Phương hướng & giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách đối với phát triển doanh nghiệp vừa & nhỏ

A- mở đầu Doanh nghiệp vừa và nhỏ là một loại hình tổ chức, sản xuất kinh doanh phổ biến trên thế giới, doanh nghiệp vừa và nhỏ có tầm quan trọng và được đánh giá cao trong nền kinh tế của mỗi quốc gia trên thế giới và nó đặc biệt quan trọng đối với các nước có nền kinh tế đang phát triển nói chung, Việt Nam nói riêng. Xét theo quan điểm thúc đẩy kinh tế thị trường, thì tất cả các nước đều tích cực khuyến khích phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ ngay từ giai đoạn đầu, nó cũng đúng với quy

doc31 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1158 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng & giải pháp đổi mới cơ chế, chính sách đối với phát triển doanh nghiệp vừa & nhỏ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
luật phát triển kinh tế vì hầu hết các nước tiến lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá để trở thành những nước phát triển đều bắt đầu tư nền kinh tế thủ công từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn và quĩ nhỏ, từ đó nó được tích luỹ về vốn, kinh nghiệm và khoa học kỹ thuật phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ đã phát triển lớn mạnh và qui mô được mở rộng cả về chiều sâu và chiều rộng. Khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng một vai trò rất quan trọng trong nền kinh tế của nhiều nước trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng vì dụ: ở Đức doanh nghiệp vừa và nhỏ tạo ra gần 50% GDP chiếm hơn một phần hai doanh thu thuế của các doanh nghiệp, cung cấp các loại hàng hoá dịch vụ đáp ứng đa dạng nhu cầu của người tiêu dùng trong và ngoài nước. Để đạt được những thành tựu đó chính phủ Đức đã áp dụng hàng loạt các chính sách, chương trình thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ trong việc huy động nguồn vốn còn Việt Nam doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp 21% GDP trong nền kinh tế. Việt Nam là nước đang phát triển, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ phù hợp với tình hình kinh tế-xã hội của đất nước vì: Nền kinh tế đất nước ta nông nghiệp là chủ yếu, công nghiệp chưa được phát triển hiện đại, công nghiệp thủ công còn nhiều. Nên nền kinh tế chủ yếu là sản xuất kinh doanh nhỏ, nên tỷ trọng doanh nghiệp vừa và nhỏ là lớn, đó là tất yếu khi có cơ chế kinh tế thị trường phát triển ở nước ta. Vì vốn nhỏ lẻ tiềm ẩn trong dân cư, nguồn nhân lực trong dân cư là rất lớn, khi có nền kinh tế thị trường thì các nguồn vốn, nguồn nhân lực dồi dào trong dân cư được khai thác rất hiệu quả để phục vụ cho sự thành lập và phát triển có hiệu quả của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Ngành nghề truyền thống, làng nghề truyền thống có khắp mọi miền của đất nước, làng nghề, những nghệ nhân có tay nghề giỏi, những công nhân thạo việc, có kinh nghiệm trong tổ chức sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện rất thuận lợi cho thành lập, phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là rất quan trọng, trong nền kinh tế, theo ước tính doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm khoảng trên 80% trong tổng doanh nghiệp của cả nước, đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế đất nước, đóng góp 21% GDP cho nền kinh tế, bảo đảm làm cho nền kinh tế năng động hơn, tạo việc làm giảm tỷ trọng lớn lao động thất nghiệp, tăng thu nhập cho nhân dân, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Vậy ta thấy được tầm quan trọng của các doanh nghiệp vừa và nhỏ đối với các nước trên thế giới nói chung, Việt Nam nói riêng, nên chính phủ các nước phải có những cơ chế, chính sách đổi mới để hỗ trợ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển mạnh mẽ cả về quy mô lẫn chất lượng, đổi mới phải phù hợp cho từng giai đoạn thời kỳ thì mới có hiệu quả, sự đổi mới là sự cần thiết khách quan đối với mỗi quốc gia, nó cũng là tất yếu khách quan. B- Cơ sở lý luận I/ Vị trí, vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ 1. Khái niệm doanh nghiệp vừa và nhỏ Các nước đang phát triển trong