Phương pháp biện chứng và biện chứng duy vật

Lời nói đầu Nhận thức, tư duy con người có quan hệ như thế nào với thế giới xung quanh? Con người có khả năng nhận thức được thế giới hiện thức hay không? Mà khi con người nhận thức được thế giới xung quanh thì việc áp dụng các hiểu biết đó vào thực tiễn như thế nào? Đây là một trong hai vấn đề cơ bản của triết học. Trong triết học Mac - Lê nin, phép biện chứng duy vật được coi là phương pháp luận chung nhất của mọi hoạt động thực tiễn, giúp con người nhận thức được thế giới. Vậy phép biện ch

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1421 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương pháp biện chứng và biện chứng duy vật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ứng là gì và nó có ý nghĩa như thế nào đối với nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người? Chúng ta hãy xem xét các vấn đề này ở dưới đây trong các khía cạnh, để hiểu thêm về phương pháp biện chứng và biện chứng duy vật. A I. Phương pháp luận Trước khi tìm hiểu về các vấn đề của phép biện chứng duy vật ta sẽ xem xét qua: Như thế nào là phương pháp luận? Có thể nói một cách tổng quát phương pháp luận là lý luận về phương pháp, là khoa học về phương pháp, phương pháp giải quyết các vấn đề như: Phương pháp là gì? Bản chất, nội dung, hình thức của phương pháp như thế nào? Phân loại phương pháp ra sao? Vai trò của phương pháp trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn của con người như thế nào? … Do đó có thể nói cách khác cụ thể hơn, phương pháp luận luận là hệ thống những quan điểm, những nguyên tắc xuất phát chỉ đạo cụ thể tổng việc xác định phạm vi, khả năng áp dụng chúng một cách hợp lý có hiệu quả tối đa. Mọi khoa học đều có lý luận về phương pháp của mình, vì nghiên cứu đối tượng, các khoa học đều phải xác định cho được các phương pháp thích hợp, kiến giải tích tất yếu của các phương pháp được sử dụng và mối liên hệ giữa các phương pháp đó. Phương pháp luận được phân thành: - Phương pháp luận phổ biến - Phương pháp luận chung và phương pháp luận riêng. Giữa chúng có sự liên hệ tác đông qua lại. Đặc biệt phép biện chứng duy vật là phương pháp luận phổ biến, có ý nghĩa rất to lớn trong hoạt động nhận thức và thực tiễn xã hội mà chúng ta sẽ nghiên cứu dưới đây. II. Vai trò của phương pháp luận 1. Phương pháp biện chứng. Trước hết chúng ta cần hiểu phương pháp biện chứng là hệ thống các nguyên tắc được hình thành trên cơ sở các nguyên lý, quy luật và phạm trù của phép biện chứng duy vật. Các nguyên tắc này tuy có nội dung khác nhau song chúng có sự liên hệ bổ sung lẫn nhau, tạo thành một công cụ có vai trò to lớn trong nhận thức các quy luật của thế giới khách quan. Ta hãy xem xét một số nguyên tắc của phép duy vật biện chứng: - Nguyên tắc về tính khách quan của sự xem xét. Cơ sở lý luận của nó là vai trò quyết định của vật chất trong quan hệ đối với ý thức, còn yêu cầu đối với mọi khoa học ta khi nghiên cứu sự vật phải xuất phát từ bản thân sự vật, để chỉ ra các quy luật khách quan chi phối sự vận động và phát triển của sự vật ấy. - Nguyên tắc về tính toàn diện Là nguyên lý về mối liên hệ phổ biến. Trong các ngành khoa học, việc nhận thức bản chất của sự vật phải được xem xét trong trạng thái toàn vẹn và phức tạp của nó. Cần phải nhìn bao quát và nghiên cứu tất cả các mặt, tất cả các mối liên hệ và quan hệ gián tiếp của sự vật đó. - Nguyên tắc xem xét sự vật trong sự phát triển, trong sự tự vận động. Cơ sở lý luận là nguyên lý về sự phát triển. Với yêu cầu là khi thực hiện nguyên tắc này không chỉ dừng ở chỗ liệt kê các giai đoạn phát triển lịch sử mà sự vật đã trải qua, mà phải vạch ra tính tất yếu, những quy luật chi phối sự liên hệ và thay thế các trạng thái, từ trạng thái này sang trạng thái khác của sự vật. - Nguyên tắc thống nhất giữa lịch sử và logic. ở đây: Lịch sử là khách thể được nghiên cứu trong sự vận động và phát