Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020

LỜI MỞ ĐẦU Giao thông vận tải là một ngành sản xuất vật chất có quy mô lớn, chiếm một vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế quốc dân. Trong đó gaio thông đường bộ chiếm phần chủ yếu và luôn được tập trung đầu tư phát triển hằng năm. Việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ tại nước ta nói chung và tại vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ nói riêng được nhận định là phải đi trước một bước, tạo động lực phát triển cho những ngành sản xuất khác và nâng cao khả năng thu hút đầu tư. Nếu k

doc62 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1395 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hông có chiến lược phát triển đúng đắn, đây sẽ là nhân tố tạo nên cản trở, kìm hãm năng suất lao động xã hội cũng như sự phát triển kinh tế. Từ quan điểm chiến lược này, trong những năm qua hạ tầng giao thông đường bộ của vùng luôn được sự quan tâm đầu tư phát triển. Tuy nhiên, dù đã được tập trung đầu tư phát triển song thực trạng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ vẫn chưa đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của vùng. Với tình hình chung là nền kinh tế nước ta còn gặp nhiều khó khăn do thiếu vốn, các nguồn lực còn hạn chế thì đầu tư như thế nào vào xây dựng cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ để đảm bảo hiệu quả nền kinh tế và để tương xứng với nhu cầu phát triển của các đô thị trong vùng là một vấn đề bức xúc cần thiết phải nghiên cứu. Vì vậy, việc nghiên cứu để hiểu rõ thực trạng và đưa ra giải pháp phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là thực sự cần thiết và cấp bách. Do đó tôi đã lựa chon đề tài: “Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020”. Mục đích của tôi trong bài chuyên đề này: làm rõ thêm lý luận cơ bản về phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ; đánh giá thực trạng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ (KCHT GTĐB) của khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (KTTĐ BB), chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó; đưa ra những giải pháp để phát triển mạng lưới giao thông đường bộ của vùng đến năm 2020. Nội dung chính của bài chuyên đề này được trình bày thành 3 chương, bao gồm: - Chương I : Sự cần thiết phải phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của khu vực đô thị ở Việt Nam - Chương II : Hệ thống giao thông đường bộ của khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - Chương III : Định hướng phát triển hệ thống giao thông đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đến năm 2020 và một số giải pháp Chương I Sự cần thiết phải phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của khu vực đô thị ở Việt Nam I. Tổng quan về KCHT GTĐB 1. Khái niệm về KCHT GTĐB 1.1. Khái niệm chung về KCHT Kết cấu hạ tầng là tổng thể những hệ thống cấu trúc, thiết bị và các công trình vật chất - kỹ thuật được tạo lập và phát huy tác dụng trong mỗi quốc gia, khu vực hay vùng lãnh thổ, đóng vai trò là nền tảng và điều kiện chung cho quá trình phát triển kinh tế - xã hội, cho quá trình sản xuất và nâng cao đời sống dân cư. Từ khái niệm này chúng ta có thể hiểu theo cách: - Theo nghĩa hẹp, kết cấu hạ tầng được hiểu là tập hợp các ngành phi sản xuất thuộc lĩnh vực lưu thông, tức là bao gồm các công trình vật chất kỹ thuật phi sản xuất và các tổ chức dịch vụ có chức năng đảm bảo những điều kiện chung cho sản xuất, phục vụ những nhu cầu phổ biến của sản xuất và đời sống xã hội. Tuy nhiên quan niệm theo nghĩa hẹp không cho thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa các bộ phận vốn không cùng tính chất nhưng lại có mối liên quan mật thiết với nhau trong một hệ thống thống nhất. - Theo nghĩa rộng, kết cấu hạ tầng được hiểu là tổng thể các công trình và nội dung hoạt động có chức năng đảm bảo những điều kiện “bên ngoài” cho khu vực sản xuất và sinh hoạt của dân cư. Tuy nhiên kết cấu hạ tầng theo nghĩa rộng không đồng nghĩa với phạm trù “môi trường kinh tế” ở chỗ kết cấu hạ tầng tạo điều kiện cho các khu vực kinh tế khác nhau phát triển. Như vậy, kết cấu hạ tầng là tổng hợp các công trình vật chất - kỹ thuật có chức năng phục vụ trực tiếp cho sản xuất và đời sống nhân dân, được bố trí trên một phạm vi nhất định. 1.2. Kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ Kết cấu giao thông vận tải theo nghĩa chung nhất là một bộ phận cấu thành kết cấu hạ tầng kỹ thuật, bao gồm một hệ thống các công trình kiến trúc và các phương tiện vật chất - kỹ thuật mang tính nền móng cho sự phát triển ngành GTVT, có chức năng phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của xã hội bao gồm: công trình và phương tiện của mạng lưới giao thông đường bộ, đường biển, đường sông, đường sắt, giao thông nông thôn và giao thông đô thị. Như vậy, kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ chính là một bộ phận cấu thành nên kết cấu hạ tầng giao thông vận tải. Tại chương 3 của Luật giao thông đường bộ quy định về kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ đã nêu rõ: điều 37: “Kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ bao gồm công trình đường bộ, bến xe, bãi đỗ xe và hành lang an toàn đường bộ. Mạng lưới đường bộ gồm quốc lộ, đường tỉnh, đường huyện, đường xã, đường đô thị và đường chuên dùng. Đường bộ được đặt tên hoặc số hiệu và phân thành các cấp đường.” 2. Hệ thống giao thông đường bộ - một bộ phận cần thiết của hệ thống giao thông. Ngành vận tải tiến hành nhờ những hình thức sau đây: vận tải thủy, vận tải hàng không, vận tải đường sắt, vận tải đường bộ. - Vận tải thủy: gồm cả vận tải sông và vận tải biển. Ưu điểm chính của nó là tiết kiệm năng lượng vận chuyển. Tuy nhiên loại hình này phụ thuộc nhiều vào thời tiết, tốc độ vận chuyển chậm nên thường vận chuyển các loại hàng hóa cồng kềnh. - Vận tải hàng không: có ưu điểm là tốc độ cao (khoảng 900km/h) nên tiết kiệm thời gian vận chuyển. Ngày nay ngành vận tải hàng không thực sự phát triển do nhu cầu di chuyển với khoảng cách dài của người dân, đồng thời do đã có nhiều cải tiến về công nghệ nên đã giảm giá thành, an toàn tăng và rất tiện nghi. - Vận tải đường sắt: có tốc độ vận chuyển khá cao, giá cả hợp lý nên vận chuyển một số lượng hàng hóa và hành khách lớn. Trong thời gian qua, đường sắt ở nước ta không có sự phát triển đặc biệt nên vẫn chỉ chiếm khoảng 5% lượng vận chuyển. - Vận tải đường bộ: là một ngành dịch vụ sản xuất có vị trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống kết cấu hạ tầng, là huyết mạch của quốc gia, là cầu nối giao lưu các hoạt động kinh tế - xã hội, đóng vai trò quan trọng trong quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Giao thông vận tải nói chung là sự kết hợp hữu cơ của kết cấu hạ tầng, phương tiện và tổ chức dịch vụ vận tải nhằm đạt được hiệu quả kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh, quốc phòng. Vận tải đường bộ là một trong những loại hình giao thông vận tải mà sử dụng hệ thống các công trình tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật có chức năng phục vụ nhu cầu sản xuất và sinh hoạt xã hội như: hệ thống các loại đường quốc lộ, đường đô thị, đường tỉnh lộ, đường huyện, đường xã, đường chuyên dùng, và hệ thống các loại cầu, bến bãi, đèn giao thông, đèn chiếu sáng... Tổng thể các công trình này được gọi là hệ thống giao thông đường bộ. Trong nền kinh tế quốc dân, vận tải là một ngành kinh tế đặc biệt và quan trọng. Nó có mục đích vận chuyển hàng hóa từ nơi này đến nơi khác. Trong quá trình sản xuất, nó không làm tăng giá trị sử dụng của hàng hóa, tuy nhiên tầm quan trọng của nó dễ nhận thấy trong mọi ngành kinh tế. Nó cung cấp nguyên liêu, nhiên liệu cho mọi nhà máy; nó vận chuyển vật liệu xây dựng, máy móc để xậy dựng các nhà máy. Trong quá trình sản xuất, giao thông đường bộ cũng đảm nhiệm chức năng vận chuyển từ phân xưởng tới phân xưởng và kho bãi. Ngày nay khi quá trình toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, nhu cầu liên kết sản xuất giữa các quốc gia ngày càng tăng thì quá trình vận tải càng trở nên quan trọng, đặc biệt là vận tải đường bộ. Cuối cùng, khâu phân phối tới tay người tiêu dùng cũng lại phải nhờ tới vận tải đường bộ là chủ yếu. Có thể thấy rằng giao thông đường bộ là một bộ phận tất yếu quan trọng bởi những ưu điểm của nó so với các hình thức vận tải khác, cụ thể như: + Giao thông đường bộ có tính cơ động cao, có thể vận tải trực tiếp không cần qua các phương tiện vận tải trung gian. + Đường bộ đòi hỏi đầu tư ít vốn hơn đường sắt, có thể đi được đến những nơi địa hình hiểm trở. + Tốc độ vận tải khá lớn, nhanh hơn đường thủy, tương đương với đường sắt, về cự ly ngắn có thể cạnh tranh với hàng không. + Cước phí vận chuyển trên đường bộ rẻ hơn nhiều so với hàng không nên lượng hành khách và hàng hóa thường chiếm 80 - 90% về khối lượng hàng và 59 - 70% về khối lượng vận chuyển. Ở nước ta, con số này là 50% và gần 90%. 