khu vực và trên thế giới nói chung và ở Việt Nam ta hiện nay nói riêng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đang được nhà nước rất quan tâm. ở Việt Nam hiện nay phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đang là vấn đề được nhà nước quan tâm đặc biệt vì vai trò to lớn và quan trọng của nó trong nền kinh tế xã hội mà trong giai đoạn đầu phát triển nền kinh tế thị trường thì doanh nghiệp có qui mô vừa và nhỏ là rất quan trọng. Để nhận biết được doanh nghiệp vừa và nhỏ, người ta căn cứ vào qui mô vốn huy động vào sản xuất kinh doanh, giá trị tài sản cố định, số lao động được sử dụng thường xuyên, giá trị bằng tiền của sản phẩm bán hoặc dịch vụ, lợi nhuận vốn bình quân cho 1 lao động. Trong thực tế mỗi nước có một quan điểm khác nhau về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là những cơ sở tổ chức sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, không phân biệt các thành phần kinh tế, có qui mô về vốn vừa và nhỏ, thực hiện các hoạt động sản xuất trao đổi hàng hoá trên thị trường với nguyên tắc tối đa hoá lợi ích của đối tượng tiêu dùng cũng như của chủ doanh nghiệp. Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam chủ yếu còn là sản xuất nhỏ. Song nó chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số doanh nghiệp ở Việt Nam, đem lại lợi ích cho xã hội là lớn. 2. Vị trí, vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ: Hiện nay trong nền kinh tế của Việt Nam, doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm 80% trong tổng doanh nghiệp toàn quốc, trong nền kinh tế chủ yếu là sản xuất nhỏ, nên doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm tỉ trọng lớn trong tổng doanh nghiệp . Cùng với nông nghiệp và kinh tế nông thôn doanh nghiệp vừa và nhỏ trong công nghiệp là một trong những nhân tố đảm bảo sự ổn định và bền vững của nền kinh tế, tăng trưởng kinh tế tạo việc làm cho người lao động, khai thác và tận dụng hiệu quả tiềm năng về vốn, tay nghề và nguồn lực còn tiềm ẩn trong dân cư, phát triển các ngành nghề góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển và đào tạo cán bộ quản lý kinh tế và cán bộ khoa học, đảm bảo cân bằng trong nền kinh tế nên nó có vị trí, vai trò quan trọng trong nền kinh tế của đất nước, cụ thể nó được thể hiện trong các lĩnh vực sau: a) Doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp lớn vào kết quả hoạt động kinh tế, theo số liệu ước tính doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp khoảng 21% GDP. Nó ngày càng gia tăng ở nước ta, số lượng doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên 80% trong tổng doanh nghiệp ở Việt Nam, tốc độ gia tăng của doanh nghiệp vừa và nhỏ nhanh hơn doanh nghiệp lớn. Theo thống kê năm 1998 số lượng các doanh nghiệp tư nhân tăng từ con số không đáng kể lên tới 18.750 doanh nghiệp, 7100 công ty và số công ty cổ phần là 171, 2607 doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài, 5970 doanh nghiệp nhà nước, 5487 hợp tác xã kiểu mới. Như vậy doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng gia tăng, đặc biệt theo ước tính của viện quản lý kinh tế trung ương, nếu xét theo kiểu chi về vốn thì có 85,2% doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần vào việc ổn định nền kinh tế nhiều thành phần với các loại hình sở hữu khác nhau. Chúng đóng góp vào sự gia tăng thu nhập quốc dân và kết quả của việc phát triển. ở các nước trên thế giới. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm trên dưới 50% GDP ở mỗi nước, ở Việt Nam thì doanh nghiệp vừa và nhỏ đóng góp khoảng 21% GDP của cả nước. Điều quan trọng là doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện thuận lợi trong việc khai thác tiềm năng rất phong phú trong dân cư, từ trí tuệ, tay nghề tinh xảo, vốn lỏng, các bí quyết nghề nghiệp, nhất là của nghệ nhân, các ngành nghề truyền thống. Theo ước tính của Bộ Kế hoạch và Đầu tư doanh nghiệp vừa và nhỏ của cả nước chiếm khoảng 31% giá trị tổng sản lượng công nghiệp, chiếm75% tổng mức bán lẻ, 64% tổng lượng vận chuyển hàng hoá, trong 150 ngành truyền thống như mây tre đan, giầy dép, mĩ nghệ... Về các ngành nghề, làng