Phương pháp luận của phép biện chứng duy vật

Đặt vấn đề Phép biện chứng là một khoa học triết học, xét trên nhiều phương diện, nó là hiện tượng có thế giới quan rộng lớn như bản thân triết học. Nó là học thuyết của các mặt đối lập, cho nên vấn đề của phép biện chứng là vấn đề lý giải sự phát triển tính mâu thuẫn của tự nhiên và tư duy về đấu tranh và thống nhất giữa các mặt đối lập, về các vấn đề gắn liền với nó. Hơn nữa, phép biện chứng không chỉ là một trong các học thuyết và các phương pháp bên cạnh các học thuyết và các phương pháp k

doc14 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2169 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Phương pháp luận của phép biện chứng duy vật, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hác mà nó còn là thước đo căn bản cho sự tiến bộ của nhân loại. Như vậy, lịch sử phép biện chứng đã hình thành và phát triển từ khi triết học ra đời mà đỉnh cao của nó là phép biện chứng macxít dựa trên truyền thống tư tưởng của nhiều thế kỷ, vạch ra những đặc trưng chung của biện chứng khách quan, nghiên cứu những quy luật phổ biến để giúp con người nhận thức và chinh phục thế giới. Nắm vững những nguyên tắc phương pháp luận của phép biện chứng duy vật không những là nhân tố cơ bản để hình thành thế giới mà là tiền đề tiên quyết cho sự sáng tạo của con người. II.giải quyết vấn đề Phép biện chứng cho rằng mọi sự vật, hiện tượng của thế giới, cũng như hình ảnh tinh thần của chúng có quan hệ qua lại với nhau, không ngừng vận động và phát triển. Trong đó vận động được hiểu là tự vận động, còn phát triển là phát triển tự thân, phát triển thông qua mâu thuẫn, là sự chuyển hoá trạng thái này thành trạng thái cao hơn, một sự vật này thành sự vật khác mới về chất. Phép biện chứng đã trải qua một lịch sử hơn 2000 năm với 4 hình thức cơ bản: Phép biện chứng cổ đại được coi là nền tảng cho các nền triết học sau này tiêu biểu bằng ba nền triết học cổ đại Triết học Trung Hoa cổ đại: Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn có lịch sử lâu đời. Những biểu hiện tôn giáo, triết học cũng như tư tưởng biện chứng đã xuất hiện rất sớm ở xã hội Trung Hoa cổ đại. Và đặc biệt là từ thời kỳ Xuân Thu - Chiến quốc trở đi. Nguyên nhân là do xã hội Trung Hoa thời bấy giờ là xã hội đánh dấu sự tan rã của xã hội của chế độ nô lệ và hình thành các quan hệ xã hội phong kiến hết sức phức tạp. Hơn nữa, cũng là do các đặc điểm kinh tế có liên quan tới quá trình biến động xã hội này là sự hình thành nhanh chóng các chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất. Vì vậy đã làm xuất hiện hàng loạt các tư tưởng triết học khác nhau để giải quyết nhu cầu của xã hội trong đó tiêu biểu là những hệ thống tư tưởng có ảnh hưởng tới mãi về sau này trong lịch sử phong kiến Trung Quốc như đạo Nho, đạo Lão v.v.. Phép biện chứng biến dịch là một nét đặc sắc của triết học Trung Hoa đồng thời nó cũng tiêu biểu cho phái Nho gia ( Khổng Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử ). Triết lý âm dương đi sâu vào sự suy tư về nguyên lý vận hành đầu tiên và phổ biến của vạn hữu. Theo thuyết âm dương thì mọi sự biến hoá vô cùng, vô tận, thường xuyên của vạn hữu đều có thể quy về nguyên nhân của sự tương tác giữa hai thế lực đối lập vốn có của Âm và Dương. Các nhà biện chứng thuộc phái này cho rằng trời đất luôn luôn biến đổi không ngừng và có tính quy luật. Nguyên nhân của mọi biến hoá là do sự giao cảm của hai mặt đối lập như âm dương, nước và lửa, đất và trời. Chính trị-xã hội cũng theo đó mà biến đổi theo quy luật tự nhiên đó. Tuy nhiên hạn chế của phép biện chứng này là ở chỗ coi sự biến hoá chỉ có tính chất tuần hoàn theo chu kỳ khép kín, không có sự phát triển, không có sự xuất hiện cái mới. Đạo Lão ( Lão Tử, Dương Chu, Trang Chu ) với tư tưởng coi đạo là nguyên lý duy nhất và tuyệt đối trong sự vận hành của vũ trụ, hiện tượng đã thể hiện những tư tưởng biện chứng. Tư tưởng đó là