Phương hướng và giải phát để thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp ở Bắc Ninh

Lời mở đầu Người xưa có câu “ Phi công bất phú – phi nông bất ổn … “ như vậy nếu không có nông nghiệp thì không thể ổn định đời sống mà không có công nghiệp thì không thể phát triển thành đất nước giầu mạnh. Do đó trong thời đại ngày nay, bên cạnh việc phát triển nông nghiệp vững mạnh thì phát triển công nghiệp là một điều cần thiết cho sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hoá đất nước. Nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc với diện tích xấp xỉ 800 km2 và gần 1 triệu dân sinh sống. Tỉn

doc34 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1157 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương hướng và giải phát để thu hút vốn đầu tư vào khu công nghiệp ở Bắc Ninh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h Bắc Ninh có hệ thống giao thông đường bộ, đường sắt đường sông thuận lợi nối liền các tỉnh phía Bắc và các tỉnh có cảng biển như Quảng Ninh, Hải Phòng… Trong những năm qua, cùng với quá trình phát triển đổi mới đất nước, kinh tế xã hội của Bắc Ninh đã có những bước phát triển đáng kể, các mục tiêu kinh tế xã hội do đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XV đề ra đều đạt được và vượt mục tiêu đề ra. Kinh tế tăng trưởng với nhịp độ cao, tổng sản phẩm trong tỉnh tăng bình quân trong giai đoạn 1997– 2000 là 12,4 % ( vượt mục tiêu đại hội đề ra là 11,2 % ). Đặc biệt, năm 1999 tốc độ tăng trưởng đạt 15, 5 % và năm 2000 đạt 16 %. Yếu tố chính tạo nên sự tăng trưởng nói trên là sự phát triển và mở rộng quy mô sản xuất của ngành công nghiệp. Vì vậy việc hình thành các KCN tập trung là yếu tố khách quan trước thách thức hội nhập kinh tế. KCN là hình thức đã được thực hiện tại nhiều vùng từ nhiều năm nay ở Việt Nam, Bắc Ninh là tỉnh có các khu công nghiệp thành lập sau do đó có nhiều lợi thế hơn do học hỏi được kinh nghiệm từ những vùng đi trước, phát huy sức mạnh của việc thành lập KCN và giảm thiểu những khó khăn trong việc hình thành phát triển KCN. Do vậy việc hình thành KCN ở Bắc Ninh sẽ giúp cho sự phát triển kinh tế tại Bắc Ninh nhanh chóng tiến tới sự nghiệp công nghiệp hoá- hiện đại hoá tỉnh Bắc Ninh. Chương I Giới thiệu chung về đầu tư và khu Công nghiệp tập trung I. Khái niệm, đặc điểm, hình thức của đầu tư Nước ngoài : 1. Khái niệm đầu tư nước ngoài(ĐTNN) 1.1, Khái niệm đầu tư: Đầu tư là quá trình huy động và sử dụng mọi nguồn vốn phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm đáp ứng nhu cầu tiêu dùng của cá nhân và xã hội. Như vậy, quá trình đầu tư mang tính dài hạn và phải tiến hành trong một thời gian nhất định. Vốn huy động từ nguồn nào và phải sử dụng vào sản xuất kinh doanh và nhằm sản xuất ra sản phẩm, cung cấp dịch vụ…cho xã hội. Theo cách khác đầu tư là việc sử dụng nguồn lực cho trước vào một hoạt động nhất định nhằm thu lợi nhuận hoặc thu được lợi ích kinh tế-xã hội.Với cách hiểu này mục đích đầu tư là nhằm sinh lời (không chỉ sản xuất kinh doanh).Lợi nhuận có thể là hữu hình như thu nhập tăng hoặcvô hình như nâng cao cơ sở hạ tầng để người dân có cơ hội tiếp cận dễ dàng với văn minh thế giới. 1.2, Khái niệm Đầu tư nước ngoài. ĐTNN là việc các nhà đầu tư (cá nhân và pháp nhân) đưa vốn bằng bất kỳ hình thức nào khác vào nước tiếp nhận đầu tư để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu được lợi nhuận và kết quả Kinh Tế-Xã Hội. Theo luật ĐTNN tại Việt Nam, ĐTNN là việc các tổ chức cá nhân nước ngoài trực tiếp đưa vốn vào Việt Nam bằng tiền nước ngoài hoặc bất kỳ tài sản naò được chính phủ Việt Nam chấp nhận để hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hay thành lập xí nghiệp 100% vốn nước ngoài theo quy định của luật ĐTNN tại Việt Nam. 2. Đặc điểm. - Đầu tư có tính sinh lợi (gồm lợi nhuận+lợi ích kinh tế xã hội). - Mọi hoạt động đầu tư đều liên quan đến vốn. Đầu tư có tính mạo hiểm.Mọi hoạt động đầu tư đều diễn ra trong thời gian dài, chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố, do đó kết quả thu được có thể khác so với dự tính nên đầu tư phải chấp nhận rủi ro. Vốn đầu tư phải được chuyển qua khỏi một biên giới quốc gia. Hoạt động đầu tư đều phải chịu sự chi phối của nhiều nguồn luật khác nhau (luật quốc gia, luật nước đầu tư, luật quốc tế). 