triển. Logíc là sự tái tạo dưới hình ảnh tinh thần khách quan đang vận động và phát triển với những mối liên hệ tất yếu và xác định. Cơ sở lý luận của nó là: Phương pháp lịch sử và phương pháp logíc. Yêu cầu chung là phương pháp lịch sử phải nắm lấy cái logíc, xoay quanh cái logíc. Phương pháp logíc phải dựa trên các tài liệu lịch sử để vạch ra những mối liên hệ tất yếu, những quy luật khách quan vốn có trong quá trình lịch sử. - Nguyên tắc thống nhất giữa phân tích và tổng hợp, giữa qui nạp và diễn dịch. Phân tích và tổng hợp được tiến hành trong quá trình nhận thức là sự lặp lại trong ý thức quá trình phân giải và tổng hợp ở thế giới khách quan. Quy nạp là thao tác mà tư duy đi từ tri thức về cái riêng (sự vật hiện tượng, quá trình riêng lẻ), đến tri thức về cái chung, từ tri thức ít chung đến tri thức chung hơn. Diễn dịch là thao tác nhờ đó tư duy đi từ tri thức chung đến tri thức chung hơn, đến tri thức về cái riêng. - Nguyên tắc đi từ lý luận trừu tượng đến cụ thể. Cơ sở lý luận là sự tổng hợp lại nhờ tư duy lý luận các tài liệu do trực quan sinh động đem lại, ở đây cái trừu tượng phản ánh những mối liên hệ phổ biến nhất, đơn giản nhất nhưng có vai trò quyết định trong cái cụ thể nghiên cứu. 2. Phương pháp biện chứng là đỉnh cao của tư duy khoa học. Có thể nói giá trị của phép biện chứng duy vật không phải xuất phát từ ý muốn chủ quan của những người sáng tạo ra nó mà giá trị đó được thể hiện ở chỗ "Giải pháp những vấn đề mà tư tưởng tiến tới của loài người đặt ra", soi sáng các nhiệm vụ lịch sử đã chín muồi của nhân loại, đó là nhiệm vụ giải phóng con người khỏi mọi hình thức áp bức lóc lột, khỏi sự tha hoá. Mác khẳng định: Các nhà triết học trươc đây chỉ tìm mọi cách giải thích thế giới bằng những cách khác nhau, song cái chính là cải tạo thế giới. Có thể nói rằng cho đến nay, phép biện chứng duy vật vẫn là cơ sở thế giới quan, phương pháp luận khoa học duy nhất đáp ứng được nhiệm vụ lịch sử đó mà chưa có mặt học thuyết nào có thể thắng thế được, không chỉ những người Macxít chân chính là ngay cả một số học giả tư sản cũng thừa nhận vai trò của học thuyết đó. Chỉ có phép biện chứng duy vật mới có sự giải thích khoa học về những quá trình vận động, phát triển của tự nhiên, xã hội và tư duy, nắm được quy luật vận động của lịch sử, đem lại một giải pháp khoa học cho những vấn đề đó một cách khoa học. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở sự thừa nhận thôi chưa đủ. Ngày nay, khoa học và thực tiễn luôn vận động, biến đổi nên triết học Mac Lênin nói chung và phép biện chứng duy vật nói riêng cũng cần được bổ sung và phát triển nếu chúng ta không muốn lạc hậu so với thực tiễn. Phép biện chứng duy vật vừa là yêu cầu của thực tiễn xã hội, vừa là yêu cầu của nội tại học thuyết đó. Có phát triển được và thông qua phát triển, học thuyết đó mới bảo vệ mình và mới phát huy được tác dụng và những giá trị của nó. Trước Mac - Ănghen trong cuộc đấu tranh trường kỳ của các phái trào lưu triết học, nhân loại đã biết đến nhiều nhà duy vật và biện chứng lớn, đánh dấu những bước phát triển mới của tư duy triết học của con người trên con đường tìm tới chân lý. Thế nhưng tất cả các nhà triết học đó do sự hạn chế của các điều kiện khách quan và chủ quan đều chưa đem lại cho loài người một thế giới toàn bộ triệt để, một phương pháp luận khoa học cách mạng ở vị trí đó ta thường bắt gặp tính không nhất quán, duy vật khi giải thích vấn đề này, nhưng lại duy tâm khi giải thích vấn đề khác, duy vật nhưng lại siêu hình, không biện chứng hoặc biến chứng nhưng lại tiến tới duy tâm. Điều quan trọng nhất là tất cả các nhà triết học trước Mác để đứng lại ở nhận thức lĩnh vực tự nhiên và khi chuyển sang nhận thức vấn đề xã hội họ đều không tránh khỏi rơi vào duy tâm, sai lầm, phản khoa học. Mác - Ănghen là những người đầu tiên thống nhất chủ nghĩa duy vật biện chứng hay phép biện chứng duy vật, phép biện chứng ra đời đánh