mọi hiện hữu đều biến dịch. Sự biến dịch này theo hai nguyên tắc cơ bản: quân bình và phản phục.”Cái gì cũ sẽ mới”,”cái gì khuyết ắt tròn đầy”...Tư tưởng phản phục nói lên nguyên lý vận hành phi phát triển của hiện hữu. Hay là tư tưởng các mặt đối lập trong một thể thống nhất, quy định lẫn nhau, là điều kiện tồn tại của nhau, trong cái này có cái kia: “Đẹp tức có xấu, dài ngắn tựa vào nhau. Cao thấp liên hệ với nhau,...” . Nhưng điều hạn chế của tư tưởng này là ở chỗ do các nhà biện chứng nhấn mạnh nguyên tắc quân bình và phản phục trong biến dịch, cho nên họ không đề cao tư tưởng đấu tranh để giải quyết mâu thuẫn mà nhấn mạnh điều hoà của các mặt đối lập. Tóm lại, hạn chế chung của tư tưởng biện chứng Trung Hoa cổ đại đó là không chú ý đến quá trình phát triển, không coi trọng cái mới. Triết học ấn Độ cổ đại: Xã hội cổ đại ấn Độ là xã hội mang tính chất công xã nông thôn với sự phân chia đẳng cấp hết sức nghiệt ngã (đạo Bàlamôn) và dai dẳng của 4 đẳng cấp xã hội: tăng lữ, quý tộc, bình dân tự do và tiện dân (nô lệ). Tư tưởng tôn giáo rất phát triển trong xã hội cổ đại ấn Độ đã đan xen vào triết học làm nên nét đặc thù của triết học cổ đại ấn Độ. Vào thời kỳ này nhiều tri thức về khoa học tự nhiên cũng ra đời và làm cơ sở cho nhận thức của chủ nghĩa duy vật. Tất cả những yếu tố như kinh tế, chính trị, và tri thức khoa học đó đã hợp thành cơ sở hiện thực cho sự phát sinh và phát triển của những tư tưởng triết học-tôn giáo ấn Độ cổ đại. Phép biện chứng thô sơ cũng là một giá trị của triết học cổ đại ấn Độ. Có thể nói, các tư tưởng biện chứng đều được thể hiện trong các giáo lý, giáo điều của các giáo phái. Tiêu biểu là tư tưởng đạo Phật sơ kỳ và đạo Jaina. Những tư tưởng biện chứng của đạo Phật sơ kỳ được Ph.Ănghen đánh giá là “hết sức sâu sắc” . Có thể nói, những tư tưởng triết học về bản thể và phép biện chứng luôn là giá đỡ cho các luận điểm về nhân sinh. Tư tưởng biện chứng của đạo Phật sơ kỳ được trình bày tập trung trong các luận điểm: nhân-duyên-sinh, vô ngã, vô thường. Theo tinh thần triết lý này thì vạn vật không do một uy lực thần linh nào chi phối, mà tất cả đều chịu tác động của luật. Nhân-duyên-sinh ( hay nhân-quả), theo quá trình sinh-trụ-hoại-không. Và cũng vì vậy không có cái gì là thường hằng bất biến ( vô ngã ) và cũng không có cái gì là thường hằng không đổi ( vô thường )-tức là trên bình diện tồn tại của hai chiều không gian và thời gian đều biến động. Tư tưỏng biện chứng của Jaina thể hiện ở học thuyết không tuyệt đối (tức là tuơng đối). Nó cho rằng tồn tại đầu tiên là bất biến vô thuỷ, vô chung, biến chuyển là không ngừng. Theo Jaina, tồn tại vừa bất biến, vừa biến chuyển. Cái vĩnh hằng là bản thể, còn cái không vĩnh hằng, luôn luôn biến đổi, là các dạng của bản thể. Đó là một mâu thuẫn mà con người cần phải chấp nhận. Tuy nhiên. phép biện chứng của triết học cổ đại ấn Độ còn nhiều hạn chế như coi linh hồn con người là bất tử (đạo Phật) hay là có quan niệm về biện chứng chưa triệt để (thể hiện ở những phán đoán về thế giới hiện tượng của phái Jaina). Qua một số các học thuyết triết học ấn Độ và Trung Hoa cổ đại, chúng ta có thể thấy được những tư tưởng biện chứng của những nguyên tắc về sự vận động, biến dịch của vũ trụ hiện hữu. Nhưng ở đây có thể nói nguyên tắc về sự thăng bằng của biến động đã được đặc biệt quan tâm. Trong khi đó những nguyên lý và nguyên tắc về sự biến động phát triển về cơ bản chưa được khai thác. Triết học Hy Lạp cổ đại: Quá trình tan rã của chế độ bộ lạc nguyên thuỷ và hình thành xã hội có giai cấp của Hy Lạp cổ đại kéo dài tới vài thế kỷ (từ thế kỷ XI-VIII tr.CN) đã dẫn tới các hậu quả kinh tế xã hội khác như: vai trò sở hữu tư nhân trước hết là sở hữu của giới quý tộc nông nghiệp và quý tộc dòng dõi ngày càng phát triển. Vì vậy, nên mâu thuẫn giữa các giai cấp ngày càng gay gắt như đấu tranh giai cấp giữa chủ nô và nô lệ, giữa phe dân chủ - chủ nô tiến bộ và phe