3. Các hình thức. Dựa vào chủ đầu tư ta có: + Đầu tư tư nhân: PIF. Gồm FDI và FPI. + Đầu tư của chính phủ: hỗ trợ chính thức ODA. 3.1. Đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). - Là hình thức đầu tư quốc tế mà chủ đầu tư nước ngoài đầu tư toàn bộ hoặc một phần vốn đủ lớn vào các dự án nhằm dành được quyền điều hành hoặc quyền tham gia điều hành các doanh nghiệp sản xuất hoặc các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ. - Đặc điểm: + FDI là vốn đầu tư của tư nhân do chủ đầu tư tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về hoạt động đầu tư của mình, do vậy mà hình thức này mang lại hiệu quả cao không để lại gánh nặng nợ nần kinh tế và ít lệ thuộc vào tình hình chính trị. + Lợi nhuận thu được phụ thuộc vào kết quả kinh doanh của đối tượng, của vốn đầu tư. + Chủ đầu tư nước ngoài phải đóng góp một số vốn tối thiểu tùy theo quy định của từng nước để điều hành doanh nghiệp mà họ đầu tư. + Tỷ lệ đóng góp vốn của các bên trong vốn pháp định sẽ quy định quyền và nhiệm vụ các bên đồng thời cũng là cơ sở để phân chia lợi nhuận và rủi ro. + Thông qua hình thức đầu tư này có thể kết hợp một cách tối ưu các nguồn lực trong và ngoài nước cũng như tiếp nhận các nguồn lực tiên tiến từ nước ngoài mà chúng ta thiếu. - Các hình thức đầu tư. + Thành lập doanh nghiệp mới: góp vốn tại nước tiếp nhận đầu tư để tạo một pháp nhân mới. ở Việt Nam gồm hình thức liên doanh 100% vốn nước ngoài. + Mua lại toàn bộ hoặc một phần doanh nghiệp đang hoạt động mà không thành lập pháp nhân mới. + Mua cổ phần để thôn tính và sáp nhập. Các hình thức FDI ở Việt Nam. + Hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) là văn bản ký kết giữa hai bên hoặc nhiều bên để tiến hành đầu tư kinh doanh ở Việt Nam trong đó quy định trách nhiệm và phân chia kết qủa kinh doanh cho mỗi bên mà không thành lập một pháp nhân mới. + Doanh nghiệp liên doanh là doanh nghiệp được thành lập ở Việt Nam trên cơ sở hợp đồng liên doanh được ký giữa hai hay nhiều bên để tiến hành đầu tư liên doanh ở Việt Nam. Doanh nghiệp còn được thành lập dựa trên Hiệp định ký kết giữa hai chính phủ không những chịu luật đầu tư Việt Nam mà còn luật quốc tế và Hiệp định. Đây còn là công ty trách nhiệm hữu hạn và là pháp nhân Việt Nam . + Doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài là doanh nghiệp thuộc sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài do nhà đầu tư nước ngoài thành lập tại Việt Nam, tự quản lý và tự chịu trách nhiệm về kết quả kinh doanh. Các khu vực đầu tư nước ngoài. + KCX, KCN là khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp , xuất khẩu và hoạt động xuất khẩu có ranh giới địa lý xác đinh, do chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập, bao gồm một hoặc nhiều doanh nghiệp. + Các hợp đồng xây dựng – chuyển giao - kinh doanh (BTO); hợp đồng xây dựng kinh doanh chuyển giao (BOT); hợp đồng xây dựng chuyển giao (BT) là văn bản ký kết giữa chủ đầu tư với cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xây dựng các công trình hạ tầng như cầu, đường, sân bay,bến cảng, nhà máy điện... tại Việt Nam. 3.2 Đầu tư gián tiếp nước ngoài (FPI) - Đầu tư gián tiếp nước ngoài là hình thức đầu tư quốc tế trong đó bằng hình thức mua cổ phần của các công ty của nước sở tại ở mức quy định để thu được lợi nhuận mà không tham gia điều hành trực tiếp đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. - Đặc điểm: + Chủ đầu tư nước ngoài không tham gia điều hành hoạt động của doanh nghiệp tức là người bỏ vốn và người quản lý vốn là khác nhau. + Thu nhập của chủ đầu tư cố