Quan điểm lých sử - Cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay

Đề Cương: A. Đặt vấn đề B. Nội Dung I. Cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử cụ thể với phát triển kinh tế thị trường (KTTT) 1. Quan điểm lịch sử cụ thể và cơ sở khách quan của quan ta điểm lịch sử cụ thể 1.1 Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể 1.2 Nguyên tắc nhận thức của quan điểm lịch sử cụ thể 1.3 Ý nghĩa của phương pháp luận quan điểm lịch sử cụ thể 2. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình xây dựng KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam II. Những vấn đề cơ

doc20 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1351 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quan điểm lých sử - Cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
bản về KTTT định hướng XHCN ở nước ta Sự cần thiết khách quan phát triển KTTT ở Việt Nam 1.1 Sự cần thiết khách quan 1.2 Khái niệm KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam Đặc trưng và bản chất của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam Vai trò của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam Quá trình xây dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam Điều kiện trong nước Những điều kiện thế giới và khu vực Quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam Những thành tựu đạt được Nguyên nhân 3. Những giải pháp để phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. C. Kết Luận Đặt Vấn Đề Bước vào thiên nhiên kỉ mới, loài người đã và đang có những bước tiến quang trong công cuộc trinh phục thế giới. Những thành thành tịu trong lĩnh vực khoa học - kỹ thuật nói riêng và trong mọi mặt của đời sống xã hội nói chung đã nâng dần loài người lên một tầng cao mới. Trong sự chuyển biến manh mẽ đó, VIỆT NAM chúng ta cũng không ngừng biến đổi vận động. Tính đến nay nước ta đã thực hiện công cuộc đổi mới được hơn một thập kỉ, bên cạnh những thành tịu đã đật được, những vấn đề của nền kinh tế luôn đặt ra những thách thức cho các nhà kinh tế. So với thế giới, nước ta vẫn là một nước nghèo, nền kinh tế còn yếu kém, chậm phát triển những tàn dư của nền kinh tế tập trung quan lieu bao cấp vẫn còn tồn tại đã kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế. Với tình hình như vậy Đại hội Đại biểu lần thứ VI (tháng 12-1986), để khôi phục và phát triển kinh tế -xã hội đảng ta đã ra đường lối đổi mới toàn điện đất nước, trong đó thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hoá, nền kinh tế thị trường, và đề ra chủ trương: phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa – đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trải qua các kỳ đại hội, đảng luôn luôn nhấn mạnh đến phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta, và đến nay, thực tiễn đã cho thấy vai trò quan trọng của nền KTTT trong công cuộc xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội của đât nước. Tuy nhiên bên cạnh những thành tựu, nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta vẫn tồn tại nhiều mặt hạn chế. Chính vì thế chúng ta phải nghiên cứu tìm ra hướng đi đúng đắn cho nền kinh tế phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh đất nước, phù hợp với khu vực, thế giới và với thời đại, tức là chung ta phải phân tích các yếu tố kinh tế trong tổng thể các mối quan hệ, trong sự vận động và phát triển. Do vậy việc vận dụng quan điểm lịch sử- cụ thể của triết học Mác-Lênin vào quá trình đổi mới nền kinh tế Việt Nam, đặc biệt là quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta là rất cần thiết. Vì vậy trong bài tiểu luận của mình em đã chọn đề tài “Quan điểm lích sử - cụ thể với quá trình xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay”. B. Nội Dung I. Cơ sở lý luận của quan điểm lịch sử cụ thể với phát triển KTTT định hướng