Phương hướng đầu tư phát triển ngành công nghiệp Da giầy đến năm 2010

Lời mở đầu Nhìn lại chặng đường đổi mới nền kinh tế, chúng ta có thể thấy được vài trò và sự sáng suốt của Đảng và Nhà nước trong quá trình đưa đất nước đi lên. Với quan điểm đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá hiện đại hoá đưa đất nước trở nên hùng mạnh có thể sánh vai được với các cường quốc trên thế giới. Đảng và Nhà nước luôn luôn quan tâm đầu tư phát triển tất cả các thành phần kinh tế, các ngành. Với trọng tâm phát triển ngành công nghiệp, đặc biệt trong giai đoạn hiện nay thì sự đầu tư p

doc25 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1224 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng đầu tư phát triển ngành công nghiệp Da giầy đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hát triển ngành công nghiệp nhẹ là một lợi thế của chúng ta. Ngành công nghiệp da giầy cũng là một trong những ngành được đặc biệt quan tâm, không chỉ bởi nó đem lại một nguồn ngoại tệ đáng kể cho đất nước mà nó còn là một trong những ngành giải quyết được nhiều gánh nặng cho đất nước (như việc làm, cải thiện đời sống của nhân dân...). Tuy nhiên trong giai đoạn hiện nay thì ngành da giầy của chúng ta so với ngành da giầy của các nước khác trên thế giới còn nhiều lạc hậu. Để có thể có được các thị trường mạnh như Mỹ, EU, Nhật đòi hỏi chúng ta phải có sự đầu tư hơn nữa trong những năm tới. Đặc biệt là chúng ta đã ra nhập AFTA và tiến tới là nhập vào tổ chức thương mại quốc tế WTO. Do đó chúng ta cần một phương hướng, một chiến lược, một kế hoạch đầu tư phát triển ngành công nghiệp da giầy trong những năm tới. Từ sự cấp thiết của vấn đề trên mà em xin chọn lựa đề tài : “Phương hướng đầu tư phát triển ngành công nghiệp da giầy đến năm 201 ”. Bài viết ngoài phần lời mở đầu và phần kết luận gồm ba phần: Phần I : Lý luận chung Phần II : Thực trạng đầu tư phát triển ngành công nghiệp da giầy Phần III : Phương hướng và giải pháp đầu tư phát triển ngành công nghiệp da giầy đến năm 2010 Em xin chân thành cảm ơn cô giáo Hà đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Tuy nhiên, do sự hạn chế về kinh nghiệm cũng như thời gian nên bài viết không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong có được sự góp ý của thầy cô cùng bạn bè để bài viết được hoàn thiện hơn. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn ! Phần I: Lý luận chung I. Khái niệm, vai trò,đặc điểm của đầu tư Khái niệm về đầu tư. Đầu tư có thể được khái niệm theo nhiều cách khác nhau, đứng trên mỗi góc độ (như góc độ tài chính, góc độ tiêu dùng...) người ta đều có thể đưa ra một khái niệm. Tuy nhiên chúng ta có thể đưa ra một khái niệm chung nhất về đầu tư như sau: ” Đầu tư là sự bỏ vốn (chi tiêu vốn) cùng với các nguồn lực khác trong hiện tại để tiến hành một hoạt động nào đó hoặc tạo ra, hoặc khai thác sử dụng tài sản nhằm thu về các kết quả có lợi trong tương lai “. Thông qua khái niệm chung về đầu tư chúng ta có thể thấy được bản chất và đặc điểm của đầu tư. Do đó ta có thể phân biệt một số loại đầu tư như sau : Đầu tư tài chính (đầu tư tài sản tài chính ). Đây là loại hình đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra cho vay hoặc mua các chứng chỉ có giá để hưởng lãi suất định trước (gửi tiết kiệm, mua trái phiếu chính phủ, đầu tư chứng khoán...) hoặc lãi suất tuỳ thuộc vào kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh của các công ty phát hành. Đầu tư tài chính không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến quan hệ quốc tế trong lĩnh vực này) mà chỉ làm tăng giá trị tài sản tài chính của tổ chức cá nhân đầu tư. Song nó có vai trò tương đối quan trọng (là nguồn cung cấp vốn ) cho đầu tư phát triển. Đầu tư thương mại. Là hoạt động đầu tư trong đó người có tiền bỏ ra để mua hàng hoá và sau đó bán với giá cao hơn nhằm thu lợi nhuận do chênh lệch giá khi mua và khi bán. Loại đầu tư cũng không tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế (nếu không xét đến ngoại thương ) mà chỉ làm tăng tài sản tài chính của người đầu tư. Tuy nhiên đầu tư thương mại có tác dụng thúc đẩy quá trình lưu thông của cải vật chất, từ đó thúc đẩy đầu tư phát triển, tăng thu ngân sách, tăng tích luỹ vốn cho phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ nói riêng và nền sản xuất xã hội nói chung. Đầu tư phát triển. Đầu tư là một bộ phận cơ bản của đầu tư trong đó người có tiền bỏ tiền ra để tiến hành các hoạt động nhằm tạo ra tài sản mới cho nền kinh tế, làm tăng tiềm lực sản xuất kinh doanh và mọi hoạt động xã hội khác, là điều kiện chủ yếu để tạo việc làm nâng cao đời sống của mọi người dân trong xã hội. Đó chính là việc bỏ tiền ra để xây dựng, sửa chữa nhà cửa và các kết cấu hạ tầng, mua sắm trang thiết bị và lắp đặt chúng trên nền bệ và bồi dưỡng và đào tạo nguồn nhân lực, thực hiên các chi phí thường xuyên gắn liền với sự hoạt động của các cơ sở đang tồn tại và tạo tiềm lực mới cho nền kinh tế xã hội. 2- Đặc điểm của đầu tư phát triển. Từ việc xem xét khái niệm đầu tư phát triển trên ta có thể đưa ra được các đặc điểm cơ bản của đầu tư phát triển như sau: Thứ nhất : Tiền vốn, vật tư, lao động cần thiết cho một công cuộc đầu tư thường là rất lớn. Thứ hai : Thời gian kể từ khi bắt đầu tiến hành một công đầu tư cho đến khi các thành quả của một công cuộc đầu tư đó phát huy tác dụng đem lại lợi ích kinh tế xã hội thường kéo dài. Thứ ba: Thời gian vận hành các kết quả đầu tư cũng thường kéo dài, nhiều khi là vĩnh viễn. Thứ tư : Các thành quả của hoạt động đầu tư là các công trình xây dựng, vật kiến trúc như nhà máy, hầm mỏ, các công trình thuỷ lợi đường xá cầu cống bến cảng... sẽ hoạt ở ngay nơi mà nó được tạo dựng nên. Do đó, các điều kiện về địa lý, địa hình tại đó có ảnh hưởng lớn đến quá trình thực hiện đầu tư cũng như tác động sau này của các kết quả đầu tư. Thứ năm : Với đặc điểm là thời gian thực hiện đàu tư dài, vốn lớn, lao động nhiều, thời gian vận hành các kết quả đầu tư dài. Do đó nó tạo ra một đặc điểm cho hoạt động đầu tư phát triển là mức độ rủi ro cao. 3- Vai trò của đầu tư phát triển. Đầu tư phát triển có một vai trò hết sức quan trọng với mọi quốc gia cũng như với mọi doanh nghiệp. Thông qua hoạt động đầu tư thúc đẩy sự tăng trưởng và phát triển của mỗi quốc gia, đảm bảo sự tồn tại và phát triển của mỗi doanh nghiệp. Chúng ta có thể xem xét một cách cụ thể vai trò của đầu tư phát triển trên hai góc độ như sau : Đứng trên góc độ vĩ mô. -Thứ nhất : Đầu tư vừa tác động đến tổng cung, vừa tác động đến tổng cầu. Đối với tổng cầu thì đầu tư là một yếu tố chiếm tỷ trọng lớn. Theo số liệu của ngân hàng thế giới đầu tư thường chiếm khoảng 24- 28% trong cơ cấu tổng cầu của tất cả các nước trên thế giới. Đầu tư tác động ngắn hạn đến tổng cầu. Đối với tổng cung thì kết quả của hoạt động đầu tư phát huy tác dụng làm cho tổng cung dài hạn tăng lên. Từ đó kích thích tiêu dùng, tăng sản xuất. -Thứ hai : Đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định của nền kinh tế. Tăng đầu tư có tác động hai mặt đến sự ổn định nền kinh tế. Mặt tích cực là tăng đầu tư dẫn đến sản xuất phát triển, từ đó tăng thu nhập, việc làm tăng, nâng cao đời sống xã hội, giảm các tệ nạn xã hội. Mặt tiêu cực đó là khi đầu tư tăng thì giá tăng lên dẫn đến lạm phát làm cho thu nhập thực tế giảm, chi phí đầu vào tăng, dẫn đến sản xuất giảm,việc làm giảm. Giảm đầu tư cũng có tác động hai mặt. Tác động tích cực là khi giảm đầu tư dẫn đến lạm phát giảm từ đó làm tăng lợi nhuận cho người sảm xuất, kích thích sản xuất. Tác động tiêu cực là đầu tư giảm dẫn đến sản xuất giảm, việc làm giảm, thu nhập giảm. Thứ ba : Đầu tư tác động đến tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Theo kết quả của các nhà nghiên cứu kinh tế cho thấy muốn giữ được tốc độ tăng trưởng ở mức trung bình thì tỷ lệ đầu tư phải đạt được tư 15- 25% so với GDP và phải tuỳ thuộc