Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến công cuộc xoá đói giảm nghèo của đất nước

lời nói đầu Trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước, cùng với những chính sách của Đảng. Đất nước ta, đã đạt được những thành tựu to lớn, đời sống của nhân dân được cải thiện. Song những khó khăn về đói nghèo vẫn còn ảnh hưởng rất lớn đến quá trình phát triển của đất nước. Trong quá trình đổi mới đất nước, Đảng và Nhà Nước đã rất chú trọng đến quá trình xoá đói giảm nghèo kết hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế nhằm phát huy những thế mạnh củ

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1916 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến công cuộc xoá đói giảm nghèo của đất nước, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a đất nước, qua đó cũng đạt những thành tựu đáng kể về kinh tế nhưng những tác động của đói nghèo có phần nào đã làm giảm tốc độ phát triển kinh tế đất nước. Từ mối quan hệ giữa chuyển dịch cơ cấu kinh tế và quá trình xoá đói giảm nghèo, em chọn đề tài này với ý muốn làm rõ vai trò của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế đến công cuộc xoá đói giảm nghèo của đất nước. Và cũng nói đến những khó khăn của công cuộc xoá đói giảm nghèo tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên do kiến thức hạn hẹp nên trong bài viết này không thể không thiếu những sai sót. Em rất mong sự đóng góp ý kiến của Thầy Cô và các bạn để bài viết này được hoàn chỉnh hơn. Em xin chân thành cảm ơn sự hướng dẫn của PGS - TS Trần Xuân Cầu đã giúp em hoàn thành đề tài nghiên cứu này. Nội dung I- các khái niệm 1- Khái niệm về nghèo đói. Khái niệm về nghèo đói của thế giới. Theo quan điểm chung, những người có thu nhập dưới 1/3 mức trung bình của xã hội thì coi là loại nghèo khổ. Cụ thể hơn, giáo sư Robert Chambers ( Cơ quan hợp tác phát triển quốc tế Thuỵ Điển ) mô tả hộ gia đình nghèo là: Những hộ có ít tài sản, túp lều, ngôi nhà hoặc mái nương thân của gia đình đó nhỏ bé làm bằng gỗ, tre, bùn cỏ, lá hoặc bẹ cọ và chỉ có ít đồ đạc bên trong, chiếu hoặc ổ lá làm chỗ ngủ, cũng có thể có một chiếc giường, xoong, nồi, vài dụng cụ khác....Gia đình không có đất hoặc có mảnh đất không đảm bảo hoặc chỉ đảm bảo một cuộc sống mới mong manh hoặc đất thuê mướn hoặc cấy rẽ.... Gia đình đó chỉ có ít vốn và nguồn lương thực ít ỏi, không chắc chắn và phụ thuộc vào thời vụ.... Thu nhập của gia đình thường rất thấp trong những mùa làm ăn ế ẩm.... Tại hội nghị về xoá đói giảm nghèo ở khu vực Châu á Thái Bình Dương do ESCAP tổ chức vào tháng 9/1993 ở Băngkok đã đưa ra khái niệm nghèo: “ Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư không được hưởng và thoả mãn những nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu này được xã hội thừa nhận tuỳ theo trình độ phát triển kinh tế – xã hội và phong tục tập quán của một địa phương.” Để cụ thể hơn nữa, ngân hàng phát triển Châu á còn chia ra hai khái niệm: Nghèo đói tuyệt đối: là việc không có khả năng thoả mãn các nhu cầu tối thiểu chỉ để duy trì sự sống cơ thể con người. Nghèo đói tương đối: là tình trạng khổng có khả năng đát tới mức sống tối thiểu tại một thời điểm nào đó. Khái niệm nghèo đói ở Việt Nam. Việt Nam nói chung vẫn là nước nghèo, thu nhập bình quân đầu người thấp, đầu những năm 90 chỉ đạt khoảng 200 USD/ người/ năm, đến đầu năm 1997 mới đạt 320 USD/ người/ năm. Chính vì vậy, qua nhiều khảo sát, nghiên cứu, các nhà quản lý ở các bộ, ngành đã đi đến thống nhất cần có khái niệm riêng, chuẩn mực riêng cho nghèo và đói. Nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư chỉ có khả năng thoả mãn một phần nhu cầu cơ bản của con người và có mức sống ngang bằng mức sống tối thiểu của cộng đồng xét trên mọi phương diện. Đói là tình trạng một bộ phận của dân cư nghèo có mức sống nhỏ hơn mức sống tối thiểu, không đảm bảo nhu cầu vật chất để duy trì cuôc sống. Khái niệm xã, vùng nghèo. Ngoài khái niệm nghèo đói cá