Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở VN

Mục Lục Mở đầu 3 Nội dung 4 Cơ sở lý luận của việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở nước ta. 5 Lý luận Mac - Lênin về sự phát triển của sản xuất hàng hoá và kinh tế hàng hoá. 5 Điều kiện ra đời của nền kinh tế hàng hóa. Ưu thế của sản xuất hàng hóa. 6 Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ. 7 Tính tất yếu khách quan phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam. 8 Do yêu cầu của phát triển lực lượng

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1166 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở VN, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sản xuất. 8 Do tồn tại nhiều thành phần kinh tế. 9 Do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân. 10 Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hoá. 11 Thực trạng kinh tế hàng hóa nước ta hiện nay. 11 1.1. Những thành tựu đạt được khi có chính sách mới. 11 Những khó khăn và thách thức mới. 12 Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hoá ở Việt Nam. 14 2.1. Đẩy mạnh quá trình đa dạng hoá sở hữu tạo điều kiện phát triển mạnh nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta. 14 Đẩy mạnh quá trình phân công lại lao động xã hội. 17 Hình thành và phát triển đồng bộ các loại thị trường. 17 Tiếp tục đổi mới và nâng cao vai trò quản lý vĩ mô của Nhà nước. 20 Đẩy mạnh việc sản xuất và hoàn thiện hệ thống pháp luật và cải cách nền hành chính quốc gia. 21 Kết luận 24 Tài liệu tham khảo 25 Mở đầu Đặc điểm kinh tế thế giới hiện nay là các quốc gia đang cố gắng xây dựng mô hình kinh tế có sự kết hợp kế hoạch và thị trường mà trong đó cơ cấu kinh tế nhiều thành phần là cốt lõi. ở nước ta, sau một thời gian duy trì kinh tế tập trung cao độ đã thấy sự không phù hợp của nó. Từ sau đại hội VI ( 1986 ) Đảng ta đã mở ra con đường XHCN của đất nước bằng việc chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần có sự quản lý cuả Nhà nước. Sau khi có chính sách đổi mới chúng ta đã đạt được nhiều thành tựu bước đầu có ý nghĩa rất lớn. Thật vậy, qua 10 năm thực hiện (1986 - 1996) thì nền kinh tế đã tăng trưởng ở mức khá cao, liên tục và ổn định, giải quyết được nạn đói, kiềm chế được lạm phát, trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới, giữ vững được ổn định xã hội... Tuy nhiên, hiện chúng ta đang đứng trước những khó khăn thách thức lớn, cái mới, cái cũ đan xen nhau, triệt tiêu nhau. Bổn phận của chúng ta là làm sao cho cái mới, cái tiến bộ thay thế cái cũ nhưng không có nghĩa phủ định hoàn toàn cái cũ. Nhận thức được điều này em đã chọn đề tài: “ Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng XHCN là giải pháp cơ bản để chuyển từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn ở nước ta hiện nay” làm đề tài cho đề án của mình để qua việc tìm tài liệu nghiên cứu đề tài nâng cao hiểu biết của mình về nền kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, giúp ích cho em trong quá trình học tập tại trường và hiểu biết thêm về hiện trạng của đất nước để sau khi ra trường có thể góp một phần công sức của mình xây dựng đất nước giàu đẹp. Đây là đề án đầu tay của em trong bộ môn này nên chắc chắn không thể tránh khỏi những sai sót, em rất mong được sự góp ý nhiệt tình của thầy giáo và các bạn. Em xin chân thành cám ơn thầy! Sinh viên thực hiện. Trần Hữu Đạt Nội dung I. Cơ sở lý luận của việc phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần trong thời kỳ quá độ ở nước ta. Bất cứ nền kinh tế nào cũng bắt đầu dưới dạng mần mống, tiền đề trong nền kinh tế cũ, dần dần phát triển và chiến thắng kinh tế cũ thì mới trở thành nền kinh tế mới. Dưới chế độ công xã nguyên thuỷ trong điều kiện những công cụ lao động quá thô sơ lúc bấy giờ, một cá nhân không thể sống và lao động độc lập được, bởi vậy họ phải liên kết lao động tập thể để chống lại sự uy hiếp của thiên nhiên, của thú dữ và những cộng đồng người khác. Người nguyên thuỷ không có quan niệm tư hữu, tất cả tư liệu sản xuất, tư liệu sinh hoạt đều thuộc sở hữu công cộng, của thị tộc và bộ lạc. Đây là nền kinh tế tự cung tự cấp. Trong xã hội nô lệ và phong kiến, nền kinh tế cũng chưa phải là nền kinh tế hàng hoá. Khi đó nền kinh tế hàng hoá mới chỉ là mầm mống, là tiền đề, và nó vẫn bị nền kinh tế tự nhiên chi phối. Chỉ đến khi xã hội tư bản ra đời thì kinh tế hàng hoá mới giữ vai trò cho phối đời sống kinh tế xã hội và khi đó mới thật sự là nền kinh tế hàng hoá. Lý luận của Mác - Lênin về sự phát triển của sản xuất hàng hoá và kinh tế hàng hoá. a. Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá Kinh tế tự nhiên và kinh tế hàng hoá là hai hình thức tổ chức kinh tế - xã hội đã tồn tại trong lịch sử hai hình thức này được hình thành trên cơ sở trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã hội,trình độ phân công lao động động xã hội, trình độ phát triển và phạm vi của quan hệ trao đổi. Trong nền kinh tế tự nhiên, người sản xuất cũng đồng thời là người tiêu dùng. Tự sản xuất, tự tiêu dùng là đặc điểm nổi bật của kinh tế tự nhiên. Mục đích của sản xuất là tạo ra những giá trị sử dụng nhằm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của chính bản thân người sản xuất, vì thế có thể nói quá trình sản xuất của nền kinh tế tự nhiên gồm hai khâu: sản xuất - tiêu dùng. Các quan hệ kinh tế trong nền kinh tế tự nhiên đều mang hình thái hiện vật. Trong nền kinh tế hàng hoá, mục đích sản xuất là trao đổi hay để bán. Mục đích đó được xác định từ trước quá trình sản xuất và có tính khách quan. Trong kiểu tổ chức kinh tế này, toàn bộ quá trình sản xuất - phân phối - trao đổi - tiêu dùng ; sản xuất cái gì, như thế nào và cho ai đều thông qua việc mua - bán, thông qua hệ thống thị trường và do thị trường quyết định. Sản xuất hàng hoá ra đời và phát triển là một quá trình lịch sử lâu dài. Đầu tiên là sản xuất hàng hoá giản đơn. Sản xuất hàng hoá giản đơn là sản xuất hàng hoá của nông dân, thợ thủ công dựa trên chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và sức lao động của bản thân họ. Sản xuất hàng hoá giản đơn ra đời trong thời kì công xã nguyên thuỷ tan rã. Trong xã hội chiếm hữu nô lệ và phong kiến, nó đóng vai trò phụ thuộc bổ sung. Đây là kiểu sản xuất hàng hoá nhỏ, dựa trên kỹ thuật thủ công và lạc hậu. Khi lực lượng sản xuất phát triển cao hơn, sản xuất hàng hoá giản đơn chuyển thành sản xuất hàng hoá quy mô lớn. Quá trình chuyển biến này diễn ra trong thời kì quá độ từ xã hội phong kiến sang xã hội tư bản. b. Điều kiện ra đời nền kinh tế hàng hoá Quá trình xuất hiện vận động và phát triển của kinh tế hàng hoá diễn ra trên cơ sở của sự phân công lao động xã hội và sự tách biệt về kinh tế giữa người sản xuất này với người sản xuất khác về tư liệu sản xuất quy định. Phân công lao động xã hội đã tạo ra những ngành nghề sản xuất khác nhau. Do phân công lao động xã hội nên mỗi người chuyên sản xuất một loại hàng hoá nhất định. Tuy nhiên, nhu cầu tiêu dùng của họ lại cần nhiều loại sản phẩm khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu này họ phải trao đổi sản phẩm cho nhau. Làm nảy sinh quan hệ kinh tế giữa những người sản xuất . Phân công lao động xã hội phát triển cũng dẫn tới sự ra đời của ngành thương nghiệp. Khi thương nghiệp ra đời quan hệ trao đổi đã có mầu sắc mới. Người sản xuất và người tiêu dùng quan hệ với nhau qua nhân vật thứ ba là thương nhân. Thương nghiệp phát triển làm cho sản xuất và lưu thông hàng hoá cùng với lưu thông tiền tệ được phát triển nhanh chóng. Quan hệ trao đổi ngày càng được mở rộng và phát triển đỏi hỏi hệ thống giao thông vận tải cũng phải mở rộng và phát triển đây là điều kiện vật chất làm tăng thêm các phương tiện trao đổi mở rộng thị trường. Điều kiện thứ hai của sản xuất hàng hoá là sự tách biệt về kinh tế giữa những người sản xuất do các quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất quy định. Dựa vào điều kiện này mà người chủ tư