vào ICOR của mỗi nước : Vốn đầu tư Ta có: ICOR = Mức gia tăng GDP Vốn đầu tư Suy ra : Mức gia tăng GDP(g) = ICOR Chỉ tiêu ICOR của mỗi nước là khác nhau, nó tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế của mỗi nước. Thứ tư : Đầu tư tác động đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Sự tác động của đầu tư làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp và từ công nghiệp dần sang dịch vụ. Chuyển dần các vùng lãnh thổ nghèo kém, chậm phát triển thành các vùng có tốc độ phát triển cao hơn, đẩy lùi được đói nghèo. Thư năm : Đầu tư tác động đến sự phát triển khoa học công nghệ của đất nước. Để đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi phải có công nghệ thiết bị tiên tiến. Mà để có công nghệ thiết bị hiện đại phù hợp với yêu cầu phất triển thì có hai con đường đó là tự nghiên cứu và tiến hành đầu tư mua công nghệ tư nước ngoài. Bất cứ con đường nào cũng đòi hỏi phải có sự đầu tư và chỉ có đầu tư mới phát triển được trình độ phát triển khoa học công nghệ của đất nước. b-Đứng trên góc độ vi mô. Trên góc độ vi mô, ta thấy đầu tư có vai trò quyết dịnh đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp trong giai đoạn hiện nay. Bởi doanh nghiệp chỉ có thể tồn tại khi sản phẩm đầu ra được tiêu thụ. Muốn vậy thì các sản phẩm của doanh nghiệp phải có chất lượng cao, giá rẻ, đẹp. Để có được điều này thì cầc tăng cường hoạt động đầu tư bởi vì: -Đầu tư làm tăng năng suất lao động, tăng thu nhập cho người lao động. -Đầu tư tác động đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm. -Đầu tư dẫn đến làm giảm chi phí sản xuất, tư đó sẽ giảm giá thành sản phẩm và tất là sản phẩm sẽ được tiêu thụ nhiều hơn, lợi nhuận của doanh nghiệp tư đó cũng được tăng lên. -Thông qua đầu tư chiều sâu sẽ làm cho chất lượng sản phẩm ngày càng tốt hơn, mẫu mã ngày càng phong phú và đa dạng đồng thời kết hợp với giá thành hạ sẽ làm tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp với các doanh nghiệp trong nước và quốc tế. -Một vai trò nữa của đầu tư đứng trên góc vi mô đó là đầu tư tác động đến việc nâng cao trình độ tay nghề của các bộ công nhân viên, cải thiện hệ thống quản lý của doanh nghiệp cho phù hợp với yêu cầu phát triển của thị trường. II. Một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả đầu tư của một ngành. Khái niệm về hiệu quả đầu tư. Hiệu quả có thể được khái niệm một cách chung nhất là mức độ đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất, nâng cao đời sống của người lao động của cơ sở, của ngành địa phương hoặc của cả nước Chỉ tiêu hiệu quả được tính như sau: Các kết quả của đầu tư Chỉ tiêu hiệu quả = Chi phí để có đựoc các kết quả trên Để đánh gía hiệu quả đầu tư người ta sử dụng nhiều chỉ tiêu khác nhau mỗi chỉ tiêu phản ánh một khía cạnh hiệu quả, đáp ứng một yêu cầu nhất định trong quản lý, nghiên cứu kinh tế. Phương pháp đánh giá hiệu quả kinh tế xã hội Thông thường hiệu quả của hoạt động đầu tư được đánh giá ở hai mặt đó là mặt tài chính và mặt kinh tế xã hội. Tuy nhiên ở đây chúng ta đánh giá hiệu quả đầu tư của một ngành, do đó chúng ta chỉ xét trên mặt hiệu quả kinh tế xã hội. Về phương pháp đánh giá hiệu quả đầu tư xét trên mặt kinh tế xã hội được đứng trên hai góc độ vĩ mô và vi mô cũng có sự khác nhau. Đứng trên góc độ vi mô ta có: -Mức đóng góp vào ngân sách (các khoản nộp vào ngân sách khi các kết quả của hoạt động đầu tư bắt đầu đi vào hoạt động như thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế xuất nhập khẩu, thuế đát, lệ phí chuyển nhượng...) từng năm của ngành. -Số chỗ làm việc tăng thêm của từng năm do hoạt động đầu tư của nghành tạo ra : Phương pháp tính : Số làm việc tăng thêm = Số lao động thu hút thêm - Số lao động mất việc làm -Số ngoại tệ thu hút được từ hoạt động đầu tư đem lại : Phương pháp tính : Số ngoại tệ thực thu = Tổng thu ngoại tệ - Tổng chi ngoại ệ -Mức tăng năng suất lao động sau khi đầu tư so với trước khi đầu