Phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam

Lời mở đầu Trong suốt gần 30 năm ở miền Bắc (tính từ 1954 đến 1986) và 10 năm ở miền Nam (1975-1986) Kinh tế tư nhân nước ta đã không được chấp nhận và bị coi là đối tượng cần cải tạo và cần phải xoá bỏ. Nhưng đến Đại hội Đảng VI (1986), Đảng và Nhà nước đã thực sự mang lại cho kinh tế tư nhân một sức sống mới, kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển trong khuôn khổ chính sách phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo

doc15 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1293 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
định hướng Xã hội chủ nghĩa, trong đó thành phần kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Tuy nhiên, khu vực kinh tế tư nhân vẫn chưa được chú ý đúng mức, chưa được nghiên cứu một cách có hệ thống. Nhiều vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn vẫn chưa được giải quyết một cách thấu đáo như: khái niệm kinh tế tư nhân, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế, ý nghĩa của việc phát triển của kinh tế tư nhân, sự quản lý của Nhà nước đối với khu vực kinh tế này,... Trước nhu cầu cấp bách mà lý luận và thực tiễn đặt ra chúng ta cần nghiên cứu một cách nghiêm túc khu vực kinh tế tư nhân. Trong khuôn khổ bài viết này, việc trình bày cặn kẽ về kinh tế tư nhân thì quả là khó. Người viết chỉ xin trình bày những vấn đề căn bản nhất để độc giả có thể có cái nhìn đúng đắn hơn về kinh tế tư nhân. Chương I Một số vấn đề cơ bản của kinh tế tư nhân (KTTN) 1-/ Quan điểm của Nhà nước về KTTN: Từ Đại hội Đảng VI đến nay, Đảng và Nhà nước ta kiên trì nhất quán thực hiện chiến lược phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng Xã hội chủ nghĩa. Theo định hướng này, khu vực KTTN được hưởng những ưu đãi như mọi thành phần kinh tế khác. KTTN được thừa nhận là một thực thể kinh tế được Đảng và Nhà nước khuyến khích phát triển. Đối với ta - một nước đang trong thời kỳ quá độ lên CNXH - môi trường pháp lý dành cho khu vực KTTN khác với ở các nước khác. Nó đã được thể chế hoá thành các văn bản pháp luật và các chính sách kinh tế của Nhà nước đối với khu vực này. 2-/ Vai trò của KTTN: KTTN bị phủ nhận trong một thời gian quá dài ở nước ta nhưng không vì thế mà vai trò to lớn của KTTN cũng bị đánh giá thấp. Chính vì lẽ đó KTTN đã được khôi phục và phát triển sau Đại hội Đảng VI. KTTN chiếm tỷ trọng đáng kể trong GDP, thu hút vốn và tạo việc làm, tăng trưởng kinh tế. Theo thống kê 1994 tỷ lệ đóng góp của khu vực KTTN trong nền kinh tế như sau: Đóng góp trong GDP Đóng góp cho Ngân sách Thu hút lao động xã hội Giá trị tài sản cố định Toàn bộ nền kinh tế quốc dân 100% 100% 100% 100% Khu vực KTTN 65% 40% 82,1% 25% Tỉ trọng kinh tế tư nhân trong các ngành công nghiệp và dịch vụ: Năm 1990 1991 1992 1993 Giá trị sản lượng toàn ngành công nghiệp 100% 100% 100% 100% Tỉ trọng giá trị sản lượng của khu vực KTTN 23,2% 26,7% 26,6% 26,2% Khu vực KTTN có vai trò rất quan trọng trong việc tạo ra một nền kinh tế năng động có hiệu quả. Nói đến kinh tế thị trường không thể không nói đến cạnh tranh. Nó là yếu tố kích thích phát triển kinh tế xã hội. Thực tế đã chứng minh rằng sự độc quyền Nhà nước về kinh tế đã kìm hãm sự phát triển kinh tế, làm cho nền kinh