; huy động vốn của cá nhân, các tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội trong nước và n._.goài nước để tăng năng lực tài chính, đổi mới công nghệ, đổi mới phương thức quản lý nhằm nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Thứ hai, đảm bảo hài hoà lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp, nhà đầu tư và người lao động trong doanh nghiệp. Thứ ba, thực hiện công khai, minh bạch theo nguyên tắc thị trường; khắc phục tình trạng cổ phần hoá khép kín trong nội bộ doanh nghiệp; gắn với phát triển thị trường vốn, thị trường chứng khoán. Các hình thức cổ phần hoá: theo điều 3 nghị định 187/NĐ – CP quy định có các hình thức cổ phần hoá sau: - Giữ nguyên vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, phát hành cổ phiếu thu hút thêm vốn áp dụng đối với những doanh nghiệp cổ phần hoá có nhu cầu tăng thêm vốn điều lệ. Mức vốn huy động thêm tuỳ thuộc vào quy mô và nhu cầu vốn của công ty cổ phần. Cơ cấu vốn điều lệ của công ty cổ phần được phản ánh trong phương án cổ phần hoá. - Bán một phần vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán bớt một phần vốn Nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn. - Bán toàn bộ vốn Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp hoặc kết hợp vừa bán toàn bộ vốn Nhà nước vừa phát hành thêm cổ phiếu để thu hút vốn. 1.2.1.2. Tư vấn cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước của công ty chứng khoán Tư vấn cổ phần hoá là việc tổ chức tư vấn giúp Doanh nghiệp Nhà nước chuyển thành công ty cổ phần theo quy định của pháp luật. Việc hướng dẫn có thể thực hiện theo hai cách trực tiếp và gián tiếp. Theo cách trực tiếp thì công ty chứng khoán sẽ gặp trực tiếp doanh nghiệp Nhà nước để hướng dẫn, còn theo cách gián tiếp tức là hướng dẫn thông qua sách báo văn bản pháp luật. Thường thì công ty chứng khoán chỉ tiến hành tư vấn cổ phần hoá theo cách trực tiếp. Việc tư vấn cổ phần hoá bao gồm các công việc: xác định giá trị doanh nghiệp (đây là công việc khó khăn nhất), lập phương án sắp xếp lại lao động và danh sách lao động được mua cổ phần ưu đãi, xây dựng dự thảo điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty cổ phần. 1.2.2. Tổ chức và quy trình tư vấn cổ phần hoá Như đã nói ở trên tư vấn CPH là hoạt động hướng dẫn DNNN thực hiện việc chuyển đổi từ DNNN sang công ty cổ phần. Tư vấn CPH là cả một quá trình, nó bao gồm các bước sau: Bước 1: Xây dựng phương án cổ phần hoá Thành lập ban chỉ đạo cổ phần hoá và tổ chức giúp việc ban chỉ đạo Chuẩn bị hồ sơ tài liệu Xử lý các vấn đề tài chính và tổ chức xác định giá trị DN Hoàn tất phương án cổ phần hoá Bước 2: Tổ chức bán cổ phần Bán cổ phần Điều chỉnh phương án cổ phần hoá Bước 3: Hoàn tất quá trình chuyển doanh nghiệp sang công ty cổ phần Tổ chức Đại hội đồng cổ đông và đăng ký kinh doanh Tổ chức bàn giao giữa DN và công ty cổ phần. 1.2.3.Nội dung tư vấn cổ phần hoá 1.2.3.1. Tư vấn xây dựng lộ trình cổ phần hoá Trong giai đoạn này, tổ chức tư vấn giúp DN xử lý các vấn đề tài chính trước cổ phần hoá. Về việc xử lý các vấn đề tài chính trước CPH được quy định rõ trong Nghị định 187/2004/NĐ-CP ngày 16 tháng 11 năm 2000 của Thủ tướng chính phủ và hướng dẫn cụ thể trong thông tư126/2004/TT-BTC của Bộ tài chính. Trong đó quy định rõ trách nhiệm của doanh nghiệp CPH trong việc xử lý các vấn đề tồn tại về tài chính của doanh nghiệp: Các doanh nghiệp CPH có trách nhiệm phối hợp các cơ quan có liên quan chủ động xử lý theo thẩm quyền và theo quy định của pháp luật những tồn tại về vấn đề tài chính của DN CPH và trong quá trình CPH. Trường hợp có vướng mắc hoặc vượt quá thẩm quyền thì doanh nghiệp CPH phải báo cáo với cơ quan có thẩm quyền để xem xét giải quyết.