nhân thì Bộ Lao Động Thương Binh và Xã Hội còn đưa ra khài niệm xã nghèo. Xã nghèo là xã có hai đặc trưng sau: Tỷ lệ hộ nghèo đói của xã chiếm 40% trở lên. Thiếu hoặc yếu cơ sở hạ tầng (Đường tới trung tâm xã, điện chiếu sáng, trạm y tế, trường học cấp 1, nước sạch sinh hoạt, chợ xã hoặc liên xã) Vùng nghèo là một vùng liên tục gồm nhiều làng, xã, huyện hoặc chỉ một làng, một xã, một huyện mà tại đó chứa đựng nhiều yếu tố khó khăn, bất lợi cho sự phát triển của cộng đồng, như đất đai khô cằn, thời tiết, khí hậu khắc nghiệt, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, trình độ dân trí thấp, sản xuất tự cung tự cấp và có mức sống dân cư trong vùng rất thấp so với mức sống chung của cả nước xét trong cùng một thời điểm. 2. Khái niêm về chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cơ cấu kinh tế: Cơ cấu kinh tế là một tổng thể hợp thành bởi nhiều yếu tố kinh tế của nền kinh tế quốc dân, giữa chúng có mối quan hệ hữu cơ, những tương tác qua lại cả về vật chất và số lượng, trong những không gian và điều kiện kinh tế xã hội cụ thể, chúng vận động hướng vào mục tiêu nhất định. Theo quan điêm này, cơ cấu kinh tế là một phạm trù kinh tế, là nền tảng của cơ cấu xã hội và chế độ xã hội. Nhìn chung các cách tiếp cận trên đã phản ánh được mặt bản chất chủ yếu của nền kinh tế. Đó là các vấn đề: Tổng thể các nhóm ngành, các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế của một quôc gia. Số lượng và tỷ trọng các nhóm ngành và các yếu tố cấu thành hệ thống kinh tế trong tổng thể nền kinh tế đất nước. Các mối liên hệ tương tác lẫn nhau giữa các nhóm ngành, các yếu tố...hướng vào các mục tiêu xác định. Cơ cấu kinh tế còn là phạm trù trừu tượng, muốn nắm vững bản chất của cơ cấu kinh tế một cách có hiệu quả cần xem xét từng loại cơ cấu cụ thể của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành kinh tế: là tổng thể các ngành hợp thành các tương quan tỷ lệ, biểu hiện mối liên hệ của các nhóm ngành của nền kinh tế quốc dân. Cơ cấu ngành phản ánh phần nào trình độ phân công lao đông xã hội chung của nền kinh tế và trình độ phảt triển của lực lượng sản xuất. Thay đổi mạnh mẽ cơ cấu ngành là đặc trưng của các nước đang phát triển. Khi phân tích cơ cấu ngành của một quốc gia người ta thường phân tích theo ba nhóm ngành chính: + Nhóm ngành nông nghiệp: bao gồm các ngành nông, lâm, ngư nghiệp. + Nhóm ngành công nghiệp: bao gồm các ngành công nghiệp và xây dựng. +Nhóm ngành dịch vụ: bao gồm thương mại, dịch vụ... Cơ cấu lãnh thổ: Nếu cơ cấu ngành kinh tế hình thành từ quá trình phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá thì cơ cấu kinh tế lãnh thổ lại được hình thành chủ yếu từ việc bố trí sản xuất theo không gian địa lý. Cơ cấu lãnh thổ là cơ cấu ngành kinh tế thực chất là hai mặt của một thực thể thống nhất và là biểu hiện của sự phân công lao động xã hội. Cơ cấu lãnh thổ hình thành gắn liền với cơ cấu ngành và thống nhất trong vùng kinh tế. Trong cơ cấu lãnh thổ, có sự biểu hiện của cơ cấu ngành trong điều kiện cụ thể của không gian lãnh thổ. Xu hướng phát triển kinh tế lãnh thổ thường là phát triển nhiều mặt, tổng hợp, có ưu tiên một vài ngành và gắn liền với hình thành sự phân bổ dân cư phù hợp với các điều kiện, tiềm năng phát triển kinh tế của lãnh thổ. Việc chuyển dịch cơ cấu lãnh thổ phải đảm bảo sự hình thành và phát triển có hiệu quả của các ngành kinh tế, các thành phần kinh tế theo lãnh thổ và trên phạm vi cả nước phù hợp với đặc điểm tự nhiên kinh tế xã hội, phong tục tập quán, truyền thống của mỗi vùng, nhằm khai thác triệt để thế mạnh của vùng đó. II. Thực trạng, giải pháp và các yếu tố ảnh hưởng đến công cuộc xoá đói giảm nghèo ở việt nam 1.Thực trạng Nghèo khổ là một trong những thách thức lớn của nhân loại hiệ nay. Vào những năm cuối của thế kỷ XX, trên thế giới vẫn còn khoảng hơn 1,5 tỷ người sống trong tình trạng đói nghèo. Đây là một trở ngại lớn mà không một quốc gia nào không quan tâm và tìm cách