tư. -Tạo thị trường mới và mức độ chiếm lĩnh thị trường do tiến hành đầu tư. Phương pháp tính : Mức độ chiếm lĩnh thị trường mới = Doanh thu do bán sản phẩm của cơ sở tại thị trường này Doanh thu tiêu thụ sản phẩm cùng loại tại thị trường này - Nâng cao trình độ nghề nghiệp của người lao động, trình độ kỹ thuật sản xuất, trình độ quản lý. -Đáp ứng việc thực hiện các mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, các nhiệm vụ của kế hoạch phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kỳ. b. Đứng trên góc độ vĩ mô Đối với cấp quản lý vĩ mô của nhà nước, của địa phương và ngành khi xem xét hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư cần tính đến mọi chi phí trực tiếp và gián tiếp có liên quan đến việc thực hiện đầu tư, mọi lợi ích trực tiếp và gián tiếp thu được do đầu tư đem lại. Chi phí ở đây bao gồm chi phí của nhà đầu tư, của địa phương, của ngành và của đất nước. Các lợi ích ở đây bao gồm lợi ích mà nhà đầu tư, người lao động, địa phương và cả nền kinh tế được hưởng. Để xác định các chi phí, lợi ích đầy đủ của công cuộc đầu tư phải sử dụng các báo cáo tài chính, tính lại giá đầu vào, đầu gia theo giá xã hội (giá ẩn, giá tham khảo) không thể sử dụng giá thị trường để tính các khoản thu chi và lợi ích kinh tế xã hội vì giá thị trường chịu sự chi phối của các chính sách tài chính, kinh tế của nhà nước. Vì vậy, khi tính toán hiệu quả kinh tế xã hội của những công cuộc đầu tư có tầm cỡ lớn bao quát cả một vùng, một ngàn rộng lớn hay quan trọng với nền kinh tế thì phải điều chỉnh lại giá này theo giá xã hội, phải lưu ý đến các yếu tố bên ngoài có ảnh hưởng đến dự án và ngược lại. 3. Các chi tiêu phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư xét ở tầm vĩ mô. Chỉ tiêu 1: giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm (NVA). Đây là chỉ tiêu cơ bản phản ánh hiệu quả kinh tế xã hội của đầu tư. NVA là mức chênh lệch gữa giá trị đầu gia và giá trị đầu vào. Phương pháp tính : NVA = O - (Mi+iv) Trong đó : NVA là giá trị sản phẩm thuần tuý tăng thêm do đầu tư đem lại. O: là giá trị đầu ra của công cuộc đầu tư Mi: là giá trị đầu vào vật chất thường xuyên và dịch vụ mua ngoài theo yêu cầu để đạt được đầu ra trên đây. iv: là vốn đầu tư hoặc khấu hao NVA có thể được tính theo từng năm như sau: Phương pháp tính : NVAi = Oi - (Mii+Di) Di :là khấu hao năm thứ i Đối với các dự án liên doanh NVA gồm hai bộ phận là: -Giá trị sản phẩm thuần tuý gia tăng quốc gia. Giá trị này chính là phần giá trị gia tăng được sử dụng trong nước (NNVA). -Giá trị gia tăng thuần tuý được chuyển ra nước ngoài (RP) là tiền lương, tiền thưởng, trả lãi vay vốn, lợi nhuận thuần, lãi cổ phần của người nước ngoài, các khoản thanh toán khác không được đưa vào trong đầu vào nguyên vật liệu. NNVA là chỉ tiêu biểu thị sự đóng góp của đầu tư đối với nền kinh tế của đất nước. Ta có: Chỉ tiêu 2: Số lao động có việc làm do thực hiện dự án và có việc làm tính trên một đơi vị giá trị vốn đầu tư. -Số lao động có việc làm ở đây bao gồm số lao động có việc làm trực tiếp cho dự án và số lao động có việc làm ở các dự án liên đới (số lao động gián tiếp). -Số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư : Để tính chỉ tiêu số lao động có việc làm trên một đơn vị vốn đầu tư, cũng tương tự như đối với số lao động, ta phải tính số vốn đầu tư trực tiếp của dự án đang xem xét và số vốn đầu tư của các dự án liên đới. Sau đó ta tính toán các chỉ tiêu : Số lao động có việc làm trực tiếp tính trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư trực tiếp (Id). Id = Ld Ivd Ld : là số lao động trực tiếp. Ivd : Số vốn đầu tư trực tiếp Toàn bộ số lao động có việc làm trên một đơn vị giá trị vốn đầu tư đầy đủ (It) It = Lt Ivt Lt : là toàn bộ số lao động có việc làm trực tiếp và gián tiếp. Ivt : là toàn bộ số vốn đầu tư đầy đủ. Lt = Ld +Lind (Lind: số lao động có việc làm gián tiếp) Ivt = ivd +ivind (ivind: số vốn đầu tư gián tiếp ) Chỉ tiêu 3: Mức tiết kiệm ngoại tệ. Một nhiệm vụ cơ bản khi xem xét lợi ích kinh tế xã hội của dự án là xem xét tác động của dự án đến các cân thanh toán của dất nước. Xác định chỉ tiêu mức tiết kiệm ngoại tệ của dự án cho biết mức đóng góp vào cán cân thanh toán của đất nước. Bước 1: Xác định chênh lệch thu chi ngoại tệ của dự án xem xét. Phần chênh lệch này được tính cho cả đời dự án và từng năm. Bước 2: Xác định mức thu ngoại tệ của dự án có liên quan xem xét (chênh lệch gián tiếp ). Bước 3: Tính mức chênh lệch thu chi ngoại tệ dự án trực tiếp và gián tiếp bằng cách cộng bước1 và bước2. Bước 4: Xác định số ngoại tệ tiết kiệm do sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu không phải nhập của nước ngoài. Bước 5: Xác định mức tiếp kiệm ngoại tệ bằng cách cộng toàn bộ mức chênh lệch của bước 3 và bước4. Chỉ tiêu 4: Tác động của dự án tới việc phân phối thu nhập trong xã hội. Bước 1: Tính mức gia tăng phân phối hàng năm cho các nhóm đối tượng. Bước 2: Tính mức giá trị gia tăng phân phối cho vùng. Chỉ tiêu này được tính bằng phần giá trị gia tăng phân phối hàng năm cho các nhóm đối tượng thuộc vùng đó. Bước 3: Xác định tỷ trọng giữa giá trị gia tăng phân phối hàng năm cho từng nhóm đối tượng so với tổng mức giá trị gia tăng hàng năm của dự án Chỉ tiêu 5: Khả năng cạnh tranh quốc tế. Chỉ tiêu này cho phép đánh giá khả năng cạnh tranh của sản phẩm do dự án sản xuất ra trên thị trường quốc tế. Phương pháp tính chỉ tiêu này như sau: -Xác định P(FE). Tính đầu vào của dự án từ nguồn trong nước (vốn đầu tư, nguyên vật liệu, dịch vụ kết cấu hạ tầng, tiên lương trả cho người lao động trong nước...)phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu thay thế hàng nhập khẩu. Giá trị các đầu vào này được tính theo giá thị trường trong nước điều chỉnh, ở mặt bằng thời gian hiện tại và tỷ giá hối đoái điều chỉnh. So sánh số ngoại tệ tiết kiệm với giá trị các đầu vào trong nước. Nếu tỷ số này >1 thì sản phẩm của dự án có khả năng cạnh tranh quốc tế. Ta có : Trong đó: iC: là chỉ tiêu biểu thị khả năng cạnh tranh quốc tế DR: là các đầu vào trong nước dùng để sản xuất sản phẩm xuất khẩu. Chỉ tiêu 6: Một số tác động khác của dự án. III. Một số vấn đề về ngành công nghiệp da giầy. Đặc điểm của ngành công nghiệp da giầy. Khi nghiên cứu hoạt động đầu tư trong ngành da giầy chúng ta thấy được các đặc điểm nổi bật như sau: Một là, Ngành công nghiệp da giầy là ngành thu hút nhiều lao động xã hội. Số lao động có việc làm tính đến năm 1999 vào khoảng 300000 người, ngoài ra tạo thêm nhiều việc làm gián tiếp thông qua việc phát triển các ngành nghề phụ như chăn nuôi gia súc... Hai là, Ngành công nghiệp da giầy là ngành có công nghệ đơn giản hơn so với các ngành công nghiệp khác, cần ít vốn đầu tư nhưng có hiệu quả kinh tế cao. Mặc dù đặc điểm là thiết bị gản đơn song ngành công nghiệp da giầy hiện nay vẫn phải mua máy móc thiết bị, công nghệ của nước ngoài. Ba là, Ngành công nghiệp da giầy nước ta hiện nay có hệ thống công nghệ, máy móc thiết bị tương đối lạc hậu. Bốn là, Ngành công nghiệp da giầy phụ thuộc tương đối vào nước ngoài về các nguyên liệu đầu vào. Năm là, Ngành da giầy là ngành sản xuất hàng tiêu dùng phục vụ nhu cầu ăn mặc, thời trang. Sản phẩm sản xuất ra chủ yếu để xuất khẩu. Vì vậy đặc điểm của ngành da giầy là luôn có sự đổi mới về mẫu mã, kiểu dáng, chất lượng sản phẩm. Sáu là, Là ngành có tiềm năng xuất khẩu tương đối lớn, thu được nhiều ngoại tệ cho đất nước. Vai trò của ngành công nghiệp da giầy Cùng với một số ngành công nghiệp khác, ngành công nghiệp da giầy được nhà nước đặc biệt quan tâm đầu tư phát triển, đưa ra cấc kế hoạch định hưóng tới năm 2010, bởi lẽ nó có một vai trò tương đối quan trọng trong công cuộc đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Vai trò của ngành công nghịêp da giầy được biểu hiện qua một số điểm như sau: Một là, Giải quyết công ăn việc làm cho toàn xã hội. Đây là một vai