quý tộc - chủ nô bảo thủ. Thêm vào đó là sự phát triển của nghề thủ công, nông nghiệp, thương mại (do có thuận lợi về đường biển), hàng hoá đã làm nền tảng cho sự phát triển tri thức về thiên văn, khí tượng, toán học, vật lý học...Những khoa học này ra đời đòi hỏi sự khái quát cao của triết học, thế nhưng ở thời kỳ này tri thức triết học và tri thức về khoa học cụ thể thường hoà lẫn vào nhau. Các nhà triết học đồng thời cũng là các nhà khoa học. Do vậy, sự phát triển của kinh tế, xã hội nhất là các môn khoa học cụ thể sẽ kéo theo sự phát triển mạnh mẽ của triết học. Những quan niệm biện chứng đã chiếm một phần đáng kể trong thế giới quan của người Hy Lạp cổ đại. Về thực chất, quan niệm đó đã xuất hiện cùng với triết học. Ngoài ra, ở thời kỳ này cũng đã diễn ra sự giao lưu giữa Hy Lạp và phương Đông nên triết học Hy Lạp cũng mang ít nhiều ảnh hưởng của triết học phương Đông. Một trong những trang sáng chói nhất trong sự phát triển của tư tưởng biện chứng thế giới, với giai đoạn đầu của nó là phép biện chứng Hy Lạp cổ đại. Chính các dữ kiện lịch sử hình thành phép biện chứng cổ đại trên đây đã chứng tỏ rằng nó góp phần phát triển phép biện chứng hiện đại ngày nay, là những cuộc luận chiến giữa các đại biểu của nó với những người bảo vệ phương pháp siêu hình, phương pháp đã xuất hiện với tư cách là mặt đối lập của phép biện chứng. Theo V.I. Lênin, quan điểm biện chứng về sự phát triển dựa trên học thuyết mâu thuẫn, về các mặt đối lập, về sự thống nhất, đấu tranh giữa các mặt đối lập đó. Ông coi phép biện chứng của các nhà triết học Hy Lạp cổ đại là khởi nguyên lịch sử. Hay nói cách khác phép biện chứng macxít, khoa học, hiện đại dựa trên truyền thống tư tưởng nhiều thế kỷ, bắt nguồn từ biện chứng Hy Lạp thời cổ đại với tư cách là khởi nguyên của mình. Do vậy, khi nói tới biện chứng giai đoạn này, ta có thể hiểu rằng đây là giai đoạn đầu tiên trong lịch sử nhận thức mang tính biện chứng về sự phát triển của hiện thực và đó chính là phép biện chứng cổ điển. Tư tưởng biện chứng nhận thức của thời kỳ này thông qua suy luận của Hêraclit là sự tương tác giữa cảm tính và tư duy, thông qua phỏng đoán sáng suốt của Đêmôcrit về tính chế định lẫn nhau giữa “nhận thức mờ ám” và “nhận thức trong sáng”. Trước tiên, chúng ta phải nói đến Hêraclit- người giữ vị trí trung tâm trong lịch sử phép biện chứng cổ đại. Lê-nin coi ông là “một trong những người sáng lập ra phép biện chứng”. Điều cơ bản và đặc thù trong học thuyết của Hêraclit là tư tưởng của ông về sự thống nhất biện chứng (mâu thuẫn) của sự hài hoà và đấu tranh giữa các mặt đối lập. Các mặt đối lập cùng tồn tại và chuyển hoá cho nhau. Sự chuyển hoá đó phải thông qua đấu tranh. Về nhận thức luận, ông đứng trên lập trường duy vật và biện chứng. Ông cho rằng vũ trụ tồn tại theo những quy luật nội tại của nó. Nhận thức là nhận thức cái tất yếu, cái thống nhất bao gồm các mặt đối lập là nhận thức cái quy luật nội tại của vũ trụ. Con đường nhận thức bắt đầu từ cảm tính sau đó qua lý tính. Theo ông, chân lý mang tính cụ thể và tuơng đối. Như vậy, sự phát triển ra các mối liên hệ và các quan hệ phổ biến trong vũ trụ, phép biện chứng khách quan của người Hy Lạp cổ đại đã sớm đạt tới đỉnh cao của mình trong học thuyết của Hêraclit về sự đấu tranh phổ biến và về sự thống nhất giữa các mặt đối lập. Tuy nhiên, ở đây ta vẫn nhận thấy những hạn chế của Hêraclit đó là nặng về tính biểu trưng của thế giới mà chưa giải thích được nguyên nhân sâu xa của nó. Hêraclit cho rằng thế giới vật chất bắt nguồn từ bản thân nó, dạng đầu tiên của vật chất là “lửa”. Thế giới thống nhất ở ngọn lửa. Thế giới vật chất vận động không ngừng, “mọi vật đều trôi đi, chảy đi không có cái gì đứng nguyên tại chỗ”. Sự phát triển của vấn đề nhận thức luận trong triết học Hy Lạp cổ đại ở thế kỷ V (tr.CN) đã làm xuất hiện học thuyết của chủ nghĩa duy vật nguyên tử mà đại biểu lớn nhất là Đêmôcrít. Tính biện chứng