giải quyết trong quá trình phát triển của mình. Những năm gần đây, công cuộc đổi mới của đất nước ta đã và đang đem lại những biến đổi sâu sắc trong đời sống kinh tế xã hội, trong nhiều năm liên tục chúng ta đạt tốc độ tăng trưởng cao về kinh tế. Nền kinh tế thị trường một mặt đem lại tính năng động, sáng tạo trong sản xuất, kinh doanh cũng như nhiều lĩnh vực khác trong đời sống xã hội, mặt khác cũng bộc lộ nhiều hạn chế chẳng hạn như sự phân hoá giàu nghèo ngày càng trở nên rõ nét. Báo nhân dân ra ngày 21/8/1998 cho thấy : Thu nhập bình quân đầu người ở thành phố Hồ Chí Minh so với Đăklắc gần 78 lần, so với các vùng ven đô như Thủ Đức, Củ Chi là 54 lần, còn thu nhập bình quân đầu người năm 1998 ở Hà Nội so với cac vùng lân cận gần 67 lần, so với vùng ven đô gần 48 lần. Tình trạng nghèo khổ ở nông thôn đang báo động. Do vậy xoá đói giảm nghèo trong những năm gần đây luôn được Đảng và Nhà Nước coi là vấn đề bức xúc, gay gắt có ý nghĩa cơ bản, lâu dài nhất là đối với người dân ở nông thôn. Để giải quết vấn đề đói nghèo không thể bị động và thụ động bằng các biện pháp nhất thời hoặc thuần tuý cứu trợ. Về mặt cơ bản, phương hướng xoá đói giàm nghèo phải tìm thấy ở sự nỗ lực sản xuất của các hộ gia đình, sự quan tâm của Nhà Nước và các tổ chức xã hội. Phát triển sản xuất là gốc rễ của xoá đói giảm nghèo và phát triển bền vững. Một vấn đề đặt ra là khi các hộ nghèo chưa nhận được sự trợ giúp của các chương trình xoá đói giảm nghèo thì họ đã sống ra sao? Họ có nhận thức được nguyên nhân nghèo khổ hay không? Và cách họ xoay sở để khắc phục nghèo khổ như thế nào? Những nhân tố nào có ảnh đến việc khắc phục tình trạng nghèo khổ của các hộ nghèo. Kết quả khảo sát của các nhà xã hội học gần đây nhất (Tiến hành khảo sát 1118 hộ gia đình tại huyện Sông Thao tỉnh Phú Thọ tháng 9/2000) cho thấy một số vấn đề sau: Các hộ nghèo – Hộ nghèo như thế nào: Trong địa bàn khảo sát, tỷ lệ hộ nghèo tuyệt đối là 21,7% với thu nhập đầu người theo tháng là 35.860 đồng; tỷ lệ hộ nghèo tương đối là42,2% với thu nhập bình quân đầu người theo tháng là 101.225 đồng, còn nhóm không nghèo chiếm 36,1% với thu nhập bình quân đầu người theo tháng là 312.736 đồng/ tháng. Như vậy, sự phân hóa mức sống giữa nhóm không nghèo và nhóm nghèo tuyệt đối là 8,72 lần, giữa nhóm nghèo tương đối và tuyệt đối xấp xỉ 3 lần. Cụ thể ở từng địa bàn như sau: Khoảng cách giữa nhóm không nghèo và nhóm nghèo ở thị trấn là 10,15 lần, ở các xã là 7,6 – 8,44 lần. Như vậy, mức độ chuyển đổi cơ cấu kinh tế của từng vùng đã có tác động đến mức sống của các hộ gia đình nói chung. Về điều kiện ăn ở và sinh hoạt của các hộ nghèo: 2/3 số hộ sống trong các nhà bán kiên cố và kiên cố. Khoảng 60% số hộ nghèo có đầy đủ đồ dùng sinh hoạt có giá tri kinh tế trung bình. Từ đây cho thấy tỷ lệ ngân sách gia đình đầu tư cho xây dựng, sửa chữa nhà cửa cũng như tiện nghi sinh hoạt của một bộ phận nhỏ các gia đình nghèo không hợp lý. Phải chăng đây có thể sẽ là một nhân tố khiến các hộ nghèo vẫn hoàn nghèo Hộ nghèo – Họ là ai? Về quy moko gia đình: Nhóm hộ nghèo tuyệt đối trung bình có 4,57 nhân khẩu với số lao động chính trung bình là 2,19 tương tự với nhóm hộ nghèo tương đối là 4,2 và 2,13 và nhóm hộ không nghèo là 3,64 và 1,93. Vậy đông nhân khẩu là một trong những nhân tố dẫn đến đói nghèo. Về việc làm chính của hộ gia đình: Những hộ nghèo thường là những hộ thuần nông( 90% số hộ nghèo tuyệt đối, 79,1% số hộ nghèo tương đối và 3,7% số hộ không nghéo sống dựa vào trồng trọt là chính). Những hộ có điều kiện kinh tế ở nông thôn lại tập chung vào các hộ có người “đi làm nhà nước” (46,4%). Trước thực trạng nghèo khổ như vậy, các hộ nghèo đã nhận thức như thế nào về tình trạng nghèo khổ của mình? Những nguyên nhân nghèo khổ có thể chia làm 3 nhóm: Nhóm phổ biến nhất là thiếu đất canh tác(55,5%), rủi ro(50%), thiếu vốn(47,3%), đông con(32,9%). Nhóm không biết cách làm ăn(20,7%), không có nghề (19%), thiếu lao động (18,5%), nhóm