trò to lớn của ngành bởi vì trong giai đoạn phát triển kinh tế của chúng ta hiện nay thì vấn đề việc làm trở thành gánh nặng cho Nhà nước. Với việc tăng trưởng và phát triển còn khiêm tốn thì việc phát triển các ngành nghề giải quyết được nhiều việc làm, đặc biệt là các việc làm thủ công, không đòi hỏi trình độ cao trở lên hết sức quan trọng. Hai là, Đóng góp vào tốc độ tăng trưởng và phát triển kinh tế. Trong những năm qua sự phát triển của ngành công nghiệp da giầy đã đem lại cho Nhà nước nhiều khoản thu, thông qua việc mở rộng sản xuất, tăng kim ngạch xuất nhập khẩu. Tăng thu ngoại tệ, làm giảm bớt sự thâm hụt trong cán cân thanh toán. Tạo ra sự tăng trưởng và phát triển tương đối trong những năm vừa qua. Ba là, Đáp ứng đầy đủ nhu cầu tiêu dùng trong nước và xuất khẩu. Bốn là, Có vai trò trong việc khai thác và sử dụng các nguồn tài nguyên trong nước. 3.Vai trò đầu tư với việc phát triển ngành da giầy. Trong những năm vừa qua ngành da giầy đã có những bước đi mang tính đột phá. Sản phẩm không ngừng tăng, quy mô không ngừng phát triển. Đã tạo ra cho mình một vai trò, vị trí tương đối trong việc thúc đẩy sự phát triển nền sản xuất kinh tế xã hội. Đóng góp không nhỏ vào sự tăng trưởng và phát triển cuả đất nước. Để có được những kết quả đó chúng ta phải kể đến vai trò của hoạt động đầu tư phát triển. Thông qua hoạt động đầu tư mà tác động đến ngành da giầy được cụ thể ở một số vai trò như sau. -Thứ nhất: Đầu tư tác động đến quy mô của ngành da giầy. Nhờ có chính sách khuyến khích của Nhà nước, thông qua hoạt động đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, cùng với sự phát triển của ngành giầy thế giới và các nước trong khu vực. Các hoạt động đầu tư phát triển của ngành da giầy ngày càng nhiều và hiệu quả, tác động đến quy mô, chất lượng, chủng loại sản phẩm. Cụ thể tính đến năm 1998 ngành công nghiệp da giầy Việt Nam có 196 doanh nghiệp, trong đó: +Doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước có 109 đơn vị. +Các doanh nghiệp sở hữu tập thể và sở hữu cá nhân có 34 đơn vị. +Các doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài có 39 đơn vị. +Các doạnh nghiệp liên doanh có 14 đơn vị. Quy mô sản phẩm không ngừng tăng lên, năm sau cao hơn nhiều so với năm trước. Theo số liệu thống kê thì năm 1998 toàn ngành đã sản xuất được 300 triệu đôi giầy dép các loại; 26 triệu đôi túi, cặp; 17 triệu(SQFT) da thuộc các loại. Đến năm 1999 với 550 dây chuyền sản xuất đồng bộ các loại sản lượng đã tăng là 80 triệu đôi giầy dép các loại, bốn triệu cặp túi và năm triệu sản phẩm da thuộc. Qua đây ta có thấy được vai trò của đầu tư đối với sự phát triển quy mô của ngành da giầy. -Thứ hai : Đầu tư tác động đến sự phát triển trình độ kỹ thuật sản xuất, trình độ quản lý. Bằng việc đầu tư cải tiến công nghệ, mua linh kiện, thiết bị mới đồng thời thông qua tăng cường đầu tư hợp tác với liên doanh với các doanh nghiệp nhà đầu tư nước ngoài mà trình quản lý của cán bộ kỹ thuật và công nhân được nâng cao, tính năng động, tính sáng tạo và sự khéo léo của lực lượng lao đông trẻ được phát huy. Trình độ quản trị kinh doanh của các cán bộ quản lý, ý thức kỷ luật có nhiều tiến bộ. -Thứ ba: Đầu tư tác động đến sức cạnh tranh của sản phẩm của ngành da giầy trên thị trường thế giới. Thông qua hoạt động đầu tư chiều sâu, nâng cao chất lượng sản phẩm, tạo ra các hình thức mẫu mã phù hợp, thời trang mà trong những năm qua các sản phẩm của ngành chiếm được một số thị trường mới và đầy tiềm năng như EU, Mỹ, Nhật và đồng thời khôi phục lại một số thị trường truyền thống như Nga và các nước Đông Âu. Trên đây là một số vai trò cơ bản của đầu tư đã tác động trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển ngày càng mạnh của ngành da giầy trong một số năm qua. Song thông qua sự phát triển một cách nhanh chóng mà ngành da giầy cũng tác động trở lại đến đầu tư. Bởi vì sự tăng trưởng và phát triển nhanh tạo ra một môi trường đầu