tế trở nên què quặt, thiếu sức sống và dẫn đến không hoà nhập được với nền kinh tế thế giới. Sau một thời gian dài thực hiện đổi mới, KTTN không những không làm suy yếu khu vực kinh tế Nhà nước mà ngược lại làm cho nó phát triển hơn do bị sức ép cạnh tranh từ phía KTTN. Phát triển KTTN còn góp phần tạo ra sự ổn định xã hội nhờ giải quyết việc làm, tăng thêm thu nhập cho người lao động, thu hút mọi thành viên xã hội tham gia vào sự nghiệp phát triển đất nước. 3-/ Phạm vi hoạt động của khu vực KTTN: Phạm vi hoạt động của khu vực KTTN trong hầu hết các ngành: nông, lâm nghiệp, thuỷ sản, công nghiệp (công nghiệp chế biến, công nghiệp điện,...), xây dựng, thương nghiệp, khách sạn nhà hàng và các ngành dịch vụ khác. Mức độ đầu tư tập trung nhất vẫn là các ngành thương mại dịch vụ, công nghiệp chế biến và thuỷ sản. Đây là những ngành có mức doanh lợi hấp dẫn, có thị trường và kinh nghiệm kinh doanh. KTTN vẫn tập trung ở một số thành phố lớn là chủ yếu như Hà Nội, Hải Phòng, Đà Nẵng, Thành phố Hồ Chí Minh,... Lý do là ở những nơi này có cơ sở hạ tầng cả về kinh tế và xã hội đều thuận lợi cho hoạt động đầu tư. 4-/ Các loại hình doanh nghiệp trong khu vực KTTN: Trước đây, khu vực KTTN bao gồm các Doanh nghiệp tư nhân (DNTN) và các hộ cá thể. Hiện nay có thêm các loại hình khác như: Công ty trách nhiệm hữu hạn (CTTNHH), công ty cổ phần (CTCP). chương II thực trạng KTTN 1-/ Về loại hình tổ chức sản xuất: Các loại hình tổ chức sản xuất trong khu vực KTTN, DNTN, hộ cá thể, CTTNHH, CTCP. Các cơ sở sản xuất cá thể và hộ gia đình: là hình thức tổ chức tuy đơn giản nhưng tồn tại và phát triển trong cả thời kỳ cấm đoán, đồng thời chiếm tỷ trọng lớn về số cơ sở sản xuất thu hút lao động và vốn đầu tư. Doanh nghiệp tư nhân: là loại hình mới được phục hồi và phát triển rất nhanh sau khi có Luật DNTN. Tuy nhiên qui mô còn nhỏ, suất đầu tư thấp, kỹ thuật và công nghệ còn yếu kém. Doanh nghiệp dưới 10 lao động chiếm 48,76% tổng số doanh nghiệp. Doanh nghiệp có từ 10 đến 50 lao động chiếm 37,97% tổng số doanh nghiệp. Doanh nghiệp có từ 50-200 lao động chiếm 10,11% và doanh nghiệp có trên 200 lao động chỉ chiếm 3,16%. Suất đầu tư bình quân trên 1 lao động đối với các DNTN là 34,1 triệu đồng. Công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần: Hai hình thức này mới được ra đời, chủ yếu sau khi ban hành Luật công ty ngày 21-12-1990. Theo thống kê năm 1994 cho thấy: 77,7% số công ty là do chuyển đổi hình thức tổ chức. Có 64% số công ty chỉ có từ 2-4 thành viên, 4% số công ty có trên 10 thành viên. Năm 1993 có 1196 CTTNHH với tổng số vốn đầu tư là 235 tỷ đồng và tổng trị giá tài sản là 1453 tỷ đồng; 35 công ty cổ phần với tổng số vốn đầu tư là 10,6 tỷ đồng và 150 tỷ đồng tổng giá trị tài sản. Sau 1 năm cả nước có 5034 CTTNHH và 131 CTCP. Hiện nay CTCP đang rất được khuyến khích phát triển. 