thiếu vật tư (8%), lười lao động (5,6%), do ma tuý (5,4%). Một vấn đề luôn đặt ra với các hộ nghèo đó là thiếu vốn. Tuy nhiên, thực tế chỉ có 1/2số hộ nghèo có vay vốn. Vậy tại sao hộ nghèo lại không vay vốn? Khi tìm hiểu nguyên nhân nào khiến các hộ nghèo không vây vốn thì được biết 47,8% không có nhu cầu vay vốn chiếm 47,8% không đủ điều kiện vay, 16,9% sợ lãi suất cao, 15,6% lo không trả được nợ, 12,6% thời hạn vay ngắn; 13,7% là một số lý do khác như: thủ tục rườm rà, không biết nơi vay. Tại sao người nghèo thiếu vốn nhưng lại không có nhu cầu vay. một số nông dân nói: “Đất có mà vay”. Tóm lại có rất nhiều lý do để một số người nghèo không vay vốn vì họ không biết vay vốn để làm gì. Với những hộ nghèo có vay vốn, họ đầu tư chủ yếu vào chăn nuôi (66,6%), trong khi đó đây là một ngành không đem lại lợi nhuận cao. Nhiều gia đình cho biết vỗi nuôi lợn khá lớn nhưng chỉ hoà vốn nhưng lãi rất ít, chủ yếu dùng phân bón lúa. Do đặc trưng thời tiết không thuạn lợi nên người dân không dám đầu tư vào trồng trọt. Tuy nhiên có một tỷ lẹ không nhỏ dùng vốn vay vào việc khác chẳng hạn như tu sửa nhà cửa (32,4%), điều này cũng cho thấy thói quen tiêu dùng cũng ảnh hưởng đến các hộ. Như vậy thiếu vốn là vấn đề cơ bản đối với những hộ nghèo, nhưng chỉ có một bộ phận nhận thức đươ cụ điều đó. Hơn nữa, mặc dù đã nhận thức được nguyên nhân nghèo nhưng lại chỉ có 1/2 số hộ dám vay vốn. do đó vấn đè dặt ra đối với hộ nghèo không phải chỉ là vấn đề thiéu vốn và cả vấn đề trình độ. Nhờ thực hiện có hiệu quả đường lối đổi mới toàn diện đất nước do Đảng khởi xướng, thời kỳ 1990- 1997 nền kinh tế nước ta đã đạt được tốc độ tăng trưởng cao và tương đối ổn định, bình quân 8,5%/năm. Đến năm 1997 GDP bình quân thực tế tăng 1,75 lần và đến năm 2000 tăng gấp 2 lần so với năm 1990. Riêng các năm 1995- 1997. GDP tăng bình quân 9,2%/năm. Năm 1998 nhịp độ phát triển kinh tế tuy chậm lại nhưng vẫn đạt khoảng 5,83%. Đặc biệt vài năm gần đây sản xuất nông nghiệp phát triển tương đối toàn diện, sản xuất lương thực 11 năm được mùa liên tục. Năm 1998 sản lượng lương thực quy thóc đạt 32,55 triệu tấn, tăng thêm 4.25 triệu tấn so với năm 1995. Sảnxuấtlươngthực1995-1998 Năm 1995 1996 1997 1998 Sản lượng lương thực (triệu tấn) 27,6 29,2 30,6 31,85 Lương thực bình quân đầu người (kg/người/năm) 372,5 387 398 408 Sản lượng gạo xuất khẩu (triệu tấn) 2,052 3,005 3,553 3,6 Những thành tựu nổi bật về sản suất nông nghiệp đã góp phần đảm bảo an ninh lương thực quốc gia và cải thiện đời sống nhân dân, góp phần quan trọng thực hiện mục tiêu XĐGN. Đặc biệt vài năm trở lại đây,thực hiện chủ trương “Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với tích cực XĐGN” đời sống vật chất tinh thần của các tầng lớp dân cư được cải thiện rõ rệt, mức sống chung của nhân dân năm 1998 so với 1990 tăng lên 1,5 lần. Tổng số hộ đói nghèo năm 1998 là 2378050 hộ chiếm 15,7% tổng số hộ trên toàn quốc. Phần lớn số hộ nghèo sống ở vùng nông thôn(91,5%) trong đó tập trung đông nhất là ở khu vực miền núi xa xôi hẻo lánh, đồng bào dân tộc thiểu số. Số hộ nghèo theo vùng Vùng 1997 % 1998 % Miền núi phía bắc 638400 25,32 507445 22,39 Đồng bằng sông hồng 302460 9,81 272160 8,38 Bắc trung bộ 544926 27,48 500225 24,62 Duyên hải miền trung 358620 22,44 291815 17,80 Cao nguyên trung bộ 180400 27,84 171915 25,65 Đông nam bộ 103900 5,50 91400 4,75 Đồng bằng sông cửu long 493750 15,65 489090 15,38 Cả nước 2622906 17,68 2387050 15,70 Nguồn bộ LĐ TB - XH Hàng năm số người phải cứu tế đột xuất do thiên tai, mất mùa vào khoảng 1- 1,5 triệu người. Tỷ lệ tái đói nghèo năm 1998 khoảng 3,5- 5% tổng số hộ vừa thoát khỏi đói nghèo. Giải pháp Trong công cuộc đổi mới, đất nước ta có bước phát triển, tăng trưởng đáng mừng, đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân được cải thiện. Song nước ta vẫn là một nước nghèo. Để thoát nghèo, đi đôi với các giải pháp về kinh tế chúng ta phải tập trung giải quyết cho được