tư tương đối hấp dẫn. Do đó mà Nhà nước cũng như các doanh nghiệp, các nhà đầu tư đều có kế hoạch, chiến lược đầu tư phát triển ngành da giầy trong tương lai. PhầnII: Thực trạng đầu tư phát triển ngành da giầy. I.Thực trạng đầu tư phát triển ngành da giầy trong thời gian qua. Trong thời gian qua ngành công nghiệp da giầy đã có một bước phát triển đột phá. Tốc độ phát triển không ngừng tăng, để có được điều đó trước hết phải kể đến vai trò của đầu tư. Chúng ta có thể thấy rõ được vấn đề này qua việc đánh giá thực trạng của ngành da giầy trong một số năm qua. 1.Vốn đầu tư qua các năm. Trong giai đoạn 1990 – 1995 toàn ngành đã đầu tư khoảng 2200 tỷ đồng bằng nguồn vốn trong nước và khoảng 300 triệu USD bằng nguồn vốn nước ngoài thông qua các hình thức đầu tư như là xí nghiệp liên doanh, doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài. Và trong giai đoạn 1996 – 2000 vốn đầu tư toàn ngành vào khoảng 1540 tỷ đồng cho đầu tư nguyên vật liệu phụ tùng và khoảng 325 triệu USD cho đầu tư phát triển sản xuất. Chúng ta có thể thông qua các số liệu về vốn đầu tư thực hiện qua các năm của tổng công ty da giầy Việt Nam để đánh giá về tình hình đầu tư của toàn ngành. Bảng 1: Vốn thực hiện đầu tư qua các năm. Năm Thực hiện (triệu đồng) Kế hoạch (triệu đồng) Tỷ lệ (%) Tốc độ phát triển liên hoàn(%) 1995 332526 - - - 1996 36104 60174 60.00 111.00 1997 39689 59727 66.45 109.93 1998 44740 70110 63.81 112.73 1999 79930 155000 51.57 178.65 2000 - Dự kiến: 205000 - - Qua bảng ta thấy mặc dù tốc độ vốn đầu tư thực hiên tăng liên tục qua các năm(1996 tăng 11% so với năm 1995, năm 1997 tăng 9.93% so với năm 1996...). Tuy nhiên qua bảng ta thấy vốn đầu tư thực hiện hầu như chỉ bằng khoảng 50 đến 60% vốn đầu tư kế hoạch đề ra. Qua đó ta thấy được thực trạng trong ngành da giầy là việc huy động vốn đầu tư còn nhiều hạn chế. Ngành còn cần rất nhiều vốn để đầu tư phát triển trong khi đó các nguồn đáp ứng còn hạn chế, và các giải pháp về huy động, khuyến khích đầu tư từ mọi thành phần kinh tế còn chưa hợp lý. 2.Quy mô vốn đầu tư. Về quy mô vốn đầu tư hiện nay của ngành da giầy nhìn chung vẫn còn nhỏ chỉ có các dự án đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài là tương đối lớn. Ta có thể so sánh quy mô vốn đầu tư cho một dự án của tổng công ty da giầy với quy mô đầu tư cho một dự án của nước ngoài vào ngành da giầy Việt Nam qua hai bảng số liệu sau: Bảng 2: Quy mô bình quân dự án đầu tư của tổng công ty da giầy Việt Nam từ năm 1996 đến năm 1998. Đơn vị: triệu đồng 1996 1997 1998 Tổng Vốn đầu tư thực hiện 36104 39689 44740 120533 Số dự án 5 5 6 16 Vốn đầu tư /số dự án 7220.8 7937.8 7456.7 7533.3 Nguồn: Báo cáo tình hình thực hiện kế hoạch 1996, 1997, 1998. Bảng 3: Quy mô bình quân dự án đầu tư nước ngoài vào ngành da giầy Việt Nam. Đơnvị: 1000 USD Liên doanh 100% vốn đầu tư nước ngoài Tổng Vốn đầu tư thực hiện 56545.9 425883.2 482429.1 Số dự án 14 39 53 Vốn đầu tư /số dự án 4038.99 10920.08 9102.43 Qua 2 bảng (2) và (3) ta thấy quy mô đầu tư bằng nguồn vốn nước ngoài(nếu lấy tỷ giá hối đoái là 10000/USD) là 9102.43 triệu đồng trên một dự án gấp 12.1 lần dự án dự án đầu tư của tổng công ty da giầy Việt Nam. Điều này cho thấy phần lớn quy mô các doanh nghiệp da giầy của Việt Nam còn rất nhỏ, do đó dẫn đến khả năng cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài không cao. Và từ đây cũng cho thấy việc đầu tư trong những năm qua của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế Việt Nam còn mang tính tự phát, thiếu quy hoạch, kế hoạch đầu tư cụ thể, việc phân bổ sản xuất còn chưa theo quy hoạch chung, manh mún và phân tán. 3.Cơ cấu vốn đầu tư. Theo số liệu thống kê cho biết trong khoảng từ năm 1992 đến năm 1997 tổng số vốn đầu tư toàn ngành vào nhà xưởng, thiết bi trong lĩnh vực sản xuất giầy, đồ da là vào khoảng 6000 tỷ đồng trong đó phần thiết bị chiếm khoảng 3500 tỷ đồng. Trong lĩnh vực thuộc da, tuy ít có sự đầu