định, không phụ thuộc vàp kết quả hoạt động của đối tượng mà họ bỏ vốn đầu tư. + Phạm vi đầu tư có giới hạn vì chủ đầu tư chỉ quy định mua của những công ty làm ăn có lãi và có triển vọng trong tương lai. + Nơi tiếp nhận đầu tư không có khả năng, cơ hội tiếp thu công nghệ, kỹ thuật hiện đại, kinh nghiệm quản lý tiên tiến. + Số lượng cổ phần của các công ty nước được mua bị khống chế ở mức quy định tuỳ vào từng nước. 3.3 Hỗ trợ phát triển chính thức ODA. - ODA là tất cả các khoản viện trợ không hoàn lại, có hoàn lại cho vay dài hạn với khoản thời gian ân hạn có lãi suất thấp của các chính phủ, Liên hợp quốc, các tổ chức phi chính phủ, các tổ chức tài chính quốc tế giành cho chính phủ và nhân dân nước nhận viện trợ. Theo quy định trong nghị định 87/CP về quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn không chính thức của Việt Nam “ ODA là sự hợp tác phát triển giữa Việt Nam hoặc nhiều quốc gia khác, tổ chức quốc tế cùng các hình thức chủ yếu sau: Hộ trợ cán cân thanh toán, hỗ trợ theo chương trình, hỗ trợ kỹ thuật, hỗ trợ theo dự án. ODA bao gồm ODA không hoàn lại và ODA cho vay ưu đãi có yếu tố không hoàn lại là ít nhất 25% trị giá các khoản vay. ODA là một nguồn viện trợ quan trọng của ngân sách nhà nước và được ưu tiên sử dụng cho những mục tiêu phát triển. - Đặc điểm: + Là nguồn vốn vay ưu đãi lãi suất thấp thời gian cho vay dài 30-40 năm trong đó có thời gian ân hạn. Trong ODA có một phần cho không, không hoàn lại. + Là nguồn vốn vay có điều kiện, các nước nhận hỗ trợ phải hội tụ đầy đủ điều kiện thì mới được tiếp nhận ODA, các nhà tài trợ khác nhau thì có những quy định khác nhau. Trong ODA có yếu tố chính trị – xã hội. ODA là công cụ mà các nước phát triển buộc các nước đang phát triển phải có những chính sách phù hợp với lợi ích của họ. + ODA là nguồn vốn có khả năng gây nợ. Tính chất là khoản vay nước ngoài, do sự ưu đãi mà ta không nhận thấy khả năng gây nợ của nó, gánh nặng nợ nần do ODA để lại. Sự phức tạp là ODA không có khả năng đầu tư trực tiếp cho xuất khẩu mà chỉ xuất khẩu mới trả được nợ. Do đó, ODA mở đường cho FDI quay vào sản xuất để trả nợ vì ODA đầu tư vào cơ sở hạ tầng cho các nhà đầu tư nước ngoài trở lại đầu tư. Đôi khi các nhà tài trợ cung cấp ODA nhưng yêu cầu của nước tài trợ là phải có điều kiện ưu đãi cho hoạt động đầu tư nước ngoài của nước tài trợ tại nước này => kích thích phát triển. + Mục đích của ODA không phải lợi nhuận mà vì sự phát triển của nước nhận viện trợ vốn và từ khi ra đời đến nay ODA đang chứa định hai nhân tố: thúc đẩy tăng trưởng bền vững và giảm nghèo ở các nước đang phát triển – tăng cường lợi ích chính trị của nước tài trợ. Các nhà tài trợ là các tổ chức song phương, đa phương, chính phủ. Nước được viện trợ là chính phủ nhân dân các nước đang và kém phát triển. Các nước đầu tư ODA mục tiêu phát triển của họ trong môi trường toàn cầu hoá nếu như các nước khác không phát triển thì họ cũng không phát triển được. Mỹ còn dùng tiền viện trợ để tiêu thụ hàng hoá thừa, để hướng các nước nhận viện trợ theo vùng ảnh hưởng của Mỹ để thu lợi ích. - Căn cứ vào các tổ chức ODA hay giác độ vay trả có ODA không hoàn lại, có hoàn lại hoặc hỗn hợp của 2 hình thức trên. -Căn cứ vào mục đích có hỗ trợ cơ bản (xây dựng cơ sở hạ tầng,xã hội, môi trường,thường là các khoản vay cho ưu đãi) và hỗ trợ kỹ thuật (chuyển giao trí thức, công nghệ,nghiên cứu cơ bản). -Căn cứ vào điều kiện ODA có ODA không ràng buộc và ODA có ràng buộc hay ODA có ràng buộc 1 phần. -Căn cứ vào hình thức dự án có hỗ trợ dự án (để thực hiện dự án cụ thể) và hỗ trợ phi dự án (gồm hỗ trợ để trả nợ, hỗ trợ cán cân thanh toán). II. Khu CN tập trung và vai trò đối với phát triển kinh tế : 1. Khái niệm, đặc điểm của KCN tập trung. a, Khái niệm Theo luật pháp Việt Nam qui định KCN là khu chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ cho sản xuất, do chính phủ thành lập hoặc cho phép thành lập. Trong các KCN có các doanh