dấu bước phát triển mới về chất trong lĩnh vực triết học, đó là học thuyết triết học hoàn bị, triệt để thống nhất được xây dựng trên lập trường thế giới mới. Nó bao hàm cả lĩnh vực tự nhiên xã hội và tư duy con người. Phép biện chứng duy vật không phải là tổng số những nguyên lý, quy luật, phạm trù mà các nhà kinh điển của chúng ta tạo ra là sự liên hệ hữu cơ có nguyên tắc của các tri thức đã được xác lập trong hệ thống ấy. Giá trị thời đại của học thuyết ấy là ở chỗ nó là sự thống nhất hữu cơ giữa lý luận và phương pháp, giữa lý luận và thực tiễn, giữa tính khoa học và cách mạng. Phép biện chứng duy vật là một hệ thống mở, năng động, nó dành cả một phương hướng rộng lớn cho sự chứng minh của khoa học, cho sự bù đắp của tri thức nhân loại, là sự hướng dẫn và là động lực cho con người trong việc cải tạo tự nhiên xã hội và tư duy. Phép biện chứng ra đời từ sự sáng tạo và đồng thời cũng đặt ra yêu cầu sáng tạo trong việc vận dụng nó trong nhận thức và trong hoạt động thực tiễn. Nếu như trước đây phép biện chứng đôi khi do các nhà duy tâm nghiên cứu và các nhà duy vật dù là phản đối phép siêu hình thì bây giờ phép biện chứng đó đã tìm thấy người bạn đồng hành tin cậy duy nhất của mình là chủ nghĩa duy vật. Nếu như trước đây lý luận và phương pháp đôi khi tách rời nhau, thì bây giờ chúng đã trở thành sự thống nhất gắn bó là chủ nghĩa duy vật biện chứng trong phép biện chứng duy vật đã trở thành phương pháp luận chung nhất của việc nhận thức và cải tạo thế giới. Lê nin khẳng định phép biện chứng duy vật là "học thuyết về sự phát triển, dưới hình thức hoàn bị nhất, sâu sắc nhất và không phiến diện". Phép biện chứng duy vật không giống bất cứ một học thuyết triết học nào khác, bởi vì nó không phải là sản phẩm của phương pháp tư duy mà nó là sự phản ánh khách quan thế giới vật chất, là sự kích thích những giá trị tư tưởng, văn hoá nhân loại, nó kế thừa tiếp thu có phân hoá những hạn ché của chủ nghĩa duy vật và phép biện chứng trong lịch sử, đồng khái quát những thành tựu mới nhất của khoa học tự nhiên. Học thuyết đó luôn lấy thực tiễn làm cơ sở, điểm xuất phát của mình. Thực tiễn vừa là cơ sở, vừa là mục đích, động lực, tiêu chuẩn để đánh giá sức bền của nó. Chính hơi thở của thực tiễn đã làm cho phép biện chứng duy vật luôn sống động, phát triển. Lê nin chỉ rõ: "Quan điểm về đời sống, về thực tiễn, phải là quan điểm thứ nhất và cơ bản của lý luận về nhận thức". Trong quá trình xây dựng hệ thống triết học của mình các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác luôn đấu tranh không khoan nhượng chống lại mọi luận điệu xuyên tạc của kẻ thù và bảo vệ những quan điểm khoa học của mình. B Phép biện chứng duy vật Có thể nói từ thời cổ đại người ta đã hiểu phép biện chứng là nghệ thuật tranh luận để tìm ra chân lý, bằng cách vạch ra những mâu thuẫn trong lập luận của đối phương. Quan điểm ấy đã thể hiện những hiểu biết nhất định về yếu tố cơ bản của phép biện chứng là mâu thuẫn. Định nghĩa phép biện chứng cho biết, phép biện chứng nói chung chỉ mối liên hệ, vận động, phát triển của các sự vật phát triển. Thực chất của các mối liên hệ vận động phát triển ấy là sự thống nhất, đấu tranh của các mặt đối lập gọi là mâu thuẫn. Quan điểm biện chứng cho rằng các sự vật, hiện tượng hay những sản phẩm tinh thần của thế giới, tồn tại trong mối liên hệ, tác động lẫn nhau và không ngừng vận động phát triển. Đối lập với quan điểm biện chứng, quan điểm siêu hình cho rằng các sự vật hiện tượng trong thế giới tồn tại cô lập, tĩnh lại không vận động, không phát triển. Nếu có sự thừa nhận trong quan điểm này về vận động của thế giới thì đó là sự tăng giảm đơn thuần về lượng hoặc vận động theo chu kỳ khép kín. Những người theo quan điểm siêu hình nói chung phủ nhận sự phát triển, họ tuyệt đối hoá các mặt ổn định của sự vật, hiện tượng. Họ cho rằng không có sự ra đời của cái mới và nguồn gốc của chúng nằm ở bên ngoài sự