vấn đề việc làm, xoá đói giảm nghèo ở nông thôn. Bởi lẽ đến nay, vẫn còn 80% dân số và hơn 70% lực lượng lao động của cả nước ở khu vực nông thôn. Đặc biệt có đến 90% số hộ nghèo đang sinh sống ở nông thôn và như vậy vấn đề nhân lực, nguồn lực, tiềm năng đất đai, điều kiện tự nhiên nước ta gắn liền với vùng nông thôn rộng lớn. Muốn đất nước phát triển, tăng trưởng bền vững, vấn đề cơ bản là phải giải quyết được việc làm, xoá đói nghèo. Đây không chỉ là khâu then chốt mà còn là vấn đề tình cảm và trách nhiệm đối với nhân dân. Vậy giải pháp nào cho vấn đề việc làm, xoá đói ở nông thôn nước ta. Trước hết phải tập trung sức lực và nguồn lực phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, bền vứng với cơ cấu hợp lý. Chuyển đổi nhanh cơ cấu cây trồng, vật nuôi, đặc biệt giống cây mới có năng suất, chất lượng cao cho phù hợp với thị trường trong nước và xuất khẩu, phù hợp với từng vùng, từng miền, thậm chí từng địa phương, từng vùng sinh thái, trên cơ sở hiệu quả kinh tế để thay đổi nếp nghĩ, nếp làm cũ, hướng vào thâm canh tăng năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hoá. Gĩư vững và tăng diện tích trồng lúa môt cách hợp lý, đảm bảo vững chắc an ninh lương thực quốc gia và dành một phần cho xuất khẩu. Diện tích hoa màu, ngô, khoai, sắn, đậu đỗ… còn tiềm năng lớn để phát triển, đi đôi với diện tích phải hướng vào thâm canh, tăng sản lượng và chất lượng hàng hoá đáp ứng yêu cầu chăn nuôi và xuất khẩu, ở một số vùng do điều kiện khí hậu, đất đai, thời tiết, nguồn nước, đất chua phèn trồng lúa bếp bênh cần nhanh chóng chuyển đổi sang cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị hoặc nên trồng thuỷ sản cho hiệu quả kinh tế cao. Với nền khí hậu nhiệt đới, đất đai khá màu mỡ, nước ta có điều kiện phát triển những cây công nghiệp, cây ăn quả có giá trị kinh tế cao như: cao su, cà phê, chè, thuốc lá, bông, đay, cam, bưởi, soài….Nhiều cây ăn quả, cây công nghiệp còn có khả năng mở rộng, phát triển hàng trăm ngàn ha ở cả 3 miền, một số cây nguyên liệu đã và đang thay thế cho nhập ngoại như bông, mía đường, cao su. Nhiều sản phẩm cây công nghiệp, cây ăn quả xuất khẩu đạt giá trị cao. Cần quan tâm nhiều hơn tới nông nghiệp trên cơ sở quy hoạch tổng thể, dự báo thị trường giá cả, yêu cầu tiêu thụ trong nước và nước ngoài để phát triển bền vững, lập quỹ hỗ trợ bình ổn giá nông sản, khắc phục cho được tính tự phát, khi đến mùa được giá thì đua nhau nuôi trồng, khi giá hạ thì chặt phá gây tốn kém sức người, sức của của nhân dân. Ngành thuỷ sản nước ta có khả năng phát triển gấp đôi, gấp ba so với hiện nay. Đây cũng là ngành kinh tế trọng yếu thu hút nhiều lao động. Có chương trình, kế hoạch phát triển đồng bộ, bền vững cả nuôi trồng, đánh bắt gắn với chế biến, nâng cao chất lượng hàng hoá thuỷ sản. Chúng ta vừa có khả năng mở rộng thị trường, vừa có khả năng cạnh tranh với các nước trong khu vực, với hơn 3000 km bờ biển, hàng triệu ha mặt biển, đầm phá, sông, hồ là tiềm năng rất lớn cho ngành thuỷ sản phát triển toàn diện cả nuôi trồng, đánh bắt, chế biến, gắn tiêu dùng trong cả nước với xuất khẩu, phát triển vững chắc nghề muối nhất là muối công nghiệp thay thế nhập khẩu để ổn định việc làm cao cho nhân dân. Đi đôi với phát triển kinh tế biển, chúng ta cũng còn nhiều tiềm năng về rừng, kinh tế rừng thể hiện sinh thái rừng, sản phẩm hàng hoá từ rừng rất phong phú đa dạng, cùng với hơn 133 ngàn trang trại, mô hình nông lâm kết hợp, gắn sản xuất với chế biến, xuất khẩu vừa giải quyết vấn đề kinh tế, vừa bảo vệ môi trường sinh thái, thực hiện tốt việc phân vùng- rừng đầu nguồn, rừng phòng hộ, rừng kinh tế để giao đất, giao rừng sẽ giúp cho hàng triệu người dân sống bằng nghề rừng và kinh tế rừng. Để nông nghiệp nước ta phát triển bền vững đòi hỏi phải đầu tư phát triển nền nông nghiệp và công nghiệp chế biến vừa đáp ứng yêu cầu CNH- HĐH nông nghiệp nông thôn, vừa đáp ứng yêu cầu chế biến nông lâm hải sản cho người tiêu dùng trong