XHCN 1. Quan điểm lịch sử cụ thể và cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể 1.1 Cơ sở khách quan của quan điểm lịch sử cụ thể Nguyên lý về mối liên hệ phổ biến và nguyên lý về sự phát triển là cơ sở hình thành quan điểm lịch sử cụ thể. Mọi sự vật hiện tượng cua thế giới đều tồn tại, vận động và phát triển trong những điều kiện không gian và thời gian có ảnh hưởng trực tiếp tới tính chất, đặc điểm của sự vật. Cùng một sự vật nhưng nếu tồn tại trong những điều kiện không gian và thời gian cụ thể khác nhau thì tính chất, đặc điểm của nó sẽ khác nhau, thậm trí có thể thay đổi hoàn toàn bản chất của sự vật. . 1.2 Nguyên tắc nhận thức của quan điểm lịch sử cụ thể Nguyên tắc lịch sử-cụ thể được V.I.Lênin nêu rõ : “xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào, và đứng trên quan điểm của sự phát triển đó để xét xem hiện nay nó đã trở thành như thế nào”1. Bản chất của nguyên tắc này nằm ở chỗ, trong quá trình nhận thức sự vật, hiện tượng, trong sự vận động, trong sự chuyển hoá qua lại của nó, phải tái tạo lại được sự phát triển của sự vật hiện tượng ấy, sự vận động của chính nó, đời sống của chính nó . Nguyên tắc nhận thức của quan điểm lịch sử cụ thể thể hiện: Thứ nhất: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu phải nhận thức được vận động có tính phổ biến, là phương thức tồn tại của vật chất, nghĩa là phải nhận thức được sự vận động làm cho sự vật, hiện tượng xuất hiện, phát triển theo những quy luật nhất định và hình thức của vận động quyết định bản chất của nó:phải chỉ rõ được những giai đoạn cụ thể mà nó trải qua trong quá trình phát triển của mình; phải biết phân tích mỗi tình hình cụ thể trong hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn thì mới có thể hiểu, giải thích được những thuộc tính, những mối liên hệ tất yếu, những đặc trung chất và lượng vốn có của sự vật. Thứ hai: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể yêu cầu phải chỉ ra được các quy luật khách quan quy định sự vận động, phát triển của sự vật, hiẹn tượng, quy định sự tồn tại hiện thời và khả năng chuyển hoá thành sự vật, hiện tượng mới thông qua sự phủ định; chỉ ra được rằng, thông qua phủ định của phủ định, sự vật, hiện tượng mới là sự kế tục sự vật, hiện tượng cũ; là sự bảo tồn sự vật, hiện tượng cũ trong dạng đã được lọc bỏ, cải tạo cho phù hợp với sự vật hiện tượng mới. Thứ ba: Nguyên tắc lịch sử-cụ thể đòi hỏi phải xem xét các sự vật hiện tượng trong mối liên hệ cụ thể của chúng. Việc xem xét các mặt, các mối liên hệ cụ thể của sự vật, hiện tượng trong quá trình hình thành, phát triển cũng như diệt vong của chúng cho phép nhận thức đúng đắn bản chất các sự vật, hiện tượng và từ đó mới có định hướng đúng cho hoạt động thực tiễn của con người. 1. V.I.Lênin: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, t.39, tr. 78. 2. Tại sao phải vận dụng quan điểm lịch sử cụ thể vào quá trình xây dựng KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam Trước hết cần khẳng định rằng KTTT định hướng XHCN cũng là một dạng vật chất. Nền kinh tế Việt Nam là một dạng vật chất xã hội theo sự phân loại của triết học Mác-Lênin. Chính vì thế nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam cũng tồn tại, vận động, phát triển theo những nguyên lý, quy luật của triết học Mác-Lênin. Mà cụ thể là những điều kiện không gian, thời gian theo quan điểm lịch sử-cụ thể . Sự ra đời và phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần hơn 10 năm qua đã góp phần làm thay đổi bộ mặt của đất nước ta, nâng cao đời sống của nhân dân, phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên đó chưa phải là cái đích cuối cùng của Đảng và nhân dân ta, mặc dù đã có sự phát triển trong thời gian qua, tuy nhiên nước ta về cơ bản nền kinh tế nước ta vẫn là một nền kinh tế chậm phát triển. Khi chúng ta