nghề truyền thống hiện nay cả nước có khoảng 1400 làng nghề, trong đó 2/3 là làng nghề truyền thống. Nhiều sản phẩm thủ công mỹ nghệ đặc trưng của từng địa phương đã nổi tiếng trong cả nước, 1 số được xuất khẩu và được nước ngoài đánh giá cao. Ngành công nghiệp dệt may Việt Nam cũng đã khẳng định mình trên thị trường quốc tế. Năm 2000 công nghiệp dệt may đã đem lại 1,9 tỷ USD thì kim ngạch xuất khẩu trong 10 tháng năm 2002 đã đạt 2,1 tỷ USD, dự tính cả năm 2002 là 2,4 tỷ USD. Trong 5 năm gần đây xuất khẩu hàng may mặc tăng bình quân 11% chiếm 13% tổng giá trị xuất khẩu cuả cả nước, tạo việc là cho 1,6 triệu lao động. Hàng dệt may của Việt Nam rất được ưa thích trên thị trường quốc tế. Các Công ty may như may 10, Thăng Long, Đức Giang, Nhà Bè, Việt Thắng... đã có vị trí trên trường quốc tế. Đó là cơ hội để hàng dệt may Việt Nam tiếp tục khẳng định mình, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng, nhất là 20 năm tới. b) Doanh nghiệp vừa và nhỏ giữ vai trò quan trọng trong việc tạo việc làm và thu nhập cho người lao động. Việt Nam là một trong nhiều nước đông dân, gần 80% dân số và khoảng 70% số lao động sống ở nông thôn, chủ yếu sống bằng nghề nông. Nhưng giải quyết việc làm bằng nghề nông thì có hạn vì diện tích đất canh tác trên một đầu người thấp ngày càng thấp. Đáng chú ý là tỉ lệ thất nghiệp của Việt Nam ngày càng tăng tương đối cao và không ổn định nhất là ở vùng đồng bằng và đô thị lớn: Năm 1996 1997 Tỉ lệ thất nghiệp 5,62 5,81 Năm 1998 số người không có việc làm thường xuyên trong cả nước là 8,5 triệu người, trong đó khu vực thành thị là 1,2 triệu người, khu vực nông thôn 7,3 triệu người, 84% số người không có việc làm ở độ tuổi từ 14-44. Thực tế trong những năm qua khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu hút khoảng 25-26% lực lượng lao động phi nông nghiệp của cả nước không triển vọng thu hút lao động là rất lớn vì suất đầu tư cho một chỗ làm ở đây thấp hơn rất nhiều so với doanh nghiệp lớn, chủ yếu là do chi phí thấp và thu hút được các nguồn vốn giải rác trong dân, chi phí trung bình để cho ra 1 chỗ làm việc trong doanh nghiệp vừa và nhỏ 740.000 chỉ bằng 5% so với các doanh nghiệp lớn. Nếu tính cả số lao động được giải quyết việc làm ngoài doanh nghiệp do các doanh nghiệp này thu hút thì có thể lên tơí 4,5 triệu người. Điều đó cho thấy vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ ngày càng quan trọng trong việc tạo việc làm, thu hút lao động với chi phí thấp chủ yếu bằng vốn và tài sản của dân Năm 1994 1995 1996 Số người lao động 5453404 6368509 6903242 Doanh nghiệp nhà nước 1654605 1800870 14848000 Tập thể 135284 102557 98400 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 97823 144380 288100 Doanh nghiệo và công ty tư nhân 336146 339809 370742 Cá thể 3229537 3980853 4300000 Việt Nam là một nước nông nghiệp năng suất lao động xã hội và thu nhập còn thấp. Việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là phương hướng cơ bản để tăng năng suất lao động, đa dạng hoá sản phẩm và tăng thu nhập cho dân cư. Qua khảo sát ở một số địa phương ở vùng đồng bằng sông Hồng những người lao động trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ có mức thu nhập bình quân 200-300 ngàn đồng/tháng gấp 3-4 lần thu nhập của lao động nông nghiệp. Việc phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ cả ở thành thị và nông thôn góp phần chủ yếu làm tăng thu nhập, đa dạng hoá thu nhập của các tầng lớp nông dân. c) Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần làm cho nền kinh tế năng động hơn trong nền kinh tế thị trường. Do phần vốn ít, qui mô nhỏ doanh nghiệp vừa và nhỏ có nhiều khả năng thay đổi mặt hàng, chuyển hướng sản xuất, đổi mới công nghệ làm cho nền kinh tế năng động hơn. Một số nước như Đài Loan vừa qua ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực chủ yêú là dựa vào doanh nghiệp vừa và nhỏ. ở Việt Nam hiện nay, các doanh nghiệp vừa và nhỏ khả năng lớn lại thướng xuyên tăng lên, nên đã làm tăng khả năng cạnh tranh và làm giảm bớt mức rủi ro cho các doanh nghiệp , đồng thời tăng số lượng, chủng loại hàng hoá dịch vụ, thoả nhu cầu đa