nghiệp KCN hoạt động. Doanh nghiệp KCN là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN. KCN có ranh giới địa lý xác định, không có dân cư sinh sống. b,Đặc điểm. -Trong KCN có các loại doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, KCX, doanh nghiệp chế xuất. -KCN là khu vực thu hút các dự án đầu tư trong và ngoài nước mà sản phẩm có thể là xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Quan hệ giữa doanh nghiệp KCN và thị trường nội địa là quan hệ nội thương. Đây không phải là khu thương mại tự do mà là một khu sản xuất tập trung. -Sản phẩm KCN được tiêu dùng chủ yếu ở nước sở tại nên những ngành nghề ở KCN phải đáp ứng những nhu cầu trước mắt và lâu dài ở thị trường nội địa. So với hàng nhập khẩu, hàng ở KCN có lợi thế về chi phí vận tải, về thủ tục nhập khẩu, về thuế (được ưu đãi…) 2.Vai trò của KCN tập trung . KCN tập trung có vị trí địa lý xác định và các doanh nghiệp công nghiệp cùng tập trung trong một khu vực nên ít gây ảnh hưởng đến môi trường xung quanh, vấn đề giải quyết rác thải để bảo vệ môi trường cũng diễn ra dễ dàng hơn. KCN có xây dựng sẵn cơ sở hạ tầng nên những doanh nghiệp có nhu cầu có thể đầu tư để sản xuất ngay mà không mất giai đoạn đầu cho việc xây dựng cơ sở cho mình. KCN có nhiều ưu tiên hơn các khu vực khác như về thuế xuất và các ưu tiên về luật đầu tư tạo thuận lợi cho các doanh nghiệp và thôi thúc các doanh nghiệp đầu tư và hoạt đôngj trong KCN, từ đó tập trung được nguồn lực lớn về vốn cho sự nghiệp CNH-HĐH. Đồng thời thu hút được nhiều dự án nước ngoài và trong nước vào KCN để sản xuất ra các sản phẩm xuất khẩu hoặc tiêu thụ nội địa. Nhìn từ thực tế nước ta, KCN tập trung là một giải pháp về vốn cho công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.Mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh,được đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng nêu lên chỉ có thể đạt được bằng con đường phát triển và chuyển dịch cơ cấu nền kinh tế theo hướng CNH-HĐH, trong đó vấn đề có tính qui luật đã được đúc kết qua những năm đổi mới là:”Giữ vững độc lập tự chủ đi đôi với mở rộng hợp tác quốc tế, đa phương hoá đa dạng hoá quan hệ đối ngoại”. Tuy nhiên sự biểu hiện của nó trong từng loại hình kinh tế không hoàn toàn giống nhau. Đối với KCN tập trung thì tính đặc thù càng thể hiện rõ nét. Nhằm thực hiện mục tiêu CNH-HĐH đất nước chúng ta dựa vào nguồn lực trong nước là chính đi đôi với tranh thủ tối đa nguồn lực bên ngoài. Chúng ta nhấn mạnh và coi nguồn vốn trong nước là quyết định, bởi vì nguồn vốn trong nước rất phong phú đa dạng, đang tiềm tàng trong xã hội mà chúng ta có thể nắm được để chủ động bố trí, sử dụng theo hướng chiến lược CNH-HĐH, trên cơ sở đó thu hút có hiệu quả nguồn vốn từ bên ngoài. Kể từ ngày 24-9-1991 khi uỷ ban hợp tác và đầu tư (nay là bộ kế hoạch và đầu tư) được thủ tướng chính phủ uỷ nhiệm cấp giấy phép số 245 thành lập KCX đầu tiên ở thành phố Hồ Chí Minh. Đến tháng 3-2000 trên địa bàn cả nước có 67 dự án KCN –KCX hình thành, trong đó có 63 KCN tập trung. Tổng vốn đầu tư xây dựng hạ tầng cho KCN ước tính xấp xỉ 2tỷ USD, trong đó nguồn huy động vốn từ các nhà đầu tư nước ngoài chiếm 40% (800 triệu USD ). Nguồn vốn do trong nước phải bỏ ra để đầu tư hạ tầng bên trong các KCNchiếm 60% (1,2 tỷ USD). Đấy là chưa kể đến vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng ngoài hàng rào KCN. Tính đến thời điểm cuối năm 1999 đã có 914 doanh nghiệp được cấp giấy phép hoạt động trong các KCN với tổng vốn kinh doanh đăng ký là 7,8 tỷ USD. Trong đó có 59 doanh nghiệp nước ngoài thuộc 24 quốc gia trên thế giới, có tổng vốn kinh doanh đăng ký là 6,4 tỷ USD chiếm 82% tổng vốn đăng ký kinh doanh trong các KCN .345 doanh nghiệp trong nước được cấp phép với tổng vốn đăng ký 18000 tỷ đồng Việt Nam (tương đươmg với 1,4tỷ USD) chiếm gần 18% tổng vốn kinh doanh trong các KCN được cấp phép. Nghành nghề phát triển kinh doanh trong các KCN gồm có