3. Đặc điểm của hệ thống GTĐB 3.1. Tính hệ thống, đồng bộ Tính hệ thống, tính đồng bộ là đặc trưng cơ bản của nhiều nhánh khác nhau trong quan hệ tổng thể. Tính hệ thống, tính đồng bộ thể hiện ở chỗ nếu một khâu nào trong toàn bộ hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ không được thiết kế xây dựng hay được thiết kế xây dựng không hợp lý, không tương thích với toàn bộ hệ thống thì sẽ ảnh hưởng đến quá trình vận hành chung của toàn hệ thống, thậm chí có thể gây ách tắc hoặc thiệt hại lớn. Tính hệ thống, tính đồng bộ không những chi phối toàn diện đến quy hoạch thiết kế, đầu tư thiết bị cho các công trình cụ thể mà còn liên quan đến cách thức tổ chức quản lý theo ngành, theo khu vực lãnh thổ. Chính đặc điểm này đã đòi hỏi khi lập quy hoạch phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ cần phải xem xét đặt công trình giao thông trong tổng thể của toàn hệ thống, đảm bảo tính đồng bộ và hệ thống của toàn mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ, tránh tình trạng một vài mắt xích trong hệ thống không đảm bảo chất lượng gây ảnh hưởng xấu tới tổng thể. 3.2. Tính định hướng Đặc điểm này xuất phát từ chức năng của hệ thống giao thông đường bộ. Chức năng chủ yếu của giao thông đường bộ là thỏa mãn nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa của người dân, tức là nó góp phần mở đường cho các hoạt động kinh doanh khác phát triển. Hơn nữa đầu tư vào cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ đòi hỏi lượng vốn lớn, thời gian sử dụng lâu dài. Chính vì vậy mà cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ có tính định hướng, nó là lĩnh vực tiên phong cho các ngành khác phát triển. Đặc điểm này đặt ra cho các nhà hoạch định chính sách phải đưa ra kế hoạch dài hạn, chiến lược phát triển giao thông đường bộ lâu dài để phục vụ cho các ngành khác hoạt động hiệu quả trong tương lai. 3.3. Mang tính chất vùng và địa phương Việc xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ phụ thuộc vào nhiều yếu tố: đặc điểm địa hình, khí hậu, phong tục tập quán, trình độ phát triển kinh tế của vùng, chính sách phát triển cảu nhà nước... Vì thế, hệ thống kết cấu giao thông đường bộ mang tính chất vùng, tính địa phương rõ nét. Đặc điểm này đặt ra trong quy hoạch phân bố hệ thống giao thông đường bộ, trong việc sử dụng các nguồn lực đầu vào... vừa phải đặt trong điều kiện tình hình chung đất nước, trong điều kiện tự nhiên cũng như điều kiện kinh tế xã hội của vùng lãnh thổ. 3.4. Mang tính chất dịch vụ cộng đồng cao Các sản phẩm của ngành đều là các dịch vụ, phục vụ trực tiếp nhu cầu đi lại, sản xuất và đời sống của người dân trên phạm vi lãnh thổ cũng như ngoài lãnh thổ. Các sản phẩm đó không phải là dạng vật chất cụ thể mà nó được đo bằng khối lượng hang hóa vận chuyển, lưu lượng hành khách hoặc bằng mức độ thỏa mãn của khách hàng nhận được dịch vụ. Đặc điểm này có được xuất phát từ tác dụng của hệ thống giao thông đường bộ dùng để vận chuyển, luân chuyển hàng hóa và hành khách. Dịch vụ giao thông đường bộ là những hàng hóa công cộng, phục vụ vì mục đích chung của nhiều ngành, nhiều người cũng như toàn xã hội nói chung. Đặc điểm này đặt ra yêu cầu giải quyết mối quan hệ giữa mục địch kinh doanh với mục đích phục vụ cộng đồng mang tích chất phúc lợi xã hội. Đồng thời xác định hệ thống các chủ thể tham gia sử dụng, hệ thống các chính sách và công cụ để điều hòa mối quan hệ giữa hiệu quả kinh tế và hiệu quả xã hội. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các nước đang phát triển, nơi có thu nhập của dân cư thấp, nguồn thu Ngân sách của Nhà nước hạn hẹp, không đủ để có thể đáp ứng hết nhu cầu đầu tư phát triển kinh tế nói chung và của cơ sở hạ tầng giao thông nói riêng. 4. Vai trò của hệ thống giao thông đường bộ với phát triển kinh tế - xã hội 4.1. Đường bộ đáp ứng nhu cầu của đời sống xã hội Mạng lưới giao thông đường bộ góp phần quan trọng trong việc đáp ứng nhu cầu đi lại, vận chuyển, trao đổi hàng hóa của người dân giữa các vùng hoặc ngay trong một vùng, giao lưu quốc tế. Do đó, trước hết nó đáp ứng nhu cầu tối thiểu của con người, đảm bảo tái sản xuất sức lao động xã hội. 4.2. Thúc đẩy giao lưu hàng hóa, phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế giữa các ngành và các vùng lãnh thổ Để có được sản phẩm hàng hóa, người sản xuất cần có các yếu tố đầu vào của thị trường yếu tố sản xuất, những yếu tố này lại được vận chuyển đến tay người sản xuất chủ yếu thông qua hình thức vận chuyển bằng đường bộ. Như vậy, giao thông đường bộ thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, là cầu nối giúp các ngành kinh tế phát triển một cách đồng đều. Mạng lưới giao thông đường bộ phát triển sẽ góp phần phát triển kinh doanh xuất nhập khẩu giữa các nước trong khu vực, tiêu thụ sản phẩm hàng hóa do quốc gia đó sản xuất ra, đi lại thuận lợi là điều kiện cho ngành du lịch phát triển... Do điều kiện tự nhiên các vùng khác nhau, nên trong quá trình phát triển sẽ có sự phát triển không đồng đều. Khi có giao thông đường bộ nối giữa vùng phát triển với vùng kém phát triển sẽ tạo ra quá trình trao đổi các nguồn lực giữa các vùng. Điều này có thể phát huy được lợi thế so sánh của từng vùng và tạo tiền đề cho sản xuất chuyên môn hóa, hợp tác hóa, qua đó tạo nên hiệu quả kinh tế cao, nâng cao tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. 4.3. Thu hút các nguồn lực bên ngoài Nguồn lực được nói đến ở đây không chỉ là vốn mà còn là sức lao động, chất xám, công nghệ, kỹ năng tổ chức và quản lý sản xuất. Với những quốc gia có trình độ năng lực sản xuất yếu kém như nước ta hiện nay thì đây là một lợi ích quan trọng mà hệ thống giao thông vận tải nói chung và giao thông đường bộ nói riêng đem lại. Với phạm vi một vùng lãnh thổ thì đường bộ là phương tiện đưa tới các nguồn lực từ các khu vực khác mà không có hoặc chưa đáp ứng đủ nhu cầu trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Còn trên phạm vi quốc gia thì đường bộ không chỉ là phương tiện mà còn là một yếu tố quan trọng để thu hút nguồn lực đầu tư từ bên ngoài. Các nhà đầu tư nước ngoài luôn căn cứ vào sự phát triển kết cấu hạ tầng trong đó có hạ tầng giao thông vận tải để đi đến quyết định đầu tư cuối cùng. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ hoàn chỉnh, thuận tiện sẽ tạo nên sức hấp dẫn cao đối với nhà đầu tư nước ngoài. II. Sự cần thiết phải phát triển KCHTGTĐB của khu vực đô thị ở Việt Nam Xây dựng các công trình KCHT GTĐB là một ngành sản xuất với mục đích làm tiền đề cho phát triển các ngành kinh tế xã hội khác. Hiệu quả của nó chính là sự thúc đẩy và tạo tiềm năng phát triển, thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài, tối ưu hóa các nguồn lực ở địa phương và cuối cùng là mở rộng quy mô và năng lực của cơ sở hạ tầng kỹ thuật của một khu vực nhất định. Có thể thấy được phần nào vai trò của việc phát triển KCHT qua kết quả đánh giá của Ngân hàng thế giới: nếu đầu tư cho KCHT tăng thêm 1% thì GDP cũng tăng thêm 1% và bình quân hằng năm một người dân nhận được 0,3% nước sạch; 0,8% mặt đường trải nhựa; 1,5% năng lượng và 1,7% về thông tin liên lạc. Trong thời kỳ suy giảm, việc đầu tư mạnh vào KCHT kỹ thuật là công cụ, chính sách để kích thích sự phục hồi nền kinh tế. Do đó việc phát triển và hoàn thiện mạng lưới đường bộ luôn là nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển bền vững của đất nước. Phát triển KCHTGTĐB là loại hình đầu tư mang tính xã hội hóa cao, lợi ích có được là cho cả nền kinh tế - xã hội nên ngoài mục đích thu lợi nhuận, nhà đầu tư chủ yếu muốn đạt lợi ích lâu dài mà thông qua hoạt động đầu tư này đem lại cho cộng đồng và xã hội. Việc sử dụng các công trình giao thông đường bộ đem lại những tiện ích và hữu dụng cũng như sự thuận lợi trong giao thông vận tải hàng ngày, đáp ứng nhu cầu đi lại của người dân. Cuộc sống của người dân quanh các công trình giao thông đường bộ được hưởng những lợi ích trực tiếp tới cuộc sống sinh hoạt của họ. Kết quả được hưởng là sự tiết kiệm thời gian, giảm chi phí vận chuyển con người và hàng hóa. Tốc độ khai thác các phương tiện đi lại và tình hình ùn tắc giao thông đã làm mất khá nhiều thời gian của khách hàng và phương tiện lưu thông trên đường. GTVT nói chung và giao thông đường bộ nói riêng chiếm một vị trí quan trọng trong phát triển kinh tế quốc dân. Phát triển mạng lưới kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ chính là tiền đề giúp cho sự phát triển cân bằng về kinh tế giữa các vùng trong quốc gia, giảm chênh lệch mức sống người dân giữa các vùng kinh tế. Phát triển mạng lưới đường bộ hợp lý còn đem lại những tác động tích cực tới đời sống kinh tế - xã hội như: tác động giảm đói nghèo tại các vùng các vùng sâu, vùng xa do phát triển buôn bán thương mại, trao đổi hàng hóa có lợi thế so sánh, nâng cao đời sống người dân, tạo cơ hội tiếp cận thị trường lao động, tăng thu nhập... Lợi ích của việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ nhiều khi không thể lượng hóa, định lượng được. Đó là lợi ích gián tiếp đem lại từ việc xây dựng các công trình giao thông đường bộ. Những vấn đề cấp bách của xã hội sẽ được giải quyết thông qua việc phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ. Đó là sự giảm thiểu tỷ lệ tai nạn giao thông xảy ra trên đường do những hạn chế về chất lượng hệ thống đường bộ. Mạng lưới giao thông đường bộ sẽ ngày càng trở nên quá tải với số lượng và mật độ phương tiện giao thông phát triển như hiện nay. Do đó các dự án phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ luôn nằm trong chiến lược phát triển giao thông vận tải quốc gia cũng như phát triển kinh tế hội nhập. Một lợi ích khác mà thông qua phát triển KCHT GTĐB chúng ta có thể nhận được là việc cải thiện chất lượng môi trường. Những dự án đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ đều được tính tới yếu tố môi trường. Có thể nói, trong những năm gần đây, ngành GTVT đã được nhà nước ưu tiên tăng vốn đầu tư từ nguồn ngân sách để xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông (bình quân khoảng 15% mỗi năm). Đối với nước ta, khi bước vào thời kỳ đổi mới nền kinh tế, đặc biệt là khoảng 10 trở lại đây, việc phát triển kết cấu hạ tầng giao thông vận tải nói chung và kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ nói riêng đã góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh và quốc phòng của đất nước. Sự phát triển nhanh và ngày càng nâng cao về chất lượng kết cấu hạ tầng GTĐB đã thỏa mãn tốt hơn nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng hóa của xã hội. Đối với vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, tầm quan trọng của việc triển KCHT GTĐB khu vực đô thị được thể hiện trên các phương diện sau: 1. Về Kinh tế 1.1. Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ là một trong những yếu tố tác động mạnh mẽ tới phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội trong vùng, thúc đẩy giao thương với các vùng khác và hội nhập quốc tế của vùng. Nếu đầu tư phát triển một hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ đồng bộ và hiện đại sẽ tạo điều kiện phát triển đồng đều giữa các đô thị cũng như các tỉnh nói chung trong vùng, giảm sự chênh lệch về dân trí giữa các khu vực dân cư đó. Thực tế cho thấy đô thị nào có cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ được đầu tư phát triển thì có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn, tạo ra sự mất cân đối trong vùng. Tuy nhiên sự mất cân đối đó là không đáng kể trong vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, và ngày càng được thu hẹp dần do tốc độ phát triển cao của các đô thị “mới nổi” trong những năm gần đây (Bắc Ninh, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc). Mặt khác, việc phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ sẽ giúp cho vùng có thể tối ưu hóa các nguồn lực, phát huy tiềm lực của từng đô thị trong sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ. Nền sản xuất hàng hóa sẽ phát triển hơn nữa thông qua hệ thống trao đổi và phân phối sử dụng mạng lưới giao thông đường bộ trong vùng và liên tỉnh. Phát triển KCHT GTĐB còn là một đòi hỏi cấp bách để theo kịp tốc độ phát triển của các phương tiện cơ giới đường bộ cũng như nhu cầu lưu thông hàng ngày càng cao tại các đô thị trong vùng KTTĐ Bắc Bộ hiện nay. Bên cạnh đó, ngành du lịch đầy tiềm năng của vùng cũng sẽ phát triển khi có được một hệ thống giao thông đường bộ hoàn thiện, thuận tiện và liện kết được các vùng miền khác trong nước. Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ còn có ý nghĩa rất quan trọng góp phần cải thiện môi trường đầu tư của vùng, nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của hàng hoá, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. “Phát triển cơ sở hạ tầng” và “thu hút vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng” là hai vấn đề liên quan, tác động qua lại. Chúng ta xây dựng và phát triển cơ sở hạ tầng GTĐB để thu hút vốn đầu tư nước ngoài và sử dụng chính nguồn vốn đó để xây dựng kết cấu hạ tầng đường bộ, tạo điều kiện cho các ngành sản xuất vật chất khác hoạt động hiệu quả hơn, tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm. Phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ sẽ kéo theo sự phát triển của đô thị, giản tiếp tác động tới quá trình phát triển của những địa phương lân cận. Tầm ảnh hưởng của nó lại phụ thuộc vào tính chất, quy mô của đô thị, các thành phần chức năng cũng như mối quan hệ giữa chúng. Tính lan tỏa của đô thị cũng thay đổi theo thời gian, ngày càng mạnh mẽ theo quá trình đô thị hóa, công nghiệp hóa. Thông qua các bộ phận chức năng, những thay đổi trong nội bộ đô thị sẽ tác động đến các khu vực lân cận cũng như toàn vùng nói chung, tạo nên động lực chung cho sự phát triển của vùng. 1.2. Phát triển giao thông đường bộ là cơ sở và động lực để phát triển các ngành kinh tế khác. Có thể nói rằng hạ tầng giao thông đường bộ là một mắt xích rất quan trọng trong hệ thống nền kinh tế. Việc tăng cường phát triển giao thông đường bộ sẽ thúc đẩy sự phát triển của các ngành kinh tế có liên quan. Có thể minh họa điều này một cách đơn giản như sau: - Khi xây mới hay nâng cấp sửa chữa hệ thống giao thông đường bộ thì phải cần các yếu tố đầu vào như: máy móc, sắt thép, xi măng, đá, nhựa đường, sức lao động... Những yếu tố này lại đặt ra cơ hội cho các ngành chế tạo máy, luyện kim, công nghiệp xi măng, giáo dục... phát triển để đáp ứng. Như vậy việc phát triển hệ thống giao thông đường bộ đã tạo điều kiện cho một số ngành phát triển. Đến lượt mình, các ngành đó lại tạo ra cơ hội cho các ngành kinh tế khác cung cấp các nguyên liệu cho ngành này phát triển. Quá trình đó diễn ra theo dây truyền, nó sẽ kéo theo một loạt các ngành kinh tế phát triển. Như vậy, sự phát triển của hạ tầng giao thông đường bộ đã kéo theo hàng loạt các ngành kinh tế khác. Các ngành kinh tế này có mối quan hệ phụ thuộc nhau, ngành này phát triển sẽ thúc đẩy ngành khác và ngược lại. Giữa các ngành kinh tế đó là mối quan hệ biện chứng, tạo nên mạng lưới các mắt xích đan xen, tương tác và phụ thuộc lẫn nhau, là tiền đề và động lực cho nhau cùng phát triển. 