dạng của người tiêu dùng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ thông qua các hợp đồng gia công chế biến hoặc làm đại lý phục vụ sản xuất và tiêu thụ hàng hoá, cung cấp nguyên liệu thâm nhập vào từng ngõ ngách của thị trường mà các doanh nghiệp lớn không thể làm được, phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ làm cho phân bố doanh nghiệp hợp lý hạn chế về mặt lãnh thổ giảm sức ép về dân số đối với các thành phố lớn. d) Doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút được khá nhiều vốn tiềm ở trong dân cư những nguồn vốn nhỏ, lẻ. Nhờ đường lối phát triển nền kinh tế nhiều thành phần của Đảng và nhà nước hàng năm các loại doanh nghiệp này đã thu hút một lượng vốn đáng kể của dân cư, đưa nguồn vốn đó vào chu chuyển, khắc phục một nghịch lý đã tồn tại trong nhiều năm là các doanh nghiệp thiếu vốn trầm trọng trong khi dân cư có lượng vốn rất lớn, khả năng tiềm ẩn chưa được khai thác. Nhờ doanh nghiệp vừa và nhỏ có lượng lớn nên đã thu hút được khá nhiều vốn trong dân cư. Do tính chất nhỏ lẻ dễ phân tán đi sâu vào các ngõ ngách, bản làng và yêu cầu số lượng vốn ban đầu không nhiều cho nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò và tác dụng rất lớn trong việc thu hút các nguồn vốn nhỏ lẻ nhàn rỗi trong các tầng lơps dân cư đầu tư vào sản xuất kinh doanh, chúng tạo lập dần tập quán đầu tư vào sản xuất kinh doanh và hình thành khu vực "mới" cho việc thực hiện có hiệu quả vấn đề huy động vốn của dân cư theo luật khuyến khích đầu tư trong nước. Tổng số vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp vừa và nhỏ thu hút được ngày càng tăng (Tổng cục thống kê 1997). Năm Tiêu chí 1994 1995 1996 Tổng vốn kinh doanh (tỷ) 227033 272834 311945 Doanh nghiệp nhà nước 120552 13564 141000 Tập thể 2112 2174 220 Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài 65499 90068 121130 Doanh nghiệp và công ty tư nhân 18750 19964 26500 Cá thể 20200 24090 26500 e) Các doanh nghiệp vừa và nhỏ có vai trò rất lớn trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước ta hiện nay. Xét về các loại cơ cấu như cơ cấu thành phần kinh tế, cơ cấu ngành nghềm cơ cấu lãnh thổ, phân bố dân cư... Việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ tạo ra nhiều chuyển biến hết sức quan trọng về cơ cấu của nền kinh tế, từ một nền kinh tế sản xuất nhỏ thuần nông là chủ yếu sang một nền kinh tế có cơ cấu theo hướng tiến bộ hiện đại. Sự phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ đã làm cho công nghiệp phát triển đồng thời thúc đẩy các ngành thương mại dịch vụ làm thu hẹp dần tỉ trọng nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế quốc dân. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn góp phần làm đa dạng hoá cơ cấu công nghiệp, đa dạng các hình thức sở hữu, phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng của Đảng và nhà nước đã đề ra. f) Doanh nghiệp vừa và nhỏ là nơi ươm mầm, đào tạo và rèn luyện các nhà doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Kinh doanh qui mô nhỏ và vừa sẽ là nơi rèn luyện cho các nhà doanh nghiệp làm với môi trường kinh doanh. Bắt đầu từ từ kinh doanh qui mô nhỏ và thông qua điều hành quản lý kinh doanh sẽ trưởng thành lên thành những nhà doanh nghiệp lớn, tài ba biết đưa doanh nghiệp của mình nhanh chóng phát triển. Như vậy, các tài năng kinh doanh sẽ được đào tạo ươm mầm từ trong các doanh nghiệp vừa và nhỏ. g) Các doanh nghiệp vừa và nhỏ góp phần đáng kể vào việc thực hiện đô thị hoá phi tập trung và thực hiện được phương châm "Ly nông bất ly hương". Sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn sẽ thu hút nhiều người lao động thiếu hoặc chưa có việc làm và có thể thu hút số lượng lớn lao động thời vụ trong các kỳ nông nhàn vào hoạt động sản xuất kinh doanh, rút dần lực lượng lao động nông nghiệp chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ, nhưng vẫn sống ngay tại quê hương mình, không phải di chuyển đi xa, thực hiện được "ly nông bất ly hương". Ví dụ như các công ty dệt may có vốn đầu tư trong nước và nước ngoài xây dựng ở các tỉnh lẻ: Công ty may Viêt-Hàn (Thái Bình), Nhà máy dệt Nam Định (Nam