các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp nhẹ, điện tử, hoá chất, cơ khí chế tạo, luyện thép, dầu khí, chế biến thức ăn gia súc, phân bón, dịch vụ thương mại phục vụ xuất khẩu và các dự án công nghiệp nặng như điện, hoá chất... qua đó bước đầu góp phần xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật thực hiện chiến lược CNH- HĐH đất nước. Trong các KCN đã giải phóng mặt bằng và xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh , có 2000ha mặt bằng được thuê, chiếm 3,2% diện tích đất công nghiệp, 12 KCN cho thuê trên 50% đất công nghiệp. Các doanh nghiệp tại KCN – KCX có tốc độ tăng trưởng ngày càng cao nhờ khai thác nguồn lực từ bên ngoài kết hợp với các nguồn lực của từng vùng, địa phương. Năm1999, các KCN đóng góp 25% giá trị sản lượng công nghiệp và 16% giá trị xuất khẩu của cả nước, thu hút 14000 lao động, tạo sức mua cho thị trường trong nước khoảng 1000 tỷ đồng/năm. Ngoài ra các doanh nghiệp trong các KCN còn tạo việc làm cho hàng vạn lao động làm việc trong ngành xâydựng, dịch vụ tạo cơ sở nguyên liệu, thị trường, tạo nguồn thu đáng kể cho ngân sách, góp phần làm cho kinh tế trong nước phát triển, hội nhập với thị trường khu vực và thế giới. Sự hình thành và phát triển các KCN, KCX cũng như hoạt động đầu tư nước ngoài khác trong 10 năm qua đã tạo ra những đối trọng đáng kể thúc đẩy chúng ta kiên quyết giải quyết cải cách hành chính, đổi mới cơ chế quản lý, giảm bớt tỷ lệ quan liêu, tham nhũng, tạo niềm tin thu hút, khuyến khích các nhà đầu tư trong và ngoài nước mạnh dạn bỏ vốn kinh doanh trong các KCN, KCX. Đến nay hết năm 2000, có 698 dự án ĐTNN đầu tư vào các KCN, KCX (không kể các dự án đầu tư xây dựng hạ tầng KCN) còn hiệu lực. Với tổng vốn đăng ký 8.589 triệu USD, bằng 24% tổng vốn ĐTNN cả nước. Quy mô bình quân dự án ĐTNN trong KCN khoảng trên 10 triệu USD (không kể nhà máy lọc dầu số 1 có vốn đầu tư 1,3 tỷUSD). Ngoại trừ một số dự án công nghiệp nặng (lọc dầu, điện, hoá chất, cơ khí, vật liệu xây dựng, điện tử). Công nghiệp nhẹ (dệt sợi, may mặc) và công nghiệp thực phẩm có quy mô lớn ở các KCN Đồng Nai, Bà Rịa Vũng Tầu, Bình Dương, Hà Nội… thì hầu hết dự án KCN có mức vốn đầu tư 4-5 triệu USD, sử dụng 300-400 lao động người, doanh thu 5-6 triệu USD/ năm. Các dự án ĐTNN đầu tư trong KCN chủ yếu theo hình thức 100% vốn nước ngoài (85% số dự án ĐTNN); dự án liên doanh chủ yếu được thành lập trước khi KCN được thành lập, do đặc thù chung của doanh nghiệp liên doanh là bên Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, trong khi nếu đầu tư vào KCN doanh nghiệp phải thuê lại đất của doanh nghiệp phát triển hạ tầng: hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh chỉ có 4 dự án (6,5%). Nhìn chung các dự án đầu tư trong KCN đều có trình độ kỹ thuật cao như Fujisu. Rozde Robotech… Đến nay, vốn đầu tư thực hiện của các doanh nghiệp KCN có vốn ĐTNN đạt trên 3,2 tỷ USD, bằng 38% vốn đầu tư đăng ký, thời gian triển khai dự án tương đối ngắn (khoảng 1-2 năm) vì trong KCN quy hoạch mặt bằng đã được xác định một cách chi tiết, chủ dự án không phải đền bù, giải toả mặt bằng và xây dựng các công trình hạ tầng phục vụ cho doanh nghiệp khi đi vào hoạt động. Các doanh nghiệp ĐTNN trong KCN đã góp phần tạo thêm nhiều năng lực sản xuất mới trong các ngành kinh tế then chốt. Nhiều doanh nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu như giầy, dép, đồ điện, sản phẩm điện tử, dệt sợi, may mặc có tỷ lệ huy động công suất tương đối cao. Những dự án sản xuất sản phẩm dùng cho nhu cầu trong nước mới huy động công suất ở mức thấp hoặc đang trong thời kỳ xây dựng.’ Năm 2000 doanh thu của các doanh nghiệp ĐTNN trong các KCN đạt khoảng 3,35 tỷ USD (bằng trên 50% doanh thu của khu vực ĐTNN, không kể dầu khí) và có tốc độ tăng trưởng nhanh qua các năm. Kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp KCN không ngừng tăng và đạt 2,17 tỷ USD trong năm 2000 (chiếm trên 60% giá trị hàng xuất khẩu của khu vực có ĐTNN: sản phẩm được xuất đi hơn 50 nước và khu vực, trong đó nhiều nhất là Nhật Bản, EU, Đài Loan, Mỹ… Phần lớn các dự án đầu tư trong KCN đều đạt tỷ lệ xuất khẩu tương đối cao so với cam kết. Năm 2000 phần thu ngân sách từ các doanh nghiệp KCN đạt gần 110triệu USD bằng gần 40% đóng góp ngân sách của khu vực ĐTNN. Các KCN đã toạ việc làm trực tiếp cho 21 vạn lao động Việt Nam. Đó là chưa kể lao động xây dựng cơ bản và lao động làm việc trong các công đoạn phụ trợ như cung cấp nguyên liệu gia công dịch vụ, … cho KCN. Đầu tư trong nước trong các KCN, trừ các KCN được thành lập trong giai đoạn đầu và một số KCN do doanh nghiệp ĐTNN xây dựng cơ sở hạ tầng, trong vài năm qua nhất là năm 1999-2000 tình hình đầu tư của các doanh nghiệp trong nước vào các KCN có phần khả quan, đặc biệt là vào các KCN Tân Tạo, Vĩnh Lộc ở TP Hồ Chí Minh và ở Bình Dương. TP Hồ Chí Minh có tốc độ thu hút đầu tư trong nước vào KCN còn nhanh hơn so với thu hút ĐTNN. Năm 2000 đầu tư vào KCN là 145,4 triệu USD (tăng 22,6% so với 118,6 triệu USD của năm 1999). Và đầu tư trong nước đạt 1728,8 tỷ đồng (tăng 62,7% so với 1062,5 tỷ đồng của năm 1999). Hiện tại có 527 doanh nghiệp trong nước đầu tư trong các KCN với tổng vốn đầu tư trên 20 nghìn tỷ đồng đó là chưa kể đến một số chi nhánh, kho của các doanh nghiệp đã được thành lập tại KCN trước khi KCN được thành lập bao gồm doanh nghiệp trong nước có trước khi KCN thành lập và doanh nghiệp thuộc thành phần kinh tế khác đầu tư sau khi KCN được thành lập. Chương II Thực trạng thu hút vốn đầu tư vào khu Công nghiệp ở Bắc Ninh I. Xu hướng chung của sự phát triển khu CN ở VN và riêng tại Bắc Ninh 1.Xu hướng chung của sự phát triển khu CN ở VN : Công nghiệp hoá - hiện đại hoá nền kinh tế ở nước ta là mục tiêu cũng là chiến lược phát triển đất nước trong những năm tới. Từ chủ trương “tiếp tục đấy mạnh công cuộc mới, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế ra sức cần kiệm để đẩy mạnh CNH-HĐH nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế, “các địa phương trong cả nước đã xem xét, đánh giá lại khả năng của mình để phát huy nội lực, trên cơ sở lấy thế mạnh bù thế yếu, tập trung sức để chuyển đổi cơ cấu nhằm đưa giá trị sản lượng công nghiệp, dịch vụ ngày càng chiếm tỷ trọng cao trong GDP của địa phương. Đứng trước mục tiêu CNH-HĐH nền kinh tế và nhu cầu bảo vệ môi trường sống cho người dân, trong những năm gần đây chính phủ đã có những chủ trương thành lập các KCN-KCX gọi là KCN tập trung, đưa phần lớn các xí nghiệp công nghiệp tập trung vào một nơi được xây dựng sẵn các hạ tầng kỹ thuật như : điện, nước thông tin liên lạc, nhà máy xử lý nước thải, rác thải công nghiệp hệ thống cấp thoát nước, giao thông… Phục vụ các nhà máy hoạt động thuận lợi và bảo vệ tốt hơn môi trường sống cho nhân dân . Phát triển khu công nghiệp là một giải pháp quan trọng nhằm tạo thuận lợi cho đầu tư kinh doanh, tiếp kiệm nguồn lực xây dựng kết cấu hạ tầng, nên tuy mới chỉ ra đời trong một thời gian ngắn nhưng các KCN đã thu hút cho nền kinh tế một lượng vốn đăng ký đầu tư vào sản xuất công nghiệp trên 70 000 tỷ đồng (đã đầu tư trên 30 000 tỷ) sản xuất ra lượng hàng hoá trị giá ước tính khoảng 15 000 tỷ đồng (mới tính ở một số khu công nghiệp đã xây dựng cơ bản song hạ tầng đưa vào cho thuê đất công nghiệp), tình hình bình quân mỗi ha đất ở khu công nghiệp thu hút đầu tư khoảng trên 50 tỷ đồng, nhiều KCN đi vào hoạt động ổn định đã tăng kim ngạch xuất khẩu lên rất nhanh, năm sau cao gấp đôi năm trước như ở khu Tân Thuận, Linh Trung. Năm 1995 mới chỉ tạo ra giá trị hàng hoá xuất khẩu khoảng 500 tỷ đồng, thì năm 1996 đã tăng gấp 2,2 lần, năm 1997 tăng gấp 5 lần thu nhập và trong năm 1998 đạt từ 4700 tỷ đến 5000 tỷ đồng, tăng gấp 10 lần năm 1995, bình quân cứ trên mỗi ha ở hai khu này đã tạo ra kim ngạch xuất khẩu khoảng 42 tỷ đồng/năm và giải quyết việc làm cho khoảng 200 lao động. Hoặc ở KCN-KCX vùng đồng bằng