1.3. Hạ tầng giao thông đường bộ phát triển sẽ góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Mục đích của các doanh nghiệp luôn là tối đa hóa lợi nhuận. Vì vậy trong quá trình tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp luôn tìm cách để tối thiểu hóa chi phí. Đối với nhiều doanh nghiệp thì chi phí vận tải (bao gồm cả chi phí vận tải nguyên liệu đầu vào và vận chuyển hàng hóa đến nơi tiêu thụ) chiếm một tỷ lệ đáng kể. Điều này giải thích tại sao các nhà đầu tư luôn muốn đầu tư vào những nơi có mạng lưới hạ tầng giao thông thuận tiện. Do vậy, khi mạng lưới hạ tầng giao thông đường bộ phát triển thì các doanh nghiệp sẽ giảm được đáng kể chi phí vận chuyển. Ngoài ra doanh nghiệp còn tiết kiệm được chi phí bảo quản hàng hóa, giảm được lượng tồn kho. Nhờ đó doanh nghiệp có thể hạ thấp giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. Mặt khác, hạ tầng giao thông đường bộ thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho doanh nghiệp có thể thực hiện tiêu thụ sản phẩm cũng như việc đảm bảo các yếu tố đầu vào đúng lúc, đúng nới, giảm tồn kho, giảm chi phí quản lý và chi phí bảo quản, qua đó giảm giá thành sản phẩm, tăng khả năng cạnh tranh và tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp Một lợi ích không nhỏ nữa mà hạ tầng giao thông đường bộ phát triển có thể đem lại cho doanh nghiệp là hàng hóa được vận chuyển nhanh hơn, hàng hóa được tiêu thụ nhanh hơn. Qua đó, doanh nghiệp có thể rút ngắn thời gian quay vòng vốn, tăng hiệu quả sử dụng vốn cũng như tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. 1.4. Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ luôn nằm trong mục tiêu "phát triển bền vững" Các nguyên tắc phát triển bền vững được hiểu cụ thể là chiến lược phát triển lâu dài, hoà hợp với thế giới, thống nhất trong quá trình phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ môi trường. Trong quan điểm phát triển GTVT nói chung, vấn đề phát triển bền vững nhằm vào ba phương diện: phương diện nhu cầu, phương diện cung ứng và phương diện thể chế. Nước ta là nước đang phát triển, tốc độ đô thị hoá đang diễn ra mạnh mẽ, ngành GTVT đang đứng trước thách thức mới là xây dựng hệ thống giao thông vận tải đáp ứng nhu cầu giao thông tăng của xã hội, áp lực về tài chính thì rất lớn, sức ép về môi trường cũng không nhỏ, áp lực về tài chính thì rất lớn, sức ép về môi trường cũng không nhỏ. Do đó ngành GTVT không tồn tại riêng lẻ mà cấu thành bởi nhu cầu xã hội, chính sách giao thông vận tải cũng không tồn tại cho bản thân ngành mà phục vục các mục tiêu xã hội như phát triển kinh tế, xã hội và bảo vệ môi trường. Việc nhận diện các mục tiêu là vấn đề cốt lõi mà từ đó đề xuất các chính sách, xây dựng chiến lược, quy hoạch và quản lý hệ thống giao thông vận tải. Trong thời gian qua, ngành giao thông vận tải đã tổ chức thực hiện một loạt quy định mới về trách nhiệm của tổ chức và cá nhân trong quản lý, tổ chức xây dựng và sửa chữa đường giao thông, xây dựng cơ sở hạ tầng cũng như khắc phục những khâu yếu kém trong quá trình phát triển giao thong vận tải. Ngành cũng đã tiến hành thanh tra, xử lý nghiêm túc những sai phạm dẫn đến chất lượng yếu kém của các công trình kết cấu giao thông đường bộ. Cũng nằm trong mục tiêu phát triển bền vững thì trong thời gian qua, hầu hết các công trình giao thong đường bộ đều được thực hiện đánh giá tác động môi trường và tuân thủ nghiêm ngặt các tiêu chuẩn bảo vệ môi trường. 2. Về các vấn đề xã hội 2.1. Giao thông đường bộ giải quyết việc làm cho nhiều lao động dư thừa, góp phần vào công nghiệp hóa, đô thị hóa Đồng thời với sự tăng trưởng kinh tế, ngành công nghiệp đã phát triển mạnh mẽ dẫn tới tình trạng đô thị hóa diễn ra nhanh chóng. Hiện tượng di dân ra các đô thị làm cho các đô thị ngày càng phình ra. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng di dân ra đô thị là do lao động ở nông thôn thiếu việc làm, thu nhập thấp. Để giải quyết được tình trạng này thị một giải pháp quan trọng đó là đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ. Cụ thể cầ tăng cường phát triển các trục giao thông quan trọng trong vùng và các trục giao thông nối liền các vùng kinh tế. Dọc theo các tuyến đường này sẽ hình thành nên các khu công nghiệp (ví dụ khi đường 5 được đầu tư phát triển đã có nhiều nhà máy và các khu công nghiệp mọc lên dọc theo tuyến đường này), các khu công nghiệp này sẽ thu hút nguồn lao động dư thừa ở nông thôn và kéo giãn lao động ở đô thị, đặc biệt là ở các đô thị lớn. Như vậy, không những giải quyết được tình trạng dân cư tập trung ở các đô thị một cách quá đông mà còn góp phần thúc đẩy sự phát triển của công nghiệp. Mặt khác, việc phát triển giao thông đường bộ sẽ giúp cho việc giao lưu thương mại thuận tiện hơn. Tại các nút giao thông sẽ dần hình thành nên các đô thị mới, tận dụng nguồn lao động nhàn dỗi ở nông thôn, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp mà không gây sức ép về kinh tế. Như vậy nó đã tạo điều kiện cho chuyển dịch kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa. 2.2. Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ còn là giải pháp trực tiếp và gián tiếp tới những vấn đề xã hội cấp bách Phát triển cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ trước hết là để đáp ứng nhu cầu giao thông vận tải của xã hội đang có nhu cầu tăng nhanh trong thời gian vừa qua. Nhu cầu giao thông đường bộ bao gồm cả nhu cầu vận chuyển hàng hoá và nhu cầu vận chuyển hành khách. Theo thống kê thì trong khoảng 10 năm trở lại đây, hoạt động vận tải bình quân tăng 8.6%/năm về tấn hàng hoá, 9.9% về T.km, 8.0% về hành khách và 9.6% về HK.km. Tốc độ tăng như trên là khá cao so với tốc độ tăng trưởng bình quân cả nước, và là sức ép lớn đối với khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Chất lượng dịch vụ vận tải đường bộ cũng phụ thuộc rất lớn vào hiện trạng mạng lưới đường bộ hiện có. Chất lượng dịch vụ vận tải đường bộ cũng sẽ được nâng cao nếu có một hệ thống kết cấu hạ tầng đường bộ đạt tiêu chuẩn, hiện đại và đồng bộ. Khi mạng lưới đường bộ được nâng cấp, mở rộng sẽ góp phần quan trọng trong việc giảm tai nạn giao thông và hạn chế tình trạng ùn tắc giao thông tại các đô thị, đặc biệt là tại Thủ đô Hà Nội. Công tác an toàn giao thông với việc thực hiện mục tiêu "3 giảm" - giảm số vụ tai nạn, giảm số người chết và giảm số người bị thương sẽ không thể thực hiện thành công nếu hiện trạng đường bộ không đựơc cải thiện. Những vụ tai nạn giao thông xảy ra ngoài những nguyên nhân như ý thức người tham gia giao thông kém, thói quen điều khiển phương tiện không tuân thủ quy định an toàn giao thông thì một yếu tố quan trọng là hệ thống kết cấu hạ tầng giao tông đường bộ còn kém chất lượng, không bảo dưỡng bảo trì thường xuyên, và điểm mấu chốt là chưa phát triển kịp với tốc độ phát triển của phương tiện vận tải đường bộ. Phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ còn giải quyết được vấn đề môi trường giao thông, hiện là vấn đề bức xúc của mọi người dân. Khó thải, bụi và tiếng ồn giao thông vận tải đường bộ đã vượt quá chỉ số cho phép tại nhiều đô thị. Chất lượng các phương tiện giao thông đường bộ thấp lại kết hợp cơ sở hạ tầng chưa phát triển đã tạo nên sự ô nhiễm cao. Dân cư sống tập trung hai bên đường, mặt phố với mật độ cao càng làm tăng mức độ ảnh hưởng đến môi trường giao thông. Hiện tượng ô nhiễm không khí thường xuyên xảy ra trong hệ thống giao thông có chất lượng kém và kết cấu hạ tầng cũng như hệ thống thiết bị giao thông đường bộ chưa đầy đủ. Do vậy, một giải pháp bảo vệ môi trường giao thông bên cạnh những giải pháp về kỹ thuật, chính sách, luật lệ hay phát triển giao thông công cộng đó là phát triển kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ bền vững. Một mạng lưới giao thông đường bộ có quy hoạch hoà._.n chỉnh về tiêu chuẩn kỹ thuật, về yếu tố kinh tế - xã hội sẽ giải quyết triệt để vấn đề ô nhiễm môi trường giao thông đường bộ. Môi trường giao thông tại các đô thị sẽ thoát khỏi tình trạng quá tải và xuống cấp. 3. Nhu cầu CSHT giao thông đường bộ ngày càng tăng Nhìn lại 20 năm đổi mới, đất nước ta đã có những thay đổi vô cùng to lớn. Là một trong hai vùng kinh tế trọng điểm, đóng vai trò đầu tàu của cả nước, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đang có bước tiến lớn về mọi mặt. Đây là vùng kinh tế năng động, quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa diễn ra mạnh mẽ hình thành một nền sản xuất công nghiệp khá tiên tiến và đầy triển vọng trong tương lai. Quá trình công nghiệp hóa không chỉ diễn ra theo chiều sâu với việc tạo ra sản phẩm hàng hóa có sức cạnh tranh, mà còn diễn ra theo chiều rộng với việc hình thành thêm nhiều ngành công nghiệp mới, việc chuyên môn hóa sản xuất công nghiệp theo đó cũng có những thay đổi rõ rệt. Sự phát triển công nghiệp của cả nước nói chung và của vùng kinh tế trọng điểm nói riêng khiến cho nhu cầu vận tải hàng hóa và dịch vụ tăng nhanh. Nhu cầu vận tải hàng hóa cho sản xuất và tiêu dùng không chỉ dừng lại ở phạm vi trong vùng, trong nước nói chung, mà nó đã mở rộng ra quốc tế thể hiện ở kim ngạch xuất - nhập khẩu không ngừng tăng theo các năm. Điều đó đang tạo một áp lực rất lớn lên hạ tầng giao thông nói chung và hạ tầng giao thông đường bộ nói riêng của từng vùng, đòi hỏi mạng lưới giao thông đường bộ phải không ngừng nâng cấp và mở rộng để đáp ứng nhu cầu của từng đơn vị thị trường nhỏ nhất. Một trong những ngành công nghiệp đang phát triển rất mạnh là công nghiệp sản xuất phương tiện giao thông vận tải đường bộ, tạo ra các sản phẩm phương tiện vận tải đa dạng, giá thành hạ. Bên cạnh đó, kết quả của quá trình phát triển kinh tế dần nâng cao thu nhập của người dân, tạo khả năng tiếp cận với thị trường phương tiện vận tải đường bộ. Ngoài sự gia tăng của các phương tiện vận tải cơ giới phục vụ cho sản xuất và dịch vụ thì cũng phải kể đến sự phát triển quá nhanh của các phương tiện vận tải cá nhân. Như vậy, hạ tầng giao thông đường bộ phải phục vụ cùng một lúc nhu cầu vận tải cho sản xuất, dịch vụ và nhu cầu cá nhân dẫn đến tình trạng chồng chéo hiện nay mà chưa có phương án giải quyết dứt điểm được. 4. Sự bất cập của hệ thống GTĐB Kinh tế nước ta ngày càng phát triển, cùng với đó thì nhu cầu đi lại và vận chuyển hàng hóa của người dân cũng ngày càng tăng, tạo sức ép lên hệ thống giao thông nói chung và giao thông đường bộ nói riêng. Bên cạnh đó, sự phát triển quá nhanh của các phương tiện giao thông và sự quản lý lỏng lẻo của các cơ quan chức năng, trong khi nguồn lực cho việc khôi phục, nâng cấp hệ thống giao thông đường bộ còn chưa thể đáp ứng đầy đủ những yêu cầu đó. Kết quả là tình trạng xuống cấp nghiêm trọng làm giảm hiệu quả vận chuyển hàng hóa và hành khách. Trong khi đó, tiến độ triển khai thực hiện các dự án nâng cấp và xây mới các công trình hạ tầng giao thông đường bộ lại diễn ra rất chậm. Để tạm thời khắc phục tình trạng này, các cơ quan quản lý lại không có biện pháp triệt để mà lựa chọn phương án sửa chữa "chắp vá" gây lãng phí, thiếu hiệu quả. Và hệ quả tất yếu là các công trình hạ tầng giao thông đường bộ vẫn tiếp tục xuống cấp theo từng ngành, chi phí cải tạo hằng năm theo đó cũng tăng. Sự yếu kém của hạ tầng giao thông đường bộ của vùng còn thể hiện ngay trong chính tổ chức mạng lưới hiện nay. Lịch sử phát triển đã mang lại cho vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ một mạng lưới giao thông khá hoàn chỉnh, tuy nhiên mạng lưới này lại đang bộc lộ những hạn chế của nó dưới áp lực của tốc độ phát triển kinh tế rất nhanh hiện nay. Trên mạng lưới, đã xuất hiện nhiều tuyến, nhiều nút giao thông kém hiệu quả, việc cải tạo và nâng cấp là không khả thi, cần phải được xây dựng thay thế cho tương xứng với vai trò quan trọng của nó. Bên cạnh đó, do quá trình đô thị hóa diễn ra quá nhanh, mạng lưới giao thông đường bộ của vùng đang trở nên lỗi thời cả về quy mô và chất lượng. Mức độ bao phủ của mạng lưới giao thông còn rất chậm so với quá trình đô thị hóa, chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại trong các đô thị cũng như giữa các đô thị với nhau. Chương II Hệ thống giao thông đường bộ của khu vực đô thị vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ I. Giới thiệu về vùng KTTĐ Bắc Bộ 1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ nằm ở trung tâm của khu vực Đồng bằng sông Hồng với bờ biển chạy dài gần 300km có một số vịnh khá sâu, kín gió thuận lợi cho xây dựng cảng biển kể cả cảng nước sâu giao thương với quốc tế; do đó có vị trí và vai trò rất quan trọng về phát triển kinh tế, giao lưu thương mại và an ninh quốc phòng cho miền Bắc và cả nước. Vùng KTTĐBB bao gồm các tỉnh và thành phố: Hà Nội (hạt nhân của vùng), Hải Phòng, Quảng Ninh, Hải Dương, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Hưng Yên và Hà Tây. Đây là trung tâm kinh tế năng động và là một đầu tàu kinh tế quan trọng của miền Bắc và của cả nước Việt Nam. Ưu thế lớn nhất của vùng kinh tế này là nhân lực có đào tạo tốt, có điểm thi vào các trường đại học cao đẳng cao nhất nước và tỷ lệ sinh viên trên đầu người cao nhất nước. Vị trí địa lý của vùng này hết sức chiến lược, nằm trong vành đai kinh tế Vân Nam, Quảng Tây và Bắc Bộ, đầu mối giao thương hàng đầu với Trung Quốc. - Vùng có diện tích tự nhiên 15.289 km2, chiếm 4,6% diện tích cả nước, phần lớn diện tích là đồng bắng. Dân số trung bình năm 2005 có 13.555,5 nghìn người, chiếm 16,3% dân số cả nước; trong đó dân số thành thị có 4.325,3 nghìn người, chiếm 31,9% dân số. - Vùng có lịch sử phát triển và bề dày văn hoá lâu đời. Nhân dân cần cù, có trình độ học vấn, có kinh nghiệm làm ăn. - Vùng có kinh tế nông nghiệp phát triển, có nền công nghiệp cân đối và tương đối phát triển so với vùng khác. - Vùng là trung tâm chính trị, văn hoá của cả nước. Là trung tâm giao lưu, dịch vụ, thương mại, du lịch của các tỉnh phía Bắc. Vùng là đầu mối giao thông của cả nước và ra nước ngoài. - Là nơi cung cấp các tiến bộ khoa học và công nghệ cho các vùng khác, là nơi đào tạo và cung cấp cán bộ cho cả nước. 2. Các mối quan hệ liên vùng - Đồng bằng sông Hồng có vị trí trung tâm của sự giao lưu giữa vùng Đông Bắc với vùng Tây Bắc, giữa vùng núi phía Bắc với miền Trung. Do vị trí tự nhiên, Đồng bằng sông Hồng trở thành nơi ra biển của các tỉnh phía Bắc và so điều kiện phát triển hoạt động liên vận quốc tế. Các con sông lớn của Đồng bằng sông Hồng đều bắt nguồn từ vùng núi phía Bắc, rồi đổ ra biển Đông. Mọi tác động lên môi trường, như chặt phá rừng, rửa trôi đất ở các tỉnh dầu nguồn, đều gây ra ảnh hưởng và tác động lên Đồng bằng sông Hồng. Đồng bằng sông Hồng chịu ảnh hưởng rất mạnh của biển Đông và ảnh hưởng của bão lụt về mùa mưa. Về mùa cạn, độ mặn từ biển xâm nhập sâu vào đất liền ảnh hưởng đến nước sông và các hoạt động sản xuất của vùng ven biển. Dòng chảy ngược khi triều lên mang theo nước mặn vào sâu trong đất liền, trên sông Hồng là 20 km, trên sông Thái Bình là 40 km. Do tình hình xâm thực trên lưu vực khá mạnh, nên sông Hồng có lượng cát bùn lớn nhất trong các sông ở nước ta. Hàng năm lượng cát bùn góp phần lấn ra biển hàng trăm hecta đất mới. Lượng cát bùn này làm cho nhiều cửa sông và luồng lạch bị