Định)... đã thu hút được phần lớn lao động không có việc làm hoặc lao động nhàn rỗi trong các kỳ nông nhàn ở nông thôn. Đồng thời với việc thực hiện phương châm "ly nông bất ly hương" bằng việc xây dựng các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn là diễn ra xu hướng hình thành khu vực tập trung các cơ sở công nghiệp và dịch vụ nhỏ ngay ở nông thôn, tiến dần hình thành lên các thị trấn, thị tứ, hình thành các đô thị nhỏ đan xen giữa các làng quê, thực hiện quá trình đô thị hoá phi tập trung. h) Sự tồn tại và phát triển tất yếu khách quan của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam đã khẳng định vị trí, vai trò quan trọng của nó. Lịch sử ra đời và phát triển nền sản xuất hàng hoá gắn liền với sự hình thành và phát triển của các doanh nghiệp. Nền kinh tế của một quốc gia là do tổng thể các doanh nghiệp lớn bé tạo thành, phát triển từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ và thông qua liên kết với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quy luật đi từ nhỏ đến lớn là con đường tất yếu và sự phát triển bền vững mang tính phổ biến của đa số các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường và trong quá trình công nghiệp hoá. Sự kết hợp các loại qui mô doanh nghiệp trong từng ngành cũng như trong toàn nền kinh tế không thể thiếu doanh nghiệp vừa và nhỏ. Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam là điều kiện khách quan, vai trò quan trọng và phù hợp với xu hướng chung, phù hợp với điều kiện kinh tế xã hhội nước ta hiện nay góp phần phát triển kinh tế xã hội, đẩy nhanh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. II/ Tiềm năng và xu hướng phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ: 1. Tiềm năng: Tiềm năng phục vụ cho phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam ta là rất lớn, tiềm năng về nguồn nhân lực dồi dào, nguồn vốn tiềm ẩn trong dân cư là lớn, do cơ chế thị trường tự do sản xuất kinh doanh, các làng nghề, ngành nghề truyền thống có rất nhiều trong các miền của cả nước. Dân số nước ta là đông và nằm trong tốp những nước đông dân, có dân số trẻ trên thế giới, nước ta lại là nước đang phát triển, lực lượng lao động có tay nghề ở những ngành, lĩnh vực hiện đại thì rất hiếm, cho nên lực lượng lao động để phục vụ cho sản xuất nhỏ và vừa là rất lớn, tuy nước ta đã có nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ giải quyết được việc làm cho số lượng lao động rất lớn rồi nhưng do dân số chưa có việc làm, đó là lực lượng lao động dồi dào phục vụ cho phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. Vốn nhàn rỗi nằm trong dân cư của Việt Nam mà tổng cộng lại thì đó là lượng vốn khổng lồ, nó nằm rải rác nhỏ lẻ trong các gia đình dân cư. Nên khi có cơ chế thị trường tự do sản xuất kinh doanh, đã hình thành nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ chiếm lượng vốn tiềm ẩn trong dân cư đó, cộng với cơ chế thị trường đã tạo nên thuận lợi và là cơ sở để hình thành nên các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Qua những thời kỳ chiến tranh đất nước ta đã phát động nhân dân khuyên góp phục vụ cho chiến tranh như "Tuần lễ vàng" đã thu được lượng tài sản lớn trong dân cư, những đợt nước ta bán công trái cho dân chúng để cân bằng ngân sách, chúng ta thấy lượng vốn tiềm ẩn trong dân cư là rất lớn. Nền kinh tế cua nước ta là nông nghiệp, đang đi lên công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các nghề thủ công là rất nhiều và phát triển nên đã hình thành nhiều ngành nghề và làng nghề truyền thống của mọi miền của đất nước, hình thành các nghệ nhân có tay nghề rất giỏi, đó là điều kiện rât tốt và quan trọng phục vụ cho việc hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. 