nước và xuất khuẩu để nâng cao giá tri sản phẩm hàng hoá, xoá dần xuất khẩu sản phẩm thô. Trước hết coi trọng chế biến lương thực, thực phẩm, mỗi năm xuất khẩu từ 4- 5 triệu tấn gạo, hàng triệu tấn hải sản, cao su, cà phê, mía đường… sản phẩm hoa quả, lâm sản có giá trị cao. Quan tâm sản xuất máy móc, công cụ cầm tay, máy xay sát chế biến lương thực, thực phẩm cho nhân dân các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc để giảm bớt lao động nặng nhọc, tốn nhiều thời gian công sức cho phụ nữ, trẻ em và cải thiện đời sống nhân dân. Một yếu tố hết sức quan trọng thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, phát triển toàn diện bền vững, chuyển đổi nhanh cơ cấu cây trồng, vật nuôi, gắn sản xuất với chế biến với xuất khẩu là tăng cường sự đầu tư của Nhà Nước đi đôi với chính sách khuyến khích đầu tư của địa phương và nhân dân để nhanh chóng tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cho nông thôn phát triển, trước hết là cơ sở hạ tầng: đường giao thông, trường học, trạm xá, chợ, trung tâm cụm xã đặc biệt là hệ thống hồ đập, kênh mương thuỷ lợi đảm bảo vững chắc nguồn nước cho sản xuất nông nghiệp, cây công nghiệp và sinh hoạt đời sống nhân dân. Thoả mãn nhu cầu vay vốn của nhân dân để phục vụ cho chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, phát triển kinh tế trang trại, đưa chăn nuôi thành ngành sản xuất chính cả đại gia súc, gia súc và gia cầm. Vấn đề quan trọng và có tính quyết định là vấn đề cán bộ cơ sở, đặc biệt là các xã miền núi, hải đảo đang hết sức khó khăn. Cán bộ vừa thiếu vừa yếu, bất cập với yêu cầu, nhiệm vụ đặt ra. Nguyên nhân triển khai chậm dự án đầu tư về cơ sở hạ tầng ở các xã đặc biệt khó khăn là do cán bộ. Những năn qua Nhà Nước rất quan tâm, đầu tư nhiều chương trình dự án, nhiều chủ trương chính sách hỗ trợ khuyến nông, khuyến lâm, vay vốn nhưng sự chuyển biến ở các xã này chưa theo mong muốn, tình hình kinh tế – xã hội, đời sống của nhân dân vẫn còn nhiều khó khăn. Các tỉnh, thành phố cần tăng cường cán bộ có trình độ, năng lực và kinh nghiệm về giúp đỡ xã. Đồng thời có kế hoạch đào tạo cơ bản đội ngũ cán bộ tại chỗ. Đối với miền núi, vùng đồng bào dân tộc cần phải chọn con em ở trường nội trú để đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt, cán bộ chuyên môn, nghiệp vụ cho xã. Trước mắt huy động, bổ sung các tri thức trẻ về công tác ở các xã đặc biệt khó khăn, vừa đáp ứng nhiệm vụ XĐGN, xây dựng nông thôn mới, vừa đào tạo đội ngũ cán bộ trẻ cho địa phương. Ngoài những giải pháp cơ bản trên, cần có chương trình, kế hoạch rút bớt lực lượng lao động trẻ từ nông thôn đi đào tạo, dạy nghề để vừa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ CNH- HĐH đất nước nói chung, CNH- HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng và đáp ứng yêu cầu lao động cho các ngành kinh tế quốc dân, đặc biệt chương trình phát triển các làng nghề và nghề truyền thống để thu hút lao động nông nhàn ở khu vực nông thôn. Đồng thời chủ động chuẩn bị nguồn nhân lực tham gia thị trường xuất khẩu lao động đang ngày càng mở rộng, có kế hoạch đào tạo nghề cho thanh niên nông thôn để đáp ứng kịp thời khi có nhu cầu. Thực hiện hướng này, hàng năm từ khu vực nông thôn có thể rút ra hàng triệu lao động vừa góp phần giải quyết vấn đề thiếu việc làm ở khu vực nông thôn vừa góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động ở nước ta. Giải quyết vững chắc vấn đề việc làm cho lao động ở nông thôn sẽ nhanh chóng xoá được đói nghèo và thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển và như vậy nươc ta mới phát triển, sớm thoát khỏi một nước nghèo. 