bồi lắng và thường xuyên phải nạo vét. - Các thành phố và khu công nghiệp ngày càng phát triển làm cho nước sông Hồng đang bị ô nhiễm cục bộ và có nguy cơ bị ô nhiễm trên toàn tuyến. - Do mật độ dân số của Đồng bằng sông Hồng lớn, cho nên một số dân vùng Đồng bằng sông Hồng di chuyển sang các vùng khác sinh sống. - Đồng bằng sông Hồng là vùng nông nghiệp phát triển của nước ta, cho nên hàng năm có khoảng 15% sản phẩm nông nghiệp được đưa ra khỏi vùng. - Đồng bằng sông Hồng chưa sản xuất đủ các sản phẩm công nghiệp cho nên hàng năm chỉ đáp ứng 45% nhu cầu, còn lại 35% phải đưa từ các vùng khác vào và 20% phải nhập từ nước ngoài. - Đối với các nước ngoài, công nghiệp Đồng bằng sông Hồng xuất sản phẩm ít hơn nhập nguyên liệu. Đối với các vùng khác trong nước, Đồng bằng sông Hồng xuất sản phẩm nhiều hơn nhập nguyên liệu. Đối với nội vùng, công nghiệp Đồng bằng sông Hồng chưa có đủ nguyên liệu trong vùng. - Đồng bằng sông Hồng đang là địa bàn thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Quy mô đầu tư vào vùng đang tăng. - Đồng bằng sông Hồng là một trung tâm dịch vụ lớn cho cả nước. Các hoạt động tài chính, ngân hàng, xuất nhập khẩu, du lịch, thông tin, tư vấn, chuyển giao công nghệ của Đồng bằng sông Hồng mở rộng ra trên phạm vi cả nước, chủ yếu là ở các tỉnh phía Bắc. Vùng Đồng bằng sông Hồng nổi trội hơn các vùng khác về dịch vụ bưu điện và kinh doanh tiền tệ. - Đồng bằng sông Hồng là một trung tâm du lịch lớn với nhiều tiềm năng về cảnh quan thiên nhiên, về di tích văn hoá, lịch sử, dân tộc, và cũng gần các vùng xung quanh có những tiềm năng du lịch quan trọng, có thể tạo thành các tuyến du lịch liên vùng. 3. Lợi thế - Vùng phát triển kinh tế trọng điểm Bắc Bộ (PTKTTĐ Bắc Bộ) có vị trí địa lý, kinh tế quốc phòng độc đáo, tạo ra lợi thế so sánh mang ý nghĩa quốc gia và khu vực cũng nưh đảm nhận vị trí đặc biệt quan trọng trong bảo vệ an ninh, quốc phòng: Vùng PTKTTĐBắc Bộ nằm giữa hai bộ phận lãnh thổ Đồng bằng sông Hồng và sườn núi Đông Bắc với 3 đỉnh là thành phố Hà Nội, Hải Phòng và Hạ Long, có diện tích tự nhiên 10912 km2, chiếm 3,3% diện tích tự nhiên cả nước; có Hà Nội - thủ đô của cả nước - là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá, khoa học - kĩ thuật của nước ta; Có sân bay quốc tế Nội Bài, sân bay Cát Bi cùng với cụm cảng Hải Phòng - Cái Lân là cửa mở vào - ra của toàn vùng Bắc Bộ và có thể của cả khu vực Tây Nam Trung Quốc. Tuyến đường 18 và đường 5 là hai trục đường xương sống cho toàn Bắc Bộ. Nằm gần một trong những khu vực phát triển năng động nhất của thời gian, những năm gần đây mối quan hệ giao lưu hợp tác quốc tế về kinh tế, văn hoá của vùng đã được mở rộng nhanh chóng. Nằm gần các nguồn tài nguyên khoáng sản (quặng sắt, quặng kim loại màu,...), năng lượng (thủy, nhiệt điện, than, dự kiến đến năm 2010, sản lượng điện của Bắc Bộ chiếm khoảng 60% so với cả nước), nông - lâm - thuỷ sản (lúa gạo, chè, cây ăn quả, thuốc lá, lạc, ..., trâu bò, lợn, cá, gỗ, ...) và nguồn lao động dồi dào của Bắc Bộ. Đây cũng là khu vực sát cạnh Vịnh Bắc Bộ xung yếu về quốc phòng. - Có lịch sử phát triển công nghiệp sớm nhất ở nước ta. Đây là địa bàn tập trung nhiều cơ sở công nghiệp mang ý nghĩa cả nước, đặc biệt là năng lực cơ khí chế tạo (so với cả nước, vùng PTKTTĐ Bắc Bộ chiếm trên 90%) về sản xuất máy công cụ, máy cắt gọt kim lại; trên 74% về sản xuất động cơ điện; trên 70% về sản xuất quạt điện; ...), khai thác than (chiếm trên 90% của cả nước), vật liệu xây dựng, sản xuất hàng tiêu dùng, đồ điện - điện tử, công nghiệp chế biến lương thực - thực phẩm; đã và đang hình thành nhiều cụm, khu, điểm công nghiệp tập trung tạo động lực đưa nền kinh tế bước và giai đoạn “cất cánh”. - Nguồn nhân lực có chất lượng cao hơn so với các vùng khác, cộng thêm với các cơ sở nghiên cứu khoa học (được tập trung đông nhất so với các vùng) là một thế mạnh nổi trội, một tiềm năng lớn trong phát triển. Lực lượng cán bộ có trình độ trên đại học chiếm tới 72,4% so với cả nước; lao động đã qua đào tạo chiếm tới 29,5% lao động xã hội. - Tuy phần lớn lãnh thổ thuộc Đồng bằng châu thổ sông Hồng nhưng cũng có nhiều nơi có quỹ đất thuận tiện có thể bố trí công nghiệp (hàng chục nghìn ha) và có nguồn nước (trừ một số nơi ven biển) tương đối thuận lợi cho quá trình công nghiệp hoá và đô thị hoá. - Vùng PTKTTĐ Bắc Bộ có nhiều thắng cảnh, kì quan thiên nhiên độc đáo (Vịnh Hạ Long, đảo Cát Bà, bán đảo Đồ Sơn, cùng với các đặc cảnh lân cận như Đồng Mô Ngải Sơn, Côn Sơn - Kiếp Bạc, Chùa Hương...), những di tích lịch sử nổi tiếng của dân tộc ở Hà Nội, Hải Phòng, Hải Hưng, Quảng Ninh... có sức hấp dẫn du khách trong và ngoài nước là lợi thế và tiềm năng rất lớn để phát triển du lịch. - Vùng PTKTTĐ Bắc Bộ đã có lịch sử phát triển lâu dài nhất ở nước ta từ thời dựng nước và ngày càng có vai trò quan trọng đối với Bắc Bộ và đố với cả nước. 4. Hạn chế - Hệ thống kết cấu hạ tầng tuy có được phát triển hơn một số vùng khác nhưng vẫn ở mức yếu kém. Hệ thống giao thông còn bất cập so với yêu cầu (cảng Hải Phòng chỉ tiếp nhận được tầu dưới 7000 tấn; các trục lộ huyết mạch lòng đường còn hẹp, mặt đường xấu, chịu tải yếu, đường sắt còn tồn tại nhiều khổ đường, trang bị ở những ga đầu mối thiếu và lạc hậu; sân bay Nội Bài chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế; hệ thống giao thông nội thị ở các thành phố lớn còn lạc hậu, gây ách tắc giao thông); mạng lưới điện nhiều nơi cũ nát, hư hỏng thất thoát điện còn lớn (tới 25%); mạng lưới cấp và đặc biệt thoát nước tại các đô thị yếu kém, lạc hậu, bất cập (nhiều đô thị thiếu nước, nhất là vào mùa hè, trong khi đó lượng nước thất thoát rất lớn tới khoảng 50%); nếu có mưa lớn kéo dài 1, 2 ngày là nhiều điểm ngập úng; nhiều nơi ở khu vực nông thôn chưa có hệ thống nước sạch; cơ sở vật chất của các ngành giáo dục, y tế và nhất là văn hoá, thể dục, thể thao còn yếu kém, xuống cấp nhiều... - Trình độ trang thiết bị kĩ thuật của các cơ sở công nghiệp hiện nay nhìn chung còn lạc hậu (tỷ lệ thiết bị có trình độ tương đối khá mới mới chiếm khoảng 1/3), sản phẩm làm ra kém chất lượng, khó cạnh tranh trên thị trường. Tình trạng gây ô nhiễm môi trường phổ biến. - Vùng PTKTTĐ Bắc Bộ hiện nay đang còn ở điểm xuất phát chưa cao, sự phát triển của vùng chưa tương xứng với tiềm năng. Chính vì thế mà tác dụng đối với cả nước còn khiêm tốn. 5. Thách thức - Vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ nằm gần sát khu vực phát triển nhanh của Trung Quốc, đứng trước yêu cầu chống tụt hậu và đối ứng với họ, đồng thời còn bị ảnh hưởng trực tiếp bởi những tình huống phức tạp trên Biển Đông và biên giới phía Bắc. - Vùng Bắc Bộ kể từ Thừa Thiên - Huế trở ra hiện nay có khoảng 36 triệu dân và sẽ có khoảng 48 -50 triệu người vào năm 2010. Hiện nay và trong tương lai gần cuộc sống của đại bộ phận dân cư vẫn còn trông cậy chủ yếu vào sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp. Muốn phát triển nhanh phải có đầu tàu lôi kéo, mặt khác cả nước ta đang ở điểm xuất phát thấp, muốn tránh khỏi tụt hậu xa hơn phải bứt lên nhanh. Tất cả những điều đó đòi hỏi phải có đầu tàu phát triển mạnh ở Bắc Bộ. Vùng PTKTTĐ Bắc Bộ phải đảm nhận nhiệm vụ này. 6. Những quan điểm phát triển vùng - Chủ động nắm thời cơ, vươn lên phát triển nhanh và vững chắc tạo ra thế và lực mới, đồng thời kiên quyết đẩy lùi và khắc phục các nguy cơ. Phấn đấu xây dựng thành vùng động lực phát triển của đất nước. - Phát triển toàn diện, cân đối nhịp nhàng. Xây dựng nhanh tam giác trọng điểm phát triển kinh tế Bắc Bộ. Chú trọng thúc đẩy phát triển vùng nông thôn để tạo sự hài hoà trên toàn vùng. Phát triển kinh tế đi đôi với phát triển văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và nâng cao đời sống nhân dân. Đảm bảo hiện đại hoá. Tránh nguy cơ tụt hậu. Đảm bảo tiết kiệm và có hiệu quả trong các hoạt động kinh tế - xã hội. - Đẩy mạnh sản xuất hàng hoá. Thực hiện chiến lược cơ động phản ứng nhanh với biến đổi thị trường. Mở cửa nhanh ra bên ngoài. Thực hiện chính sách công nghiệp hoá hướng về xuất khẩu đi đôi với mở rộng thị trường trong nước. Phát triển nhanh các ngành kinh tế biển. Xây dựng thành một vùng mạnh về kinh tế biển. - Chuyển nhanh từ khai thác tài nguyên thiên nhiên sang khai thác khoa học công nghệ và trí tuệ. Dựa vào nội lực là chính. Tự chủ vươn lên, đi đôi với tích cực tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài II. Phân tích thực trạng KCHTGTĐB của KVTĐ vùng KTTĐ Bắc Bộ 1. Mạng lưới giao thông đường bộ Hiện tại, cơ sở hạ tầng mạng lưới giao thông đường bộ toàn vùng phát triển và bố trí khá hợp lý. Đặc điểm của hệ thống giao thông đường bộ toàn vùng là đều tập trung vào đầu mối trung tâm kinh tế - chính trị là Thủ đô Hà Nội, tạo nên sự liên kết chặt chẽ là cơ sở cho động lực phát triển bền vững toàn vùng. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu phát triển của một vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ từ nay đến 2010 và tầm nhìn 2020 có thể nhận thấy, hệ thống giao thông toàn vùng hiện tại chưa đáp ứng đòi hỏi và đang dần bộc lộ những bất cập. Thể hiện ở quy hoạch chung hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ toàn vùng cũng như quy hoạch giao thông tại các đô thị, giữa các đô thị với nhau, cấp kỹ thuật của các công trình còn thấp, hiệu quả đầu tư và sử dụng công trình là chưa cao... Về quy mô, tốc độ bao phủ của mạng lưới như hiện nay còn rất chậm so với yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của vùng. Nguyên nhân là do tốc độ đô thị hóa diễn ra quá nhanh, việc phân định danh giới giữa khu vực đô thị và nông thôn là tương đối. Điều đó ảnh hưởng tới quy hoạch chung mạng lưới và quy hoạch của các đô thị, làm cho mục tiêu của quy hoạch đã không bám sát được thực tế phát triển đô thị của vùng. Về mặt chất lượng thì mạng lưới giao thông đường bộ của vùng vẫn không đảm bảo hiệu quả hoạt động như mong muốn. Nguyên nhân chủ yếu là do tiêu chuẩn kỹ thuật còn thấp, việc tổ chức không gian và tổ chức luồng tuyến chưa hiệu quả làm giảm tốc độ lưu thông của các phương tiện vận tải, tai nạn giao thông thường xuyên xảy ra gây tổn thất về kinh tế. 2. Thực trạng các bộ phận 2.1. KCHTGT giữa các đô thị Hệ thống quốc lộ, phần lớn là đường nâng cấp, cải tạo, nhiều tuyến vừa cải tạo xong đã bão hoà. Hiện tại, toàn vùng mới chỉ có 60 km đường cao tốc, 200 km đường quốc lộ đạt tiêu chuẩn cấp 1 đồng bằng, tỷ lệ đường quốc lộ chỉ chiếm 6,7% và tới 78% quốc lộ là đường cấp 3 (2 làn xe), còn lại hầu hết là đường cấp 4, cấp 5 quy mô nhỏ, kỹ thuật thấp, năng lực hạn chế, hiện tượng đô thị hoá các quốc lộ khiến tai nạn giao thông gia tăng. Trong những năm qua mặc dù đã đầu tư nâng cấp các nút giao thông, các điểm giao cắt quan trọng trên các tuyến quốc lộ, nhưng nhìn chung vẫn chưa đạt hiệu quả mong muốn. Tình trạng ùn tắc giao thông cục bộ, tai nạn vẫn thường xuyên xảy ra, nhất là tại các nút giao thông ra vào cửa ngõ Thủ đô. Để giảm tải cho Hà Nội, một trong những giải pháp là đầu tư nâng cấp, xây mới các tuyến giao thông giữa các đô thị trong vùng mà không cần phải qua Thủ đô, hoặc chỉ qua vùng ngoại thành. Thực tế cho thấy các công trình này được đầu tư lớn, hiệu quả mang lại là rõ rệt, tuy nhiên tốc độ triển khai xây dựng còn chậm, làm giảm hiệu quả lưu thông và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng trong thời gian xây dựng công trình. Có lẽ trong thời gian tới các cấp quản lý cần quan tâm hơn đến các dự án này, thay vì chỉ tập trung giải quyết các vấn đề trên các tuyến giao thông trọng điểm. 2.2. Các tuyến giao thông trọng yếu trong vùng Trục cao tốc Hà Nội - Hải Phòng và Nội Bài - Hạ Long có vai trò kết nối tam giác kinh tế này với nhau, làm hạt nhân cho sự phát triển chung của cả vùng. Ngoài ra còn một số tuyến giao thông đóng vai trò liên kết vùng như: trục liên kết Đông - Tây (cao tốc Hà Nội - Việt Trì), trục liên kết Bắc - Nam (Móng Cái - Hạ Long - Hà Nội, Lạng Sơn - Hà Nội với tuyến cao tốc Hà Nội - Ninh Bình; tuyến Hải Phòng - Ninh Bình) Một trong những tuyến giao thông quan trọng nhất vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ là trục đường 5. Đây là tuyến đường lâu đời, và cùng với nó là những bất cập đã kéo dài trong nhiều năm qua. Cùng với tốc độ phát triển kinh tế của vùng thì mật độ dân cư hai bên đường cũng tăng theo rất nhanh dẫn đến mất an toàn giao thông, hiệu quả lưu thông không cao. Để giải quyết vấn đề này, đề án xây dưng tuyến cao tốc Hà Nội - Hải Phòng đang được triển khai. Tuy nhiên, để tránh tình trạng như hiện nay, cần phải có một quy hoạch chi tiết, mang tính hiệu quả lâu dài. Bên cạnh đó, cần tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra trong quá trình thi công công trình. Tránh tình trạng như tuyến cao tốc Hà Nội - Cầu Giẽ. Đây được gọi là tuyến cao tốc đầu tiên trong vùng, song thiết nghĩ thì hiện nay có lẽ nó không còn là một tuyến cao tốc thực sự, bởi chất lượng công trình đã xuống cấp rất nhanh sau nửa thập kỷ đưa vào khai thác. Tiêu chuẩn kỹ thuật của tuyến đường này là không đạt yêu cầu, không đảm bảo an toàn cho phương tiện vận tải khi chạy “đúng” quy định về tốc độ. Không biết liệu tuyến “cao tốc” Hà Nội - Bắc Ninh (30 km cao tốc còn lại của vùng hiện nay) có lâm vào tình trạng tương tự hay không. Ngoài ra, tuyến giao thông trọng điểm Nội Bài - Hạ Long cũng đang trong giai đoạn hoàn thiện. Đây sẽ là trục giao thông quan trọng góp phần thúc đẩy tăng trưởng chung của tam giác kinh tế Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh. Mặc dù đã có sự đầu tư lớn, đã có bước phát triển về tổ chức không gian và kỹ thuật thi công nhưng tốc độ thi công còn hơi chậm đã tác động tới hiệu quả kinh tế của tam giác tăng trưởng này. Nối liền với tuyến Nội Bài - Hạ Long là tuyến Quốc lộ 2 cũng đang lâm vào tình trạng thi công “rùa bò”, thậm chí còn gây ô nhiễm nghiêm trọng, trực tiếp tác động xấu tới đời sống và việc đi lại của người dân. 2.3. KCHTGT trong các đô thị Thực tế mạng lưới đường phố trong các đô thị hiện nay đang có nhiều vấn đề bất cập: Về mặt số lượng không đảm bảo các chỉ tiêu kinh tế kỹ thuật như mật độ mạng lưới đường phố km/km2 thấp; Tỷ lệ đất giao thông chỉ đạt 6-8%, so với tiêu chuẩn 20-25%, chỉ tiêu chiều dài đường cho 1 người chỉ đạt 0,1-0,2m/người trong khi đó chỉ tiêu trung bình của các nước từ 0,4-0,8m/người đối với thành phố lớn và từ 0,9-1,5m/người đối với các đô thị nhỏ. Các tuyến đường đô thị vẫn còn nhiều đường phố chưa bảo đảm chất lượng, mặt đường kém, độ êm thuận không cao, hệ thống thoát nước mặt và hạ tầng kỹ thuật chưa được xây dựng đồng bộ, hiện tượng dân lấn lòng đường vỉa hè thường xuyên đã gây mất an toàn giao thông và ô nhiễm môi trường. Đặc biệt, hiện tựơng cao độ mặt đường đô thị cứ nâng cao dần sau mỗi lần cải tạo, không giữ nguyên cao độ thiết kế để đảm bảo thoát nước mưa, đang diễn ra ở hầu hết các đô thị. Tình trạng ùn tắc, tai nạn giao thông và ô nhiễm môi trường giao thông ngày càng gia tăng; quy hoạch chi tiết chưa đáp ứng được công tác quy hoạch xây dựng. Quản lý đô thị nói chung và quản lý đường phố đô thị nói riêng trong những năm gần đây đã có nhiều chuyển biến tích cực. Song nhìn chung vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển đô thị, đặc biệt là vấn đề quản lý đầu tư xây dựng và khai thác sử dụng mạng lưới đường phố đô thị theo quy hoạch đã và đang là vấn đề thời sự của các chính quyền đô thị. Một hình ảnh được được lấy làm minh hoạ về sự yếu kém của cơ sở hạ tầng khu vực là: Thủ đô Hà Nội - trung tâm kinh tế - văn hoá - chính trị của cả nước có sáu trục giao thông xuyên tâm thì không có trục nào là đường cao tốc, các cửa ngõ ra vào thành phố liên tục bị ùn tắc. Các tuyến giao thông vẫn chủ yếu tập trung tại Hà Nội, mặc dù như