của học thuyết của Đêmôcrit về nhận thức “minh mẫn” và nhận thức “rối rắm”, trong luận điểm về tồn tại vật lý của “không tồn tại”. Biện chứng của nhận thức “ minh mẫn” và nhận thức “rối rắm” đã được chuẩn bị nhờ các tư tưởng của của Hêraclit. Phép biện chứng mà ở Hêraclit đã có được một tính chất khách quan rõ nét, thì tiếp tục được phát triển ở Đêmôcrít. Chính với tư cách là phép biện chứng khách quan “vũ trụ luận” của ông tất yếu đã có ảnh hưởng đến khảo cứu hệ vấn đề nhận thức lý luận. Hơn nữa, tư tưỏng biện chứng của Đêmôcrit còn chứa đựng những tư tưởng biện chứng mới mẻ: Nếu học thuyết của Hêraclit về cơ bản là sự lý giải biện chứng về vũ trụ, thì phép biện chứng của Đêmôcrit có thể nói đã giành cho thế giới quan duy vật một lĩnh vực mới mẻ khi đó chưa chưa được nghiên cứu, đó là chính là lý luận nhận thức. Ông thừa nhận vai trò của nhận thức cảm tính và nhận thức lý tính, coi cảm giác là bước đầu của tri thức, nhưng cảm giác là nhận thức “mờ tối” vì nó không cho ta biết nguyên tử và chân không. Vì vậy, cần phải có sự tham gia của lý tính - nhận thức “ chân thực”, tinh tế và sâu sắc hơn. Đêmôcrit cũng đã chỉ ra được mối liên hệ qua lại giữa cảm tính và lý tính, giữa cảm giác và tư duy lý luận. “nhận thức trong sáng” (tư duy lý luận), nhận thức về chân lý, về hiện thực là không đạt tới đối với cảm tính, nhưng chúng lại dược xác thực từ cảm tính. Trong lĩnh vực lý luận, về thực chất Đêmôcrit đã trở thành đại biểu của phép biện chứng cổ đại với tư cách là học thuyết về sự phát triển của tư duy trên cơ sở mặt đối lập của nó - cảm giác. Qua đó ông bổ sung phép biện chứng lôgốt của Hêraclit. Quan điểm về vũ trụ vĩnh cửu vô tận, cấu thành từ vô số thế giới biến đổi vĩnh hằng, có sự sống và không có sự sống là một trong các thành tựu tuyệt vời của phép biện chứng tự nhiên cổ đại phác hoạ đầu tiên về biện chứng khách quan của thế giới vật chất. Ông đã vạch ra một số khâu biện chứng trong đời sống xã hội và hơn hết là đưa vào yếu tố biện chứng vào lý luận nhận thức. Tuy nhiên, ông vẫn là người theo chủ nghĩa khắc kỷ, xa lạ với phép biện chứng trong lý luận về vận động của nguyên tử và trong cái kết luận mà ông rút ra từ đó đối với con người. Tuy phép biện chứng Hy Lạp cổ đại đóng vai trò là khởi thuỷ trong sự phát triển của lịch sử phép biện chứng nhưng nó “còn quan niệm giới tự nhiên là một chỉnh thể và đứng về mặt toàn bộ mà xét chỉnh thể ấy. Mối liên hệ phổ biến giữa các hiện tượng tự nhiên chưa được chứng minh về mặt chi tiết, đối với họ, mối liên hệ đó là kết quả của sự quan sát trực tiếp”[C.Mác-Ănghen - toàn tập] . Do vậy, phép biện chứng Hy Lạp cổ đại mới chỉ phát triển với tư cách là một quan niệm chung về thế giới. Các nhà triết học ở thời kỳ này còn nặng về tính biểu trưng và mô tả thế giới như : cho rằng thế giới vật chất bắt nguồn từ bản thân nó, dạng đầu tiên là “lửa” (Hêraclit). Ngoài ra, các nguyên lý triết học được xây dựng trên cơ sở tập hợp kinh nghiệm kết hợp với việc quan sát trực quan và những suy luận mở rộng chưa có căn cứ khoa học xác đáng cho nên có không ít phỏng đoán (Đêmôcrit và Hêraclit với sự phỏng đoán về sự ra đời của thế giới vật chất). Không chỉ có vậy, cho dù các luận điểm riêng biệt của phép biện chứng đã được đặt lên hàng đầu một cách đầy đủ xác định trong phép biện chứng của người Hy Lạp cổ đại nhưng chúng chưa có tính hệ thống rõ rệt còn mang nặng về tầm triết lý hơn là tầm lý luận triết học. Phép biện chứng trong triết học trung đại: Trong lịch sử phép biện chứng hai thời đại quan trọng nhất là lịch sử phép biện chứng trong triết học tiền macxít – triết học Hy Lạp cổ đại và chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức. Khoảng cách giữa hai thời đại đó là hơn 1500 năm : thời kỳ Hy Lạp hoá, hình thái kinh tế - xã hội phong kiến, sự xuất hiện và khẳng định của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa ở các nước châu Âu phát triển nhất. Sẽ là sai lầm