(Điều 9, chương II Nghị định 187). Doanh nghiệp phải tiến hành đồng thời nhiều hoạt động: Xử lý các vấn đề tài chính, định giá tài sản của DN, lập hồ sơ xác định giá trị DN, lập phương án sắp xếp lại lao động sau khi chuyển đổi thành công ty cổ phần, xây dựng phương án kinh doanh sau CPH, xây dựng điều lệ công ty cổ phần, tổ chức đại hội công nhân viên chức. * Kiểm kê, xử lý các vấn đề tài chính của doanh nghiệp CTCK tư vấn kiểm kê, phân loại tài sản của doanh nghiệp để xác định đúng số lượng, chất lượng và giá trị tài sản thực tế của DN tại thời điểm kiểm kê. · Kiểm kê quỹ tiền mặt, đối chiếu số lượng, chất lượng và giá trị tài sản thực tế của DN tại thời điểm xác định giá trị DN, xác định giá trị tài sản, tiền mặt thừa so với sổ kế toán, phân tích rõ nguyên nhân thừa thiếu. · Phân loại quỹ tài sản đã kiểm kê theo các nhóm sau: Tài sản DN có nhu cầu sử dụng. Tài sản DN không có nhu cầu sử dụng. Tài sản chờ thanh lý. Tài sản hình thành từ quỹ khen thưởng, phúc lợi (nếu có). Nợ thực tế phải trả. Số dư quỹ khen thưởng, phúc lợi. Tổ chức đánh giá và xác định giá trị tài sản của DN có nhu cầu sử dụng theo quy định tại phần A mục III thông tư 126/2004/TT – BTC ngày 24 tháng 12 năm 2004 của Bộ Tài chính và Nghị định 187/2004/NĐ – CP do Chính phủ ban hành. * Tổ chức tư vấn DN CPH xử lý các vấn đề tài chính trước khi CPH bao gồm: Xử lý tài sản: Căn cứ vào quá trình kiểm kê, phân loại tài sản, DN sẽ được CTCK tư vấn xử lý tài sản theo quy định tại Điều 10 chương II của Nghị định 187/2004/NĐ – CP của Chính phủ. Xử lý các khoản nợ phải thu: Xử lý các khoản nợ phải thu theo quy định tại Điều 11 chương II của Nghị định 187/2004/NĐ – CP của Chính phủ. Xử lý các khoản nợ phải trả: Xử lý các khoản nợ phải trả theo quy định tại Điều 12 Nghị định 187/2004/NĐ – CP của Chính phủ. Xử lý các khoản dự phòng lỗ lãi: được quy định tại Điều 13 chương II Nghị định 187/2004/NĐ – CP của Chính phủ. Xử lý vốn đầu tư dài hạn vào các DN khác như vốn liên doanh, liên kết, góp vốn cổ phần, góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn và các hình thức đầu tư dài hạn khác được quy định tại Điều 14 chương II Nghị định 187/2004/NĐ – CP của Chính phủ. Quỹ khen thưởng, phúc lợi: được quy định tại Điều 15 chương II Nghị định 187/2004/NĐ – CP của Chính phủ. 1.2.3.2. Xác định giá trị doanh nghiệp * Thành phần tham gia định giá: Đại diện Ban chỉ đạo cổ phần hoá, Tổ chức tư vấn và Đại diện DN cổ phần hoá. * Phương pháp định giá: Nguyên tắc lựa chọn phương thức định giá xác định giá trị DN thực hiện theo quy định tại Điều 23 Nghị định 187/2004/NĐ – CP của Chính phủ. Theo quy định, có ba phương pháp định giá là phương pháp tài sản, phương pháp dòng tiền chiết khấu và phương pháp khác. Thông thường các DN sản xuất sẽ lựa chọn phương pháp định giá theo phương pháp tài sản còn các DN hoạt động trong ngành thương mại và dịch vụ thì định giá theo phương pháp dòng tiền chiết khấu. * Hồ sơ xác định giá trị DN: - Báo cáo tài chính và báo cáo quyết toán thuế tại thời điểm định giá. - Báo cáo kết quả kiểm kê và xác định giá trị tài sản DN. - Biên bản xác định giá trị DN. - Bản sao hồ sơ chi tiết những vấn đề vướng mắc đề nghị được xử lý khi xác định giá trị DN. - Các tài liệu cần thiết khác (tuỳ theo việc áp dụng các phương pháp khác nhau khi xác định giá trị doanh nghiệp) Sau khi có kết quả xác định giá trị DN, Ban chỉ đạo CPH có trách nhiệm thẩm tra kết quả định giá, báo cáo cơ quan quyết định giá trị DN và Bộ Tài chính. Sau đó, tiến hành công bố giá trị DN ra công chúng. 1.2.3.3. Xây dựng phương án cổ phần hoá. Phương án CPH được lập bởi DN CPH và tổ chức tư vấn CPH và trình lên Ban chỉ đạo CPH. Phương án CPH chỉ ra những nội dung cụ thể của quá trình CPH. Nội dung của phương án CPH phải đảm bảo những chi tiết sau: · Hình thức cổ phần hoá: Có ba hình thức CPH (như phần 1.2.1.1 đã nói) · Vốn điều lệ công ty cổ phần · Cơ cấu vốn điều lệ. Trong đó nêu rõ: Cơ cấu cổ đông sở hữu và số lượng cổ phần mà mỗi cổ đông sở hữu: Cổ đông sở hữu, cổ phần bán ưu đãi cho người lao động, cổ phần bán công khai, giá khởi điểm dự kiến cổ phần bán đấu giá công khai. · Tên gọi, trụ sở công ty cổ phần. ·Ngành nghề kinh doanh. 