chuyển từ nền kinh tế tập chung quan liêu vao cấp sang nền cơ chế thị trường, từ một nền kinh tế yếu kém lạc hậu với hệ thống sản xuất, hệ thống quản lý với những cán bộ mang nặng tư tưởng ỷ nại, do đó khi chuyển sang nền KTTT với tính chất năng động đã không tránh khỏi những sai lầm. Thêm nữa thời điểm chúng ta bắt đầu đổi mới, chuyển sang nền KTTT là quá muộn so với những nước trên thế giới và khu vực khi mà những nước tư bản như Mĩ, Nhật,… đã tiến hành cơ chế thị trường và vượt xa ta hàng trăm năm. Nhờ sử dụng triệt để KTTT, chủ nghĩa tư bản đã đạt được những thành tựu về kinh tế-xã hội, phát triển lực lượng sản xuất, nâng cao năng xuất lao động, quản lý xã hội đã đạt được về văn minh hành chính, văn minh công cộng…tuy nhiên KTTT của chủ nghĩa tư bản, với bản chất tư hữu về tư liệu sản xuất đã không tránh khỏi những tiêu cực và hạn chế như: cạnh tranh gay gắt dẫn đến tình trạng “cá lớn nuốt cá bé”, tình trạng phân hoá giàu nghèo diễn ra phổ biến, ô nhiễm môi trường, tệ nạn xã hội… Với nước ta, là một nước đi sau và phát triển theo con đường XHCN chúng ta có cơ hội phát triển và kế thừa những thành tựu của nhân loại mà trước hết đó là những văn minh của KTTT, loại bỏ những khuyết tật của nó để xây dựng CNXH có hiệu quả hơn. Chính vì lẽ đó chúng ta cần phải vận dụng quan điểm lịch sử-cụ thể vào việc nghiên cứu trong quá trình xây dựng và phát triển KTTT định hướn XHCN ở Việt Nam. II. Những vấn đề cơ bản về KTTT định hướng XHCN ở nước ta 1. Sự cần thiết khách quan phát triển KTTT ở Việt Nam 1.1 Sự cần thiết khách quan Kinh tế hàng hoá là một kiểu tổ chức kinh tế -xã hội mà trong đó sản phẩm sản xuất ra để trao đổi, để bán trên thị trường. Mục đích của sản xuất trong kinh tế hàng hoá không phải để thoả mãn nhu cầu trực tiếp của người sản xuất ra sản phẩm mà nhằm để bán, tức là để thoả mãn nhu cầu của người mua đáp ứng nhu cầu của xã hội. KTTT là trình độ phát triển cao hơn của kinh tế hàng hoá, trong đó các yếu tố “đầu vào” và “đầu ra” của sản xuất đều thông qua thị trường. Như vậy KTTT là trình độ phát triển cao hơn của kinh tế hàng hoá, do đó điều kiện tồn tại, phát triển của kinh tế hàng hoá c ũng là điều kiện tồn tại và phát triển của KTTT đó là hai điều kiện: Thứ nhất: có sự phân công lao động xã hội Thứ hai: có sự tách biệt về mặt kinh tế của người sản xuất Trong thời kỳ quá độ, ở nước ta có đầy đủ hai điều kiện để tồn tại và phát triển của kinh tế hàng hoá do đó nền KTTT tồn tại và phát triển ở nước ta đó là một tất yếu, khách quan. Hai điều kiện đó là: Thứ nhất: phân công lao động xã hội hiện nay trong nền kinh tế ở nước ta không những tồn tại mà ngày càng phát triển cả về chiều sau và chiều rộng: nền sản xuất phát triển thành nhiều nghành nghề sản xuất khác nhau và nhiều ngành nghề mới không ngừng được ra đời, phát triển do đó dẫn đến sản phẩm hàng hoá đa dạng, dồi dào, phong phú và nhiều sản phẩm hàng hoá mới không ngừng ra đời và phát triển. Phân công lao động ngày càng phát triển trong từng ngành nghề, địa phương thống nhất trên cả nước và không ngừng mở rộng phân công lao động hợp tác quốc tế. Thứ hai: Trong nền kinh tế nước ta tồn tại nhiều hình thức sở hữu, đó là sở hữu toàn dân; sở hữu tập thể; sở hữu tư nhân (gồm sở hữu cá thể, sở hữu tiểu chủ và sở hữu tư bản tư nhân), sở hữu hỗn hợp. Do đó, tồn tại nhiều chủ thể kinh tế độc lập, lợi ích riêng, nên quan hệ kinh tế giữa họ chỉ có thể thực hiện bằng quan hệ hàng hoá-tiền tệ. Như vậy kinh tế thị trường ở nước ta là một tồn tại tất yếu, khách quan. 1.2 Khái niệm KTTT định hướng XHCN Đến nay, chúng ta có thể khẳng định, kinh tế thị trường là một thành tựu chung của văn minh nhân loại chứ không phải là sản phẩm riêng có của chủ nghĩa tư bản. Kinh tế thị trường là một kiểu tổ chức kinh tế xã hội đạt ở trình độ cao, phản ánh trình độ văn minh của