sông Cửu Long (Cần Thơ) mới đi vào hoạt động tạo ra hàng chục tỷ đồng giá trị hàng hoá trên mỗi ha đất, trong đó 80% dành cho xuất khẩu hoặc ở KCN như khu Sài Đồng B trên mỗi ha đất cũng thu hút được khoảng trên 150 tỷ đồng vốn đầu tư sản xuất công nghiệp và taọ ra kim ngạch xuât khẩu khoảng 50 tỷ/ ha. Bảng1- Diện tích của một số KCN lớn ở nước ta. (Đơn vị : ha) STT Tên KCN- KCX Diện tích đất (ha) 1 KCX Tân Thuận (TP Hồ Chí Minh) 300 2 KCX Linh Trung (TP Hồ Chí Minh) 90 3 KCN Cát Lái ( TP Hồ Chí Minh) 1000 4 KCX Đà Nẵng 300 5 KCX Sóc Sơn (Hà Nội) 550 6 KCN- Công nghệ cao (Sài Đồng B- Hà Nội) 80 7 KCN Đông Bắc A (Hà Nội) 300 8 KCN Long Bình (Đồng Nai) 850 9 KCX- KCN Hải Phòng 1000 10 KCX Phước Thắng (Bà Rịa- Vũng Tàu) 140,2 11 KCN- KCX Cần Thơ 500 (Nguồn:Bộ KH và ĐT) Trong số 64 KCN được thủ tướng chính phủ cho phép thành lập có 21 KCN mới và hiện đại, bao gồm 13 KCN và KCX hợp tác với nước ngoài để phát triển hạ tầng, còn lại là KCN được thành lập trên cơ sở đã có sẵn cụm công nghiệp hoặc các KCN quy mô vừa và nhỏ ở đồng bằng Bắc Bộ, Duyên Hải miền trung và vùng đồng bằng Sông Cửu Long. Các KCN trên được phân bố trên địa bàn 26 tỉnh và Thành Phố trong cả nước; nhiều nhất là Thành Phố Hồ Chí Minh có 12 khu, Đồng Nai có 9 khu, Bình Dương có 7 khu và Hà Nội có 5 khu, Bà Rịa- Vũng Tầu có 4 khu. Đây là thành quả bước đầu của quá trình thực hiện quy hoạch phát triển KCN đến năm 2010 ở nước ta. Chỉ tính riêng ba năm từ 1997 đến 2000, giá trị sản lượng và xuất khẩu của các doanh nghiệp trong KCN cả nước là: Bảng 2- Giá trị sản lượng và xuất khẩu trong KCN Cả Nước từ năm 1997 đến 2000. (Đơn vị: triệu USD) Năm Giá trị sản lượng (triệu USD) Giá trị XK (triệu USD) Tốc độ tăng hàng năm Giá trị SL Giá trị XK 1997 1155 848 1998 1871 1300 61% 53% 1999 2982 1761 59% 35% 2000 4720 2447 58% 39% (Nguồn: bộ kế hoạch và đầu tư) Năm 1998, giá trị sản lượng công nghiệp cả nước tăng 12,1% và kim ngạch xuất khẩu chỉ tăng 0,9% so với năm trước, nhưng các KCN vẫn duy trì sản xuất công nghiệp tăng 61% và giá trị xuất khẩu tăng 53% so với năm 1997. Đây là thành tựu có ý nghĩa lớn trong tình hình thị trường khu vực và thế giới bị thu hẹp. Giá trị sản lượng của các KCN, KCX trong năm qua đạt 1871 triệu USD, chiếm hơn 20% sản lượng công nghiệp của cả nước. Phần lớn các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài ở các KCN đều có trình độ công nghệ tiên tiến, hiện đại, nên có khả năng cạnh tranh trên thị trường. Do đó trong năm qua đã đạt giá trị xuất khẩu 1300 triệu USD, chiếm 14% giá trị xuất khẩu cả nước, vươn lên vị trí hàng đầu của một trong những lĩnh vực xuất khẩu lớn của nước ta. Riêng hai KCX Tân Thuận và Linh Trung (Thành Phố Hồ Chí Minh) có 95 doanh nghiệp đi vào sản xuất đã đạt kim ngạch xuất khẩu 405 triệu USD, tính ra trên 1 ha đất công nghiệp tạo ra giá trị xuất khẩu 3 triệu USD/năm. Các doanh nghiệp của các KCN ở Đồng Nai năm qua đã đạt kim ngạch xuất khẩu 622 triệu USD, chiếm 66% tổng số doanh thu và đã đóng góp cho ngân sách nhà nước 28 triệu USD tăng hơn năm trước gần 4 triệu USD. Nhờ mở rộng và phát triển sản xuất, đến nay các KCN trong cả nước đã thu hút trên 110.000 lao động (không kể lực lượng lao động sản xuất bên ngoài các KCN) tăng 20 nghìn người so với năm trước. Tuy nhiên, từ lâu không ít người hiểu rằng, KCN chỉ là nơi để thu hút vốn, kỹ thuật kinh nghiệm quản lý của người nước ngoài, từ đó có quan điểm cho rằng nếu không có người nước ngoài vào đầu tư thì không làm KCN. Nhưng không phải vậy, chúng ta cần hiểu rõ rằng : “ KCN là tập trung các doanh nghiệp khu công nghiệp chuyên sản xuất hàng công nghiệp và thực hiện các dịch vụ phục vụ cho sản xuất công nghiệp, có ranh giới địa lý xác định… Doanh nghiệp khu công nghiệp là doanh nghiệp được thành lập và hoạt động trong KCN, gồm doanh nghiệp sản xuất và doanh nghiệp dịch vụ …” (Theo điều hai NĐ 36/CP về ban hành quy chế KCN–KCX–KCNC ngày 24 - 4 – 1997 của chính phủ) . Như