nếu cho rằng sau khi đã phát triển đáng kể trong triết học Hy Lạp cổ đại, phương pháp tư duy biện chứng đã hoàn toàn biến mất trong 1500 năm tiếp theo. Các học thuyết thời kỳ tan rã của chế độ xã hội chiếm hữu nô lệ cổ đại, triết học trung cổ sơ kỳ và đặc biệt là các học thuyết thời kỳ Phục hưng đã đem lại không ít những minh hoạ cho quan niệm biện chứng sâu sắc. Trong triết học tư sản thế kỷ XVII – XVIII với các đại biểu như : Đềcáctơ, Xpinôda... và một số các nhà trết học khác đã đưa ra những tư tưởng biện chứng thiên tài. Tuy vậy, nhìn chung học thuyết của các nhà tư tưởng không hoàn toàn mang tính chất biện chứng. Về cơ bản, triết học thời kỳ này được đặc trưng bởi sự thống trị của phương pháp siêu hình. Học thuyết của các nhà tư tưởng thời kỳ này mang tính chất như một bước ngoặt : sự xuất hiện của chủ nghĩa tư bản, sự tiêu vong của chế độ phong kiến, những thành tựu to lớn đầu tiên của giới khoa học tự nhiênlà tiền đề của các tư tưởng biện chứng thời kỳ này mà tiêu biểu là của Brunô hay là Nicôlai Cudanxki. Brunô cũng có những đóng góp cho phép biện chứng, ông đưa ra tư tưởng biện chứng về sự phù hợp của các mặt đối lập trong sự thống nhất vô tận của vũ trụ. Rằng trong tự nhiên mọi cái đều liên hệ, vận động, thay đổi. Cái này mất đi thì cái khác ra đời, không chỉ là sự vận động mà còn là sự chuyển hoá các mặt đối lập. Cũng nhìn sự vật trong sự vận động nhưng Brunô đã vượt qua các nhà triết học Hy Lạp, bởi ông đã nắm được toán học và gắn nó với sự phát triển của cơ học. Theo ông trong tự nhiên cái “lớn nhất” và cái “nhỏ nhất” phù hợp với nhau, thống nhất với nhau. Về nhận thức luận, để chống lại giáo lý hoang đường Brunô đã đưa ra nguyên tắc nghi ngờ, ông loại bỏ “chân lý của niềm tin” và chỉ thừa nhận chân lý khách quan đã được khoa học và thực tiễn kiểm nghiệm, với ông đối tượng của nhận thức là giới tự nhiên, nhận thức cái muôn màu, muôn vẻ của thế giới rồi đi đến cái cơ sở, cái nguyên thể duy nhất, vĩnh viễn và vô cùng, vô tận. Đó chính là tính thống nhất biện chứng của thế giới thể hiện trong triết học của Brunô. Nicôlai Cudanxki là đại biểu tiêu biểu của phép biện chứng trong triết học châu Âu thời phục hưng. Phép biện chứng của ông bắt nguồn từ quan niệm của ông về thế giới, nó thể hiện chính trong học thuyết Thượng đế với tư cách là cái vô tận và duy nhất (tức là trung tâm của các mặt đối lập). Nó cũng thể hiện chính trong học thuyết của Nicôlai về tồn tại với tư cách là sự kết hợp biện chứng giữa các mặt đối lập. Dựa trên cơ sở đó, ông đã phát triển quan niệm biện chứng về con người với tư cách là một vũ trụ vi mô và quan niệm biện chứng về nhận thức là cái kết hợp trong mình chân lý và sai lầm - hai mặt đối lập nhận thức luận cơ bản, là cái đạt tới sự thống nhất của số nhiều, tính vô hạn của cái hữu hạn, tính bao hàm của các mặt đối lập của thế giới vật chất. Thời đại Phục hưng được thay thế bằng thời đại của các cuộc cách mạng tư sản đầu tiên, chúng đã đưa tới sự thắng lợi và sự thiết lập của phương thức sản xuất tư bản ở Tây Âu. Tuy nhiên, dù cho có các bước ngoặt mang tính cách mạng, tạo thành nội dung quan trọng nhất của nó thì thời đại này vẫn được đặc trưng bởi sự phủ định thực sự phương pháp tư duy biện chứng bởi tư duy siêu hình. Trên con đường kéo dài hơn 2000 năm của lịch sử triết học cổ đại, phương pháp tư duy siêu hình (chỉ trong một phạm trù lịch sử cố định) là một giai đoạn tất yếu mang tính tiến bộ là giai đoạn chuẩn bị của các tiền đề cho sự phát triển mạnh mẽ và thắng lợi sau này của lịch sử phép biện chứng. ở thời đại thống trị của phương pháp tư duy siêu hình dù là không nhiều nhưng vẫn có mặt phép biện chứng, có thể chúng là kết quả của những thành tựu to lớn của triết học và của khoa học tự nhiên, những thành tựu đó đặt ra nhiệm vụ cho phép biện chứng phải trực tiếp nghiên cứu. Như vậy, lịch sử phép biện chứng không bị gián đoạn ngay cả ở thời đại thống trị của phương pháp