liệu sản xuất có quyền quyết định việc sử dụng tư liệu sản xuất và những sản phẩm do họ sản xuất ra. Như vậy quan hệ sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất đã chia rẽ người sản xuất, làm cho họ tách biệt với nhau về mặt kinh tế. Trong điều kiện đó, người sản xuất này muốn sử dụng sản phẩm lao động của người sản xuất khác thì phải trao đổi sản phẩm lao động cho nhau. Sản phẩm lao động trở thành hàng hoá. c. Ưu thế của sản xuất hàng hoá Lịch sử phát triển sản xuất của xã hội là sản xuất tự túc tự cấp tiến lên sản xuất hàng hoá (hay từ kinh tế tự nhiên hàng hoá). So với nền sản xuất tự túc tự cấp thì sản xuất hàng hoá có ưu thế hơn hẳn về nhiều mặt: Thứ nhất, do nhu cầu lớn và không ngừng tăng lên nên sản xuất hàng hoá là động lực thúc đẩy sản xuất phát triển. Thứ hai, sự phát triển của sản xuất hàng hoá làm cho phân công lao động xã hội ngày càng sâu sắc, chuyên môn hoá, hợp tác hoá ngày càng tăng, mối liên hệ giữa các ngành các vùng ngày càng chặt chẽ. Từ đó nó xoá bỏ tính tự cấp, tự túc, bảo thủ trì trệ của nền kinh tế, đẩy mạnh quá trình xã hội hoá sản xuất và lao động. Thứ ba, sản xuất tự túc tự cấp là sản xuất trong một môi trường không có cạnh tranh, còn môi trường hoạt động của sản xuất hàng hoá là một môi trường cạnh tranh gay gắt. Tính tách biệt kinh tế đỏi hỏi người sản xuất hàng hoá phải năng động trong sản xuất kinh doanh để sản xuất và tiêu thụ hàng hoá. Muốn vậy họ phải ra sức cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất, nâng cao chất lượng, cải tiến quy cách mẫu mã hàng hoá, tổ chức tốt quá trình tiêu thụ. Từ đó tăng năng suất lao động xã hội. Đây là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của xã hội. Thứ tư, sản xuất hàng hoá quy mô lớn có ưu thế so với sản xuất hàng hoá nhỏ về quy mô, trình độ kỹ thuật, khả năng thoả mãn nhu cầu. Vì vậy sản xuất hàng hoá quy mô lớn là cách thức tổ chức hiện đại để phát triển kinh tế - xã hội trong thời đại hiện nay. Thứ năm, sản xuất hàng hoá phát triển với vai trò động lực của nhu cầu, giao lưu văn hoá, kinh tế được phát triển nên đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của nhân dân được nâng cao ngày càng phong phú và đa dạng, tạo điều kiện cho sự hình thành và phát triển quyền tự do, bình đẳng, độc lập cả mỗi cá nhân. Lịch sử các nước xã hội chủ nghĩa trước đây đã xuất hiện mô hình “kinh tế chỉ huy” hay mô hình kế hoạch hoá tập trung. Mô hình này về thực chất là xoá bỏ dần cơ sở kinh tế cụ tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá. Mặc dù hình thức trên vẫn thừa nhận sự tồn tại của sản xuất hàng hoá, của các phạm trù kinh tế gắn liền với nền sản xuất đó, những trong thực tế đã xa rời các nguyên tắc tổ chức hoạt động của kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường. Sau này, Lênin đã nhận ra sai lầm của mình và đã rút ra kết luận quan trọng rằng: “Chính bản thân cuộc sống đã làm phá vỡ việc trao đổi trực tiếp va thay vào đó là việc mua bán”. Điều đó có nghĩa là cần phải phát triển kinh tế hàng hoá, kinh tế thị trường, thay cho nền kinh tế giản đơn tự cung tự cấp trước kia. Điều kiện ra đời của nền kinh tế hàng hoá. Trước hết ta có khái niệm của nền kinh tế hàng hoá: Là sản xuất ra sản phẩm để trao đổi, để bán trên thị trường, sản phẩm ở đây không phải là thoả mãn nhu cầu nội bộ của người sản xuất mà sản xuất ra để trao đổi. Kinh tế hàng hoá đối lập với kinh tế tự nhiên là loại hình kinh tế tiến hành sane xuất sản phẩm để thoả mãn nhu cầu bản thân người sản xuất. ở nền kinh tế tự nhiên thì người nông dân vừa phải tạo công cụ lao động như cuốc xẻng vừa trồng lúa còn trong nền kinh tế hàng hoá thì người nông dân chỉ phải trồng lúa còn người thợ rèn làm ra cuốc xẻng để đổi lấy lúa gạo của người nông dân. Việc người nông dân từ việc vừa phải sản xuất công cụ lao động vừa phải trồng lúa và chuyển sang chỉ trồng lúa còn trao đổi lấy công cụ cuốc xẻng của người thợ rèn chính là phân công lao động xã hội đó là sự chuyên