1.2.3.4. Xây dựng phương án sắp xếp lao động Do cơ cấu lại DN nên phương an sắp xếp lao động của DN CPH đóng vai trò quan trọng. Xây dựng phương án lao động phải đảm bảo hài hoà quyền lợi của DN với quyền lợi của người lao động. Chi phí tiền lương cho người lao động trong DN cũng là một khoản chi phí khá lớn cho DN, sau khi CPH công ty cổ phần phải có sự điều chỉnh trong nhân sự nhằm cải tạo lại số lao động trong DN, cân đối chi phí DN và đảm bảo kế hoạch sản xuất kinh doanh đồng thời phải đảm bảo quyền lợi của người lao động, khiến họ cảm thấy chính sách lao động của DN hợp lý và đảm bảo quyền lợi của họ. Nội dung phương án lao động chỉ rõ: - Phân loại lao động của DN trước khi sắp xếp lại. - Phân loại lao động của DN sau cổ phần hoá, trong đó nêu rõ số lao động sử dụng sản xuất kinh doanh, số lao động nghỉ hưu, số lao động kết thúc hợp đồng và số lao động dôi dư; kế hoạch đào tạo lại lao động. 1.2.3.5. Tổ chức bán cổ phần lần đầu: Phương án bán cổ phần lần đầu phải được xây dựng cụ thể, trong đó phải đảm bảo nội dung gồm cơ quan bán cổ phần và thời gian bán cổ phần. - Về tổ chức bán cổ phần Với DN có khối lượng cổ phần bán ra từ dưới 1 tỷ đồng thì DN tự tổ chức bán cổ phần. Với DN có khối lượng cổ phần bán ra trên 1 tỷ đồng thì tổ chức bán tại công ty chứng khoán. Với DN có khối lượng cổ phần bán ra trên 10 tỷ đồng thì tổ chức bán tại Trung tâm giao dịch TP Hồ Chí Minh và Hà Nội. - Nội dung thực hiện bán cổ phần lần đầu: Cổ phần phát hành lần đầu:…..cổ phần. Mệnh giá mỗi cổ phần là 10.000đ/cổ phần. Trong đó: Cổ phần Nhà nước:…..cổ phần, chiếm …..% vốn điều lệ. Cổ phần chào bán cho người lao động trong DN:…..cổ phần và chiếm…..% vốn điều lệ. Cổ phần ưu đãi cho nhà đầu tư chiến lược:…..cổ phần và chiếm…..% vốn điều lệ. Cổ phần bán đấu giá công khai:….. cổ phần và chiếm…..% vốn điều lệ. (“...” là do tuỳ từng công ty cổ phần quy định một con số hoặc % cụ thể) - Thời gian bán cổ phần: Trong phương án phải nêu rõ thời gian hoàn thành bán cổ phần ra bên ngoài và thời gian hoàn thành bán cổ phần cho công nhân viên của công ty. 1.2.3.6. Tổ chức Đại hội đồng cổ đông Sau khi bán cổ phần lần đầu ra công chúng thì phải tổ chức Đại hội đồng cổ đông Chuẩn bị cho Đại hội đồng cổ đông Chuẩn bị tài liệu cho đại hội cổ đông Lập kế hoạch chi tiết cho đại hội cổ đông Lập danh sách cổ đông có quyền dự họp Tiến hành Đại hội cổ đông: là đại hội thành lập DN. Trong đại hội thông qua những vấn đề quan trọng sau: Thông qua điều lệ của công ty cổ phần, cơ cấu cổ phần và cổ đông sáng lập của công ty. Quyết định hướng phát triển của công ty sau cổ phần hoá: thông qua phương hướng sản xuất kinh doanh trong ba năm, các chỉ tiêu cụ thể về: doanh thu, lợi nhuận dự tính, sản lượng,… Bầu hội đồng quản trị và Ban kiểm soát 1.2.3.7. Tư vấn hậu cổ phần hoá: Đây là công việc quan trọng có tính chất quyết định tới hiệu quả của việc cổ phần hoá. Thông thường khi chuyển đổi từ hình thức DNNN chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp Nhà nước sang hình thức công ty cổ phần chịu sự điều chỉnh của Luật Doanh nghiệp, nhiều DN sau khi cổ phần hoá xong không tránh khỏi những bỡ ngỡ, CTCK với tính chuyên nghiệp và đội ngũ chuyên viên có trình độ và kinh nghiệm trên thị trường tài chính sẽ giúp doanh nghiệp có những kế hoạch để đảm bảo thành công sau cổ phần hoá. CTCK tư vấn DN tái cấu trúc DN, thẩm định đánh giá chiến lược phát triển, phân tích tính cạnh tranh và khả năng tồn tại, duy trì phát triển công ty, nâng cao giá trị cổ phiếu, đảm bảo DN hoạt động hiệu quả trên thị trường vốn. 1.2.4. Phát triển hoạt động tư vấn cổ phần hoá của Công ty chứng khoán. 