vật, hiện tượng. Như vậy quan điểm biện chứng khác quan điểm siêu hình ở chỗ: Nó xem xét sự phát triển như một quá trình tiến lên, thông qua những bước nhảy vọt, cái cũ mất đi và cái mới ra đời. Nó vạch ra nguồn gốc bên trong của sự vận động và phát triển, đó là cuộc đấu tranh giữa những mặt đối lập bên trong của sự vật, hiện tượng. Có hai loại phép biện chứng đó là biện chứng khách quan và biện chứng chủ quan. Trong lịch sử triết học có ba hình thức cơ bản của phép biện chứng phản ánh trình độ nhận thức khác nhau của nhân loại về biện chứng khách quan của thế giới, phép biện chứng ngây thơ, phép biện chứng duy tâm, phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng ngây thơ tự phát cổ đại, tiêu biểu là Hêcralít. Ông cho rằng sự vận động và phát triển của thế giới giống như dòng chảy của một con sông, như vậy không ai tắm hai lần trên một dòng sông. Biện chứng ngây thơ dựa trên quan sát có tính trực quan, chỉ có ý nghĩa vô thần, chống lại quan niệm tôn giáo về thế giới, ít có giá trị khoa học. Biện chứng ngây thơ là hạn chế, bị phương pháp siêu hình xoá bỏ. Biện chứng duy tâm, người tiêu biểu cho phép biện chứng duy tâm khách quan là Heghen. Ông là người đầu tiên có công xây dựng tương đối hoàn chỉnh phép biện chứng duy vật với hệ thống các phạm trù, khái niệm, và các qui tắc cơ bản. Tuy nhiên, phép biện chứng của Heghen còn thiếu triệt để và thiếu khoa học. Biện chứng duy vật do Mác - Ănghen sáng lập ra vào giữa thế kỷ 19. Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. Nhờ đó khắc phục được các hạn chế trước đây của phép biện chứng chất phác và phép biện chứng duy tâm và thực sự trở thành khoa học, đưa con người tới bến bờ chân lý. Phép biện chứng duy vật bao gồm các nguyên lý, phạm trù, qui luật. Ta sẽ lần lượt xem xét các khía cạnh này. I. Hai nguyên lý cơ bản của phép biện chứng duy vật. 1. Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến của các sự vật hiện tượng. Trước hết ta cần hiểu mối liên hệ là chỉ sự phụ thuộc tác động và chuyển hoá lẫn nhau của các sự vật, hiện tượng hoặc giữa các yếu tố, các mặt hay các quá trình khác nhau của chúng. Các mối liên hệ không chỉ mang tính chất phổ biến mà còn mang tính đa dạng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng quan niệm liên hệ phổ biến là liên hệ giữa các sự vật, hiện tượng của toàn bộ thế giới khách quan (gồm cả tự nhiên, xã hội và tinh thần). Theo nó trong thế giới không có sự vật nào tồn tại độc lập, tách rời, không liên hệ với các sự vật khác, trái lại chúng đều liên hệ với nhau theo phương thức nào đó và tạo những hệ thống chằng chịt của thế giới. Liên hệ không chỉ giữa các sự vật với nhau mà còn có các yếu tố, các mặt bên trong của sự vật, giữa các giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật. Đối lập với quan điểm về mối liên hệ phổ biến của phép biện chứng duy vật. Quan điểm siêu hình cho rằng sự vật trong thế giới tồn tại một cách cô lập, tách rời nhau. Còn quan điểm biện chứng duy vật cho rằng mối liên hệ phổ biến là liên hệ hiện thực khách quan vốn có trong các sự vật, hiện tượng không do ai sắp đặt, sáng tạo ra cả. Đặc trưng của mối liên hệ là mang tính phổ biến, mang tính khách quan và tính đa dạng. Trong các mối liên hệ, có thể phân ra một số loại như sau: Liên hệ bên trong và bên ngoài, liên hệ bên trong là liên hệ giữa các yếu tố các mặt bên trong của sự vật còn liên hệ bên ngoài là liên hệ giữa các sự vật với nhau. Liên hệ bên trong qui định sự tồn tại, phát triển của sự vật, liên hệ bên ngoài tác động thông qua liên hệ bên trong. Mối liên hệ bên trong và bên ngoài chỉ có tính tương đối. Liên hệ cơ bản và không cơ bản, liên hệ cơ bản là mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố cơ bản của sự vật. Liên hệ không cơ bản là mối liên hệ giữa các mặt, các yếu tố không cơ bản của sự vật. Liên hệ cơ bản quyết định sự phát triển của sự vật, còn liên hệ không cơ bản phụ thuộc vào