Phương pháp kiểm tra tạp chất tinh bột, CMC trong tôm bằng test nhanh

BỘ CÔNG THƯƠNG TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THỰC PHẨM TP.HCM KHOA THỦY SẢN Môn: Kiểm tra và đánh giá chất lượng sản phẩm thủy sản Đề tài: Phương pháp kiểm tra tạp chất tinh bột, CMC trong tôm bằng test nhanh GVHD: Trần Quốc Đảm NHÓM 4 (thứ 5, tiết 7-9, phòng B406) Nguyễn Vũ Hảo 2006140086 Nguyễn Công Khoa 2023140397 Nguyễn Duy Lợi 2006140170 Trần Trung Nhân 2006140222 Võ Thị Thu 2006140329 Vũ Quang Vinh 2006140404 Hồ Đặng Tuấn Vũ 2006140405 BẢNG PHÂN CÔNG CÔNG VIỆC STT Tên MSSV

docx56 trang | Chia sẻ: huong20 | Ngày: 12/01/2022 | Lượt xem: 355 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Phương pháp kiểm tra tạp chất tinh bột, CMC trong tôm bằng test nhanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Công việc Phân loại 1 Nguyễn Duy Lợi 206140170 Tổng hợp Word, PP, thuyết trình 2 Trần Trung Nhân 2006140222 Phương pháp kiểm tra tinh bột bằng test nhanh 3 Nguyễn Vũ Hảo 2006140086 Phương pháp kiểm tra tinh bột bằng test nhanh 4 Vũ Quang Vinh 2006140404 Hóa chất, kết luận, clip, nguyên liệu 5 Võ Thị Thu 2006140329 Tổng quan 6 Nguyễn Công Khoa 2023140397 Phương pháp kiểm tra CMC bằng test nhanh 7 Hồ Đặng Tuấn Vũ 2006140405 Phương pháp kiểm tra CMC bằng test nhanh 7 Cả nhóm Đánh giá Thảo luận, phân công nhiệm vụ, in bài MỤC LỤC MỞ ĐẦU Trong những năm gần đây, xuất khẩu thủy sản luôn nằm trong những ngành có kim ngạch xuất khẩu cao của Việt Nam do nguồn nguyên liệu dồi dào từ các hoạt động đánh bắt và nuôi trồng. Trong đó đồng bằng sông Cửu Long là vùng có điều kiện tự nhiên thuận lợi cho việc nuôi trồng thủy sản; đặc biệt là tôm. Hiện nay, nghề nuôi tôm đang được phát triển tại các tỉnh ven biển miền tây như: Cà Mau, Bạc Liêu, Sóc Trăng, Trà Vinh với sản lượng ngày càng lớn và giá trị xuất khẩu ngày càng cao.. Bên cạnh đó, do yêu cầu khắt khe của thị trường nhập khẩu đòi hỏi các mặt hàng phải có chất lượng cao và an toàn thực phẩm; do đó để đứng vững trên thị trường bắt buộc các nhà sản xuất phải nâng cao chất lượng sản phẩm. Để sản phẩm đạt chất lượng cao đòi hỏi phải kết hợp nhiều yếu tố từ nguyên liệu đầu vào, kỹ thuật sản xuất, đến những thiết bị hiện đại cần thiết cho quá trình chế biến ra sản phẩm Trong nghiên cứu điều tra cho thấy có rất nhiều loại hóa chất và chế phẩm sinh học được sử dụng trong việc xử lý môi trường, ao nuôi, điều trị và phòng ngừa khi dịch bệnh xảy ra trên tôm nuôi ở các trang trại tại Mỹ Thanh, Sóc trăng. Nhiều loại hóa chất được sử dụng rất nhiều và thường xuyên trong ao nuôi đó là các loại vôi, và khoáng nhằm duy trì ổn định pH và độ kiềm. Kết quả điều tra này cho thấy, hầu hết ở tất cả các trang trại nuôi trong vùng đều không có ao lắng, ao xử lý nước thải. Bên cạnh đó, việc xử lý ao và môi trường nước đều sử dụng thuốc diệt giáp xác để diệt giáp xác và thực hiện trong ao nuôi mà không có xử lý trong ao lắng trước khi cho vào ao nuôi. Hệ quả của việc này là tồn lưu một lượng lớn thuốc diệt giáp xác có gốc Cypermtherin trong ao với hàm lượng thấp nhất là 31,49 ppb và cao nhất là 603,5 ppb dẫn đến tôm nuôi trong ao bị nhiễm độc và chết. Đối với các ao nhiễm hàm lượng lớn thuốc diệt giáp xác hầu như không thu hoạch được, với hàm lượng thấp hơn thì sản lượng có thể thu hoạch rất thấp Bài tiểu luận sẽ trình bày phương pháp xác định 2 tạp chất trong tôm phương pháp test nhanh. Bài tiểu luận còn mang tính sơ khai, mang tính tìm hiểu khái quát chung, nhóm tha thiết mong sự đóng góp từ thầy và các bạn để đề tài được hoàn chỉnh và hoàn thiện hơn. Nhóm tác giả CHƯƠNG I: TỔNG QUAN Các khái niệm. Tạp chất: là những chất rắn, lỏng không phải là thành phần tự nhiên của bản thân tôm, được con người cố tình đưa vào để làm tăng khối lượng, tăng kích cỡ, làm thay đổi kết cấu, lừa dối cảm giác về độ tươi nhằm mục đích gian dối kinh tế. Đánh giá cảm quan: là việc sử dụng giác quan (nhìn, ngửi, nếm, sờ nắn và nghe) để xét đoán, đánh giá những tiêu chí liên quan đến chất lượng. Lô tôm nguyên liệu: là một lượng tôm cùng chủng loại, cùng một chủ sở hữu, vận chuyển trên cùng một phương tiện, được tập kết hoặc giao nhận cùng một thời gian và địa điểm. Mẻ hàng: là lượng tôm nguyên liệu được chứa trong một dụng cụ chứa, có cùng điều kiện bảo quản. Lấy mẫu có chọn lựa: là việc lấy mẫu đại diện trong những mẻ hàng có dấu hiệu nghi ngờ cao nhất. [2] Sơ lược về tinh bột, CMC. 2.1. Tinh bột Tinh bột tiếng Hy Lạp là amidon công thức hóa học: (C6H10O5)n) là một polysacarit carbohydrate chứa hỗn hợp amyloza và amylopectin, tỷ lệ phần trăm amilose và amilopectin thay đổi tùy thuộc vào từng loại tinh bột, tỷ lệ này thường từ 20:80 đến 30:70. Tinh bột có nguồn gốc từ các loại cây khác nhau có tính chất vật lý và thành phần hóa học khác nhau. Chúng đều là các polymer carbohydrat phức tạp của glucose (công thức phân tử là C6H12O6). Tinh bột, cùng với protein và chất béo là một thành phần quan trọng bậc nhất trong chế độ dinh dưỡng của loài người cũng như nhiều loài động vật khác. Ngoài sử dụng làm thực phẩm ra, tinh bột còn được dùng trong công nghiệp sản xuất giấy, rượu, băng bó xương. Tinh bột được tách ra từ hạt như ngô và lúa mì, từ rễ và củ như sắn, khoai tây, dong là những loại tinh bột chính dùng trong công nghiệp. Thuốc thử tinh bột là iốt. Khi gặp iốt, tinh bột sẽ cho màu xanh dương. Hồ tinh bột Cơ chế tác dụng Dung dịch hồ tinh bột khi gặp dung dịch Iot (Iod, I2) thì tạo một phức chất có màu xanh dương (da trời, xanh lam), khi đun nóng thì mất màu xanh, khi để nguội lại xuất hiện màu xanh.  Nguyên nhân là dạng amylozơ của tinh bột tạo một cấu trạng (cấu dạng) hình xoắn ốc và phân tử I2 bị giữ trong ống này tạo phức chất có màu xanh dương. Khi đun nóng thì cấu trạng xoắn ốc bị phá hủy, do đó không còn màu xanh nữa, nhưng nếu để nguội lại tái tạo dạng ống nên I2 lại bị nhốt trong ống này, vì thế xuất hiện màu xanh trở lại.  Do đó dung dịch hồ tinh bột là thuốc thử để nhận biết Iot và ngược lại, dung dịch Iot là một loại thuốc thử để nhận biết tinh bột. 2.2. CMC Phụ gia tạo đặc (làm đặc, làm dầy) CMC carboxymethyl cellulose có nguồn gốc từ cellulose – một hợp chất hữu cơ rất phổ biến trong tự nhiên và là thành phần chính của hầu hết thành tế bào thực vật (cell wall). Nó là nguồn nguyên liệu đầu tiên được sử dụng để tạo ra những sản phẩm biến tính (modification) ứng dụng trong công nghiệp thực phẩm và các ngành khác. Phụ gia tạo đặc CMC lần đầu tiên được sản xuất vào năm 1918, bởi tập đoàn Hercules Incorporated. Ngày nay, CMC (carboxymethyl cellulose, một dẫn xuất của cellulose với acid chloroacetic) được sử dụng ngày càng rộng rãi bởi những chức năng quan trọng của nó như: chất làm đặc, ổn định nhũ tương, chất kết dính, CMC bán tinh khiết và tinh khiết đều được sử dụng trong dược phẩm, mỹ phẩm, thực phẩm và chất tẩy rửa,  Phụ gia tạo đặc Carboxymethyl cellulose (CMC) là một polymer, là dẫn xuất cellulose với các nhóm carboxymethyl (-CH2COOH) liên kết với một số nhóm hydroxyl của các glucopyranose monomer tạo nên khung sườn cellulose và thường được sử dụng dưới dạng muối Natri carboxymethyl cellulose.  Ngoài ra CMC còn được gọi với một số tên gọi khác như Carboxymethylcellulose, carmellose, Sodium cellulose glycolat, Na CMC, cellulose gum, mã phụ gia thực phẩm INS là E466 Phụ gia làm đặc, làm dầy CMC - Carboxymethyl cellulose E466 Tính chất phụ gia CMC carboxymethyl cellulose: Là chế phẩm ở dạng bột trắng, hơi vàng, hầu như không mùi hạt hút ẩm. CMC tan trong cả nước nóng và nước lạnh. CMC có khả năng tạo đông thành khối vững chắc với độ ẩm rất cao (98%). Độ chắc và tốc độ tạo đông phụ thuộc vào nồng độ CMC, độ nhớt của dung dịch và lượng nhóm acetat thêm vào để tạo đông. Nồng độ tối thiểu để CMC tạo đông là 0.2% và của nhóm acetat là 