1.2.4.1. Khái niệm Phát triển hoạt động tư vấn cổ phần hoá của công ty chứng khoán là việc phát triển ngày càng hoàn thiện hơn quy trình tư vấn cổ phần hoá của CTCK, giúp cho CTCK mở rộng quy mô của hoạt động này theo chiều hướng tốt. 1.2.4.2. Chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của hoạt động tư vấn cổ phần hoá của Công ty chứng khoán - Thứ nhất, số DN đã được tư vấn cổ phần hoá: Đây là một chỉ tiêu đánh giá sự phát triển của hoạt động tư vấn cổ phần hoá của một công ty. Nếu hoạt động tư vấn CPH hoạt động tốt tức là có sự phát triển thì số lượng các DN đã được tư vấn CPH phải nhiều. - Thứ hai, Doanh thu so với các công ty khác về CPH: Đây là là một chỉ tiêu cũng đánh giá sự phát triển của hoạt động tư vấn CPH. Nếu một CTCK hoạt động tốt trong lĩnh vực này ắt sẽ đem lại doanh thu lớn do thu về các khoán phí tư vấn. - Thứ ba, Sau khi cổ phần hoá có bao nhiêu DN được lên sàn: đây là chỉ tiêu tương đối quan trọng đánh giá liệu hoạt động tư vấn của một CTCK có phát triển hay không. Nếu CTCK tư vấn tốt, thực hiện tốt nghiệp vụ tư vấn của mình thì DN mà được CTCK tư vấn sẽ nhanh chóng được lên sàn. - Thứ tư, Khi lên sàn các cổ phiếu của DN cổ phần hoá có tốt không, có thu hút được các nhà đầu tư hay không: đây là chỉ tiêu đánh giá hoạt động tư vấn hậu cổ phần hoá 1.3. CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN CỔ PHẦN HOÁ CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN. 1.3.1. Nhân tố chủ quan 1.3.1.1. Số lượng, chất lượng, chính sách cán bộ Giống như các hoạt động tư vấn nói chung, chất lượng dịch vụ tư vấn cổ phần hoá nói riêng phụ thuộc rất nhiều vào đội ngũ nhân viên. Công việc của tư vấn viên là hướng dẫn cho DN các thủ tục cần phải làm khi cổ phần hoá để DN tránh được những khó khăn vướng mắc trong quá trình cổ phần hoá đồng thời rút ngắn được thời gian thực hiện. Vì thế, đội ngũ nhân viên phải phù hợp về số lượng, phải có trình độ chuyên môn, kinh nghiệm tư vấn và trước hết phải nắm vững kiến thức về pháp luật, về nội dung quy trình cổ phần hoá cũng như các lĩnh vực có liên quan chẳng hạn như thẩm định tài chính doanh nghiệp, định giá tài sản… Số lượng và chất lượng nguồn nhân lực là yếu tố được quan tâm hàng đầu vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ tư vấn. Hơn nữa, chính sách cán bộ cũng ảnh hưởng không kém đến hoạt động tư vấn CPH. Cụ thể nếu CTCK có một chính sách cơ cấu tổ chức phù hợp sẽ giúp cho hoạt động tư vấn CPH diễn ra một cách thuận lợi và có hiệu quả hơn. Thường thì trong một phòng tư vấn mỗi nhân viên sẽ chuyên làm về một lĩnh vực nhất định, đó là lĩnh vực mà nhân viên đó có khả năng nhất. Chẳng hạn như tiến hành CPH một DNNN thì sẽ có người chuyên về định giá tài sản, có người chuyên về định giá công nợ… Bằng việc chuyên môn hoá như vậy thì hiệu quả của công việc tăng lên rất nhiều. Vấn đề là tỷ lệ nhân viên đảm đương các công việc khác nhau đó không hợp lý thì sẽ làm cho công việc tư vấn bị chậm lại mà hiệu quả thì giảm đi nhiều. Ngoài ra sự ảnh hưởng của nhân tố này tới hoạt động tư vấn cổ phần hoá còn thể hiện ở chỗ các nhân viên có khả năng làm việc theo nhóm hay không. Khả năng phối hợp giữa các thành viên tốt sẽ làm cho công việc được hoàn thành có hiệu quả hơn. Ngoài ra, chính sách cán bộ còn được thể hiện ở chỗ CTCK có trả lương, khen thưởng xứng đáng với công sức của nhân viên bỏ ra hay không. Nếu CTCK có một chính sách đãi ngộ không thích hợp sẽ khiến cho nhân viên bỏ việc tìm đến nơi tốt hơn do vậy sẽ ảnh hưởng đến hoạt động tư vấn CPH của Công ty. 1.3.1.2. Các hoạt động khác của Công ty Các hoạt động khác của Công ty Chứng khoán như môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán... ảnh hưởng cũng không kém đến hoạt động tư vấn CPH của CTCK. Nếu như các hoạt động khác hoạt động