môn hoá người sản xuất thành những ngành nghề khác nhau, mỗi người chỉ sản xuất một thứ hoặc một vài thứ sản phẩm, song nhu cầu của họ lại bao hàm nhiều thứ khác nhau. Để thoả mãn nhu cầu họ cần có sự trao đổi sản phẩm với nhau. Nhưng nếu chỉ có sự phân công lao động thôi thì chưa đủ để có sản xuất hàng hoá, đây mới chỉ là điều kiện cần của sản xuất hàng hoá. Nếu chỉ có phân công lao động và tất cả tư liệu sản xuất đều là của chung như vậy mỗi người sản xuất cung cấp sản phẩm cho xã hội và xã hội cung cấp sản phẩm cho cá nhân tiêu dùng bởi vậy ở đây không có sự mua bán, trao đổi hàng hoá với nhau nên chỉ có sự phân công lao động xã hội thôi thì chứa đủ để có được nền sản xuất hàng hoá. Ngoài điều kiện phân công lao động xã hội thì để chuyển từ kinh tế tự nhiên sang kinh tế hàng hoá cần phải xuất hiện chế độ tư hữu hoặc các hình thức sở hữu khác nhau của tư liệu sản xuất và sản phẩm, đây là điều kiện đủ để có được sản xuất hàng hoá. Ta đặt vấn đề ngược lại, nếu chỉ có điều kiện hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất và sản phẩm thì có thể chuyển đươc từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh têa hàng hoá hay không? Câu trả lời là không vì nếu chỉ có điều kiện sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất mà không có sự phân công lao động sã hội thì chưa thể có sản xuất hàng hoá, người nông dân vừa dệt vải, vừa tự rèn lấy công cụ và trồng lúa. Tức là nền kinh tế vẫn mang tính tự cung tự cấp hoàn toàn thì sản xuất đó không phải là nền sản xuất hàng hoá. Như vậy phân công lao động xã hội là cơ sở để có thể xản xuất hàng hoá còn chế độ tư hữu làm cho việc trao đổi sản phẩm mang hình thức trao đổi hàng hoá. Thiếu một trong hai điều kiện đó thì không thể sản xuất hàng hoá. Ưu thế của sản xuất hàng hoá. Lịch sử phát triển sản xuất của xã hội là sản xuất tự túc tự cấp tiến lên sản xuất hàng hoá (hay từ nền kinh tế tự nhiên lên nền kinh tế hàng hoá). So với nền sản xuất tự túc tự cấp thì sản xuất hàng hoá có ưu thế hơn hẳn về nhiều mặt. - Thứ nhất, nền sản xuất tự túc tự cấp là nền sản xuất khép kín làm cho nên sản xuất bị hạn chế không phát triển, mặt khác sản xuất hàng hoá là sản xuất ra sản phẩm để bán nên nhu cầu là rất lớn và không ngừng tăng lên bởi vậy nó là động lực để thúc đẩy sản xuất. - Thứ hai, sản xuất tự túc tự cấp là sản xuất trong một môi trường không có cạnh tranh, sản xuất với qui mô nhỏ, nhu cầu chủ yếu dựa vào nguồn lực tự nhiên nên không có động lực mạnh cho việc đổi mới kỹ thuật và phát triển sản xuất hơn nữa, những nguồn lực tự nhiên thì được sử dụng một cách rất lãng phí. Còn môi trường hoạt động của sản xuất hàng hoá là một môi trường cạnh tranh găy gắt, quy mô sản xuất lớn, nguồn lực tự nhiên ngày càng khan hiếm, điều này buộc những người sản xuất phải cải tiến kỹ thuật, linh động trong việc sử dụng tài nguyên thiên nhiên, trái với sản xuất tự cấp tự túc, đây là động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của xã hội. - Thứ ba, đối với sản xuất tự cấp tự túc do sản xuất phát triển thấp, sản xuất ít và nhu cầu thấp nên ở mỗi vùng và các vùng khác nhau, đời sống vật chất, văn hoá, tinh thần rất nghèo nàn và thấp kém, không có sự giao lưu trao đổi văn hoá giữa các vùng. Nhưng sản xuất hàng hoá khắc phục được tình trạng này, do sản xuất hàng hoá phát triển với vai trò động lực của nhu cầu, giao lưu văn hoá, kinh tế được phát triển nên đời sống vật chất cũng như đời sống tinh thần của nhân dân đều được nâng cao ngày càng phong phú và đa dạng, tạo điều kiện cho sự phát triển độc lập, tự do bình đẳng của mỗi cá nhân. - Thứ tư, nền sản xuất tự cấp tự túc khép kín đã cản trở sự phát triển của phân công lao động xã hội, trái lại do sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội, thúc đẩy sự chuyên môn hoá các ngành sản xuất, làm cho các ngành sản xuất ngày càng được chuyên môn hoá và phát triển mạnh mẽ, trình độ kỹ thuật ngày càng được nâng cao, trên thế giới hiện nay khoa học kỹ thuật phát triển vô cùng nhanh chóng nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin và điện tử ... Như vậy ta có thể thấy rằng, so với nền sản xuất tự cấp tự túc thì nền sản xuất hàng hoá tỏ ra có nhiều ưu điểm hơn hẳn, và điều quan trọng la nó luôn kích thích cho sản xuất phát triển. Sự tồn tại khách quan của kinh tế hàng hoá trong thời kỳ quá độ. Ta thấy rằng từ khi chủ nghĩa xã hội ra đời và phát triển thành một hệ thống trên thế giới cho đến trước thập kỷ 80, vấn đề có hay không tồn tại của nền sản xuất hàng hoá trong chủ nghĩa xã hội luôn là đề tại tranh luận trong giới nghiên cứu lý luận Macxit. Nhìn chung, về phương diện lý luận, quan điểm chính thống chi phối trong suốt mấy thập kỷ qua là quan niệm cho rằng: kinh tế xã hội chủ nghĩa là nền kinh tế phát triển theo kế hoạch cân dối và có kế hoạch cùng với các quy luật kinh tế đặc thù khác của chủ nghĩa xã hội, Nhà nước có vai trò chủ yếu trong quá trình tái sản xuất và phân phối sản phẩm mà không cần đến các quan hệ trao đổi hàng hoá trên thị trường. Kinh tế hàng hoá bị coi nhẹ, được coi là đặc trưng riêng của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa cần phải hạn chế và đi tới xoá bỏ. Nhưng trên thực tế chính điều đó là nguyên nhân chủ yếu làm trì trệ, kìm hãm đưa nền kinh tế của các quốc gia XHCN đến khủng hoảng và tan vỡ. Từ những thực tế trên ta thấy quan điểm cho rằng “sản xuất hàng hoá là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản” là hoàn toàn sai lầm. Mặt khác theo Cacmac sản xuất hàng hoá ra đời trên cơ sở phân công lao động xã hội và chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất bởi vậy sản xuất hàng hoá tồn tại trong thời kỳ quá độ là một tất yếu khách quan vì: - Thứ nhất, khi mà phân công xã hội phát triển kéo theo chuyên môn hoá sản xuất ngày càng sâu sắc, từ đó sẽ nảy sinh thêm những mối quan hệ kinh tế, những sự trao đổi hoạt động lao động trong xã hội. - Thứ hai, đặc điểm kinh tế của thời kỳ quá độ đó là nền kinh tế nhiều thành phần với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất, nhiều chủ thể kinh tế khác nhau. Những chủ thể kinh tế này tách biệt, độc lập với nhau nhưng họ đều nằm trong một hệ thống phân công lao động xã hội do đó sản xuất và đời sống của họ vẫn có sự phụ thuộc lẫn nhau và quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng con đường trao đổi hàng hoá tức là phải có sản xuất hàng hoá. - Thứ ba, quan hệ hàng hoá tiền tệ là hình thức cần thiết thuận lợi để đảm bảo sự công bằng trong quan hệ kinh tế quốc doanh và kinh tế tập thể, vì hai đơn vị này tuy cùng là sở hữu công cộng về tư liệu sản xuất nhưng nó vẫn có sự khác biệt nhất định và có quyền tự chủ sản xuất kinh doanh, cạnh tranh hay hợc tác với nhau, nó còn có sự khác biệt nhau về trình độ kỹ thuật, trình độ quản lý, về hiệu quả sản xuất kinh tế, chúng ta không thể dùng phương pháp bình quân, cào bằng ở đây được. - Thứ tư, sản xuất hàng hoá và quan hệ hàng hoá tiền tệ còn chính là điệu kiện cần thiết và tất yếu trong quan hệ đối ngoại giữa các nước trên thế giới bởi vì mỗi nước vẫn là những quốc gia riêng biệt, là những chủ sở hữu khác nhau về sản phẩm hàng hoá. Từ những lý do trên đây ta nhận thấy trong thời kỳ quá độ sản xuất hàng hoá tồn tại là một tất yếu khách quan và không thể cưỡng lại được, không thể dùng mệnh lệnh để ngăn cấm, xoá bỏ sản xuất hàng hoá . II.Tính tất yếu khách quan phải phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần ở Việt Nam. Do yêu cầu của phát triển lực lượng sản xuất . Lực lượng sản xuất phát triển tỷ lệ thuận với tiến trình tập trung xã hội hoá quan hệ sở hữu mà đỉnh cao là sở hữu toàn dân. Sự hình thành các tập đoàn kinh tế, các công ty cổ phần, công ty đa quốc gia và xuyên quốc gia chính là những biểu hiện của quá trình xã hội hoá quan hệ sở hữu ở một trình độ nhất định. Khi mà lực lượng sản xuất đang ở mức thấp thì tương ứng với nó là sự tồn tại nhiều hình thức sở hữu phân tán. Thế