liên hệ cơ bản. Sự phân biệt chúng chỉ mang tính tương đối. Liên hệ chủ yếu và liên hệ thứ yếu, liên hệ chủ yếu là liên hệ nổi lên ở một thời điểm nhất định trong sự phát triển của sự vật và quyết định sự phát triển của sự vật tại thời điểm đó, còn liên hệ thứ yếu là liên hệ không quyết định sự phát triển của sự vật ở thời điểm nói trên. Hai mối liên hệ này có thể chuyển hoá lẫn nhau. Liên hệ gián tiếp và liên hệ trực tiếp, liên hệ gián tiếp là liên hệ được xác lập qua khâu trung gian nào đó, còn liên hệ trực tiếp là liên hệ không qua trung gian. Sự phân biệt này chỉ mang tính tương đối. Những mối liên hệ khác nhau của sự vật có nội dung và vai trò khác nhau trong sự tồn tại và phát triển của sự vật. ý nghĩa phương pháp luận nguyên lý về mối liên hệ phổ biến Cần xuất phát từ tính khách quan của mối liên hệ để nhận thức và vận dụng nó. Cần phải có quan điểm toàn diện trong việc nhận thức và tác động lên sự vật. Nghĩa là khi nhận thức và vận dụng nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, phải đặt sự vật, hiện tượng trong các mối liên hệ khách quan, vốn có của nó để nghiên cứu và tác động lên chúng. Cần phải phân loại các mối liên hệ để thấy được nội dung, vị trí và vai trò của mối liên hệ trong sự phát triển của sự vật. 2. Nguyên lý về sự phát triển của các sự vật hiện tượng. Có thể hiểu phát triển là sự vận động của các sự vật, hiện tượng theo chiều hướng đi lên từ thấp lên cao, từ giản đơn đến phức tạp, đưa đến sự ra đời của cái mới thay thế cho cái cũ. Quan điểm siêu hình nói chung về sự phát triển là coi phát triển chỉ là biến đổi thuần túy về lượng hoặc phủ nhận sự phát triển của thế giới. Quan điểm siêu hình cho rằng, nguồn gốc phát triển được đem từ ngoài vào thế giới. Chủ nghĩa duy tâm nói chung cho rằng, sự phát triển thế giới về thực chất chỉ là sự phát triển của tinh thần và do nguyên nhân tinh thần chi phối. Sự phát triển của chủ nghĩa duy vật biện chứng gắn liền với sự vận động, không có sự vận động tương tác giữa các sự vật, hiện tượng với nhau thì không có khả năng hoặc tiền đề để cho bất cứ sự phát triển nào. Tuy nhiên, không phải vận động nào cũng đưa tới sự phát triển. Trong thực tế có những vận động thụt lùi, kìm hãm tiến bộ. Chỉ có các vận động theo chiều hướng tiến lên, đưa sự ra đời của cái mới thay thế cho cái cũ mới là sự phát triển. Không có cái mới xuất hiện thì không có sự phát triển. Cái mới bao hàm trong nó cái tiến bộ, cái tích cực, sau khi đã loại bỏ cái tiêu cực, cái lạc hậu của cái cũ. Cái mới là một chất lượng khác, mới trong sự phát triển của sự vật. Nó tổng hợp sự phát triển của sự vật trước đó thành một giai đoạn cao hơn. Phát triển là quá trình khách quan của thế giới. Nó không chỉ phụ thuộc vào ý thức, ý chí con người mà còn qui định ý thức con người. Phát triển còn là quá trình phổ biến của thế giới, đồng thời là quá trình mang tính đa dạng. Mỗi sự vật, hiện tượng trong thế giới có quá trình phát triển và biểu hiện sự phát triển khác nhau. Phát triển còn là quá trình thống nhất giữa tính tất yếu và tính đa dạng. Khuynh hướng chung, tất yếu của thế giới là quá trình vận động đi lên từ thấp đến cao, từ giản đơn đến phức tạp đưa đến sự xuất hiện của cái mới thay thế cho cái cũ. Phát triển là một quá trình quanh co, phức tạp, bao hàm cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, bao hàm cả những bước hụt lùi tạm thời, những sự vận động đi chệch, một quá trình dường như lặp lại cái cũ nhưng ở một trình độ cao hơn. Do đó phát triển được diễn đạt như một đường xoắn ốc đi từ thấp lên cao của thế giới khách quan. ý nghĩa phương pháp luận của nguyên lý về sự phát triển. Cần xuất phát từ quá trình phát triển khách quan của sự vật để nhận thức, tác động lên nó. Phát triển là quá trình tất yếu khách quan cho nên phải có quan điểm phát triển trong nhận thức thì mới phản ánh, nắm bắt đúng đắn, kịp thời những thay đổi của sự vật, hiện tượng đề từ đó đề ra những giải pháp tác động cải biến sự vật một cách phù hợp. Phát triển là quá trình bao hàm những mâu thuẫn có cả những bước thụt lùi tất nhiên, không tránh khỏi, do đó cần phải lường trước và biết chấp nhận những thất bại tạm thời để chuẩn bị cho những bước tiếp theo nhằm đạt được mục đích cuối cùng trong hoạt động. I II. Những qui luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. 