tư duy siêu hình, các vấn đề của phép biện chứng là bất khả loại trừ. Do vậy, thậm chí sự phát triển của các học thuyết triết học phi biện chứng dưới hình thức khác nhau cũng gắn liền với việc đặt ra các vấn đề tạo thành nội dung của phép biện chứng. Vì vậy, thực chất của vấn đề là ở chỗ, dù cho có thái độ tiêu cực đối với phép biện chứng cổ đại, song về mặt lịch sử, các nhà triết học thời kỳ trung đại đã chuẩn bị cho phép biện chứng của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức ra đời. Phép biện chứng duy tâm cổ điển Đức Để hiểu được rõ nét về triết học Đức cũng như hiểu về phép biện chứng cổ điển Đức (mà đại diện tiêu biểu là Hêghen) chúng ta cần xem xét xã hội Đức thời kỳ này. Nửa cuối thế kỷ XVIII, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, công nghiệp ở hàng loạt các nước Tây Âu đã phát triển ở trình độ cao. Cách mạng công nghiệp Anh, cách mạng tư sản Pháp đã làm rung chuyển châu Âu, và đưa châu Âu vào giai đoạn mới của nền văn minh công nghiệp. Trong khi đó, nước Đức vẫn là một nước phong kiến, lạc hậu về kinh tế chính trị. Thêm vào đó là điều kiện địa lý không thuận lợi, tài nguyên ngheò nàn, chiến tranh liên miên, đã đưa nước Đức đến thảm cảnh : sản xuất đình đốn, lòng người hoang mang, xã hội bế tắc. Do đó mâu thuẫn giữa các tầng lớp xã hội ngày càng nâng cao tức là mâu thuẫn giữa nhân dân và giai cấp tư sản tiến bộ với chế độ phong kiến đã lỗi thời. Nhưng giai cấp tư sản Đức quá yếu kém do nền kinh tế không vượt ra khỏi những hạn chế của nền sản xuất phong kiến. Sở dĩ phép biện chứng của thời đại này được gọi là phép biện chứng duy tâm cổ điển là do sự nhượng bộ của giai cấp tư sản quá yếu trước một thế lực phong kiến đã già cỗi được phản ánh vào hệ tư tưởng xã hội dẫn đến tư tưởng dao động, nhị nguyên và dẫn đến duy tâm thần bí trong triết học của các nhà tư tưởng thời bấy giờ mà tiêu biểu là học thuyết của Hêghen. Tóm lại, phép biện chứng trong lịch sử triết học cổ điển Đức, phép biện chứng phát triển ở thang bậc lịch sử này là kết quả tổng hợp của 3 nhân tố sau : Trước hết là sự phát triển xã hội mang tính khách quan, đánh dấu cuộc khủng hoảng vô cùng sâu sắc của xã hội phong kiến Tây Âu và sự xuất hiện của xã hội mới, xã hội tư bản chủ nghĩa. Sự tiến bộ của nhận thức khoa học, đó là nhận thức ngày càng làm tan rã các quan niệm siêu hình và ngày càng vạch rõ các quan niệm khách quan của các quá trình tự nhiên và xã hội. Sự phát triển nội tại của tri thức triết học ngày càng đòi hỏi phải có phép biện chứng với tư cách là phương pháp để không những lý giải các vấn đề cấp bách của triết học mà còn nâng nó lên một trình độ khoa học thực sự. Trên đây, là những tiền đề của sự ra đời phép biện chứng cổ điển Đức, phép biện chứng có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với lịch sử phép biện chứng. Thông qua những tiền đề trên ta có thể hiểu được những đặc điểm của phép biện chứng cổ điển Đức. Triết học cổ điển Đức kết thúc thời đại phát triển của phương pháp tư duy biện chứng trực tiếp trước khi chủ nghĩa Mác-Lênin xuất hiện. Thành tựu quan trọng nhất của nó là xây dựng được phép biện chứng với tư cách là lý luận phát triển nhận thức luận và lôgic. Nếu phép biện chứng trong triết học cổ đại chủ yếu được nghiên cứu trên cơ sở kinh nghiệm hàng ngày, các phép biện chứng trong thời đại tiếp theo về căn bản đã bị tư duy siêu hình thay thế và chỉ được phát triển không đều trong một số học thuyết triết học riêng biệt chưa có tính hệ thống, thì phương pháp tư duy biện chứng trong chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức đã trở thành một lý luận được xây dựng một cách có hệ thống. Các nhà kinh điển của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức đã áp dụng một cách có ý thức phép biện chứng vào các lĩnh vực khác nhau hình thành nên quy luật chung nhất của nhận thức. Học thuyết của Hêghen là thành tựu cao nhất về phép biện chứng của chủ nghĩa duy tâm