nhân loại và là kết quả của sự phát triển của lịch sử xã hội loài người. Nhờ kinh tế thị trường chủ nghĩa tư bản đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển mạnh mẽ, đem lại sự phồn thịnh cho các nước tư bản phát triển. Vậy kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hiểu như thế nào? Đây chưa là một tiền lệ trong các nước xã hội chủ nghĩa. Vì vậy, đến nay chưa có ai đưa ra khái niệm về kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa một cách khái quát. Tuy nhiên, qua những cách mô tả về bản chất, mục đích của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Trung Quốc và Việt Nam có thể thấy rằng, mô hình kinh tế thị trường này vừa bao hàm những nhân tố của kinh tế thị trường, lại vừa có những nhân tố định hướng xã hội chủ nghĩa, với mục đích cuối cùng là phát triển kinh tế đạt hiệu quả cao nhưng vẫn đảm bảo thực hiện công bằng xã hội ngày một tốt hơn, nhằm nâng cao đời sống cho nhân dân, thực hiện dân chủ, công bằng xã hội, xây dựng đất nước văn minh và thịnh vượng. Vì vậy, về khái niệm kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có thể đưa ra như sau: “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một phạm trù kinh tế chính trị, phản ánh bản chất và mục đích của nền sản xuất xã hội, đó là nền kinh tế vận động dựa trên cơ sở các quy luật khách quan, đặc biệt là các quy luật của thị trường, có sự quản lý của Nhà nước, để xây dựng quan hệ sản xuất mới, tiến bộ nhằm đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”. Đặc trưng và bản chất của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam Nền KTTT định hướng XHCN ở nước ta, một mặt vừa có những tính chất chung của nền kinh tế thị trương: Một là, các chủ thể kinh tế có tính độc lập, có quyền tự chủ trong sản xuất, kinh doanh; Hai là, giá cả do thị trường quyết định , hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và nó có tác dụng cơ sở cho việc phân phôi các nguồn lực kinh tế vào các ngành , các lĩnh vực của nền kinh tế. Ba là, nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của KTTT như quy luật giá trị, quy luật cung- cầu, quy luật cạnh tranh…sự tác độgn cảu các quy luật đó hình thành nên cơ chế tự điều tiết của nền kinh tế. Bốn là, nếu là nền kinh tế hiện đại thì có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hoá, các chính sách kinh tế. mặt khác KTTT định hướng XHCN của Việt Nam còn dựa trên cơ sở được dẫn dắt, chi phôi bởi nguyen tắc và bản chất của XHCN. Do đó, KTTT định hướng XHCN có những đặc trung bản chất sau: Hệ thống mục tiêu và động lực: Đảng ta đã nêu lên mục tiêu xây dựng một xã hội "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh". Chính mục tiêu đó sẽ quy định phương tiện, công cụ, động lực của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và con đường đạt tới mục tiêu. Đó là sử dụng kinh tế thị trường, mở cửa và hội nhập, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và phát triển rút ngắn. Chế độ sở hữu và thành phần kinh tế: Các hình thức sở hữu khác nhau như sở hữu xã hội, sở hữu tập thể, sở hữu nhà nước và sở hữu tư nhân chỉ là những hình thức hay cấp độ của sở hữu kinh tế. Bởi sở hữu như một phạm trù kinh tế luôn chứa các cực kinh tế đối lập hay những mâu thuẫn xã hội hiện thực, bắt buộc phải thừa nhận lẫn nhau như những chủ thể kinh tế riêng. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò sở hữu nhà nước, sở hữu tập thể, sở hữu xã hội sẽ có ý nghĩa ngày càng quan trọng để đảm bảo tính kế hoạch và định hướng xã hội chủ nghĩa cho quá trình phát triển. Cơ chế vận hành kinh tế: Đương nhiên cơ chế thị trường là cơ chế chủ yếu vận hành kinh tế, nhằm đảm bảo phân bổ hợp lý các lợi ích và nguồn lực, kích thích phát triển các tiềm năng kinh doanh và các lực lượng sản xuất, tăng hiệu quả và tăng năng suất lao động xã hội. Tuy nhiên, điều đó không hề phủ nhận vai trò của "nhân tố mới" – Nhà nước xã hội chủ nghĩa - trong việc quản lý, hiệu chỉnh những sai lệch và thất bại của cơ chế thị trường. Trong trường hợp này, Nhà nước xã hội chủ nghĩa thông qua chức năng tổ chức và quản lý vĩ mô, sử dụng tốt các công cụ hành chính – pháp lý và kinh tế, đặc biệt, công cụ kế hoạch hoá và các chương trình mục tiêu quốc gia, các chiến lược phát triển trung và dài hạn cũng như các kế hoạch ngắn hạn, các công cụ đòn bẩy, để quản lý nền kinh tế phát triển đúng hướng. Hình thức phân phối: Kết hợp phân phối theo lao động, theo đóng góp và cổ phần, trên nguyên tắc ưu tiên phân phối theo lao động và hiệu quả, đồng thời đảm bảo phân phối công bằng và hạn chế bất bình đẳng xã hội. Điều này vừa khác với phân phối theo tư bản của kinh tế thị trường thông thường, lại vừa khác với phân phối theo lao động mang tính bình quân trong chủ nghĩa xã hội kiểu cũ. Trong kinh tế thị trường hiện đại và kinh tế tri thức, tiềm năng lao động - "tư bản con người" được coi là yếu tố quan trọng hàng đầu và có khả năng sáng tạo rất lớn. Việc đề cao con người cũng như nguyên tắc phân phối theo lao động là phù hợp với xu thế và tính nhân văn của phát triển hiện đại. Mặt khác, bảo đảm sự phân phối công bằng và hạn chế bất bình đẳng xã hội thái quá cũng là điều kiện để nuôi dưỡng, phát triển chính nguồn lao động sáng tạo này. Chủ thể lãnh đạo, quản lý kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không thể ai khác là Đảng Cộng sản và Nhà nước xã hội chủ nghĩa. Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và quản lý của Nhà nước xã hội chủ nghĩa cần không ngừng được củng cố, trên cơ sở phát huy đầy đủ quyền và trách nhiệm của toàn dân tham gia vào quá trình tổ chức, xây dựng nhằm sáng tạo hệ thống kinh tế thị trường mới. Đó là những điều kiện tiên quyết cho việc phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thành công. 2. Vai trò của KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam Sự phát triển của KTTT sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ và tập trung sản xuất, do đó tạo điều kiện ra đời của sảnr xuất lớn, của xã hội hoá cao; đồng thời chọn lọc được những người sản xuất, kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lý có trình độ , lao động lành nghề, đáp ứng nhu cầu phát triển của đất nước. Đồng thời, với những điều kiện khách quan vốn có của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa còn mang lại nhưng tác dụng to lớn đối với sự phát triển kinh tế Việt Nam. Nền kinh tế nước ta từ khi bước vào thời kì quá độ lên CNXH còn mang nặng tính tự túc tự cấp. Vì vậy, sản xuất hàng hoá phát triển sẽ phá dần kinh tế tự nhiên và chuyển thành kinh tế hàng hoá, thúc đẩy sự xã hội hoá sản xuất.Biểu hiên : Thứ nhất: kinh tế hàng hoá tạo ra động lực thúc đẩy lực lượng sản suất phát triển. Do cạnh tranh giữa những người sản xuất hàng hoá, buộc mỗi chủ thể sản xuất phải cải tiến kĩ thuật để giảm chi phí sản xuất tới mức tối thiểu, nhờ đó có thể cạnh tranh và đứng vững trong cạnh tranh. Quá trình đó thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng suất lao động xã hội. Thứ hai: kinh tế hàng hoá kích thích tính năng động, sáng tạo của chủ thể kinh tế, kích thích việc nâng cao chất lượng, cải tiến mẫu mã cũng như tăng khối lượng hàng hoá và dịch vụ. Thứ ba: Phân công lao động xã hội là điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất hàng hoá. Đến lượt nó, sự phát triển kinh tế hàng hóa sẽ thúc đẩy sự phân công lao động xã hội và chuyên môn hoá sản xuất. Vì thế, phát huy được tiềm năng, lơi thế của từng vùng cũng như lợi thế của đất nước có tác dụng mở rộng quan hệ kinh tế với nước ngoài. Thứ tư: Sự phát triển kinh tế hàng hoá sẽ thúc đẩy quá trình tích tụ, tập trung sản xuất. Do đó tạo điều kiện ra đời của sản xuất lớn có