2-/ Về cơ cấu ngành nghề kinh doanh: Đặc trưng bao quát là đầu tư tập trung vào các ngành công nghiệp chế biến, dịch vụ, đánh bắt và nuôi trồng thuỷ hải sản, xây dựng, khách sạn nhà hàng, kinh doanh bất động sản, dịch vụ tài chính tín dụng. Năm 1994, trong số 7619 doanh nghiệp có đến 3582 doanh nghiệp kinh doanh thương nghiệp, 2466 doanh nghiệp sản xuất kinh doanh ngành công nghiệp chế biến. Thứ đến là các ngành kinh doanh khác. 3-/ Về huy động vốn: 3.1. Mức huy động vốn đầu tư: Tổng lượng vốn đầu tư của khu vực KTTN có sự gia tăng sau Luật doanh nghiệp tư nhân và Luật công ty có hiệu lực. Từ 1991 đến 1993, riêng các loại hình DNTN, CTTNHH, CTCP đã đầu tư 4835 tỷ đồng vốn đăng ký kinh doanh. Năm 1994, tổng số vốn đầu tư của các doanh nghiệp nói trên là 6621 tỷ đồng. Năm 1995, tổng số vốn đầu tư đạt 15103,7 tỷ đồng. Đó là vốn đăng ký kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp. Trên thực tế, vốn kinh doanh thực tế thường gấp 2-4 lần vốn đăng ký kinh doanh. Như vậy tổng lượng vốn đầu tư thực tế đạt 18000-20000 tỷ đồng (1995). Đó là chưa kể đến lượng vốn của khu vực kinh tế cá thể (ước đạt 30000-35000 tỷ đồng). Với sự hoạt động của khu vực KTTN, các nguồn vốn trong dân đã dần được huy động, khơi thông góp phần thúc đẩy qui mô của nền kinh tế. Tính riêng trong 5 năm (1991-1995), ước tính qui mô đầu tư phát triển toàn xã hội đạt khoảng 18 tỷ USD trong đó đầu tư nhân dân chiếm trên 30% và đầu tư trực tiếp nước ngoài chiếm 27%. 3.2. Qui mô đầu tư của các loại hình doanh nghiệp tư nhân: Số vốn đầu tư của các loại hình doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN ở nước ta nhìn chung còn rất khiêm tốn. Số liệu chứng minh cho bởi bảng sau: Đơn vị: % Doanh nghiệp Vốn CTCP CTTNHH DNTN < 1 tỷ VNĐ 14,4 69,0 95,1 ³ 1 tỷ VNĐ 27,9 25,7 4,4 ³ 5 tỷ và Ê 10 tỷ VNĐ 11,8 3,3 0,31 > 10 tỷ VNĐ 45,7 1,9 0,12 Xét về qui mô đầu tư bình quân của các loại hình doanh nghiệp cả nước ta có số liệu sau: - Vốn đầu tư của 1 DNNN : 12,3 tỷ đồng. - Vốn đầu tư của 1 DNTN : 168,8 triệu đồng. - Vốn đầu tư của 1 CTTNHH : 775,1 triệu đồng. - Vốn đầu tư của 1 CTCP : 10,33 tỷ đồng. Như vậy, số lượng DNTN nhiều hơn số lượng CTTNHH và CTCP, nhưng qui mô đầu tư nhỏ hơn 4,6 lần CTTNHH, <62 lần vốn đầu tư của CTCP. Điều này phản ánh thực lực của các nhà đầu tư và tâm lý lựa chọn các hình thức đầu tư tư nhân ở nước ta. 3.3. Suất đầu tư của khu vực KTTN: Suất đầu tư trên 1 lao động trong 1 doanh nghiệp phản ánh mức đầu tư nói chung và trình độ tổ chức, trình độ công nghệ của doanh nghiệp nói riêng. ở nước ta, suất đầu tư trong các DNNN bình quân là 101 triệu đồng/1 lao động. Nếu ngoại trừ nguồn vốn bình quân không sinh lợi thì chỉ khoảng 70-80 triệu đồng/1 lao động. Trong khu vực KTTN, suất đầu tư của loại hình DNTN trong khoảng 30-35 triệu đồng/1 lao động. Suất đầu tư trong các CTTNHH khoảng 60-65 triệu đồng/1 lao động. Và suất đầu tư trong khu vực kinh tế cá thể khoảng 7-10 triệu/1 lao động. Tuy nhiên, khi phân tích kết cấu nguồn vốn cho thấy, nguồn vốn đầu tư vào máy móc thiết bị, nhà xưởng và nguồn vốn đầu tư lưu động thì có tình trạng chung là giá trị nhà xưởng (chủ yếu là giá trị đất đai) chiếm tỷ trọng không nhỏ. Trong nhiều doanh nghiệp, việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất theo giá thị trường ở thời điểm “đất sốt” làm cho suất đầu tư danh nghĩa khác biệt với đầu tư thực tế. 4-/ Về tốc độ phát triển của khu vực KTTN: Từ Đại hội Đảng lần thứ VI (1986) đến nay, hai kế hoạch 5 năm (1986-1990) và (1991-1995) đã đi qua và hiện nay chúng ta sắp hoàn thành kế hoạch 1996-2000. Trong các kế hoạch này, tốc độ tăng trưởng chung của nền kinh tế đã có sự tiến bộ rõ nét. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) trong thời kỳ (1991-1995) tăng bình quân 8,2%/năm tăng 2,2% so với kế hoạch đề ra. Riêng 3 năm 1995, 1996, 1997 mức độ tăng khá hơn: Năm 1995 tăng 9,54%, năm 1996 tăng 9,34%, năm 1997 tăng 9%. Tăng trưởng GDP có sự đóng góp của khu vực kinh tế cá thể và KTTN. Tốc độ phát triển bình quân của khu vực KTTN tăng trên 10%/1 năm và kinh tế cá thể tăng 7%/1 năm. Với tốc độ tăng trưởng trên, KTTN và kinh tế cá thể tạo ra 40,66% GDP năm 1995; 40,16% GDP năm 1996; 39,82% năm 1997. Đó là 1 sự đóng góp đáng kể vào nền kinh tế. 5-/ Về hiệu quả sản xuất kinh doanh của khu vực KTTN: ở nước ta, bề dày kinh nghiệm của giới chủ còn quá mỏng và độ rủi ro trong môi trường kinh doanh là nhân tố khó lường cộng với “tầm nhìn” hạn chế và các nỗ lực đầu tư còn nhiều bất cập nên hiệu quả kinh doanh của khu vực KTTN còn nhiều thăng trầm. Nhưng đặc trưng bao quát là: mức doanh lợi của các DNTN và các CTCP cao hơn của các CTTNHH. Xét về các chỉ tiêu: doanh thu/vốn, tỷ suất lợi nhuận/doanh thu của các loại hình doanh nghiệp ta có số liệu sau: Một số chỉ tiêu Doanh nghiệp Tổng vốn đầu tư (tỷ đồng) Tổng doanh thu (tỷ đồng) Tổng lợi nhuận (triệu đồng) Lợi nhuận trên doanh thu (%) DNNN 127.967,4 182.419,4 6.913,267 3,78 DNTN 3.542,3 11.419,6 202.611 1,77 CTCP 11.561,4 22.445,3 215.246 0,95 Nguồn: Tổng điều tra kinh tế 1995. Như vậy, mức sinh lợi trên 1 đồng 1 đầu tư của các DNNN là 0,054 đồng, của DNTN là 0,057 đồng và của CTCP và CTTNHH là 0,018 đồng. Và trong 1 đồng doanh thu của các DNNN tạo ra 0,0378 đồng lợi nhuận, của DNTN là 0,0177 đồng và của các CTCP và CTTNHH là 0,0095 đồng. Điều đó cho thấy hiệu quả kinh doanh của các loại hình doanh nghiệp nước ta còn thấp chính vì vậy quá trình tích tụ và tập trung để phát triển theo chiều rộng và chiều sâu còn hạn chế. 6-/ Về tình hình thu nộp ngân sách: Mức thu nộp ngân sách theo các sắc thuế và mức thuế của Nhà nước trong 10 năm qua của khu vực ngoài quốc doanh nói chung và khu vực KTTN nói riêng có sự gia tăng về giá trị tuyệt đối. Trong các năm 1990-1994, bình quân khu vực ngoài quốc doanh nộp ngân sách Nhà nước từ 3000-4500 tỷ đồng. Năm 1997, khu vực này nộp trên 5000 tỷ đồng vào ngân sách, trong đó các loại hình DNTN, CTCP, CTTNHH chiếm 50-60%. Tuy nhiên xét trên tỷ trọng đóng góp vào nguồn thu ngân sách, khu vực KTTN vẫn còn khiêm tốn. Các khoản thuế công thương nghiệp mới chỉ chiếm khoảng 10-15% tổng thu ngân sách. Rất nhiều các DNTN trốn thuế. Điều đó gây ảnh hưởng không nhỏ đến cái nhìn của Nhà nước đối với khu vực KTTN. Theo số liệu điều tra 1994, một lao động trong DNTN tạo ra 1,56 triệu đồng nộp ngân sách/năm; 1 lao động trong CTTNHH tạo ra 4,22 triệu đồng nộp ngân sách/năm và 1 lao động trong CTCP tạo ra 11,03 triệu đồng nộp ngân sách/năm. Xét về cơ cấu nguồn thu ngân sách Nhà nước của các loại hình DNTN có thể nhận thấy 47,2% tiền nộp ngân sách là thuế doanh thu, 27% là thuế lợi tức, 24,3% là thuế xuất nhập khẩu và 1,5% là các loại thuế khác. 7-/ Về quản lý: Trình độ quản lý của các chủ DNTN còn thấp, chưa có kiến thức và kinh nghiệm trong kinh doanh trong nền kinh tế thị trường. Trình độ hiểu biết pháp luật, đặc biệt là luật pháp quốc tế còn nhiều bất cập. Thậm chí, 1 vị lãnh đạo cao nhất của công ty không biết đến 1 bộ luật có liên quan đến lĩnh vực hoạt động của mình. Chương III Chính sách của Nhà nước đối với KTTN 1-/ Đánh giá chung: Việc chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường đòi hỏi phải thay đổi cơ bản phương thức quản lý. Trước đây, ngoài bộ luật cơ bản là Hiến pháp, nền kinh tế nước ta được điều hành chủ yếu bằng các văn bản pháp lý do các cơ quan hành pháp các cấp đưa ra. Trong điều kiện mới khi chấp nhận nền kinh tế nhiều thành phần thì việc quản lý như vậy không còn phù hợp nữa. Thực tiễn đòi hỏi Nhà nước phải quản lý các doanh nghiệp bằng luật pháp. Hàng loạt các văn bản pháp qui đã ra đời trong đó có Luật thuế, Luật DNTN và Luật công ty. Những văn bản này đã thể hiện trung thành đường lối đổi mới quan điểm khuyến khích phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và Nhà nước. Các chính sách mới được luật pháp hoá đã thực sự thúc đẩy sự phát triển của các DNTN, tạo tâm lý chung của xã hội ủng hộ các doanh nghiệp này. Việc cho phép các doanh nghiệp được tự do lựa chọn ngành nghề, qui mô kinh doanh theo luật định cũng đã được thực tế chứng tỏ là đúng đắn. Chính sách mới đã góp phần làm thay đổi cơ cấu thành phần kinh tế theo hướng thực tế hơn. Nhiều hợp tác xã trá hình nhiều hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp, tổ hợp tác đã chuyển thành DNTN, CTTNHH,... Về cơ bản, các chính sách của Nhà nước ban hành đã tạo ra những khuôn khổ pháp lý cần thiết để các doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động, tạo ra niềm tin ban đầu cho các chủ doanh nghiệp. Tuy vậy, các chính sách hiện hành của Nhà nước vẫn chưa đồng bộ. 2-/ Chính sách đầu tư - tín dụng: Chính sách tín dụng trước kia có sự bất bình đẳng giữa các doanh nghiệp quốc doanh và tư nhân về lãi suất ngân hàng. Hiện nay sự bất hợp lý đó đã được xóa bỏ. Tuy nhiên, trong cách đối xử với KTTN vẫn còn thái độ thiếu tin tưởng và phiền hà trong thủ tục cho vay vốn và mức vốn cho vay. Nhìn chung, Nhà nước chưa có 1 chính sách đầu tư tín dụng hợp lý, rõ ràng mang tính chất chiến lược trong phát triển kinh tế đất nước nói chung và KTTN nói riêng. 3-/ Chính sách thuế: Trong nền kinh tế thị trường, chính sách thuế có vai trò cực kỳ quan trọng, là công cụ điều tiết vĩ mô có hiệu quả nhất. Các luật thuế ban hành bước đầu tạo cơ sở để các doanh nghiệp thực hiện nghĩa vụ của mình đối với Nhà nước. Tuy đã có một khuôn khổ pháp lý nhất định nhưng các qui định về thuế và việc tổ chức thực hiện còn nhiều bất cập như: - Chưa bình đẳng giữa các doanh nghiệp: Thể hiện rõ nhất trong việc nộp thuế sử dụng đất. Các DNTN phải mua đất hoặc phải thuê lại diện tích của các cơ quan Nhà nước, DNNN với giá cao, trong khi đó các DNNN có những ưu đãi cực kỳ hậu hĩnh. - Việc thực hiện các loại thuế chưa thống nhất: Các đơn vị kinh tế thuộc khu vực kinh tế gia đình không phải nộp bất cứ loại thuế kinh doanh nào. Điều này gây ảnh hưởng lớn dẫn đến trốn thuế lậu thuế nhiều do có nhiều người kinh doanh núp dưới bóng “kinh tế gia đình” để trốn thuế. - Hiện tượng trốn, lậu thuế còn phổ biến. - Suất thuế quá cao. - Hệ thống thuế còn nhiều kẽ hở. - Cơ chế định thuế thiếu khoa học. 4-/ Chính sách công nghệ - đào tạo: Nhà nước chưa có chính sách công nghệ đúng đắn đối với khu vực KTTN. So với các xí nghiệp quốc doanh, hầu