vậy sẽ tạo điều kiện tập trung các nguồn lực cho phát triển Thủ đô, tuy nhiên điều đó đã và đang tạo áp lực lớn về giao thông cho đô thị này. Để khắc phục tình trạng đó, các dự án phát triển tuyến giao thông vành đai Thủ đô đã được triển khai, nhưng sau nhiều năm thì nó vẫn chỉ đang giậm chân tại chỗ. Điều đáng nói ở đây là nó không chỉ giảm hiệu quả lưu thông trong vùng, mà đang còn cản trở lưu thông hàng hóa của một số tỉnh phía Bắc với khu vực phía Nam, giao thông giữa các tỉnh phía Nam với Trung Quốc cũng bị ảnh hưởng đáng kể, nhất là đến mùa xuất khẩu nông sản sang nước này hàng năm. III. Đánh giá thực trạng 1. Đánh giá so với sự phát triển giao thông đường bộ Trong những năm gần đây, nước đa đã duy trì được tốc độ tăng trưởng đáng kể là liên tục, quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đang diễn ra mạnh mẽ. Trong nền kinh tế đã xuất hiện thêm nhiều ngành công nghiệp mới, các ngành công nghiệp luôn có quan hệ mật thiết với nhau, ngành này là đầu vào của ngành khác tạo nên chuỗi các quan hệ bổ trợ lẫn nhau. Không chỉ có quan hệ giữa các doanh nghiệp, các ngành kinh tế với nhau, quan hệ giữa doanh nghiệp và thị trường tiêu thụ cũng là là một chủ đề nóng. Nhu cầu lưu thông hàng hóa giữa các khu vực, các đô thị, giữa đô thị và nông thôn ngày một tăng. Kéo theo đó là sự gia tăng nhanh chóng của các phương tiện vận tải cơ giới. Nhu cầu vận tải không chỉ bó hẹp trong phạm vi không gian hẹp, mà nó đã mở rộng ra toàn quốc và giao thương quốc tế. Với những ưu điểm của mình, giao thông vậ tải đường bộ luôn là sự lựa chọ ưu tiên của các doanh nghiệp nhằm phục vụ cho nhu cầu vận tải về nguyên vật liệu và phân phối hàng hóa đến tay người tiêu dùng. Cùng với quá trình đô thị hóa đang diễn ra nhanh chóng, các đô thị không ngừng mở rộng về quy mô lãnh thổ cũng như quy mô dân cư, sự xuất hiện ngày càng nhiều các đô thị mới đã tạo ra một thị trường tiêu thụ rộng rãi và đa dạng cho các doanh nghiệp. Một đầu tầu kinh tế của đất nước là vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ cũng không nằm ngoài quy luật đó. Thực tế nhu cầu vận tải hàng hóa ở khu vực này đang tăng với tốc độ chóng mặt. Giao lưu kinh tế giữa các đô thị trong vùng, và với các vùng khác đã tạo nên sức ép lớn nên hạ tầng giao thông đường bộ. Mặc dù đã được đầu tư đáng kể trong thời gian qua nhưng dường như hạ tầng giao thông đường bộ trong vùng vẫn chưa đáp ứng hết nhu cầu đó. Cũng phải nói rằng hạ tầng giao thông đường bộ của khu vực này còn đang trong giai đoạn hoàn thiện, nhiều công trình vẫn còn thi công dở dang, nhiều tuyến đường chưa được triển khai nâng cấp do còn nhiều hạn chế trong vấn đề vốn đầu tư. Do đó, chiều rộng lòng đường nhiều tuyến chưa theo kịp tốc độ gia tăng về phương tiện vận tải, tình trạng ùn tắc cục bộ tại các đô thị, tại các nút giao thông trên các tuyến đường còn khá phổ biến. Đã biết đây không phải là vấn đề có thể giải quyết trong một sớm một chiều, nhưng cũng cần phải thừa nhận là chúng ta đã giải quyết vấn đề này chưa được tốt. Bên cạnh đó, phát triển kinh tế đã ngày càng nâng cao thu nhập của người dân, tăng cơ hội đi lại và sinh hoạt của người dân bằng nhiều hình thức, phương tiện vận tải với chi phí phù hợp khả năng thu nhập cảu họ. Thực tế cho thấy phương tiện cơ giới cá nhân và gia đình đang có tốc độ phát triển rất nhanh, lưu lượng phương tiện cá nhân tham gia giao thông hiện nay rất lớn tạo nên áp lực cho hạ tầng giao thông đường bộ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ - nơi có mật độ dân cư cao nhất cả nước. Ngoài ra, hàng năm nhu cầu đi lai của nhân dân trong các dịp lễ tết, mùa du lịch cũng tăng đột biến. Trong khi đó, thậm chí ngay cả nhu cầu đi lại, vận chuyển hàng ngày cũng chưa được đáp ứng hết. Thực sự là tốc độ phát triển của hạ tầng giao thông đường bộ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ còn rất chậm so với tốc độ phát triển về nhu cầu sử dụng của nó. 2. Đánh giá so với yêu cầu phát triển đô thị Cũng như so với sự phát triển của giao thông vận tải đường bộ, kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ của vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ vẫn còn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển của các đô thị trong vùng. Trong khi tốc độ đô thi hóa diễn ra rất nhanh, lượng dân cư tập trung tại các đô thị ngày càng lớn thì hầu như hạ tầng giao thông đường bộ phục vụ cho đô thị lại không thay đổi đáng kể. Thực tế tình trạng ùn tắc giao thông tại các đô thị (điển hình như ở Hà Nội) đang diễn ra thường xuyên. Mặc dù các cấp quản lý có thẩm quyền đã cố gắng giải quyết tình trạng này bằng việc đầu tư sửa chữa, nâng cấp, mở thêm các tuyến đường, cải tạo các nút giao thông... nhưng vẫn không giải quyết triệt để tình trạng này. Đã có nhiều tuyến đường, nút giao thông được nâng cấp nhiều lần, song chỉ hiệu quả trong một thời gian rất ngắn rồi lại xảy ra tình trạng như cũ. Cũng phải kể đến sự thiếu đồng bộ cảu mạng lưới giao thông đô thị dẫn đến thình trạng “chỗ này hết tắc nghẽn thì làm chỗ khác ùn tắc giao thông”. Nguyên nhân là do việc triển khai không dứt khoát và thiếu đồng bộ các dự án giao thông đô thị. Hạ tầng giao thông đô thị đã đi quá chậm so với yêu cầu phát triển của đô thị đó. Tuy nhiên điều đó chỉ diễn ra phổ biến ở các điểm dân cư lâu đời của đô thị, và điều đó là dễ hiểu do lịch sử để lại. Hiện nay, tại các điểm dân cư “mới hình thành” thì quy hoạch kết cấu hạ tầng giao thông là khá hoàn chỉnh, bề rộng mặt đường đã đảm bảo cho nhu cầu đi lại của người dân một cách thuận tiện, có thể đáp ứng yêu cầu phát triển cảu khu vực này trong một tương lai khá xa. Tuy nhiên, do tốc độ đô thị hóa quá nhanh, các đô thị đang ngày càng mở rộng theo không gian, rất nhiều điểm dân cư tập trung đã hình thành. Hầu hết các điểm dân cư này là ở ngoại thành, nơi trước đây có hạ tầng giao thông rất kém. Trong số các điểm dân cư đó có khá nhiều điểm dân cư được hình thành tự phát, không theo quy hoạch đô thị, hoặc quy hoạch đô thị không tính trước đến sự phát triển của các điểm dân cư này. Do đó, tại đây hạ tầng giao thông đường bộ chưa phát triển, chưa đáp ứng được nhu cầu đi lại và kinh doanh của người dân. Thực tế nhiều điểm dân cư quanh các đô thị có hạ tầng giao thông rất kém, thậm chí có những nơi đã thuộc “cấp Quận” mà đường giao thông vẫn chưa đạt tiêu chuẩn cấp đô thị, mặc dù đó là những điểm dân cư đông đúc. Điều này làm giảm đi hiệu quả hoạt động kinh tế - xã hội của các đô thị. Có lẽ trong thời gian tới phải có những điều chỉnh trong quy hoạch phát triển mạng lưới giao thông đường bộ tại các đô thị của vùng. 3. Đánh giá tác động tới sự phát triển kinh tế - xã hội của đô thị Trong những năm qua, kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ đã có sự phát triển đáng kể, đi đúng theo quan điểm phát triển trước của ngành giao thông vận tải, góp phần vào quá trình đô thị hóa ở khu vực này. Hạ tầng giao thông đường bộ không ngừng được mở rộng, nâng cấp đã kéo các đô thị xích lại gần nhau hơn, giảm dần chênh lệch về kinh tế giữa các đô thị trong vùng. Bên cạnh đó, việc phát triển hạ tầng gia thông đường bộ đã góp phần nhanh chóng hình thành nên các điểm dân cư mới quanh các đô thị, đẩy nhanh quá trình đô thị hóa theo chiều rộng. Qua đó dần dần thay đổi cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa; cơ cấu dân cư cũng dần thay đổi, tỷ lệ dân cư thành thị tăng nhanh, tạo ra nguồn nhân lực quan trong cho phát triển công nghiệp; nâng cao mức thu nhập trung bình của dân cư. Như vậy, sụ phát triển của kết cấu hạ tầng không chỉ tác động tới quá trình đô thị hóa theo chiều rộng mà nó còn tác động tới những thay đổi theo chiều sâu của quá trình đô thị hóa. Là một bộ phận của kết cấu hạ tầng kinh tế, hạ tầng giao thông đường bộ tác động t._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc3037.doc
Tài liệu liên quan