tính xã hội hoá cao, đồng thời chọn lọc được những người sản xuất kinh doanh giỏi, hình thành đội ngũ cán bộ quản lí có trình độ, lao động lành nghề, đáp ứng yêu cầu của đất nước. Ngày nay, không ai phủ nhận vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng của kinh tế thị trường trong quá trình phát triển nền sản xuất xã hội, phát triển lực lượng sản xuất xã hội. Không ai phủ nhận sự khách quan của chúng trong nhiều chế độ khác nhau. Không còn ai cho rằng kinh tế thị trường là sản phẩm riêng của CNTB. Trong văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần VIII, Đảng ta đã khẳng định: “Sản xuất hàng hoá không đối lập với CNXH mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng CNXH và cả khi CNXH đã được xây dựng”. Quá trình xây dựng và phát triển KTTT ở Việt Nam dưới góc nhìn của quan điểm lịch sử cụ thể. Những điều kiện cụ thể ảnh hưởng đến quá trình xây dựng KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam. Điều kiện trong nước Bức tranh của nền kinh tế Việt Nam trước đổi mới đó là: tăng trưởng 3,7%, làm không đủ ăn, phải phụ thuộc vào nguồn viện trợ lớn từ bên ngoài. Thu nhập quốc dân trong nước, sản xuất chỉ đáp ứng được 80%-90% thu nhập quốc dan sử dụng. Đến năm 1985 tỷ trọng thu từ bên ngoài chiếm 10,2% thu nhập quốc dân sử dụng, nợ bên ngoài lên tới 8,5 tỷ rúp và 1,9 tỷ USD. Cũng vào các năm đó nền kinh tế rơi vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng, siêu lạm phát ở mức 774,7% vào năm 1986 kéo theo giá cả leo thang, nhà nước không thể kiểm soát nổi. Sự tàn phá của chiến tranh và nền kinh tế bao cấp yếu kém kéo dài đã để lại hậu quả nặng nề: cơ sở vật chất thấp kém với nền khoa học-công nghệ, kỹ thuật lạc hậu, hầu hết hệ thống máy móc hoạt động trong các xí nghiệp đều do Liên Xô giúp đỡ trong thời kỳ chiến tranh nên năng suất thấp , chất lượng kém. Điều kiện địa lý cũng là một yếu tố quan trọng ảnh hưởng mạnh mẽ đến nền kinh tế. Về địa hình, nước ta trải dài trên nhiều vĩ tuyến, bề ngang hẹp, mang đập nét của sự phân dj sâu sắc vê mặt điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội. Các đặc điểm này chi phối sự phân công lao động xã hội theo lãnh thổ và phát triển các vùng kinh tế. Nằm ở Tây Thái Bình Dương và Đông Nam Á, khu vực phát triển cao, ổn định, nơi cửa ngõ của giao lưu quốc tế, Việt Nam có khả nằn phát triển nhiều loại hình kinh tế khác dưah trên những lợi thế về vận tải biển, dịch vụ viễn thông, du lịch. Tài nguyên khoáng sản phân bố không đều trên các vùng, ngay cả trên mỗi vùng cũng phân tán, thiếu đồng bộ, không gắn kết được với nhau gây khó khăn cho việc khai thác và sử dụng chúng và ảnh hưởng đến việc bố chí kinh tế của các vùng. Về dân số, nước ta có dân số dông, nguồn lao động dồi dào nhung phân bố không đồng đều, trình đô lao động còn thấp. Về chế độ chính trị; quan hệ giữa kinh tế và chính trị cũng là một trong những vấn đề cơ bản của công cuộc đổi mới ở Việt Nam. Theo các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin thì kinh tế quyết định chính trị: “chính trị là biểu hiện tập trung của kinh tế, chính trị không phải là mục đích mà chỉ là phương tiện để thực hiện mục đích kinh tế”, Lênin đã chỉ rõ;” để thoả mãn những lợi ích kinh tế thì quyền lực chính trị chỉ được sử dụng làm phương tiện đơn thuần”. Khẳng định đó của Lênin không có nghĩa là phủ nhận vai trò quyết định của kinh tế đối với chính trị mà muốn nhấn mạnh tác động cảu chính trị đối với kinh tế. Vấn đề kinh tế không được tách rời vấn đề chính trị mà nó được xem xét và giải quyết theo một lập trường chính trị nhất định. Như vậy chúng ta có thể thống nhất rằng kinh tế- chính trị thống nhất biện trứng với nhau dựa trên nền tảng quyết định của kinh tế. Sau khi miền bắc giải phóng và từ sau khi thống nhất đất nươc năm 1975, cả nước ta đã kiên quyết đi theo con