2. Các yếu tồ ảnh hưởng đến đói nghèo ở nước ta Nguồn lực hạn chế là một trong những yếu tố cơ bản của đói nghèo. Người nghèo vẫn tiếp tục nghèo vì họ không thể đầu tư vào nguồn vốn nhân lực của họ. Ngược lại, nguồn vốn nhân lực thấp lại cản trở họ thoát khỏi nghèo đói. Các hộ nghèo có rất ít đất đai và tình trạng không có đất đang có xu hưóng tăng lên, đặc biệt là ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Thiếu đất đai ảnh hưởng đến việc bảo đảm an ninh lương thực của người nghèo cũng như khả năng đa dạng hoá sản xuất để hướng tới sản xuất các loại cây trông với giá trị cao hơn. Đa số người nghèo vẫn giữ các phương thức sản xuất truyền thống với giá trị thấp, lựa chọn phươg án sản xuất tự cung, tự cấp. Do vậy, giá trị sản phẩm và năng suất các loại cây trồng, vật nuôi còn thấp, thiếu tính cạnh tranh trên thị trường, từ đó đưa họ vào vòng luẩn quẩn của sự nghèo khó. Bên cạnh đó đa số người nghèo chưa có cơ hội tiếp cận với các dịch vụ sản xuất như : khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ động thực vật, nhiều yếu tố đầu vào như : điện, nước, giống cây trồng, vật nuôi, phân bón…. đã làm tăng chi phí, giảm thu nhập. Người nghèo cũng thiếu khả năng tiếp cân nguồn tín dụng. Sự hạn chế của nguồn vốn là một trong những nguyên nhân làm giảm khả năng đổi mới sản xuất, áp dụng khoa học công nghệ, giống mới…. Mặc dù trong khuôn khổ của dự án tín dụng cho người nghèo thuộc chương trình XĐGN quốc gia, khả năng tiếp cận tín dụng tăng lên nhiều song vẫn còn khá nhiều người nghèo không có khả năng tiếp cận với các nguồn tín dụng. Một mặt không có tài sản thế chấp, những người nghèo phải dựa vào tín chấp với các khoản vay nhỏ, hiệu quả thấp đã làm giảm khả năng hoàn trả vốn. Mặt khác đa số người nghèo không có kế hoạch sản xuất cụ thể, hoặc sử dụng các nguồn vốn vay không đúng mục đích, do vậy họ khó có điều kiện tiếp cận với các nguồn vốn và cuối cùng sẽ làm họ càng nghèo hơn. Bên cạnh đó, việc thiếu các thông tin, đặc biệt các thông tin về pháp luật, chính sách và thị trường đã làm cho người nghèo không nắm bắt được thông tin cần thiết tạo thuận lợi cho họ trong việc XĐGN. Trình độ học vấn thấp, thiếu việc làm hoặc việc làm không ổn định cũng là một trong những yếu tố của đói nghèo. Những người nghèo là những người có trình độ học vấn thấp, ít có cơ hội kiếm được việc làm tốt, ổn định. Mức thu nhập của họ hầu như chỉ đảm bảo nhu cầu dinh dưỡng tối thiểu và do vậy họ không có điều kiện để nâng cao trình độ của mình trong tương lai để thoát khỏi cảnh nghèo khó. Bên cạnh đó, học vấn thấp ảnh hưởng đến các quyết định có liên quan đến giáo dục, sinh đẻ, nuôi dưỡng con cái…. đến không những của thế hệ hiện tại mà cả thế hệ trong tương lai. Suy dinh dưỡng trẻ em và trẻ sơ sinh là nhân tố ảnh hưởng đến khả năng tới trường của con em các gia đình nghèo và sẽ làm cho việc thoát nghèo thông qua giáo dục trở nên khó khăn hơn. Số liệu thống kê về trình độ học vấn của người nghèo cho thấy khoảng 90% người nghèo chỉ có trình độ phổ thông cơ sở hoặc thấp hơn. Kết quả điều tra mức sống cho thấy, trong số người nghèo: tỷ lệ số người chưa bao giờ đi học chiếm 12%, tốt nghiệp tiểu học chiếm 39%, trung học cơ sở chiếm 37%. Trình độ học vấn thấp đã gây ra rất nhiều khó khăn cho họ trong việc vươn lên thoát nghèo. 80% số người nghèo làm các công việc trong nông nghiệp có mức thu nhập rất thấp. Thêm vào đó, họ gần như không có khả năng kiếm việc làm trong các khu vực khác, trong các ngành phi nông nghiệp, những công việc mang lại thu nhập cao hơn và ổn định hơn. Ngoài hai yếu tố trên, yếu tố về nhân khẩu học cũng ảnh hưởng đến đói nghèo. Quy mô gia đình là “mẫu số” quan trọng có ảnh hưởng đến mức thu nhập bình quân của các thành viên trong hộ. Đông con là một trong những đặc điểm của các hộ gia đình nghèo. Đông con vừa là nguyên nhân, vừa là hệ quả của nghèo đói. Tỷ lệ sinh trong các hộ nghèo còn rất cao, năm 1998 số con bình quân trên một phụ nữ của nhóm 20% nghèo nhất là 3,5 con so với mức 2,1 con của nhóm 20% giàu nhất. Quy mô gia đình lớn làm tỷ lệ ăn theo cao(tỷ lệ ăn theo của nhóm nghèo nhất là 1,75 so với 1,05 của nhóm giàu nhất). Một trong những nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ sinh con cao trong các gia đình nghèo là do họ không có kiến thức