cổ điển Đức thế kỷ XVIII-đầu thế kỷ XIX. Học thuyết này có điểm khác biệt là nội dung quảng bác mà sâu sắc đặc biệt, sự đa dạng của các vấn đề do nó đặt ra rất có tầm quan trọng. Lần đầu tiên trong lịch sử biện chứng, Hêghen đã tạo ra lý luận phát triển mâu thuẫn và sau đó giải quyết mâu thuãn thông qua tổng hợp. Phép biện chứng của ông là một hệ thống phạm trù được nghiên cứu toàn diện, các quy luật biện chứng được rút ra từ việc phân tích sự tác động qua lại giữa các phạm trù. Đồng thời phương pháp biện chứng của ông hoá ra cũng là lý luận về sự tồn tại được xây dựng với tư cách là phương pháp là hợp nhất của phép biện chứng và lôgic học thành một quan niệm thống nhất về lôgic học biện chứng. Hêghen đã xây dựng học thuyết biện chứng của mình đồng thời với cả phép quy nạp và phép diễn dịch, rút ra một phạm trù của phép biện chứng từ một phạm trù khác, sau đó là rút ra các quan hệ hiện thực trong tự nhiên, trong xã hội và trong cả ý thức xã hội từ hệ thống phạm trù. Trên thực tế như Mác nhấn mạnh, ông đã nhận được các phạm trù của mình bằng con đường khái quát các dữ liệu kinh nghiệm, mặc dù không nhận thức được điều đó. Thành tựu vĩ đại của lý luận biện chứng của Hêghen là “khoa học về lôgic” – bao hàm những khảo luận thực sự mang tính bách khoa và biện chứng. Phép biện chứng ở đây đã đến dạng phát triển cao, nó có liên quan mật thiết đến quan điểm duy tâm và được ông nghiên cứu hết sức tỉ mỉ. Theo Hêghen phải xây dựng các phạm trù của lôgic học sao cho phản ánh mối liên hệ phổ biến và tất yếu của tồn tại và cả tư duy trong sự vận động và chuyển hoá lẫn nhau. Các phạm trù cũng được xem xét trong sự vận động từ trừu tượng đến cụ thể, từ phiến diện đến toàn diện, từ nội dung trống rỗng đến nội dung hoàn hảo. Lôgic gồm có 3 giai đoạn vận động của “ý niệm tuyệt đối”. Lúc đầu “ỷ niệm tuyệt đối” tự tha hoá ở tồn tại, với tính cách là tồn tại khác của nó. Sau đó tìm thấy mình trong bản chất, trong khái niệm. Điều đó thể hiện qua 3 học thuyết : Học thuyết về tồn tại : Tồn tại (tồn tại thuần tuý) tìm thấy hư vô - mặt đối lập của mình. Tồn tại - hư vô đi vào sự thống nhất, đồng nhất tạo nên sinh thành. Chất đi vào mặt đối lập của mình, vào lượng. Chất đổi dẫn đến lượng đổi. Sự thống nhất giữa chất và lượng tạo thành độ. Độ là sự thống nhất giữa chất và lượng. Độ biểu hiện cái tồn tại đã hoàn thiện. Nhưng độ cũng bị phá vỡ, lúc đó chất cũ mất đi, chất mới ra đời bằng bước nhảy. Chất - lượng - độ. Học thuyết về bản chất : Phân tích thế giới bằng 3 cách: bản chất, hiện tượng và hiện thực. Trong phần này Heghen đã đóng góp cho phép biện chứng hàng loạt những nội dung sâu sắc về bản chất - hiện tượng, thống nhất - đối lập, mâu thuẫn, nội dung - hình thức, khả năng – hiện thực, tất nhiên – ngẫu nhiên, nguyên nhân – kết quả. Học thuyết về khái niệm : chia làm 3 phần, hình thức, tính khách quan, chân lý tuyệt đối. Bắt đầu từ “khái niệm” đến phán đoán - suy lý. Khi định nghĩa khái niệm Hêghen chú ý đến khía cạnh tính phổ biến, tính đặc thù, và tính đơn nhất của nó. V.I.Lênin dánh giá khoa học lôgic của Hêghen như sau: “Tổng cộng và tóm tắt, tiếng nói cuối cùng và bản chất lôgíc học của Hêghen là phép biện chứng” [V.I.Lênin toàn tập]. Tuy nhiên, học thuyết của Hêghen còn nhiều hạn chế như : hệ thống ấy lại xây dụng trên lập trường duy tâm coi biện chứng tư tưởng là cơ sở của biện chứng khách quan, phư nhận tính chất khách quan của nguyên nhân bên trong, cái vốn có của sự phát triển xã hội. Theo học thuyết của Heghen, ngoài tư duy của nhân loại, siêu tự nhiên chẳng những không phụ thuộc vào vật chất mà thậm chí còn quy định mọi quan hệ vật chất nữa. Ông đã thần thánh hoá tư duy, đã đối lập nó với hiện thực vật chất, mặc dù đã khẳng định rằng tư duy tuyệt đối đó, cái lý trí thế giới, “ý niệm tuyệt đối” tạo nên nội dung bên trong, bản chất động lực của mọi hiện tượng tự nhiên xã hội, về biện chứng của chúng đều không khoa học do