giới ngày nay do phát triển lực lượng sản xuất của khoa học, công nghệ mà giàu có rất nhanh; những đi liền với nó là bất công xã hội ngày càng tăng, sự giàu có phát triển không làm cho bất công xã hội giảm đi mà ngày càng phát triển, để giải quyết mâu thuẩn này không có cách nào khác là khi tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với giải quyết công bằng xã hội, ở đây không có nghĩa là cào bằng sự siêng năng tích cực, sự biếng nhác; làm ăn có hiệu quả khác nhau đều được hưởng như nhau; làm như vậy sẽ triệt tiêu động lực phấn đấu của con người. ở đây cần phải dùng quan hệ hàng hoá tiền tệ để phân chia quyền lợi , chỉ có làm như vậy mới làm giảm sự bất công xã hội. Hơn nữa trình độ phát triển lực lượng sản xuất của nước ta còn ở mức rất thấp, sự phân công lao động xã hội gắn với sự tồn tại của nhiều chủ thể sở hữu khác nhau như các thực thể kinh tế độc lập, do vậy việc trao đổi sản phẩm không thể thực hiện bằng cách náo khác là thực hiện trao đổi hàng hoá thông qua tiền tệ. Trong thời kỳ quá độ của nước ta hiện nay muốn phát triển lực lượng sản xuất thì phải nâng cao xã hội hoá và chuyên môn hoá lao động mà điều này chỉ có thể diễn ra thuận lợi trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay, trên thế giới, do sự phát triển của lực lựng sản xuất của khoa học công nghệ, đang có xu hướng quốc tế hoá đời sống nhân loại, xu hướng này mở ra cả chiều rộng và chiều nghịch, cả mặt tích cực lẫn tiêu cực tác động đến con người, đến các quốc gia. Xu thế này đòi hỏi sự giao lưu hợp tác, hiểu biết lẫn nhau giữa các vùng và các quốc gia. Do vậy cần phải phát triển sản xuất hàng hoá ở nước ta để việc giao lưu, hợp tác với các nước khác trên thế giới được dễ dàng thuận lợi. Mặt khác, sản xuất hàng hoá phát triển kéo theo lực lượng sản xuất phát triển làm cho sản phẩm xã hội ngày càng phong phú đáp ứng được yêu cầu ngày càng tăng của con người. Do tồn tại nhiều thành phần kinh tế. Việc đổi mới quản lý kinh tế sử dụng đúng đắn mối quan hệ hàng hoá tiền tệ bằng phương pháp kinh tế là chủ yêú đã được đặt nền tảng tư tưởng bởi nghị quyết đại hội VI (1986) có tính quyết định cho việc lưạ chọn chuyển nền kinh tế nước ta sang nền kinh tế thị trường nhanh chóng đưa nước ta thoát hỏi tình trạng nghèo nàn lạc hậu. Từ những quan điểm đó Chính phủ đã chủ trương chuyển việc mua bán tư liệu sản xuất, vật phẩm tiêu dùng. từ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp sang việc mua bán thông qua thị trường. Nền kinh tế tồn tại nhiều thành phần tương ứng với nhiều hình thức sở hữu khác nhau về tư liệu sản xuất là cơ sở gắn liền với nó là sự tồn tại và phát triển kinh tế hàng hoá. Đối với nền kinh tế nước ta với lực lượng sản xuất chưa đồng đều chúng ta đã nhận định được rằng chỉ có phát triển nền kinh tế nhiều thành phần mới có khả năng khắc phục được tình trạng không đồng đều đó của lực lượng sản xuất. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, tồn tại sáu thành phần kinh tế: Kinh tế Nhà nước. Kinh tế hợp tác. Kinh tế sản xuất nhỏ của nông dân và người buôn bán nhỏ. Kinh tế tư bản Nhà nước. Kinh tế tư bản tư nhân. Kinh tế có sự tham gia của người nước ngoài. Hiện nay, nước ta đang phải gánh chịu những hậu quả nặng nề do sự sai lầm về đường lối, chính sách thời trước đổi mới, hậu quả chúng ta phải gánh chịu đó là nền kinh tế kém phát triển, làm mất khả năng cạnh tranh và những tác dụng tích cực của nền kinh tế hàng hoá. Nền kinh tế nhiều thành phần là nguồn lực tổng hợp về nhiều mặt ( huy đông được mọi tiềm năng về vốn, kỹ thuật và phát thy được mọi tiềm năng của con người Việt nam) có khả năng đưa nền kinh tế vượt qua được tình trạng thấp kém, đưa nền kinh tế hàng hoá phát triển ngay trong điều kiện nguồn vốn, ngân sách của Nhà nước còn hạn hẹp. Một điều có ý nghĩa khá lớn là chúng ta đã nhận định được đó là: do trong nền kinh tế hàng hoá chịu sự tác động của sự thay đổi cơ cấu ngành kinh tế dịch vụ phát triển nhanh chóng, bởi