2. Xu thế phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ: Đường lối của Đảng ta là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, giải phóng sự sản xuất của xã hội, dân chủ hoá đời sống kinh tế. Doanh nghiệp vừa và nhỏ có tiềm năng to lớn, tiềm ẩn trong các thành phần kinh tế và trong nhân dân đang được khơi dậy và phát triển. Số lượng doanh nghiệp ngoài quốc doanh mà phần lớn là doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lên nhanh chóng trong hai khu vực tập thể và doanh nghiệp nhà nước đang được tổ chức và sắp xếp lại theo xu hướng giảm dần về số lượng, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh. Về cơ cấu theo loại hình kinh tế hộ gia đình, doanh nghiệp tư nhân có tốc độ tăng nhanh nhất so với các loại hình doanh nghiệp khác. Cho đến nay, nước ta vẫn là một nước kém phát triển, năng suất lao động và tích luỹ còn thấp, dân chưa có khả năng đầu tư lớn nên có giải pháp thực tế là đầu tư nhỏ với diện rộng để có tích luỹ từ nội bộ dân cư, từ số lượng chuyển hoá thành chất lượng. Bên cạnh các doanh nghiệp lớn sở hữu nhà nước, chúng ta có hệ thống doanh nghiệp vừa và nhỏ rộng khắp với lợi thế doanh nghiệp vừa và nhỏ có vốn sẽ giải quyết được nhiều vấn đề mà các doanh nghiệp lớn khó có thể làm tốt được, lao động việc làm, môi trường, chi phí đầu tư thấp, phù hợp với khả năng quản lý của chủ doanh nghiệp. Trong tương lai, doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển rộng khắp như một yếu tố phụ trợ cho khu công nghiệp tập trung, doanh nghiệp vừa và nhỏ là cầu nối giữa công nghiệp với nông thôn, nông nghiệp sẽ sản xuất, tiêu dùng theo xu hướng xã hội hoá. Nền kinh tế cùng một lúc sẽ phát triển tho hai hướng: Vi hoá và tập đoàn hoá, hai xu hướng đó không biệt lập mà xâu chuỗi, hợp tác thành một hệ thống mà doanh nghiệp vừa và nhỏ là hạ tầng cơ sở trong cấu trúc nền sản xuất xã hội. Sự co giãn và chuyển động xen kẽ của các doanh nghiệp vừa và nhỏ và doanh nghiệp lớn là liệu pháp cả cho sự trì trệ lẫn sự phát triển "quá nóng" của nền kinh tế. Đảng ta chủ trương thực hiện công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước mà trọng tâm là công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn với mạng lưới rộng khắp và truyền thống gắn bó với nông nghiệp và kinh tế xã hội nông thôn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển, hình thành những tụ điểm, cụm công nghiệp để tác động chuyển hoá sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hệ thống công nghiệp chế biến và sản xuất đồ gia dụng sẽ phát triển, các làng nghề sẽ được hiện đại hoá. Không còn nghi ngờ gì nữa tiềm năng và lợi thế của doanh nghiệp vừa và nhỏ là hết sức lớn. Tuy vậy cần được sự hỗ trợ bằng một số chủ trương, chính sách phù hợp của nhà nước từ quan điểm chiến lược chính sách đến bộ máy vận hành. Thế giới và khu vực đã có những bài học quý mà chúng ta có thể lựa chọn. Đó là nhà nước phải có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, chính phủ không làm thay nhưng tạo điều kiện và môi trường để phát huy sức mạnh nội sinh của doanh nghiệp. Sự kết hợp nỗ lực từ ba phía: Chính phủm, cộng đồng và doanh nghiệp sẽ làm bật dậy nhiều tiềm năng mới để phát triển kinh tế-xã hội. Chủ trương phát huy nội lực chính là đánh giá vai trò của doanh nghiệp vừa và nhỏ, tạo điều kiện cho nó phát triển, đóng góp ngày càng nhiều cho sự nghiệp công nghiệp hoá đất nước. III/ Thưc trạng của doanh nghiệp vừa và nhỏ: ở Việt Nam, các chương trình đào tạo việc làm và xoá đói giảm nghèo, một số dự án tài trợ của các tổ chức quốc tế chi các cơ quanc hính phủ và các tổ chức phi chính phủ hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ được triển khai trong một số năm gần đây đã tác dụng nhất định đến sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có một chủ trương, chính sách hoặc các chương trình của nhà nước thống nhất hỗ trợ dành riêng cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đồng thời, nhà nước chưa có hướng dẫn, khuyến khích thành lập các tổ chức hỗ trợ và quản lý giảm sút hoạt động của chúng. Cho nên, các chương trình, dự án hoạt động rời rạc, các tổ chức hỗ trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ còn ít và hoạt động kém hiệu quả. Tác dụng của chúng đối với việc hỗ trợ thúc đẩy sự hình thành và phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn rất hạn chế, cần có sự chấn chỉnh, khắc phục cụ thể thực trạng của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam như sau: 1. Xét về hiệu quả kinh tế của quá trình sản xuất kinh