có hiệu quả sẽ tạo động lực cho hoạt động tư vấn CPH phát triển theo. Không có lý gì khi mà các hoạt động khác của Công ty đều phát triển mà lại để cho có một hoạt động của mình hoạt động kém hiệu quả. Chính vì vậy, sự phát triển của các hoạt động khác cũng là nguyên nhân tạo động lực cho hoạt động tư vấn CPH phát triển và ngược lại. 1.3.1.3. Quan hệ của Công ty với các đối tác Nhân tố này ảnh hưởng cũng không kém tới sự phát triển của hoạt động tư vấn CPH. Nó được biểu hiện cụ thể như sau: Nếu một CTCK có mối quan hệ tốt với các đối tác thì có thể sẽ có nhiều Doanh nghiệp đến mời tư vấn CPH cho mình. Và nếu làm việc trong môi trường có quan hệ tốt bao giờ cũng thoải mái hơn và đem lại hiệu quả cao hơn. Tư vấn là việc hướng dẫn, đưa ra các lời khuyên, nếu có quan hệ tốt với các đối tác thì những lời khuyên đưa ra sẽ dễ dàng được chấp nhận hơn. 1.3.2. Nhân tố khách quan 1.3.2.1. Môi trường pháp lý. Đây là nhân tố rất quan trọng ảnh hưởng tới sự hình thành và phát triển của hoạt động tư vấn CPH của CTCK. Sự ảnh hưởng của nó tới sự phát triển của hoạt động tư vấn CPH được thể hiện ở một số điều sau: -Nhờ có chủ trương cổ phần hoá của Chính phủ mới đặt ra nhu cầu về tư vấn CPH cho các DN cổ phần hoá. - Hoạt động cổ phần hoá chịu ảnh hưởng trực tiếp của các văn bản pháp luật có liên quan đến quá trình CPH. Một cơ sở pháp lý về CPH mà được hoàn thiện và cụ thể sẽ là điều kiện vững chắc tạo điều kiện vững chắc cho tổ chức cung cấp trong việc xây dựng quy trình cũng như trong quá trình thực hiên. Ngoài ra môi trường pháp lý còn ảnh hưởng gián tiếp tới hoạt động tư vấn CPH thông qua nhu cầu của các DN về dịch vụ tư vấn CPH. 1.3.2.2. Cạnh tranh của các đối thủ trên thị trường Nghề tư vấn cổ phần hoá là một trong những nghề cần ít vốn, nhiều chất xám, vì vậy kể cả những CTCK nhỏ cũng có thể tham gia vào hoạt động này, chính vì vậy mà cạnh tranh giữa các CTCK là khá cao, điều này đòi hỏi các CTCK muốn tham gia thị trường tư vấn cổ phần hoá thì đòi hỏi họ phải liên tục đổi mới phong cách phục vụ cho tốt, giảm chi phí tư vấn… 1.3.2.3. Sự phức tạp của quá trình cổ phần hoá Quá trình tư vấn CPH đòi hỏi phải thực hiện nhiều thủ tục để đáp ứng các điều kiện của các cấp quản lý. Chỉ xét riêng về các bước mang tính thủ tục này đã có thể gây ra không ít khó khăn cho DN CPH. Thêm nữa, trong quá trình thực hiện CPH còn đòi hỏi nhiều công việc mang tính chất chuyên môn như xác định giá trị DN, lập phương án cổ phần hoá, lập phương án lao động…Thông thường các DN không có kinh nghiệm trong lĩnh vực chuyên môn này nên khi tiến hành CPH gặp rất nhiều khó khăn, vướng mắc. Đây là lý do khiến các DN khi tiến hành CPH thì thường phải tìm đến các CTCK nhờ tư vấn trong việc CPH của DN mình. Quá trình CPH càng phức tạp thì nhu cầu về tư vấn càng lớn, từ đó thúc đẩy hoạt động tư vấn phát triển. 1.3.2.4. Sự phát triển của Thị trường chứng khoán Các DN rất sợ sau khi CPH thì giá cổ phiếu bị giảm, gây ảnh hưởng tới uy tín của DN. Trong thời gian vừa qua có lúc TTCK đóng băng giá trị cổ phiếu liên tục giảm gây ra tâm lý hoang mang chon nhà đầu tư.Còn hiện nay TTCK đang trên đà phát triển và dần đi vào quỹ đạo ôn định và Chính phủ đang yêu cầu tăng cung cho TTCK tức là ngày càng có nhiều các DN tiến hành cổ phần hoá. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG TƯ VẤN CỔ PHẦN HOÁ CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG 2.1. GIỚI THIỆU VỀ CÔNG TY CHỨNG KHOÁN NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG. 2.1.1. Sơ lược quá trình hình thành và phát triển của Công ty Chứng khoán Ngân hàng Công thương Công ty chứng khoán Ngân hàng Công Thương được thành lập theo Quyết định số 126/QĐ – HĐQT – NHCT1 ngày 01/09/2000 của Ngân hàng Công Thương Việt Nam theo hình thức công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên. Chủ sở hữu là Ngân hàng Công Thương Việt Nam. Công ty chính thức khai trương và bắt đầu hoạt động từ ngày 16/11/2000. Tên đầy đủ là Công ty TNHH Chứng khoán Ngân hàng Công thương Việt Nam và tên giao dịch quốc tế là Incombank Securities Co.,Ltd ( viết tắt là IBS ). Là một trong các tổ chức tài chính trung gian được thành lập ngay từ những ngày đầu thị trường chứng khoán Việt Nam đi vào hoạt động, CTCK Ngân hàng Công thương đã không ngừng nỗ lực nâng cao chất lượng và đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật để trở thành địa chỉ tin cậy của các nhà đầu tư trong cả nước. Với phương châm “sự thành đạt của khách hàng là sự thành đạt của công ty”,CTCK Ngân hàng Công thương lấy “nhiệt tình, trung thực, chuyên nghiệp và hiệu quả” là tôn chỉ phục vụ khách hàng. Trụ sở chính của CTCK Ngân hàng Công thương là 306 Bà Triệu, Quận Hai Bà Trưng Hà Nội, chi nhánh tại Thành phố Hồ Chí Minh là 153 Hàm Nghi – Q1 – TP Hồ Chí Minh và các đại lý nhận lệnh ở Hải Phòng, Bà Rịa Vũng Tàu, Đà Nẵng, Cần Thơ, Khu CN Biên Hòa… Các hoạt động cơ bản của công ty chứng khoán Ngân hàng Công thương: Hoạt động môi giới chứng khoán IBS là trung gian mua bán chứng khoán cho khách hàng, cung cấp các thông tin về tài khoản và thị trường Chứng khoán cho khách hàng, công ty quản lý các đầu mối nhận lệnh và phát triển dịch vụ Môi giới của Công ty, đưa ra các sản phẩm mới liên quan đến hoạt động môi giới. IBS còn cung cấp các thông tin giao dịch chứng khoán và thông tin về các tổ chức niêm yết, các bài bình luận phiên giao dịch, tổng hợp các diễn biến giao dịch hàng tuần. Hoạt động tự doanh chứng khoán Công ty tự kinh doanh bằng nguồn vốn của công ty, với nguyên tắc ưa tiên phục vụ khách hàng trước. IBS tham gia với mục đích góp phần bình ổn thị trường, tạo sự sôi động cho các giao dịch trên thị trường. Ngoài ra công ty còn góp vốn đầu tư vào các doanh nghiệp nhà nước đang cổ phần hoá, các công ty cổ phần, các tổ chức phát hành và cả các doanh nghiệp có tiềm năng, không chỉ trợ giúp họ về mặt tài chính mà còn hỗ trợ họ trong việc hoạch định chiến lược kinh doanh.Bên cạnh đó công ty còn cung cấp dịch vụ “giao dịch kỳ hạn trái phiếu”, giúp khách hàng đầu tư trái phiếu với các kỳ hạn linh hoạt, mức sinh lời hấp dẫn và tuyệt đối an toàn. Hoạt động phát hành và bảo lãnh phát hành chứng khoán IBS xây dựng phương án bảo lãnh phát hành, đại lý phát hành đối với khách hàng; thiết lập và duy trì quan hệ với các đơn vị có tiềm năng phát hành chứng khoán; phân tích thẩm định và đề xuất thực hiện các phương án bảo lãnh phát hành chứng khoán đảm bảo an toàn hiệu quả; tổ chức thực hiện đại lý, bảo lãnh phát hành theo phương án đã được phê duyệt Ngoài ra, IBS còn xây dựng, nghiên cứu, đề xuất, cải tiến các quy chế, quy trình nghiệp vụ liên quan; thực hiện công tác phân tích và báo cáo hoạt động nghiệp vụ phát hành và bảo lãnh phát hành… Hoạt động lưu ký chứng khoán IBS nhận lưu giữ các chứng chỉ chứng khoán như cổ phiếu, trái phiếu, những giấy tờ có giá trị với những dịch vụ lưu ký chuyên nghiệp. Ngoài ra, IBS còn thực hiện các quyền như việc lĩnh cổ tức, trái tức và các quyền lợi khác giúp khách hàng tiết kiệm thời gian và chi phí. Là một thành viên của trung tâm lưu ký chứng khoán, khi chứng khoán của khách hàng được lưu ký tại IBS, khách hàng có thể thực hiện giao dịch đối với các chứng khoán đó nhanh chóng và thuận tiện hơn. Hoạt động tư vấn cổ phần hoá Các doanh nghiệp chuẩn bị cổ phần hoá, chuyển đổi hình thức sở hữu thì IBS giúp các doanh nghiệp này trong việc chuẩn bị hồ sơ, xác định giá trị doanh nghiệp, chuẩn bị bán đấu giá cổ phần… IBS có các trợ giúp cho các doanh nghiệp chuẩn bị cổ phần hoá như: tư vấn xây dựng lộ trình cổ phần hoá; xác định giá trị doanh nghiệp; tư vấn xây dựng phương án cổ phần hoá; tư vấn đấu giá cổ phần lần đầu ra công chúng; tư