vậy lao động dịch vụ có khả năng thu hút nguồn lao động không nhỏ, góp phần giải quyết được vấn đề công ăn việc làm ở nước ta hiện nay. Trong điều kiện đó các thành phần kinh tế có khả năng mở rộng, tác dụng làm cho nền kinh tế hàng hoá và dịch vụ phát triển. Vậy đối với nước ta hiện nay, việc xây dựng nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng xhcn là một nhu cầu khách quan, là xu thế tất yếu hợp thời đại. Do đòi hỏi nâng cao đời sống nhân dân. Vào thời kỳ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX này, dân tộc ta bị sống đọa đầy dưới ách thống trị của thực dân Pháp và phong kiến tay sai. Trong ách áp bức bọc lột, nhiều phong trào yêu nước đã kế tiếp nhau diển ra để chống lại bọn cướp nước và bè lũ bán nước, nhưng những phong trào đó lần lượt bị thất bại do không tìm được ra con đường cứu nước đúng đắn. Trong bối cảnh đó Hồ Chí Minh với tên gọi Nguyễn Tất Thành đã ra đi tìm con đường cứu nước tại bến cảng Nhà Rồng và Người đã tìm ra con đường đúng đắn để giải phóng dân tộc. Ngay từ những ngày đầu của chính quyền cách mạng mới giành được, Người đã nêu bật một chân lý “ Nước độc lập mà dân không được hưởng hạnh phúc thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì” và Người thường căn dặn “thắng đế quốc và phong kiến là tương đối khó nhưng thắng nghèo nàn, lạc hậu còn khó khăn hơn nhiều”. Đối với nước ta trong thời kỳ trước đổi mới (1986) do những sai lầm trong nhận thức về mô hình XHCN, cho rằng kinh tế hàng hoá là đặc trưng riêng của chủ nghĩa tư bản, điều này đã làm cho nền kinh tế nước ta lâm vào khủng hoảng trầm trọng, lạm phát gia tăng một cách khủng khiếp (có thời kỳ lên tới 600 - 700%) đời sống nhân dân vô cùng khổ cực. Trước những thực trạng đó của đất nước, Đảng ta đã nhận ra sai lầm và đã đề ra phương hướng đổi mới đất nước đó là vận hành nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước kể từ sau Đại hội VI ( 1986). ở nông thôn nước ta, sự phát triển kinh tế hàng hoá và việc tăng tỷ lệ hàng hoá nông sản đã làm cho hàng hoá của nông dân nhiều lên, thu nhập tăng một cách đáng kể. Thực tiễn nhữn năm đổi mới đã chỉ ra rằng, việc chuyển sang mô hình kinh tế thị trường là hoàn toàn đúng đắn. Nhờ mô hình kinh tế đó mà những năm qua, chúng ta đã bước đầu khai thác được tiềm năng trong nước đi đôi với thu hút vốn kỹ thuật nước ngoài, phát triển lực lượng sản xuất . III.Những giải pháp phát triển kinh tế hàng hoá. Thực trạng kinh tế hàng hoá nước ta hiện nay. Những thành tựu đạt được khi có chính sách mới. Cho đến cuối những năm 80 về cơ bản, trong nền kinh tế nước ta, sản xuất nhỏ vẫn còn là phổ biến, trạng thái kinh tế tự nhiên, tự cung tự cấp còn chiếm ưu thế. Xã hội Việt Nam về cơ bản vẫn dựa vào nền văn minh nông nghiệp lúa nước, nông dân chiếm đại đa số. Trong quá trình thực hiện những biện pháp cải cách, chúng ta đã phạm phải một số sai lầm mới nên khủng hoảng kinh tế – xã hội diễn ra ngày càng gay gắt, tỷ lệ lạm phát lên đến 774,7% vào năm 1986. Việt Nam vẫn là một nước ngèo nàn, lạc hậu và kém phát triển không những trên thế giới mà thậm chí ngay trong khu vực Đông Nam á. Từ khi có chính sách đổi mới, thành tựu nổi bật nhất là đẩy lùi lạm phát, chỉ trong một thời gian ngắn hàng loạt các đơn vị của thành phần kinh tế kinh doanh thương mại được hình thành, hoạt động trên mọi lĩnh vực từ xuất nhập khẩu đến kinh doanh thiết bị nhỏ lẻ trên cả nước. Các tổ chức này ra đời đã làm cho thị trường trở nên sôi động, khối lượng hàng hoá và tiền vốn từ nhiều nguồn lực được huy động vào lưu thông với mức mà trước đây chưa khi nào có được. Việc ngăn sông cấm chợ được xoá bỏ, việc lưu thông hàng hoá được dễ dàng, tình trạng khan hiếm hàng hoá được đẩy lùi, hiện tượng chênh lệch giá giữa các vùng, khu vực bị hạn chế, nạn độc quyền trong kinh doanh được giải quyết đáng kể, đời sống xã hội được nâng lên. Trong những năm vừa qua, nền kinh tế nước ta phát triển tương đối nhanh và ổn định, lương thực từ chỗ thiếu