1. Qui luật mâu thuẫn. Mâu thuẫn và mặt đối lập thường được dùng như những khái niệm đồng nghĩa. Nhưng hiểu cho đúng hơn thì mâu thuẫn là mối quan hệ giữa các mặt đối lập, còn mặt đối lập là mỗi mặt hợp thành của mâu thuẫn. Mỗi mặt đó hợp thành từ nhiều thuộc tính, nhiều khuynh hướng khác nhau. Trong thực tế không phải mặt đối lập nào cũng tạo thành mâu thuẫn, chỉ những mặt đối lập nào liên hệ với nhau thành một chỉnh thể, tác động qua lại với nhau mới thành mâu thuẫn. Khái niệm khác nhau chỉ là một trong những hình thức biểu hiện một giai đoạn phát triển của mâu thuẫn. Tuy nhiên không chỉ có sự khác nhau biến thành đối lập, thành mâu thuẫn mà còn có cả quá trình những mặt đối lập, mâu thuẫn biến thành sự khác nhau. Khái niệm đấu tranh giữa các mặt đối lập chỉ sự loại trừ loại bỏ lẫn nhau, phủ định lẫn nhau giữa các mặt đối lập. Đấu tranh xuất hiện mâu thuẫn phát triển cao, đưa đến sự xuất hiện cái mới. Đấu tranh là phương thức tất yếu để giải quyết mâu thuẫn. Khái niệm thống nhất của các mặt đối lập chỉ sự liên hệ ràng buộc, qui định lẫn nhau giữa các mặt đối lập, mặt này lấy mặt kia làm tiền đề tồn tại cho mình. Trong qui luật mâu thuẫn, khái niệm thống nhất và đồng nhất dùng như những khái niệm đồng nghĩa. Lê nin nói về điều này như sau: "Sự đồng nghĩa giữa các mặt đối lập (sự thống nhất của chúng nói như vậy có lẽ đúng hơn? Tuy ở đây sự phân biệt giữa các từ thống nhất và đồng nhất không quan trọng lắm. Theo một nghĩa nào đó thì cả hai đều đúng), đó là sự thừa nhận (sự tìm ra), những khuynh hướng mâu thuẫn bài trừ lẫn nhau, đối lập trong tất cả các hiện tượng, các quá trình của giới tự nhiên (kể cả tinh thần và xã hội). Chúng ta có thể chỉ ra một số đặc điểm của mâu thuẫn như sau: Mâu thuẫn tồn tại khách quan trong các sự vật, hiện tượng. Nó không những tồn tại độc lập, không phụ thuộc vào ý thức, ý chí con người mà còn qui định cả ý thức, ý chí con người. Mâu thuẫn mang tính phổ biến. Mâu thuẫn có trong sự vật, hiện tượng của thế giới bao gồm cả tự nhiên, xã hội, lẫn tư duy con người. Mâu thuẫn có trong các giai đoạn phát triển khác nhau của sự vật và tồn tại giữa các sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn mang tính đa dạng. Mỗi sự vật quá trình của thế giới khách quan tồn tại những mâu thuẫn khác nhau. Mâu thuẫn trong tự nhiên khác mâu thuẫn trong xã hội, khác mâu thuẫn trong tư duy. Bản thân mọi quá trình khác nhau trong tự nhiên, xã hội, tư duy lại có những mâu thuẫn khác nhau. Có một số loại mâu thuẫn: Mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài: Mâu thuẫn bên trong là mâu thuẫn của các mặt đối lập bên trong sự vật còn mâu thuẫn bên ngoài là mâu thuẫn giữa các sự vật khác nhau Mâu thuẫn bên trong quyết định mâu thuẫn bên ngoài và là nguồn gốc bên trong của sự vận động, phát triển của sự vật, hiện tượng. Mâu thuẫn bên ngoài tác động đến sự phát triển của sự vật phải thông qua mâu thuẫn bên trong. Sự vật nào cũng có mâu thuẫn bên trong và mâu thuẫn bên ngoài. Phân biệt mâu thuẫn bên trong và bên ngoài mang tính tương đối. Mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản: Mâu thuẫn cơ bản qui định bản chất của sự vật, nó quyết định sự tồn tại, phát triển của sự vật từ khi hình thành cho đến khi biến đổi thành sự vật khác. Mâu thuẫn không cơ bản được tạo thành từ những mặt đối lập không cơ bản của sự vật, nó qui định bản chất của sự vật và bị qui định mâu thuẫn cơ bản. Phân biệt mâu thuẫn cơ bản và không cơ bản chỉ mang tính tương đối. Mâu thuẫn chủ yếu và mâu thuẫn thứ yếu: Mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn nổi lên trong từng giai đoạn phát triển nhất định của sự vật và quyết định sự phát triển của sự vật tại giai đoạn đó và chi phối các mâu thuẫn khác. Thông thường, mâu thuẫn chủ yếu là hình thức biểu hiện cụ thể của mâu thuẫn cơ bản trong giai đoạn nhất định của sự vật. Mâu thuẫn thứ yếu là mâu thuẫn không quyết định sự phát triển của sự vật tại thời điểm, giai đoạn nào đó, nó tác động phụ thuộc vào mâu thuẫn chủ yếu. Phân biệt mâu thuẫn chủ yếu và thứ yếu có tính tương đối. Mâu thuẫn đối kháng và không đối kháng. Đây là những loại mâu thuẫn chỉ có trong xã hội. Mâu thuẫn đối kháng là mâu thuẫn giữa những giai cấp xuất khẩu có lợi ích căn bản đối lập nhau, không thể điều hoà được. Mâu thuẫn này phát triển theo xu hướng ngày càng gay gắt hơn và đòi được giải quyết bằng bạo lực cách mạng của giai cấp bị thống trị chống lại bạo lực của giai cấp thống trị đã lỗi thời, phản động. Mâu thuẫn không đối kháng là mâu thuẫn giữa những lực lượng, giai cáp xã hội không đối lập nhau về lợi ích căn bản. Mâu thuẫn này phát triển theo xu hướng ngày càng dịu đi. Cách giải quyết mâu thuẫn này là bằng con đường hoà bình, giáo dục, thuyết phục, phê và tự phê bình. Cả hai mâu thuẫn này đều được giải quyết bằng con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập, chứ không phải là điều hoà giữa các mặt đối lập. ý nghĩa phương pháp luận của qui luật mâu thuẫn. Tôn trọng tính khách quan của qui luật. Nghĩa là trong hoạt động thực tiễn và nhận thức qui luật phải xuất phát từ sự tồn tại thực tế của qui luật mâu thuẫn để nhận thức và vận dụng nó, chứ không được xuất phát từ mong muốn, của nhận thức của chúng ta về mâu thuẫn. Muốn tìm hiểu được nguồn gốc, động lực của sự vận động, phát triển của sự vật thì phải tìm ra, phải căn cứ vào mâu thuẫn của sự vật. Mâu thuẫn là quá trình, do đó phải nhận thức và vận dụng qui luật mâu thuẫn trong quá trình phát sinh, phát triển của sự vật, tuỳ theo mỗi giai đoạn phát triển của mâu thuẫn mà có những cách tác động lên mâu thuẫn khác nhau. Phải có quan điểm phân loại mâu thuẫn trong nhận thức và vận dung nó. Mọi mâu thuẫn dứt khoát phải được giải quyết thông qua con đường đấu tranh giữa các mặt đối lập, tránh khuynh hướng thủ tiêu mâu thuẫn hay điều hoà mâu thuẫn dưới hình thức này hay khác. 2. Qui luật từ những thay đổi về lượng dẫn đến những thay đổi về chất và ngược lại hay còn gọi là qui luật lượng chất. Qui luật lượng chất vạch ra phương thức hay cách thức của sự vận động phát triển của thế giới. Chúng ta hãy xem xét qua một số khái niệm. Trước hết đó là khái niệm chất, có thể hiểu chất là tính qui định vốn có của sự vật, hiện tượng, là sự thống nhất hữu cơ của những thuộc tính, yếu tố cấu thành từ sự vật, nói lên sự vật đó là gì và phân biệt nó với các sự vật hiện tượng khác. Lượng là tính qui định của sự vật và hiện tượng về mặt qui mô, trình độ phát triển của nó, biểu thị bằng con số các thuộc tính, các yếu tố cấu thành nó. Giữa lượng và chất có sự thống nhất: Lượng và chất là hai mặt cấu thành của cùng một sự vật hiện tượng, không có lượng tồn tại tách rời với chất và ngược lại. Lượng và chất là hai mặt mâu thuẫn của cùng một sự vật, lượng thường xuyên biến đổi còn chất có xu hướng ổn định, bền vững hơn. Lượng và chất tồn tại, tác động qua lại với nhau trong suốt quá trình tồn tại, phát triển của sự vật. Khái niệm độ chỉ giới hạn mà trong những thay đổi về lượng chưa làm cho chất của sự vật thay đổi, sự vật vẫn là nó chưa biến thành sự vật khác. Từ thời điểm mà sự vật diễn ra những thay đổi về chất cho đến khi nó chuyển hoàn toàn thành chất mới là quá trình mà người ta gọi là bước nhảy. Tại thời điểm mà sự vật biến đổi thành sự vật khác, chất cũ hoàn toàn thay thế bằng chất mới, ta gọi là điểm nút trong sự phát triển của sự vật. Trong các hình thức của bước nhảy, có thể phân loại như sau: Bước nhảy toàn bộ và bước nhảy