7% so với CMC. CMC không tan trong dung môi hữu cơ như ethanol, glycerol, nếu trong công thức có các thành phần này phải tăng cường sự phân tán CMC trước bằng cách bổ sung đường, fructose syrup hoặc syrup đường nghịch đảo. Dầu ăn có thể được sử dụng, mặc dù khả năng hòa tan có thể chậm hơn vì dầu ăn tạo lớp vỏ bọc bao phủ các hạt CMC. Sơ lược về nguyên liệu tôm Tình hình xuất nhập khẩu tôm hiện nay Xuất khẩu VASEP cho biết, kim ngạch xuất khẩu tôm quý II/2016 của Việt Nam đạt 732,3 triệu USD, tăng 2,3% so với cùng kỳ năm ngoái. Kim ngạch xuất khẩu tôm trong 6 tháng đầu năm nay đạt 1,4 tỷ USD, tăng 4,8% so với cùng kỳ năm 2015. Top 10 thị trường nhập khẩu chính tôm của Việt Nam gồm: Mỹ, EU, Nhật Bản, Trung Quốc, Hàn Quốc, Canada, Australia, ASEAN, Đài Loan và Thụy Sĩ. Các thị trường này chiếm 95% tổng xuất khẩu tôm của cả nước. Trong đó, duy nhất thị trường Nhật Bản giảm 8,8%, còn lại các thị trường khác đều tăng. Tình hình xuất khẩu tôm tăng những tháng đầu năm nay là nhờ nhu cầu từ các thị trường chính hồi phục và lượng tồn kho giảm, tỷ giá tiền tệ ổn định hơn; giá tôm thế giới và giá tôm xuất khẩu có xu hướng tăng. Tuy nhiên, năm 2016, ảnh hưởng của El Nino vẫn tiếp diễn gây nắng nóng và hạn hán ở nhiều nơi, sản lượng tôm nuôi trên thế giới vì thế sẽ ở mức hạn chế. Giá tôm thế giới có xu hướng tăng khoảng 10 - 15% sau khi giảm mạnh trong năm 2015. Từ nay đến cuối năm, dự báo xuất khẩu tôm có thể duy trì mức ổn định, kim ngạch xuất khẩu tôm năm nay có thể đạt mức 3 tỷ USD. Nhập khẩu Theo VASEP, năm 2015 nhập khẩu tôm đạt 426 triệu USD, chiếm 40% tổng kim ngạch nhập khẩu thủy sản năm 2015. Trong đó Ấn Độ – quốc gia có giá xuất khẩu tôm rẻ hơn Việt Nam, có lúc chênh lệch đến 2 USD/kg đã trở thành nguồn cung tôm lớn nhất của Việt Nam và chiếm đến 74,7% tổng nhập khẩu tôm của cả nước trong năm 2015. Trong năm 2016, Việt Nam sẽ có cơ hội tăng xuất khẩu tôm sang một số thị trường chủ lực nhờ tận dụng các hiệp định thương mại tự do đã được ký kết. Vì vậy, nhu cầu nhập khẩu tôm năm 2016 của Việt Nam sẽ lên khoảng 470 triệu USD, tăng 10% so với năm 2015. 3.2. Đặc điểm 3.2.1. Môi trường sống của tôm Chủ yếu sống ở vùng nước lợ, cửa sông, ven biển, sống ở đáy nơi có bùn cát, sống vùi mình. Nhiệt độ thích hợp: 25-30oC. Độ mặn: 0- 40‰ (thích hợp nhất là 15- 25‰), nhu cầu về độ mặn thay đổi tuỳ theo từng loại tôm và thời điểm trong chu trình sinh sống của mỗi loại; lúc còn nhỏ tôm dễ bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi độ mặn một cách đột ngột hơn là lúc tôm đã lớn. Tôm sú có thể chịu được sự biến thiên của độ mặn từ 3-45 0/00, nhưng độ mặn lý tưởng cho tôm sú là 18-200/00. PH thích hợp: 7,2- 8,8. Oxy: đây là yếu tố quan trọng nhất cần đặc biệt chú trọng trong kỹ nghệ nuôi tôm. Lượng dưỡng khí thấp trong ao dễ gây cho tôm chết nhiều hơn cả. So với lượng oxy trong không khí là 200.000ppm, (1ppm = 1 phần triệu) thì số oxy hoà tan trong nước rất ít, nhưng ta chỉ cần 5ppm oxygen trong nước là đủ cho tôm hô hấp một cách an toàn. DO là 5mg/lit. Độ cứng của nước: nước trong ao hồ có độ cứng 20-150 ppm thì thích hợp cho việc nuôi tôm cá. Nhưng nước có độ cứng cao quá (trên 300 ppm) sẽ làm giảm sự thay vỏ và mức tăng trưởng của tôm càng xanh. 3.2.2. Thành phần hóa học của tôm Protein: 19-23 % Lipid: 0,3-1,4 % Glucid: 2% Tro: 1,3-1,8 % Canxi: 29-30 % Phosphat: 33-67 % Fe: 1,2-5,1 % LOÀI TÔM THÂN TÔM (%) THỊT TÔM (%) ĐẦU TÔM (%) VỎ TÔM (%) He Thẻ Sú Rằn Gân Chì Bộp Rão Nghệ Sắt Càng Hùm Mũ ni 61,19 52,95 61,96 58,23 59,30 57,71 60,32 58,68 60,25 50,47 40,22 28,07 41,52 52,05 51,62 52,84 48,60 41,45 47,43 49,02 46,94 48,04 39,15 31,61 22,20 30,77 29,80 28,00 31,40 33,90 33,14 31,85 31,55 33,20 31,75 42,38 51,95 63,40 52,02 10,00 9,00 8,90 10,40 11,27 11,07 12,15 12,20 13,07 11,62 8,56 5,50 12,57 3.2.3. Phân loại, phân bố, chu trình sống của tôm Phân loại Tôm sú (Tên tiếng Anh: Giant/Black Tiger Prawn) được phân loại như sau: – Ngành: Arthropoda – Lớp: Crustacea – Bộ: Decapoda – Họ chung: Penaeidea – Họ: Penaeus Fabricius – Giống: Penaeus – Loài: Monodon – Tên khoa học: Penaeus monodon Fabricius Cấu tạo Nhìn từ bên ngoài, tôm gồm các bộ phận sau: + Chủy: dạng như lưỡi kiếm, cứng, có răng cưa. Với tôm sú, phía trên chủy có 7 – 8 răng và dưới chủy có 3 răng. + Mũi khứu giác và râu: cơ quan nhận biết và giữ thăng bằng cho tôm + 3 cặp chân hàm: lấy thức ăn và bơi lội + 5 cặp chân ngực: lấy thức ăn và bò + Cặp chân bụng: bơi + Đuôi: có 1 cặp chân đuôi để tôm có thể nhảy xa, điều chỉnh bơi lên cao hay xuống thấp. + Bộ phận sinh dục (nằm dưới bụng) Tôm sú thuộc loại dị hình phái tính, con cái có kích thước to hơn con đực. Khi tôm trưởng thành phân biệt rõ đực cái, thông qua cơ quan sinh dục phụ bên ngoài. Con đực: cơ quan sinh dục chính của con đực nằm ở phía trong phần đầu ngực, bên ngoài có cơ quan giao phối phụ nằm ở nhánh ngoài đôi chân ngực thứ 2, lỗ sinh dục đực mở ra hốc háng đôi chân ngực thứ 5. Tinh trùng thuộc dạng chứa trong túi. Con cái: Buồng trứng nằm dọc theo mặt lưng phía trên, hai ống dẫn trứng mở ra ở khớp háng đôi chân ngực thứ 3. Bộ phận chứa túi tinh gồm 2 tấm phồng lên ở đôi chân ngực thứ 4 và thứ 5 dưới bụng tôm. Phân bố Phạm vi phân bố của tôm sú khá rộng, từ ấn Độ Dương qua hướng Nhật Bản, Đài Loan, phía Đông Tahiti, phía Nam châu Úc và phía Tây châu Phi (Racek – 1955, Holthuis và Rosa – 1965, Motoh – 1981, 1985) Nhìn chung, tôm sú phân bố từ kinh độ 30E đến 155E từ vĩ độ 35N tới 35S xung quanh các nước vùng xích đạo, đặc biệt là Indonesia, Malaixia, Philippines và Việt Nam. Tôm bột (PL.), tôm giống (Juvenile) và tôm gần trưởng thành có tập tính sống gần bờ biển và rừng ngập mặn ven bờ. Khi tôm trưởng thánh di chuyển xa bờ vì chúng thích sống vùng nước sâu hơn. Chu kì sống của tôm sú  Các giai đoạn phát triển ấu trùng tôm sú : – Nauplli: 6 giai đoạn: 36 – 51 giờ, các Nauplli bơi từng đoạn ngắn rồi nghỉ, lột vỏ 4 lần, mỗi lần khoảng 7 giờ, tự sống bằng noãn hoàng, không cần cho ăn + N1: dài khoảng 0,4 mm, dày 0,2 mm + N2: dài khoảng 0,45 mm, dày 0,2 mm + N3: dài khoảng 0,49 mm, dày 0,2 mm + N4: dài khoảng 0,55 mm, dày 0,2 mm + N5: dài khoảng 0,61 mm, dày 0,2 mm – Zoea: 3 giai đoạn: 105 – 120 giờ, các Zoea bơi liên tục gần mặt nước, lột vỏ 2 lần, mỗi lần khoảng 36 giờ, ăn thực vất phiêu sinh. + Z1: dài khoảng 1 mm, dày 0,45 mm, xuất hiện hai phần dầu và bụng rõ rệt. + Z2: dài khoảng 1,9 mm, xuất hiện mặt và chủy. + Z3: dài khoảng 2,7 mm, xuất hiện gai trên bụng. – Mysis: 3 giai đoạn: 72 giờ, các Mysis bơi hướng xuống sâu, đuôi đi trước, đầu đi sau. + M1: dài khoảng 3.4mm, có hình dạng của tôm trưởng thành, xuất hiện các cặp chân bụng, đuôi và quạt đuôi, các gai bụng thu nhỏ lại. + M2: dài khoảng 4 mm. + M3: dài khoảng 4,4 mm, chân bụng dài hơn, phân thành đốt nhỏ, xuất hiện răng trên chủy. – Postlarvae: giai đoạn gần trưởng thành – Juvenile: giai đoạn trưởng thành. Tuổi thành thục: tuổi thành thục sinh dục của tôm đực và tôm cái từ tháng thứ 8 trở đi. Xác định sự thành thục của tôm cái dễ hơn, chỉ cần quan sát có túi tinh ở cơ quan sinh dục phụ. Phương pháp xác định thành thục ở con đực khó hơn, chỉ khi nào tìm thấy được tinh trùng ở cuối ống dẫn tinh. Thường dựa vào trọng lượng để xác định khi con đực nặng từ 50g trở lên. + Hormone điều khiển sự thành thục sinh dục (GIH, gonal inhibiting hormone) được sản xuất bởi tế bào thần kinh trong cơ quan X của cuống mắt, vận chuyển tới tuyến giáp sinap đưa vào kho dự trữ và khi cần thì tiết ra. Sự thành thục sinh dục của tôm sú thông qua tác động của tuyến nội tiết, khi cắt mắt tức là thúc đẩy chu kỳ lộ xác, đem lại sự thành thục mau chóng hơn. + Số lượng trứng đẻ của tôm cái: nhiều hay ít là phụ thuộc vào chất lượng buồng trứng và trọng lượng cá thể: trọng lượng lớn cho trứng nhiều