tính duy tâm quá mức của nó. Các Mác đã phê phán phép biện chứng duy tâm của Hêghen một cách sâu sắc và nghiêm khắc. Ông chỉ ra rằng phép biện chứng đó coi thường nội dung thực tế, vật chất của các quá trình tự nhiên và xã hội và do đó bóp méo, giải thích một cách thần bí tính biện chứng của chúng, miêu tả sự biến đổi và phát triển như là quá trình tinh thần thuần tuý, như là sự phát triển lôgic của khái niệm. Ngoài ra chúng ta cần hiểu rằng tính không triệt để trong triết học của Hêghen còn có một nguyên nhân do thời đại lịch sử, bởi lẽ phương pháp tư duy siêu hình đã thống trị trong các khoa học của thời đại này. Mặc dù thời đại này đã có những cuộc cải tạo kinh tế xã hội kiệt xuất và những phát minh khoa học vĩ đại của tự nhiên học nhưng vẫn chưa có cả cơ sở khách quan lẫn tiền đề chủ quan, nhất là những tiền đề của khoa học tự nhiên để xây dựng phép biện chứng khoa học duy vật. Trong khi vạch ra tính chất không có căn cứ của việc giải thích duy tâm của sự phát triển Mác cũng đã nhấn mạnh ý nghĩa kiệt xuất của phép biện chứng Hêghen : “ở Hêghen phép biện chứng bị lộn ngược đầu, chỉ cần dựng nó lại thì sẽ phát hiện được cái hạt nhân hợp lý của nó đằng sau lớp vỏ thần bí” [Các Mác Ănghen toàn tập]. Chính vì lẽ đó, hạt nhân hợp lý của phép biện chứng Hêghen - học thuyết phát triển thông qua mâu thuẫn đã được giữ gìn cẩn thận và được chủ nghĩa Mác sử dụng dưới dạng đã được cải biến một cách có phê phán trên cơ sở khoa học. Phép biện chứng duy vật khoa học (C.Mác-Ănghen-Lênin) : C.Mác và Ănghen đã sáng lập ra chủ nghĩa duy vật biện chứng vào giữa thế kỷ XIX và được Lênin phát triển hơn nữa vào đầu thế kỷ XX đã đem lại cho phép biện chứng một hình thức mới về chất. Đó là phép biện chứng duy vật. Phép biện chứng duy vật là sự thống nhất hữu cơ giữa thế giới quan duy vật và phương pháp luận biện chứng. Nhờ đó, nó đã khắc phục được những hạn chế trước đây và thực sự trở thành khoa học. Sự phát triển của phép biện chứng duy vật khoa học được chia làm hai giai đoạn : Giai đoạn C.Mác - Ănghen : Để tìm hiểu về sự ra đời của phép biện chứng duy vật khoa học trước hết ta cần phải tìm hiểu về những tiền đề để xây dựng triết học Mác : Những năm 40 của thế kỷ XIX, triết học Mác ra đời và kèm theo nó là phép biện chứng duy vật khoa học là một cuộc cách mạng trong triết học và khoa học xã hội. Sự ra đời của triết học Mác là một tất yếu lịch sử dựa trên ba tiền đề khách quan lịch sử : Tiền đề về kinh tế xã hội và chính trị : đầu thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản đã đạt tới trình độ cao của thời kỳ tự do cạnh tranh (Pháp : 1789 – 1794, Anh : 1642 - 1698). Chủ nghĩa tư bản ra đời chưa đầy một thế kỷ nhưng đã tạo được một lực lượng sản xuất to lớn. Sự phát triển đó một mặt tạo ra những thành tựu to lớn về kinh tế chính trị tiêu biểu đó là tạo ra nền sản xuất tư bản chủ nghĩa và một nền dân chủ tư sản, đồng thời sự phát triển ấy cũng khoét sâu các mâu thuẫn của chủ nghĩa tư bản. Đó là mâu thuẫn giữa giai cấp công nhân và giai cấp tư sản được biểu hiện bằng các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân như : phong trào hiến chương Anh, khởi nghĩa của thợ dệt Lyon (Pháp)...Chính trên cơ sở đó, đã đặt ra nhu cầu xây dựng một thế giới quan mới cho giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh chống áp bức. Đó là nhu cầu lịch sử nhưng đồng thời trên cơ sở thực tiễn chính trị ấy nó cũng tạo ra những điều kiện, những quan điểm khoa học và cách mạng mới trong nhìn nhận xã hội. Tiền đề về sự phát triển của khoa học tự nhiên : Vào thế kỷ XIX, khoa học tự nhiên cũng đã có những bước phát triển, những phát hiện mới trong khoa học không những là cơ sở cho việc xây dựng một cách nhìn khoa học duy vật về thế giới mà hơn thế nữa những phát minh của thời kỳ này còn cho phép có được cơ sở để xây dựng một cách nhìn nhậ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docT0168.doc
Tài liệu liên quan