hết các cơ sở tư nhân đều sử dụng công nghệ lạc hậu hơn. Thông tin về công nghệ mới, kỹ thuật mới còn thiếu, lại không được phổ biến đến tận các cơ sở. Vì vậy, nhiều khi các DNTN phải sử dụng những công nghệ quá lạc hậu so với thế giới. Chính sách đào tạo đối với KTTN cũng không được chú ý đúng mức. Hầu hết cán bộ quản lý, khoa học kỹ thuật được đào tạo đều nhằm cung cấp cho các DNNN. 5-/ Chính sách lao động - xã hội: Chưa tính toàn nền kinh tế quốc dân, chỉ tính riêng trong sản xuất công nghiệp, lực lượng lao động trong khu vực KTTN đã chiếm hơn 70% so với toàn ngành công nghiệp. Vì vậy chính sách lao động - xã hội đối với KTTN có ý nghĩa rất quan trọng. Nhà nước đã có một số chính sách lao động - xã hội đối với khu vực này như qui định về bảo hiểm xã hội, hợp đồng lao động,... Nhà nước vẫn chưa giải quyết được sự bất bình đẳng giữa lợi ích của người lao động trong khu vực Nhà nước và khu vực tư nhân. Nhà nước cũng chưa qui định thống nhất hệ thống bảo hiểm cho cả 2 khu vực. Chương IV Các giải pháp để phát triển khu vực KTTN trong quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá 1-/ Xu thế sửa đổi và hoàn chỉnh khuôn khổ luật pháp khuyến khích đầu tư tư nhân, nhằm từng bước tạo lập môi trường kinh doanh thông thoáng và ổn định: Quan điểm chung mang tính chất định hướng tổng quát của Đảng và Nhà nước là khuyến khích phát triển và thực hiện sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế. Song thực tiễn còn nhiều bất cập. Trên bình diện chính sách kinh tế vĩ mô, các thủ tục thành lập và vận hành doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN chưa đạt mức thông thoáng cần thiết. Công tác quản lý của Nhà nước về kinh tế đối với KTTN còn nặng về thủ tục hành chính, còn chồng chéo nhiều đầu mối. Các qui định về điều kiện vay vốn quá cứng nhắc và phân biệt đối xử. Mức lãi suất mà các DNTN phải chấp nhận thường cao, mang tính chất áp đặt. Về các qui định thủ tục trong việc thành lập và vận hành doanh nghiệp còn quá nhiều rườm rà. Để có thể có được thủ tục giấy tờ hoàn chỉnh thì cần phải qua “hàng chục cửa”. Trong điều kiện thúc đẩy các yếu tố nội lực của nền kinh tế để tạo ra sức bật mới, cần tính đến việc đơn giản hoá các thủ tục thành lập doanh nghiệp theo hình thức “một cửa” qua UBND các cấp theo luật định và việc cho phép thành lập với cấp giấy phép kinh doanh cần gộp lại như 1 thủ tục trong 1 bộ hồ sơ. Đồng thời cần hạn chế mức can thiệp của các cơ quan Nhà nước đối với các doanh nghiệp theo hướng chỉ kiểm tra theo định kỳ, hoặc có dấu hiệu vi phạm pháp luật. Làm được như vậy sẽ nâng cao được tính tích cực của doanh nghiệp trong việc tìm kiếm các cơ hội kinh doanh, giảm thiểu các tiêu cực mang tính chất nhũng nhiễu và lạm dụng chức quyền của đội ngũ cán bộ Nhà nước đối với khu vực này. 2-/ Coi trọng mở rộng thị trường trong nước và cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tiếp cận thị trường khu vực và thị trường quốc tế: Đối với DNNN cũng như các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, thị trường là môi trường sống còn của các doanh nghiệp. Trong điều kiện kỹ thuật công nghệ còn lạc hậu, chất lượng sản phẩm kém sức cạnh tranh thì “bảo hộ để phát triển” là một vấn đề quan trọng. Đối với khu vực KTTN vấn đề thị trường còn bức