bộ phận, bước nhảy nhanh và bước nhảy chậm, bước nhảy lớn và bước nhảy nhỏ. ý nghĩa phương pháp luận của qui luật. Để giữ cho sự phát triển tương đối ổn định trong một chất xác định thì phải giữ vững sự thống nhất của chúng trong độ, sao cho những thay đổi về lượng ở đó không dẫn đến những thay đổi về chất. Muốn đạt được sự thay đổi về chất của sự vật thì phải thực hiện những biến đổi dần dần về lượng, tránh khuynh hướng xem thường những biến đổi về lượng để thực hiện ngay những biến đổi về chất (tả khuynh). Tuỳ theo tính chất cụ thể của những hình thức tác động biểu hiện của qui luật mà có những phương thức, biện pháp tác động, vận dụng chúng thích hợp. 3. Qui luật phủ định. Có thể nói phủ định là quá trình hình thành và phát triển cái mới trên cơ sở loại bỏ những cái lạc hậu, cái tiêu cực trong cái cũ, giữ lại toàn bộ, cái tích cực trong nó và đem vào trong thành phần của cái mới sau khi đã cải biến. Quan điểm trên là quan điểm về phủ định biện chứng. Nó đối lập với phủ định siêu hình là quá trình loại bỏ, tách rời cái cũ khỏi cái mới. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng về phủ định chỉ rõ, phủ định biện chứng chỉ ra sự nảy sinh cái mới trong lòng cái cũ, bắt nguồn từ cái cũ. ở đây phủ định là sự gián đoạn trong sự phát triển liên tục của sự vật. Nhờ những giai đoạn này, mà sự vật đạt được những trạng thái chất lượng mới trong sự tồn tại, phát triển của chúng. Phủ định biện chứng là quá trình nhiều mặt, không những phủ định về lượng mà còn về chất, bộ phận và toàn bộ, phủ định bao hàm cả khẳng định. Phủ định biện chứng là sự tự phủ định do mâu thuẫn bên trong của sự vật qui định, chứ không phải là quá trình đem từ ngoài vào sự vật. Phủ định là một phương thức mới, một thành tố tất yếu của quá trình phát triển. Sự vật mới, yếu tố mới, hình thành phát triển nhất định phải phủ định sự vật và yếu tố cũ. Không có phủ định thì không có bất cứ quá trình phát triển nào. Khái niệm phủ định của phủ định: Phủ định của phủ định là khái niệm chỉ quá trình phát triển của sự vật từ thấp lên cao được thực hiện bằng hai lần phủ định cơ bản, nhờ đó sự vật mới hình thành. Trong thực tế, phủ định của phủ định là một chuỗi những phủ định. Mỗi phủ định đều bao hàm khẳng định. Phủ định cho ta thấy tính chất lặp lại trong quá trình phát triển của sự vật. Sau lần phủ định thứ hai sự vật dường như trở lại cái ban đầu. Nhưng thực tế sự quay trở lại đó đã ở trên một trình độ cao hơn về chất so với ban đầu của nó. Phủ định nối tiếp nhau theo những chu kỳ tạo thành đường xoắn ốc. Trong thế giới khách quan, phủ định của phủ định là quá trình đa dạng, phong phú, cũng đồng thời là quá trình khách quan, tất yếu không phụ thuộc vào ý thức ý muốn của con người. Phủ định của phủ định là quá trình phổ biến trong tự nhiên, xã hội và cả tư duy con người. ý nghĩa phương pháp luận của qui luật. Nhận thức và tác động vào qui luật phủ định của phủ định theo quan điểm biện chứng có nghĩa là: Nắm vững quan điểm kế thừa trong sự phát triển, vận dụng qui luật này theo nguyên tắc đi từ phủ định bộ phận đến phủ định toàn bộ, căn cứ vào chu kỳ phát triển của sự vật thể hiện qua phủ định của phủ định để nhận thức xu thế tất yếu của nó, nắm vững mối liên hệ của cái nhất thời, cái bộ phận với cái liên tục, cái chung và cái toàn vẹn trong quá trình phủ định biện chứng. Tóm lại, quy luật mâu thuẫn, quy luật lượng chất, quy luật phủ định của phủ định đều là những quy luật cơ bản của phép biện chứng duy vật. Chúng đều phản ánh những mối liên hệ căn bản phổ biến và lặp đi lặp lại trong thế giới khách quan, qui định những mặt khác nhau trong sự tồn tại và phát triển của sự vật, trong đó quy luật mâu thuẫn được coi là quy luật cơ bản nhất, quyết định những quy luật khác và nó được gọi là hạt nhân của phép biện chứng. IV. Những cặp phạm trù cơ bản của chủ nghĩa duy vật. Phạm trù ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21100.doc