cũng như điều kiện tiếp cận với các biện pháp sức khỏe sinh sản.Tỷ lệ phụ nữ đặt vòng tránh thai thấp, trong khi tỷ lệ nam giới nhận thức đầy đủ trách nhiêm kế hoạch hoá gia đình và sử dụng các biện pháp tránh thai chưa cao. Mức độ hiểu biết của các cặp vợ chồng nghèo về mối liên hệ giữa tình trạng nghèo đói, sức khoẻ sinh sản và gia tăng nhân khẩu còn hạn chế. Với những yếu tố trên đã ảnh hưởng rất lớn đến công cuộc XĐGN của nước ta. Mặt khác nước ta còn phải hứng chịu những nguyên nhân do thiên tai, mất mùa làm kiệt quệ thu nhập của người nghèo. Bệnh tật và sức khoẻ yếu cũng la yếu tố đẩy con người vào tình trạng nghèo đói trầm trọng. Với những người có ý thức thoát khỏi đói nghèo thì lại gặp những rủi ro trong kinh doanh, sản xuất, chăn nuôi…. III. nội dung của quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế và các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. 1. Nội dung: Dự thảo các văn kiện trình đại hội IX xác đinh nhiệm vụ đưa nước ta cơ bản thành nước công nghiệp vào năm 2000. Đây là nhiệm vụ hết sức nặng nề và khó khăn bởi lẽ đến nay nước ta chưa thoát khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển. Để thực hiện nhiệm vụ này, đòi hỏi phải có sự nỗ lực cao, trên cơ sở đường lối rõ ràng và có luận cứ khoa học. Trong tổng thể các vấn đề cần giải quyết, việc xác định phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế giữ vị trí quan trọng. Khi đề cập đến xác định phương hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở nước ta có mấy vấn đề cần xem xét: Trước hết, cơ cấu kinh tế được xác định là cơ cấu linh hoạt, có khả năng thích nghi nhanh với sự biến đổi của môi trường trong nước và quốc tế, trước hết và chủ yếu là sự tiến bộ khoa học và công nghệ, chi phí(tài chính và thời gian) cho điều chỉnh thấp. Thứ hai, đánh giá lại một cách toàn diện và sâu sắc những lợi thế mà lâu nay được nhìn nhận một cách lạc quan. Tài nguyên và nhân lực của nước ta chỉ tạo nên lợi thế có tính chất ngắn hạn của một nền kinh tế có trình độ phát triển thấp kém. Hơn nữa, trong các yếu tố đó lại chứa đựng nhiều điểm thể hiện sự bất lợi trong cạnh tranh quốc tế. Chẳng hạn trong yếu tố nhân lực, những hạn chế ấy là chất lượng thấp, bị ảnh hưởng nặng nề của tư duy và nề nếp sản xuất nhỏ, tiểu nông…. Nếu nói tới tiếp cận kinh tế tri thức thì đây là một trong những yếu tố cản trở lớn nhất. Thứ ba, định hướng chuyển dịch cơ cấu kinh tế ngành chủ yếu phải xuất phắt từ cầu thị trường, trên cơ sở khai thác có hiệu quả khả năng chứ không thể xuất phát thuần tuý từ khả năng. Từ thực tiễn phát triển kinh tế các năm qua cho thấy, một loạt ngành phát triển nhanh và đã xác lập được vị thế trên thi trường quốc tế( lúa, gạo, cà phê, may mặc, thuỷ sản….) đều xuất phát từ khai thác khả năng tự nhiên và lao động, chưa đảm bảo hiệu quả mong muốn. Chính sự phát triển chỉ dựa vào khả năng làm cho bản thân chúng gặp khó khăn trong việc tiếp tục phát triển có hiệu quả và bền vững do khó khăn trong việc tìm thị trường tiêu thụ. Thứ tư, huy động, phân bổ và quản lý sử dụng vốn đầu tư vẫn được coi là điều kiện trọng yếu cho việc thực hiện các mục tiêu phát triển ở nước ta. Nếu đặt yêu cầu tiếp cận kinh tế tri thức thì nhu cầu vốn lại càng lớn và hơn nữa việc đầu tư lại chứa đựng những yếu tố rủi ro lớn(nghĩa là có thể thất bại dù người ta luôn mong muốn thành công và cố gắng phòng ngừa rủi ro trong thực hiện đầu tư). Thứ năm, đánh giá và phân loại khả năng cạnh tranh và dự báo triển vọng cạnh tranh của các ngành kinh tế để có giải pháp sử lý hợp lý. Cơ cấu kinh tế hiện tại thường được đánh giá chung là kém hiệu quả, khả năng cạnh tranh thấp. Sự đánh gía này rất khó bác bỏ, song lại mang nặng cảm tính, ít có giá trị trong việc định hướng điều chỉnh cơ cấu kinh tế, để trên cơ sở đó điều chỉnh định hướng và chính sách đầu tư. Bởi vậy, nhất thiết cần có sự đánh gi._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docG0064.doc
Tài liệu liên quan