xúc hơn vì khả năng đầu tư hạn chế, giới hạn đổi mới công nghệ quá chật vật. Vì vậy, tình trạng “mở cửa nền kinh tế” cần tính đến chính sách thuế quan nhằm góp phần “bảo hộ để phát triển”. Trong bối cảnh cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt, cũng như trong bối cảnh phải cạnh tranh với các liên doanh nước ngoài đầu tư trực tiếp ở nước ta, chính sách thị trường cần phải được Nhà nước, các cấp bộ, ngành, phòng công nghiệp và thương mại, các hiệp hội cùng quan tâm để đỡ đầu các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN nói riêng. 3-/ Hỗ trợ quá trình đổi mới và chuyển giao kỹ thuật công nghệ đối với các doanh nghiệp: Sự tăng trưởng và phát triển của doanh nghiệp là kết quả tổng hợp của công tác hạch định kinh doanh, tổ chức quản lý, tìm kiếm thị trường, lựa chọn kỹ thuật công nghệ và việc nghiên cứu sản xuất các sản phẩm mới có sức cạnh tranh. Trong điều kiện nước ta, kỹ thuật công nghệ còn nhiều bất cập là nguyên nhân chủ yếu làm cho sức cạnh tranh của sản phẩm thiếu hụt. Tuy nhiên, việc đổi mới kỹ thuật công nghệ đòi hỏi 1 lượng vốn đầu tư không nhỏ. Vì vậy, các doanh nghiệp cần phải “lượng sức” để đầu tư. Đồng thời phải coi trọng công tác “cải tiến dần dần” công nghệ theo phương thức của người Nhật. Tuy nhiên về phía Nhà nước cần hỗ trợ các doanh nghiệp thực hiện việc đổi mới và chuyển giao kỹ thuật công nghệ theo các hướng: - Thu thập và truyền thông các kỹ thuật công nghệ và hướng cải tổ kỹ thuật công nghệ truyền thống. - Hỗ trợ thông qua các cơ quan thẩm định, các cơ quan nghiên cứu ứng dụng. - Hỗ trợ vốn vay để đầu tư đổi mới kỹ thuật công nghệ. - Hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực để thực hiện việc tiếp nhận và chuyển giao kỹ thuật công nghệ. Trong điều kiện hiện tại, việc sử dụng các công nghệ kỹ thuật sử dụng nhiều sức lao động, kết hợp với cải tiến để nâng cao hiệu năng của các kỹ thuật công nghệ này ở nước ta vẫn là chủ yếu. Đồng thời cần khuyến khích đổi mới kỹ thuật công nghệ hiện đại theo quy luật vừa sức đầu tư, tránh hiện tượng đầu tư bừa bãi không sinh lợi. 4-/ Hỗ trợ các doanh nghiệp nắm bắt kịp thời thông tin: Hiện nay, tình trạng các doanh nghiệp không theo kịp thông tin rất phổ biến. Nhiều khi doanh nghiệp để lỡ mất cơ hội kinh doanh, cơ hội vay vốn, cơ hội tiếp thu những kỹ thuật công nghệ mới cũng chỉ do không biết được tình hình bên ngoài doanh nghiệp như thế nào. Còn có hiện tượng thông tin chỉ đến với các DNNN. Do vậy, việc đưa nguồn thông tin mới nhất về thị trường, môi trường bên ngoài doanh nghiệp là hết sức cần thiết. 5-/ Cần có chính sách hỗ trợ các nhà đầu tư về việc sử dụng mặt bằng sản xuất kinh doanh (chính sách đất đai) và chính sách thuế nâng đỡ ban đầu: Đối với vấn đề mặt bằng sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân, cho đến nay vẫn là một khó khăn lớn trong quá trình thực hiện tái sản xuất mở rộng. Theo số liệu điều tra CTTNHH tại Hà Nội, Hải Phòng và thành phố Hồ Chí Minh (năm 1995): mặt bằng sản xuất kinh doanh từ 50m2 chiếm 14,7%; mặt bằng từ 200m2 đến 500m2 chiếm 18,9%; mặt bằng từ 500m2 đến 1000m2 chiếm 10,9% và trên 1000m2 chiếm 18%. Vì vậy, diện tích mặt bằng sản xuất kinh doanh phải đi thuê các cơ quan, các tổ chức kinh tế và các cá nhân khác là chủ yếu. Hơn nữa, trong