hơn. Khi con cái thành thục ngoài tự nhiên có trọng lượng từ 100-300g cho 300.000 -1.200.000 trứng. Nếu cắt mắt nuôi vỗ trong bể xi măng, thành thục và đẻ, cho số lượng trứng từ 200.000- 600.000 trứng. + Tôm cái đẻ trứng vào ban đêm (thường từ 22 giờ đến 2 giờ) trứng sau khi đẻ được 14-15 giờ, ở nhiệt độ 27-28 độ C sẽ nở thành ấu trùng (Nauplii). Tôm sú đẻ quanh năm, nhưng tập trung vào hai thời kỳ chính: tháng 3-4 và tháng 7-10. – Tuổi thọ tôm sú con đực khoảng 1,5 năm, con cái chừng 2 năm. Có hai đặc điểm cần chú ý trong vòng đời Tôm sú. + Tăng trưởng từ hậu ấu trùng đến lúc trưởng thành xảy ra vùng cửa sông (đặc trưng bởi vùng nước lợ). + Sự chín sinh dục, kết cặp, đẻ trứng và sự phát triển ấu trùng đều xảy ra ở ngoài khơi nơi có nồng độ muối giao động từ 28 – 32‰ và ổn định. Sinh sản Tôm chân trắng thành thục sớm, con cái có khối lượng từ 30 - 45 g/con là có thể tham gia sinh sản. Ở khu vực tự nhiên có tôm chân trắng phân bố thì quanh năm đều bắt được tôm chân trắng. Song mùa sinh sản của tôm chân trắng ở vùng biển lại có sự khác nhau ví dụ: ở ven biển phía Bắc Equađo tôm đẻ tử tháng 12 đến tháng 4. Lượng trứng của mỗi vụ đẻ phụ thuộc vào cỡ tôm mẹ: Nếu tôm mẹ từ 30 - 45g thì lượng trứng từ 100.000 - 250.000 trứng, đường kính trứng 0.22mm. Sau mỗi lần đẻ hết trứng, buồng trứng tôm lại phát triển tiếp. Thời gian giữa 2 lần đẻ cách nhau 2 - 3 ngày. Con đẻ nhiều nhất tới 10 lần/năm. Thường sau 3 - 4 lần đẻ liên tục thì có lần lột vỏ. Sau khi đẻ 14 - 16 giờ trứng nở ra ấu trùng Nauplius. ấu trùng Nauplius trải qua 6 giai đoạn: Zoea qua 3 giai đoạn, Mysis qua 3 giai đoạn thành Postlarvae. Chiều dài của Postlarvae tôm P.Vannamei khoảng 0,88 - 3mm. Tập tính Ở vùng biển tự nhiên, tôm chân trắng thích nghi sống nơi đáy là bùn, độ sâu khoảng 72 m, có thể sống ở độ mặn trong phạm vi 5 - 50‰, thích hợp ở độ mặn nước biển 28 - 34‰, pH = 7,7 - 8,3, nhiệt độ thích hợp 25 - 32oC, tuy nhiên chúng có thể sống được ở nhiệt độ 12 - 28oC. Tôm chân trắng là loài ăn tạp giống như những loài tôm khác. Song không đòi hỏi thức ăn có hàm lượng đạm cao như tôm sú. Tôm chân trắng có tốc độ sinh trưởng nhanh, chúng lớn nhanh hơn tôm sú ở tuổi thành niên. Trong điều kiện tự nhiên từ tôm bột đến tôm cỡ 40 g/con mất khoảng thời gian 180 ngày hoặc từ 0,1 g có thể lớn tới 15 g trong giai đoạn 90 - 120 ngày. Là đối tượng nuôi quan trọng sau tôm sú. 3.2.4. Khả năng thích nghi với điều kiện môi trường 3.2.4.1. Khả năng thích ứng với nhiệt độ. Tôm có biên độ giao động nhiệt cao từ 14 – 35 độ C tôm có thể sống được. Nhiệt độ thích hợp từ 28 – 30 độ C. 3.2.4.2. Độ muối Tôm sú thích ứng rộng với độ muối từ 0.2 – 40‰, thích hợp là 15 – 32 ‰ nồng độ muối thích ứng nhất cho các mô hình nuôi bán thâm canh và thâm canh là ở 10 – 1‰. Đối với ấu trùng ương nuôi trong bể thích hợp nhất từ 28 – 30‰. 3.2.4.3. Độ pH Phạm vi pH thích ứng của tôm là 7,5 – 9. Khi môi trường sống của tôm có pH = 5 tôm chết sau 45 giờ, pH = 5,5 tôm chết sau 24 giờ. Nếu pH xuống thấp thì tôm mất khả năng vùi mình xuống bùn, dạt vào bờ, tôm yếu ớt, màu sắc thay đổi đột ngột (tôm nhợt nhạt), đôi khi tôm nhảy cả lên bờ. pH trong bể ương ấu trùng luôn nằm trong khoảng từ 7,5 – 8,5. 3.2.4.4 Các chất khí hòa tan – Oxy: Tôm rất nhạy cảm với hàm lượng oxy hòa tan trong nước, phạm vi giới hạn từ 3 – 11mg/lít. – CO2: Hàm lượng CO2 thích hợp là 10mg/lít. – H2S: Hàm lượng H2S cho phép trong các ao nuôi thâm canh và bán thâm canh là 0,03mg/lít và tối ưu là bằng 0. Trong bể ương ấu trùng thì hàm lượng H2S luôn bằng 0. 