thốn cho đến nay không những đáp ứng được nhu cầu trong nước mà còn phục vụ cho xuất khẩu. Đầu năm 1988 có nạn đói lớn ở nhiều vùng và lạm phát còn ở mức 393,8%, nhưng từ năm 1989 trở đi, nước ta đã bắt đầu xuất khẩu được mỗi năm 1- 1,5 tấn gạo; lạm phát giảm dần, đến năm 1990 chỉ còn 67,4%, và đến năm 1999 vừa qua nước ta đã trở thành một nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai trên thế giới, trên cả Mỹ. Nhiều công trình trọng điểm về kết cấu hạ tầng được xây dựng đã tạo thêm sức mạnh vật chất và thế cân đối cho những bước phát triển tiếp theo. Một thành tựu không nhỏ nữa đó là việc xuất hiện nhiều khu công nghiệp lớn, ngành nghề mơí đã tạo thêm nhiều việc làm cho lao động xã hội từ đó những tệ nạn xã hội cũng dần được kiềm chế, sự tăng trưởng kinh tế cũng đã góp phần nâng cao đời sống các tầng lớp dân cư, số hộ nghèo đói ở nước ta được giảm đi đáng kể, nhiều hộ gia đình từ chỗ không đủ ăn đến đủ ăn, đến nay thậm chí có những hộ gia đình từ khi có chính sách kinh tế mới đã mạnh dạn đầu tư sản xuất và trở thành những ông chủ giầu có. Đời sống nhân dân được cải thiện đáng kể so với trước kia. Những khó khăn và thách thức mới. Tuy rằng trong những năm qua nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, mức sống của nhân dân được nâng lên một cách đáng kể, nhưng bên cạnh đó cũng đặt cho chúng ta những khó khăn và thách thức mới. Việc vực dậy nền kinh tế từ không đến có hay từ đói nghèo đến đủ ăn, đủ mặc tiến lên ăn ngon mặc đẹp ở mức cao hay một nền kinh tế từ “có” lên đến nhiều hơn nữa và tiến lên giàu mạnh hơn nữa. Nền kinh tế của nước ta tuy đang phát triển với tốc độ cao nhưng không vững chắc, nguồn lực phụ thuộc nhiều vào nước ngoài, huy động nguồn đầu tư từ dân thấp, chưa tạo được tâm lý yên tâm cho người dân mạnh dạn đầu tư phát triển. Việc lưu thông hàng hoá và hoạt động thương mại chủ yếu tập trung vào những vùng thành thị, khu đông dân và những thành phố lớn, chú ý nhiều đến kinh doanh, hai thác hàng nhập khẩu, thị trường nông thôn miền núi, hàng hoá sản phẩm trong nước nhất là hàng hoá nông sản thì ít được chú ý. Quá trình mua bán diễn ra nhanh chủ yếu chạy theo lợi nhuận trước mắt đã làm cho thị trường trong nước bị phân đoạn, tách rời, động lực thúc đẩy sản xuất bằng nguồn lực nội tại trong nước của thị trường không được phát huy. Kết cấu hạ tầng kỹ thuật và xã hội nước ta còn ở trình độ thấp, bên cạnh một số lĩnh vực, một số cơ sở kinh tế được trang bị máy móc, thiết bị công nghệ hiện đại thì bộ phận lao động thủ công vẫn còn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội. Trong nhiều ngành kinh tế do máy móc cũ kỹ, công nghệ lạc hậu nên sức cạnh tranh trên thị trường trong nước cũng như ngoài nước còn rất yếu, số lượng, chất lượng hàng hoá làm ra còn thấp, chuyên môn hoá sản xuất chưa sâu, giao lưu hàng hoá còn nhiều hạn chế hơn nữa lại bị hàng nhập khẩu chèn ép, không xuất khẩu được nên nhiều doanh nghiệp khôn phát huy được hết năng lực sản xuất. Đội ngũ những nhà quản lý doanh nghiệp thành thạo còn quá ít, chưa đáp ứng được nhu cầu to lớn của thực tiễn, số lượng lao động thì lớn nhưng số lượng được đào tạo kỹ thuật có khả năng đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi của những công nghệ hiện đại trên thế giới còn chiếm tỷ lệ qúa nhỏ dẫn đến tình trạng tuy có nguồn lực dồi dào nhưng không thể khai thác được triệt để vì còn thiếu nhân lực có kỹ thuật có tay nghề. Hơn nữa, thu nhập của người làm công ăn lương cũng như của nông dân lao động còn thấp (khoảng 200 USD/người/năm, một trong những nước có thu nhập bình quân trên đầu người thấp nhất thế giới ), do đó sức mua hàng chưa cao làm cho dung lượng thị trường trong nước còn ở mức nhỏ hẹp, điều này khiến chúng ta không thể khai thác hết được những tiềm năng phát triển trong nước, và cũng hạn chế cả khả năng hấp dẫn với những nguồn đầu tư từ nước ngoài. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28872.doc
Tài liệu liên quan