quá trình thành lập doanh nghiệp, việc đóng góp nhà cửa thành nguồn vốn quy đổi diễn ra phổ biến, nhưng phần nhiều chỉ được sử dụng làm văn phòng doanh nghiệp. Do vậy, khó khăn về mặt bằng vẫn là một bài toán nan giải. Trong khi đó, việc thuê các mặt bằng đã được xây dựng cơ sở hạ tầng trong các khu công nghiệp vẫn nằm ngoài tầm tay của các nhà đầu tư trong nước, do sức chịu đựng bất cập về giá thuế. Thời gian vừa qua, diện tích mặt bằng đã chuyển quyền sở hữu khi xây dựng nhà ở thì được phép, nhưng khi chuyển thành nhà xưởng để kinh doanh thì lại phải “chuyển sang chế độ thuế đất”. Đó là điểm phi lý cần phải được giải toả. Về chính sách thuế, cần tính đến việc nuôi dưỡng nguồn thu, tạo cho các doanh nghiệp có điều kiện tích tụ và tập trung vốn đầu tư để tái sản xuất mở rộng. Tránh tình trạng tận thu, lạm thu hoặc các tiêu cực của cán bộ thu thuế. Đồng thời kiên quyết xử lý tình trạng trốn thuế, nợ thuế trong khu vực kinh tế này. 6-/ Hỗ trợ công tác đào tạo đội ngũ các nhà doanh nghiệp và đào tạo nguồn nhân lực để phát triển doanh nghiệp. Thành phần xuất thân của các chủ doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân có nhiều gốc khác nhau. Tri thức kinh nghiệm vẫn là phổ biến. Vì vậy, để dần dần khắc phục những thiếu hụt nội tại, ngoài cố gắng tự vươn lên của các chủ doanh nghiệp. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ công tác đào tạo, bổ túc tri thức kinh doanh cho các chủ doanh nghiệp. Thực tiễn cho thấy, nhiều chủ doanh nghiệp đã nhận thức được sự bất cập của bản thân, đã có những đề nghị cần luật pháp hoá quyền thuê giám đốc điều hành và trách nhiệm của các giám đốc điều hành. Nhiều chủ doanh nghiệp cũng đã đầu tư cho con em họ theo học các trường về quản trị kinh doanh trong và ngoài nước. Đồng thời, Nhà nước cũng cần tính đến trách nhiệm cộng đồng của các doanh nghiệp trong việc tuyển dụng nguồn nhân lực, thông qua việc thành lập “Quỹ đào tạo nguồn nhân lực quốc gia”./. Kết luận KTTN ngày càng thể hiện vị trí không thể thiếu được trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Trên lý thuyết, Đảng và Nhà nước không hề phủ nhận vai trò quan trọng của KTTN song trên thực tế đôi khi các chủ trương đường lối đưa ra lại không dành một sự ưu đãi đáng có cho khu vực KTTN như trong bài viết đã đề cập. Thiết nghĩ chúng ta cần phải xem xét lại ngay cách nhìn đối với KTTN để không “bỏ đi” một lực lượng quan trọng đóng góp đáng kể cho quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá nước nhà. KTTN phải có một vị trí xứng đáng trong nền kinh tế. Chúng ta phải tôn trọng sự tồn tại và phát triển của KTTN. Nhà nước cần có những chính sách cụ thể thiết thực điều khiển, hướng dẫn hoạt động kinh doanh của các DNTN để các DNTN có thể phát huy mọi khả năng của mình và đóng góp ngày một nhiều cho nền kinh tế. Tài liệu tham khảo 1-/ Nghiên cứu kinh tế - Tháng 11/1998. 2-/ Đổi mới và phát triển các thành phần kinh tế (Tác giả Đỗ Hoài Nam). 3-/ Phát triển các thành phần kinh tế và các tổ chức kinh doanh ở nước ta hiện nay (Tác giả Vũ Đình Bách). 4-/ Báo “Doanh nghiệp” - Số 25 ngày 24-6-1999. 5-/ Báo “Diễn đàn doanh nghiệp” - Số 17 ngày 13-09-1999. 6-/ Các loại sách, báo, tạp chí khác. mục lục ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0190.doc