vậy KCN tập trung không chỉ dành riêng cho các doanh nghiệp nước ngoài mà còn có cả các doanh nghiệp trong nước vào đầu tư sản xuất công nghiệp. Vốn đầu tư nước ngoài vào VN nói chung vào KCN nói riêng là cần thiết nhưng trong tình hình khó khăn về thu hút đầu tư nước ngoài vào VN thì chúng ta dựa vào sức mạnh phát huy nội lực đất nước để thực hiện mục tiêu CNH–HĐH nền kinh tế. Do đó trong hoàn cảnh nào dù thu hút đầu tư nước ngoài thuận lợi hay không ta cũng cần phải xây dựng đất nước bằng con đường phát triển công nghiệp, và như vậy cần có KCN tập trung nơi để các doanh nghiệp công nghiệp thực hiện sản xuất. Đến nay việc phát triển công nghiệp không còn là việc riêng của một ngành hay của chính phủ mà nó là việc của toàn dân. Một xí nghiệp ra đời trong xã hội văn minh không thể không chú ý đến những tác động trực tiếp và gián tiếp của nó đối với xung quanh, vì thế một nhà máy từ khi bắt đầu xây dựng đến khi đưa vào hoạt động có một loạt vấn đề như đất đai để xây dựng, thủ tục pháp lý, điện nước giao thông liên lạc, xử lý nước thải… các dịch vụ phục vụ cho sản xuất như kho tàng, lao động nhà ở cho công nhân, môi trường… Vì vậy, không thể xây dựng ở bất cứ nơi nào muốn mà phải có sự quy hoạch đồng bộ. Thời gian qua nhiều địa phương do xây dưng tự phát nhiều nhà máy xen với khu dân cư gây rất nhiều ô nhiễm như rác thải, tiếng ồn… làm tổn hại sức khoẻ, hậu quả đó là do không có sự quy hoạch và không có KCN tập trung. Từ thực tiễn đó ta cần nhận thức rõ hậu quả của việc phát triển tản mạn manh mún nên đã đưa việc quy hoạch ra để bàn bạc trong chiến lược phát triển kinh tế và điều này nêu lên yêu cầu cần phải có KCN. Tuy nhiên, từ những KCN đã được thành lập cho thấy quá trình xây dựng một khu công nghiệp từ khi bắt đầu khâu quy hoạch đến khi có quyết định của chính phủ cho phép xây dựng và sau khi có quyết định thành lập đến khi hoàn chỉnh xong kết cấu hạ tầng để có thể đưa vào sử dụng và nhà đầu tư có thể thuê đất để xây dựng nhà máy cho mình là một khoảng thời gian dài từ 4 – 8 năm. Tất cả những KCN đã ra đời đều phải qua một qui trình nhiều bước từ chính phủ và các bộ ngành liên quan. Do đó KCN 2002 trở đi nhằm “đón lõng thời cơ “, đòi hỏi ngay từ bây giờ chúng ta cần có sự khởi động để bắt đầu. Khi đánh giá KCN nhiều nhà hoạch định cho rằng KCN có diện tích lớn vài trăm thậm chí đến nghìn ha là qui mô lớn nhưng thực chất ta cần nhìn vào hiệu quả hoạt động của nó, xem xét về hạ tầng kỹ thuật được xây dựng như thế nào, ai đầu tư, công nghệ gì…và KCN có qui mô diện tích lớn thì việc chọn một khu đất để xây dựng là khó, nhưng thuận lợi hơn cho đầu tư hạ tầng kỹ thuật. Tuy nhiên đó chỉ là lợi về vốn bỏ ra xây dựng bình quân cho mỗi ha, còn mục đích cuối cùng là lấp đầy KCN sẽ gặp khó khăn nhiều hơn so với ở KCN có qui mô nhỏ hơn . Vậy, trong thực tế hiện nay, xu hướng thuận lợi đang nghiêng về các KCN có qui mô diện tích dưới 100 ha, các KCN đang làm theo phương thức “cuốn chiếu”. Các KCN này đang là thách thức đối với các KCN lớn. Đứng trên góc độ nhà đầu tư thì loại hình KCN dưới 100ha có sự linh hoạt và tính thích nghi nhiều hơn vì họ bỏ vốn ít hơn, thời gian xây dựng ngắn hơn, qui mô diện tích đất công nghiệp dành cho người thuê ít hơn nên việc tiếp thị kêu gọi các nhà đầu tư vào thuê đất để lấp kín diện tích nhanh hơn, điều đó cũng có nghĩa là họ thu được vốn bỏ ra sớm hơn. Ngoài ra họ còn có lợi thế trong việc thương lượng với các nhà đầu tư, họ ít chịu áp lực của sự cạnh tranh. Đối với nhà nước, các KCN có qui mô diện tích chiếm đất không lớn thì việc qui hoạch dễ hơn, việc di dời giải toả bồi thường cho người dân để giải phóng mặt bằng xây dựng hạ tầng KCN cũng nhanh hơn, nhiều nhà đầu tư có điều kiện hơn để tham gia vào lĩnh vực xây dựng hạ tầng KCN để kinh doanh. Đồng thời dễ thực hiện theo một ý đồ phân bố lại lực lượng sản xuất, thúc đẩy._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35068.doc
Tài liệu liên quan