3.2.4.5 Tính thích ánh sáng và hướng quang của tôm Đặc tính của tôm là thích ánh sang yếu, mọi hoạt động như: Giao vĩ, sinh sản, bắt mồi đều diễn ra vào ban đêm nhất là lúc chập choạng tối và gần sáng. Tôm trưởng thành có thể nhận biết được tầng ánh sáng 1 lux cách xa từ 20-30 m. Nhưng nếu nguồn sáng không ổn định tôm có thể bỏ ăn. Ánh sáng trong bể ương ấu trùng không cần thiết, chủ yếu là ánh sáng nhân tạo. 3.2.4.6. Cơ chế lột xác của tôm Mỗi lần lột xác tôm tăng trưởng về chiều dài và trọng lượng trung bình từ 10-15% so với trước khi lột xác. Sự lột xác của tôm do một loại hooc môn ở cuống mắt quy định. Cuống mắt còn lại chứa các tế bào kết tủa ion Canxi và ion Photpho làm cho vỏ tôm cứng lại sau khi lột xác được 0,5-1 giờ. Các tế bào này hoạt động được dưới tác dụng của ánh sáng mặt trời. 3.2.4.7. Những yếu tố ảnh hưởng đến sự bắt mồi của tôm sú - Nhiệt độ: Cường độ bắt mồi của tôm he lớn nhất từ 28 – 30 độ C, ở nhiệt độ dưới 20 độ C hay trên 30 độ C tôm giảm bắt mồi và ở nhiệt độ dưới 15 độ C hay trên 35 độ C thì tôm ngừng hẳn hoạt động bắt mồi. – Ánh sáng: Tôm là loài thích ánh sáng yếu, cường độ bắt mồi của tôm lớn nhất vào chiều tối và gần sáng, ngoài ra các hoạt động sinh sản, giao vĩ cũng diễn ra vào ban đêm. Khi cường độ ánh sáng mạnh thì tôm giảm bắt mồi và có hiện tượng vùi mình xuống bùn. Điều này có ý nghĩa to lớn đến hiệu quả sử dụng thức ăn trong thực tế sản xuất. Đặc điểm sinh sản – Cơ quan sinh dục cái được nhận biết nhờ một cơ quan giao cấu gọi là Thelycum nằm giữa đôi chân bò thứ 5. – Cơ quan sinh dục đực được nhận biết dễ dàng bằng mắt thường qua cơ quan giao cấu gọi là Petasma nằm giữa đôi chân bò thứ nhất. Đặc điểm các giai đoạn phát triển buồng trứng của tôm – Giai đoạn 1: Buồng trứng dạng sợi mãnh nằm trên ruột, dưới động mạch bụng kéo dài từ tâm dạ dày đến hết đốt bụng thứ 6. – Giai đoạn 2: Do buồng trứng phát triển tăng về thể tích và trọng lượng nên dễ dàng phân biệt với ống tiêu hóa và động mạch bụng, kích thước trứng đạt từ 174 – 177μn. Nếu nhìn tôm mẹ dưới ánh sáng qua lớp vỏ hoặc lưng ta thấy một đường đậm chạy dọc theo chiều dài thân tôm. – Giai đoạn 3: Buồng trứng trương phồng, đường kính trứng đạt kích thước trung bình 208 – 215 μn. Thể tích tăng nhiều lần so với giai đoạn 2. – Giai đoạn 4: Là giai đoạn chín mùi sinh dục, trứng đã chuẩn bị cho quá trình chuyển hóa vật chất sau này, đường kính trứng đạt kích thước tối đa 235 – 239 μn. Nếu đặt tôm mẹ dưới nguồn sáng quan sát ta thấy có dãy trứng rộng nhất kéo dài từ tâm dạ dày đến giữa đốt bụng thứ 6 và phình to hình tam giác ở đốt thứ nhất và thứ hai, hạt trứng có màu xanh ngọc và phân biệt rõ ràng. – Giai đoạn 5: Gọi là giai đoạn sau khi đẻ buồng trứng đã thải hết trứng ra ngoài nên khó phân biệt với ống ruột. – Khả năng đẻ trứng của tôm sú: Tôm sú tự nhiên (ở vùng biển Khánh Hòa, Cà Mau) có thể đẻ từ 300.000 – 1.000.000 trứng. Tôm thường đẻ trứng ở các bãi xa bờ, nước xâu, trong sạch và có độ mặn cao trên 30‰. 3.3.Thực trạng sử dụng tạp chất của tôm hiện nay Nhiều loại hóa chất, chế phẩm sinh học được sử dụng để xử lý nền đáy, nước trong ao nuôi tôm thâm canh và trong suốt quá trình nuôi trên các trang trại tôm nuôi ở Mỹ Thanh, Sóc Trăng. Các chất chủ yếu là vôi các loại, thuốc diệt giáp xác, khoáng, thuốc kháng sinh, các loại thức ăn bổ sung, vitamin và men vi sinh. Mặc dù, công dụng và hiệu quả của chúng chưa được chứng minh có tác động tích cực đến năng xuất, sản lượng tôm nuôi. Đa số các trang trại nuôi tôm điều không có ao xử lý nước nuôi và nước thải. Điều tra cho thấy, tôm bệnh ở các mô hình trang trại trong vùng chủ yếu bị teo gan, nhũn gan và chết nhiều ở giai đoạn trên dưới một tháng tuổi. Việc sử dụng các loại thuốc kháng sinh để điều trị và phòng bệnh trong quá trình nuôi tuy có sự ngưng chết nhưng không có hiệu quả trong trị bệnh tôm. Nguyên nhân tôm chết trong vùng có liên quan đến sự tồn dư thuốc diệt giáp xác trong quá trình xử lý ao nước và nền đáy ao nuôi, hơn 50 % ao kiểm tra trong nghiên cứu có tồn lưu chất diệt giáp xác Cypermethrin dao động từ 31.5 - 603.5 ppb. 261 ĐẶT VẤN ĐỀ Những năm gần đây diện tích nuôi tôm ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL) phát triển rất mạnh về số lượng