vấn hậu cổ phần hoá. Hoạ động tư vấn niêm yết, đăng ký giao dịch chứng khoán Khi niêm yết trên thị trường chứng khoán sẽ giúp cho doanh nghiệp đó có một cơ hội tuyệt vời để tiếp cận với các nhà đầu tư, sản phẩm của doanh nghiệp đó sẽ trở lên thân thiết, gần gũi với mọi khách hàng. Thêm vào đó uy tín của các doanh nghiệp sẽ tăng lên và việc huy động vốn mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ thuận tiện hơn rất nhiều. IBS sẽ giúp cho các doanh nghiệp này trong việc chuẩn bị hồ sơ, các thủ tục niêm yết, tư vấn cho các doanh nghiệp xử lý các tình huống phát sinh khi đã niêm yết. Hoạt động tư vấn tái cơ cấu, mua và sáp nhập, bán và giải thể công ty IBS có đội ngũ các chuyên gia giàu kinh nghiệm và chuyên nghiệp sẽ phối hợp các tổ chức hoàn thiện việc mua và sáp nhập một cách có hiệu quả, thành công và nhanh chóng. Giúp doanh nghiệp thực hiện các bước trong quá trình bán nhằm tạo ra giá trị tối đa và hiệu quả cao nhất cho doanh nghiệp mà không ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh hàng ngày nhưng vẫn đáp ứng được các mục tiêu chiến lược của doanh nghiệp. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức, nhân sự của Công ty Chứng khoán Ngân hàng Công thương Đội ngũ cán bộ của IBS là những cán bộ năng động, nhạy bén được đào tạo chuyên sâu, có đạo đức nghề nghiệp cao với kinh nghiệm hoạt động trong lĩnh vự tài chính doanh nghiệp, tín dụng, pháp luật, đầu tư, kinh doanh tiền tệ được lựa chọn từ Ngân hàng Công thương Việt Nam. Coi yếu tố con người là điều kiện tiên quyết dẫn tới thành công và sự phát triển của Công ty, IBS luôn chú trọng hoạt động đào tạo con người nhằm không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ và làm hài lòng mọi đối tượng khách hàng. Các cán bộ quản lý và kinh doanh của IBS đều được trải qua các khóa đào tạo về chứng khoán cả trong và ngoài nước. Các chuyến đi khảo sát thực tế thị trường chứng khoán các nước Châu Âu, Châu Á được thực hiện hàng năm nhằm giúp cán bộ của IBS có thêm nhiều kinh nghiệm thực tế từ các nước có thị trường chứng khoán đã rất phát triển. Cho đến nay, phần lớn đội ngũ cán bộ quản lý và kinh doanh của IBS đều có Giấy phép hành nghề kinh doanh chứng khoán do UBCK Nhà nước cấp. Các cán bộ quản lý và kinh doanh đều có bằng cử nhân chuyên ngành tài chính ngân hàng, chứng khoán, đầu tư trở lên. Tổng số cán bộ quản lý và kinh doanh làm việc tại IBS hiện nay là 100 người. BAN LÃNH ĐẠO IBS 1. Ông Nguyễn Thạc Hoát Chức vụ: Chủ tịch công ty, Uỷ viên Hội đồng quản trị Ngân hàng Công thương Việt Nam Học vấn: Tiến sỹ kinh tế Lĩnh vực chuyên môn: Tài chính – Ngân hàng Kinh nghiệm công tác: 24 năm trong ngành Ngân hàng, Tài chính, chứng khoán 2. Bà Phạm Thị Tuyết Mai Chức vụ: Giám đốc Công ty Học vấn: Tiến sỹ kinh tế Lĩnh vực chuyên môn: Tài chính – Ngân hàng Kinh nghiệm công tác: 23 năm trong ngành Ngân hàng, Tài chính, Chứng khoán, Bảo hiểm 3. Ông Phạm Ngọc Phú Chức vụ: Phó giám đốc công ty Học vấn: Tiến sỹ kinh tế Lĩnh vực chuyên môn: Tài chính – Ngân hàng Kinh nghiệm công tác: 19 năm trong ngành Ngân hàng, Tài chính,Chứng khoán. 4. Ông Hà Khánh Thuỷ Chức vụ: Phó giám đốc công ty Học vấn: Cử nhân kinh tế Lĩnh vực chuyên môn: Tài chính – Ngân hàng Kinh nghiệm công tác: 22 năm trong ngành Ngân hàng, Tài chính, Chứng khoán Sơ đồ 1: SƠ ĐỒ TỔ CHỨC Chủ Tịch Công ty Ban Điều Hành Văn phòng Phòng Môi Giới Môi giới Phòng kiểm soát Phòng kế toán lưa ký Phòng tư vấn Phòng tự doanh Chi nhánh TP Hồ Chí Minh Văn phòng Phòng kế toán lưa ký Phòng kinh doanh Phòng môi giới Đại lý Khánh Hoà Đại lý Phả Lại Đại lý KCN Biên hoà Đại lý Cần Thơ Đại lý Đà Nẵng Đại lý Bà Rịa Vũng Tàu Đại lý Hải Phòng Ta thấy rằng với cơ cấu tổ chức như trên của Công ty Chứng khoán Ngân hàng Công thươn-g là đồng bộ và hợp lý. Tuy nhiên theo em, theo xu hướng của thị trường hiện