tư lớn và đồng bộ các cơ sở sản xuất da thuộc cũng đã đầu tư trên 200 tỷ đồng vào nhà xưởng, thiết bị, trong đó khoảng 140 tỷ đồng dành cho các loại thiết bị thuộc da. Chúng ta có thể thông qua các số liệu về tỷ lệ đầu tư của tổng công ty da giầy Việt Nam để thấy được vấn đề này. Bảng 4: Vốn đầu tư và thiết bị nhà xưởng. Đơn vị: tỷ đồng. Năm Vốn đầu tư Trong đó Nhà xưởng Thiết bị Tỷ trọng(%) 1 2 3 2/1 3/1 1996 33.404 225.904 7.5 77.55 22.45 1997 28.146 16.753 11.393 59.52 44.48 1998 44.510 14.073 30.437 31.62 68.32 Tổng 106.06 56.73 41.81 53.00 47.00 Nguồn : Báo cáo thực hiện kế hoạch 1996, 1997, 1998 - Tổng công ty da giầy Việt Nam. Qua bảng trên, chúng ta có thể thấy vốn đầu tư cho máy móc thiết bị hàng năm tăng lên rất nhanh. Tuy nhiên trong cơ cấu đầu tư giá trị vốn đầu tư cho xây dựng cơ bản vẫn chiếm một tỷ trọng tương đối lớn, cụ thể năm 1996 chiếm 77.55% và năm 1997 chiếm 59.52% và năm 1998 chiếm 31,6 2% tổng vốn đầu tư. Từ đó, cho thấy cơ cấu vốn đầu tư giữa vốn cho xây dựng cơ bản và vốn cho máy móc thiết bị còn chưa hợp lý. ở các nước tiên tiến trên thế giới tỷ lệ này là xây cơ bản chiếm khoảng 30 đến 35%, máy móc thiết bị chiếm khoảng 65 đến 70%, còn ở nước ta thì ngược lại. Điều này chứng tỏ trình độ sản còn thấp còn mang nặng tính thủ công của nước ta. Tuy nhiên qua bảng ta cũng thấy được tỷ lệ đầu tư cho xây dựng ngày càng giảm và thay vào đó là đầu tư cho máy móc thiết bị ngày càng tăng phản ánh trình độ máy móc thiết bị ngày càng phát triển. Và qua đó cho thấy chúng ta đang có một hướng phát triển ngành da giầy một cách đúng đắn và triển vọng. 4.Cơ cấu đầu tư theo ngành hàng, mặt hàng. Hiện nay cơ cấu vốn theo ngành hàng, mặt hàng, còn nhiều bất cập. Hầu hết lượng vốn đầu tư chủ yếu là vào ngành giầy, rất ít lượng vốn được đầu tư vào phát triển ngành da thuộc, nguyên vật liệu,phụ tùng. Theo số liệu thống kê thì giai đoạn 1992 đến 1997 ngành da giầy đầu tư 6000 nghìn tỷ đồng vào lĩnh vực sản xuất da giầy trong khi đó chỉ có 200tỷ đồng được đầu tư vào lĩnh vực thuộc da. Một vấn đề nữa là cơ cấu vốn đầu tư vào mặt hàng của chúng ta còn thiếu cân đối. Chúng ta có thể xem xét vấn đề này qua cơ cấu vốn đầu tư theo mặt hàng của tổng công ty da giầyViệt Nam để thấy được điều này. Theo tổng kết cho thấy hầu hết vốn đầu tư thực hiện của công ty được đầu tư vào sản xuất giầy dép. Cụ thể là vào cuối năm 1998, trong số 120533 triệu đồng vốn đầu tư thực hiện thì vốn đầu tư vào sản xuất giầy dép là 110888 triệu đồng, chiếm 92%. Ta có thể thấy sự phân phối vốn đầu tư qua bảng sau: Bảng 5: Cơ cấu vốn đầu tư theo mặt hàng. Đơn vị: triệu đồng Tên mặt hàng Vốn đầu tư Tỷ trọng (%) Giầy vải 46682 42.1 Giầy thể thao 5026 4.53 Giầy nữ 36485 32.9 Giầy da nam 0 0 Giầy da nữ 10076 9.09 Dép 12619 11.38 Túi cặp 0 0 Tổng 110888 100 Từ bảng trên ta thấy tỷ trọng vốn đầu tư vào mặt hàng giầy vải (42.1%), giầy nữ(32.9%) là rất lớn, ngược lại vốn đầu tư vào sản xuất các mặt hàng giầy thể thao, giầy da nam, nữ lại quá ít. Trong khi đó xu hướng tiêu dùng trong thời gian tới các loại giầy dép thời trang sẽ được quan tâm và tiêu dùng nhiều hơn điều đó chứng tỏ chúng ta cần phải điều chỉnh cơ cấu đầu tư sao cho hợp lý hơn, phù hợp hơn để ngành da giầy trở thành ngành công nghiệp mũi nhọn của đất nước. Để tất cả các thành phần trong ngành da giầy có thể cạnh tranh được trên thị trường quốc tế trong thời gian tới. 5.Đầu tư vào lao động. Ngành da giầy có số lượng lao động đến nay có khoảng 300000 người, song so với yêu cầu thì vẫn còn thiếu hụt một lượng rất lớn về đội ngũ cán bộ, công nhân được đào tạo chuyên sâu nhất là về công nhân trong khâu kỹ thuật và thiết kế sản phẩm. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước, đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật chuyên ngành phần lớn được đào tạo ở Liên Xô và các nước Đông Âu vào nhữn._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0160.doc
Tài liệu liên quan