và diện tích nuôi. Đặc biệt Sóc trăng là một trong những tỉnh đứng đầu về diện tích và qui mô nuôi tôm. Sự gia tăng nhanh chóng về qui mô cũng như sự phát triển mạnh về diện tích dẫn đến việc sử dụng nhiều các loại hóa chất và chế phẩm sinh học. Thực tế trên cũng góp phần nguyên nhân đến những phát sinh tôm bệnh, suy thoái hệ sinh thái ao, cũng như môi trường bên ngoài và ảnh hưởng xấu đến sức khỏe người sử dụng. Hiện nay, nuôi tôm trong vùng đang gặp nhiều khó khăn, thử thách như ô nhiễm môi trường, dịch bệnh và chi phí tăng cao như thức ăn, hóa chất. Bệnh cạnh đó, sự bùng phát dịch bệnh đang tăng nhanh, ngoài diện tích thiệt hại bệnh tôm teo gan đã xảy ra, tôm bị bệnh từng ngày tiếp tục lan rộng và tiếp tục gia tăng về diện tích nuôi. Chỉ riêng tỉnh Sóc Trăng, tổng diện tích nuôi trồng thủy sản 4 tháng đầu năm 2011 là 24.859 ha trong đó có 21.948 ha tôm sú thì đã có 13.702 ha tôm sú thiệt hại, chiếm 62,4% tổng diện tích thả nuôi và là tỷ lệ bị thiệt hại lớn nhất so với cùng kỳ các năm gần đây (năm 2010 tỷ lệ thiệt hại là 2,8%; năm 2009 là 0,7%; năm 2008 là 12,2%). Tính đến ngày 15/8/2011 diện tích tôm nuôi bị thiệt hại 25.257 ha, chiếm 64% diện tích tôm thả nuôi. Diện tích đã khắc phục 12.200 ha, bằng 48% diện tích thiệt hại. Hiện nay, diện tích tôm khắc phục tiếp tục bị thiệt hại 3.636 ha, tôm chết ở giai đoạn dưới 1 tháng tuổi, tình trạng tôm chết ở tất cả các mô hình nuôi, đều có dấu hiệu bị hoại tử gan tụy (Cổng điện tử Tỉnh Sóc Trăng-www.soctrang.gov.vn). Nhiều nghiên cứu cho thấy việc sử dụng hóa chất và các chế phẩm sinh học được sử dụng trong các trang trại nuôi tôm ở các nước như Philipine, Mexico, Thái Lan, Ấn Độ. Khoảng 40 loại hóa chất và chể phẩm sinh học được sử dụng trong cải tạo, xử lý ao nuôi tôm ở thập niên 90 ở những vùng nuôi công nghiệp và bán thâm canh ở Thái Lan. Con số hóa chất dùng trong ao nuôi tôm không dừng ở đó mà đến năm 2000 là hơn 70 hóa chất và chế phẩm sinh học được sử dụng. Ở Mexico năm 2001 lên đến 104 hóa chất và chế phẩm sinh học được sử dụng trong ao nuôi tôm. Năm 2002, ở Ấn độ có hơn 179 hóa chất đã sử dụng trong ao nuôi tôm (Lyle-Fritch và ctv., 2006). Như vậy, các loại hóa chất và chế phẩm sinh học ngày càng được sử dụng nhiều trong ao nuôi. Thực tế cho thấy, các trang trại nuôi thủy sản ở Việt nam cũng không ngoại lệ trong việc sử dụng các loại hóa chất này. Bài viết này, nhằm cung cấp những thông tin về hiện trạng sử dụng thuốc, hóa chất và các chế phẩm sinh học ở các trang trại nuôi tôm trong vùng và thảo luận về các mối nguy phát sinh tôm bệnh do tác nhân sinh học hay những độc tố do xử lý môi trường trong quá trình gây ra. Cũng như hiểu rõ cách quản lý ao nuôi và xử lý ao nuôi trong quá trình nuôi. Nhằm đưa ra những thảo luận và có các biện pháp xử lý cho một mùa vụ mới thành công hơn. PHƯƠNG PHÁP ĐIỀU TRA Có khoảng 40 ao nuôi, trên các trang trại nuôi ở Mỹ Thanh – Sóc trăng được điều tra từ tháng 1/6/2011-20/9/2011. Xác định bệnh được thực hiện tại hiện trường thông qua biểu hiện lâm sàng và tại phòng thí nghiệm. Phỏng vấn điều tra được thực hiện tại ao nuôi như kích thước ao nuôi, độ sâu mực nước ao nuôi, các loại hóa chất xử lý cải tạo ao sau khi vụ tôm trước chết và sau khi thả tiếp vụ nuôi mới, xử lý nước, con giống và quản lý ao nuôi trong suốt quá trình nuôi, loại thức ăn được sử dụng và sản lượng, năng suất sau khi thu hoạch. Dựa trên qui mô và cơ sở hạ tầng kỹ thuật của từng trang trại, chúng tôi tiến hành điều tra ao nuôi ở các mô hình: a. Mô hình nuôi hộ gia đình có diện tích < 10ha, đầu tư cho cơ sở hạ tầng kém hơn trang trại trung bình, trang thiết bị nghèo nàn: 10 ao nuôi 262 b. Mô hình trang trại trung bình có diện tích 20-35 ha, có hệ thống điện, quạt nước tuy nhiên mức độ đầu tư cho hạ tầng thấp hơn so với trang trại lớn, không có khu tập thể hay bếp ăn cho công nhân, không có hệ thống cho ăn tự động: 14 ao