nay khi Việt Nam gia nhập tổ chức Thương Mại quốc tế WTO, nền kinh tế Việt Nam đang dần hoàn thiện và phát triển, Thị trường chứng khoán Việt Nam đang nóng dần lên, nhu cầu đầu tư của các nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán ngày càng nhiều vì vậy việc quá tải của các công ty chứng khoán sẽ xảy ra vì vậy theo em công ty nên mở rộng thêm về quy mô hoạt động, phát triển thêm đội ngũ nhân sự. 2.1.3. Kết quả kinh doanh chủ yếu của Công ty Chứng khoán Ngân hàng Công thương Bảng 2.1: Doanh thu các hoạt động của CTCK Ngân hàng Công thương qua các năm Đơn vị tính: triệu đồng Chỉ tiêu 2004 2005 2006 Môi giới 1,110 2,317 9,993 Tự doanh 5,673 9,991 26,990 Quản lý danh mục đầu tư 0,670 0,343 0,984 Bảo lãnh, đại lý phát hành 0,986 3,498 1,147 Tư vấn đầu tư chứng khoán 0 0 0 Lưu ký chứng khoán 0,548 0,200 0,250 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh các năm của IBS. Biểu đồ 2.1: Doanh thu các hoạt động của CTCK Ngân hàng Công thương qua các năm Dựa trên báo cáo kết quả kinh doanh của Công ty qua các năm trình bày qua các bảng, ta nhận thấy doanh thu của Công ty Chứng khoán Ngân hàng Công thương ổn định và tăng qua các năm. Trong đó, chủ yếu là doanh thu từ hoạt động kinh doanh chứng khoán. Các khoản thu này bao gồm doanh thu từ hoạt động môi giới chứng khoán cho nhà đầu tư, hoạt động tự doanh chứng khoán, tư vấn đầu tư chứng khoán… * Hoạt động môi giới chứng khoán Trong những năm qua, dịch vụ môi giới luôn đem lại nguồn thu lớn cho công ty. Hiện nay IBS quản lý hơn 8300 tài khoản trong đó có 32 tài khoản là tổ chức và 6 tài khoản là nhà đầu tư nước ngoài, giá trị giao dịch cổ phiếu trong năm 2006 của Trụ sở chính đạt 2.384,3 tỷ đồng. So với giá trị giao dịch của toàn thị trường vào khoảng 33 ngàn tỷ đồng thì giá trị giao dịch của Trụ sở chính Công ty chiếm 7,2% thị phần. Qua 6 năm hoạt động, doanh thu từ hoạt động môi giới luôn tăng ổn định qua các năm. Mặc dù thị trường có lúc thăng trầm song thị phần môi giới của IBS luôn là một trong những công ty luôn dẫn đầu thị trường. Bảng 2.2: Kết quả kinh doanh của hoạt động môi giới năm 2006 Chỉ tiêu Trụ sở chính Chi nhánh Công ty TH 2006 Năm 2005 +/- (%) TH 2006 Năm 2005 +/- (%) TH 2006 Năm 2005 +/- (%) Phí giao dịch 12,00 8,00 50 7,00 5,134 36,35 19,00 13,134 44,67 Phí dịch vụ hỗ trợ 1,5 0,661 127 0,5 0,37 35,14 2,00 1,031 93,99 Phí lưu ký 0,5 0,441 13,38 0 0 0 0,5 0,441 13,38 * Hoạt động tự doanh chứng khoán Tự doanh chứng khoán là hoạt động IBS mua và bán chứng khoán bằng nguồn vốn của chính mình. Tự doanh là hoạt động được IBS triển khai ngay từ những ngày đầu tham gia thị trường chứng khoán Việt nam. Dựa trên đội ngũ nhân viên hiểu biết thị trường, trong những năm qua hoạt động tự doanh luôn là hoạt động quan tâm hàng đầu của công ty, nguồn vốn của công ty dành phần lớn cho hoạt động tự doanh chứng khoán. Doanh thu tự doanh chứng khoán luôn tăng đều qua các năm và đóng góp tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của công ty. Song hoạt động tự doanh mới chỉ dừng lại ở việc mua bán chứng khoán đem lại lợi nhuận cho công ty, còn việc tạo lập thị trường cho chứng khoán thì hầu như chưa thực hiện. Bảng 2.3: Kết quả kinh doanh của hoạt động tự doanh cổ phiếu 2006 TT Chỉ tiêu Năm 2005 TH 2006 KH 2006 % KH 01 D/số mua vào (trđ) 2.134 46.789 - - 02 D/số bán ra (trđ) 971 35.674 - - 03 Lợi nhuận (trđ) 458 12.942 10.900 118,7% Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh năm 2006 của IBS Danh mục cổ phiếu hiện công ty đang nắm giữ đến ngày 31/12/2006 có số lãi dự kiến đạt trên 70 tỷ đồng. Bảng 2.4: Kết quả kinh doanh của hoạt động tự doanh trái phiếu năm 2006 TT Chỉ tiêu Năm 2005 TH 2006 KH 2006 % KH 01 D/số mua vào (trđ) 453.121 6.473.362 - - 02 D/số b._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36710.doc
Tài liệu liên quan