doanh Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ cùng với cá doanh nghiệp hiện đại qui mô lớn là một trong những phương sách tốt nhằm nâng cao hơn việc sử dụng có hiệu quả của các nguồn lực cho sản xuất, do đó nâng cao sản lượng, thu nhập thực tế và mức sống của nhân dân. Theo số liệu thống kê năm 1998 doanh nghiệp vừa và nhỏ đã thu hút 25-30% lực lượng lao động phi nông nghiệp và đang có xu hướng tăng, đóng góp khoảng 25-26% GDP của cả nước, tăng thêm nguồn thu cho ngân sách nhà nước. Doanh nghiệp vừa và nhỏ ở các thành phố góp phần làm giảm tỉ lệ thất nghiệp giải quyết phần lớn các tệ nạn xã hội khác do thất nghiệp gây ra. Phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nông thôn đã thu hút lao động dư thừa và lao động nông nhàn góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tée, cơ cấu lao động nông thôn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, duy trì các ngành nghề truyền thống, tạo thêm việc làm tăng thu nhập cho người lao động. Tuy nhiên cần thấy rắng, trong thực tế phần lớn các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta không đạt được mức hiệu quả kinh tế xét theo tiêu chuẩn của công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Hoạt động dưới dạng thủ công và gia đình, các doanh nghiệp vừa và nhỏ này thường chỉ sử dụng những kỹ thuật lạc hậu và sản xuất ra những sản phẩm chất lượng chưa cao, khó cạnh tranh trong điều kiện hội nhập khu vực và quốc tế như hiện nay. Sản phẩm của các doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn mới chỉ đáp ứng được nhu cầu tiêu dùng hiện tại, chất lượng và mẫu mã chưa thiết ứng với thị hiếu của người tiêu dùng nên chủ yếu phục vụ cho tiêu thụ tại chỗ (66% tiêu thụ tại huyện, 27% tại xã, 12% tại làng, 1% xuất khẩu). Theo đánh giá của phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam thì tinh fhình sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong một vài năm trở lại đây đều cho thấy sự giảm sút. Một số doanh nghiệp đang hoạt động có hiệu quả, do lợi thế quimô nhỏ và vừa nên rất linh động trong sản xuất kinh doanh, đáp ứng kịp thời nhu cầu thị hiếu của khách hàng. Song cũng rất nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ đang trong tình trạng khó khăn. Bên cạnh yếu tốt trượt giá và tăng tỉ giá ngoại tệ, việc chậm phát triển của nền kinh tế, các doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thiếu chủ động trong sản xuất kinh doanh tìm hiểu thị trường tiêu thụ cũng như nguồn đầu vào. Điều này cho thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam có thể đạt hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh nếu chúng ta giải quyết được các vâns đề cản trở ở cả 2 mặt vi mô và vĩ mô. 2. Về vốn và tín dụng: Vốn luôn là vấn đề nhức nhối của các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta có đến 55% số doanh nghiệp thiếu vốn. Để đáp ứng nhu cầu tín dụng của nhiều các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vốn chủ yếu từ các tổ chức phi tài chính, thông thường từ bạn bè, người thân nhiều với mức lãi suất không chính thức gấp 3 đến 6 lần lãi suất ngân hàng. Bên cạnh đó điều kiện tham gia thị trường chứng khoán của nước ta đã loại các doanh nghiệp vừa và nhỏ ra khỏi cuộc chơi. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó có thể vay được các khoản tín dụng ngắn hạn, trung hạn và dài hạn từ ngân hàng và các tổ chức tín dụng chính thức khác. Mặt khác các khoản vay có bảo đảm hiếm khi giành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nguyên nhân chính là do thủ tục rất phức tạp dẫn đến chi phí giao dịch cao làm cho những khoản tín dụng này trở nên quá tốn kém đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ. Hơn nữa ngân hàng không muốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ vay vì cho doanh nghiệp vừa và nhỏ vay một khoản không lớn nhưng mức độ phức tạp có thể lớn hơn hoặc bằng cho một doanh nghiệp lớn vay. Nguyên nhân là do áp dụng cùng một thủ tục cho vay mà không phân biệt doanh nghiệp nhỏ hay lớn. Bên cạnh đó những qui ché về ký quĩ và các dự án đầu tư quá cứng nhắc làm cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ không thể đáp ứng đượcdo không có tài sản thế chấp. Đa số các doanh nghiệp vừa và nhỏ hiện không có điều kiện thế chấp theo yêu cầu của ngân hàng để vay vốn, tỷ trọng vốn vay của doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ chiếm 20% nhu cầu vốn hoạt động. Nhìn chung các doanh nghiệp vừa và nhỏ đều dựa vào nguồn vốn tự có là chính hoặc huy động vốn từ người thân, người quen. Việc các doanh nghiệp vừa và nhỏ không sử dụng được nguồn vốn tín dụng là hạn chế lớn đối với sự phát triển của các loại hình doanh nghiệp này trong việc mở rộng qui mô sản xuất, hiện đại hoá các trang thiết bị sản xuất và đầu tư phát triển theo chiều sâu. 3. Về đất đai, công nghệ và thiết bị của doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đất đai cho các hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ còn thiếu. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ gặp nhiều khó khăn trong việc được cấp quyền sử dụng đất hoặc họ gặp khó khăn khi thuế đất làm trụ sở và nhà máy. Nguyên nhân là các thủ tục đã được cấp quyền sử dụng đất là không rõ ràng và thường không công nhận đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đặc biệt không trường hợp đất công nghiệp các quyền bán mua, chuyển nhượng và cấm cố, quyền sử dụng đất để ký quĩ vẫn còn chưa được chấp nhận. Trong việc điều tra 452 dự án đầu tư mới năm 1997 chỉ có 17 dự án khu vực tư nhân. Cũng có những khó khăn trong việc chứng nhận quyền sử dụng đất hợp pháp, nên còn tồn tại một thị trường đất đai đáng kể hoạt động một cách không chính thức và bất hợp pháp. Như vậy đất đai cũng là một vấn đề phải quan tâm để giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện sản xuất kinh doanh. Về công nghiệp: theo đánh giá thì phần lớn công nghệ do các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng là lạc hậu, không đồng bộ đã hạn chế rất lớn khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta. Nhìn chung trong những năm gần đây, các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta đã đổi mới công nghệ ở mức nhất định. Công nghệ là yếu tố quyết định tới năng suất, chất lượng sản phẩm giúp các doanh nghiệp có thể cạnh tranh được trên thị trường. Tuy nhiên nguồn vốn tài chính bị giới hạn không cho phép các doanh nghiệp có thể tự mình đổi mới cũng như áp dụng mạnh mẽ công nghệ kĩ thuật tiên tiến. Vì vậy tỉ lệ đổi mới trang thiết bị cũng rất thấp, chỉ khoảng 10%/năm tính theo vốn đầu tư. Điều này cho thấy trình độ về thiết bị công nghệ kĩ thuật của các doanh nghiệp vừa và nhỏ vẫn thấp và còn lạc hậu khá xa so với mức trung bình của thế giới. Khoảng gần 5% doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn chỉ sử dụng công cụ thô sơ, 15,5% sử dụng công cụ nửa cơ giới, hơn 35,5% có sử dụng máy chạy điện. Phần lớn thiết bị của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn là các công cụ tự chế hoặc thanh lý từ các doanh nghiệp nhà nước nên hàng hoá sản xuất ra có chất lượng không cao, không đảm bảo cạnh tranh trên thị trường. Bên cạnh đó còn phải kể đến thực trạng mặt bằng sản xuất thiếu, cở sở hạ tầng yếu kém và không ổn định cũng tác động bếtlợi đến hoạt động của doanh nghiệp vừa và nhỏ. 4. Về thị trường: Sức cạnh tranh và tiếp cận với thị trường thế giới còn ở mức độ rất thấp. Những sản phẩm của các doanh nghiệp vừa và nhỏ phải cạnh tranh với một số lượng lớn các hoàng hoá nhập lậu với giá rẻ hơn. Điều này xuất phát từ việc các doanh nghiệp vừa và nhỏ khó có thể tiếp cận được với thị trường thế giới do những hạn chế về hoạt động thương mại, tham gia cào các hoạt động thỉtường không mang tính định hướng. Các doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa chủ động tự giác tham gia vào các hiệp hội, tổ chức để nắm bắt thông tin kịp thời cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Theo đánh giá về kết quả nghiên cứu thị trường mới đây cho thấy các doanh nghiệp vừa và nhỏ nhất là các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có ít tiếng tăm trên thị trường, do vậy khả năng tiếp cận người tiêu dùng còn hạn chế, không giám bỏ tiền._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docV0253.doc
Tài liệu liên quan