nuôi c. Mô hình trang trại lớn là tổng diện tích là 76 ha, có đầu tư cơ sở hạ tầng tốt như hệ thống giao thông trong trang trại, điện, quạt nước, thổi khí được trang bị có hệ thống, có hệ thống cho ăn tự động, có nhà tập thể, bếp ăn cho công nhân, có biện pháp an toàn sinh học: 26 ao nuôi KẾT QUẢ Thông tin chung các ao nuôi Các ao nuôi ở trang trại nuôi tôm Mỹ Thanh, Sóc Trăng đều là ao nuôi công nghiệp, có diện tích trung bình là 6000 m2 / ao. Trong đó ao nhỏ nhất khoảng 2500 m2 / ao và ao lớn nhất là 8700 m2 / ao, mực nước trong ao khoảng 1,2-1,5, độ sâu của ao từ bờ đến đáy ao khoảng 2m. Các trang trại này điều nuôi 2 vụ/năm, có khi là 3 vụ/năm tập trung chủ yếu trang trại trung bình và hộ gia đình. Hầu hết các ao nuôi ở các trang trại thả giống ở vụ nuôi một (thả giống 3-4/2011) đều nuôi tôm sú (Peneaus monodon) chiếm khoảng 90%. Tuy nhiên ở vụ hai tôm thả tháng (5- 6/2011) chủ yếu là tôm thẻ chân trắng (99%). Mật độ thả tôm ở các trang trại trong vụ 2 khác nhau từ 60-130 con/m2 , cỡ tôm khoảng PL10-15. Hầu hết ở các trang trại qui mô trung bình và lớn, trước khi thả con giống được xét nghiệm ở các Viện, trung tâm xét nghiệm giống. Tôm thả trong vụ nuôi 2 đều là tôm thẻ chân trắng (Penaeus vannamei). Khoảng 50% các ao nuôi đều gièo trước 5 -7 ngày để thả, còn lại là thả trực tiếp sau khi tôm mua ở các trại giống về. Chỉ có 1 trang trại qui lớn và trung bình có xử lý giống trước khi thả bằng Formol 150 ppm trong 30 phút. Mật độ thả là 70-130 con/m2 , tỷ lệ sống từ 70-80%. Nguồn giống từ nhiều công ty khác nhau như Việt Úc, Anh Việt, Minh Phú và Viện NCNT Thủy Sản III. Thức ăn sử dụng phổ biến cho thẻ có hàm lượng đạm khoảng 30 - 40%, đa số là thức ăn của các công ty CP Thái Lan (HYPO 30%) và Uni - Presedent (UP 38%). Đối với tôm thẻ thì nhu cầu về độ đạm không cao khoảng 25 - 35% tôm tăng trưởng tốt cho thấy loại thức ăn này phù hợp. Sử dụng thức ăn cho tôm trong suốt quá trình nuôi theo qui cách và chỉ dẫn của nhà sản xuất. Thức ăn được điều chỉnh hàng ngày tùy theo biểu hiện của tôm, lượng thức ăn còn lại trên sàng ăn. Cải tạo ao sau khi tôm vụ trước chết Ở đầu năm 2011, tôm thả vụ 1 (thả khoảng tháng 3-4/2011) các ao nuôi ở các trang trại điều tra đều bị bệnh và chết ở giai đoạn rất sớm trên dưới 1 tháng tuổi. Tôm chết có những biểu hiện bệnh như teo gan, sưng gan và chết đáy. Sau khi tôm chết, nước trong ao được thải ra, hoặc xả bỏ một ít. Sau đó sử dụng hóa chất trong đó chủ yếu thuốc diệt giáp xác để xử lý, xả bỏ tiêu diệt mầm bệnh trong ao. Bón vôi, phơi đáy ao cho khô khoảng 1-2 tháng. Sử dụng máy ủi, ủi lớp mỏng đáy ao cho lên bờ hoặc sên lớp bùn bẩn ở lõm giữa ao. Sau đó nền đáy được xử lý bằng vôi đá CaO (1,5 tấn/ 1000 m2 ). Dùng máy cày đánh xới để vôi trộn đều vào lớp đất. Lấy nước vào ao khoảng 30 cm, ngâm trong 3 ngày để vôi ngấm vào đất mục đích xử lý diệt mầm bệnh và hạ phèn. Xả bỏ, phơi đáy ao cho khô nứt chân chim. Tiếp tục bón vôi canxi (CaCO3) để điều chỉnh pH trên mặt đáy ao (700-800 kg/ao) và rải xung quanh bờ. Tùy theo pH đất mà có thể bón vôi thay đổi liều lượng. Sau 2 ngày, xịt Formol 30 ppm, sau đó lấy nước vào ao nuôi. 263 Xử lý nước trong ao nuôi Nước được lấy qua 1 ao trung gian (còn gọi là ao lắng). Nước được bơm từ kênh ngoài sông vào trong ao lắng (ao này có nhiệm vụ lắng đọng chất bùn lơ lửng) khoảng 2 ngày, thì nước được cho trực tiếp vào ao nuôi (100% ao). Hầu hết nước được bơm ở kênh này là nguồn nước chủ yếu từ con sông Mỹ Thanh, đây là con sông vừa là nguồn nước thải của các ao nuôi tôm bị bệnh xả bỏ và sản xuất nông nghiệp và vừa là nguồn cấp cho các ao nuôi ở vùng này. Mực nước đo được trong ao lúc này là 1.7m. Sử dụng quạt nước trong ao nuôi khoảng 3 ngày. Mục đích là để trứng ấu trùng,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docxphuong_phap_kiem_tra_tap_chat_tinh_bot_cmc_trong_tom_bang_te.docx
Tài liệu liên quan