đường CNXH-đây là lựa chọn tất yếu và đúng đắn. Tuy nhiên chúng ta tiến lên CNXH bằng bước nhảy vọt không qua CNTB, vì vậy chúng ta đã gặp nhiều khó khăn và bỡ ngỡ trong công cuộc xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Thêm vào đó, khi ta đang trong bước đầu của công cuộc xây dựng đổi mới,một giai đoạn quan trọng mà chính trị là yếu tố dẫn đường thì hệ thống CNXH ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ đã tạo thêm khó khăn cho đât nước ta. Những điều kiện thế giới và khu vực Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, mặc dù thế giới còn nhiều diễn biến phức tạp nhưng lúc này, hoà bình và hợp tác là xu thế chủ đạo, là đòi hỏi bức xúc của các dân tộc và các quốc gia. Các cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đạt được những bước tiến vượt bậc đặc biệt trong lĩnh vực tin học, viễn thông, sinh học, vật liệu mới và năng lượng mới đẩy nhanhquá trình quốc tế hoá lực lượng sản xuất dẫn đến sự phân công lao động quốc tế ngày càng sâu sắc. Như vậy là ngày nay không một nền kinh tế nào có thể đúng tách ra khỏi cộng đồng quốc tế. Tình hình đó đòi hỏi một sự hợp tác ngày càng sâu rộng tạo nên thê phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước dù lớn hay nhỏ, phát triển hay đang phát triển. Đối với các khu vực, Việt Nam cằm trong khu vực Đông Nam Á, Châu Á Thái Bình Dương, một khu vực được coi là có nền kinh tế năng động và phát triển với tốc độ tăng trưởng cao nhất thế giới trong những năm gần đây. Hầu hết các nước trong khu vực đã tiến hành xây dựng nền KTTT khoảng vài thập kỷ và một số nươc đã trở thành những nước công nghiệp mới (NIC). Như vậy thế giới và khu vực đã phát triển vượt ta khá xa về mọi mặt mà đặc biệt về kinh tế. Vì thế đặt ra cho Việt Nam nhiều thách thức trong quá trình xây dựng và phát triển nền KTTT định hướng XHCN. Quá trình xây dựng nền KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam Từ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (tháng 12-1986), Đảng đã phê phán những hạn chế, yếu kém của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đưa ra những quan niệm mới về con đường, phương pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ, về cơ cấu kinh tế và thừa nhận sự tồn tại khách quan của sản xuất hàng hóa, thị trường. Đồng thời cũng đưa ra chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần với các hình thức kinh doanh phù hợp. Coi trọng việc kết hợp lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội; chú ý chăm lo toàn diện và phát huy nhân tố con người; có nhận thức mới về chính sách xã hội. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng nhận định nền kinh tế đất nước là đã bước đầu hình thành nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước và khẳng định: “Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần là một chủ trương chiến lược lâu dài trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”.(1) Tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, với những kết quả đạt được bước đầu, Đảng nhận định: “Cơ chế thị trường đã phát huy tác dụng tích cực to lớn đến sự phát triển kinh tế - xã hội. Nó chẳng những không đối lập mà còn là một nhân tố khách quan cần thiết của việc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa”(2). Như vậy chúng ta đã có bước đột phá về tư duy về kinh tế thị trường, coi đó là yếu tố quan trọng để phát triển đất nước, đi lên chủ nghĩa xã hội. Tiếp tục cùng với quá trình đổi mới toàn diện của đất nước và thông qua tổng kết thực tiễn, đến Đại hội Đảng lần thứ IX, Đảng đã chỉ ra: “... thực hiện nhất quán và lâu dài chính sách phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đó chính là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”(3) và khẳng định rõ ràng: “Phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là đường lối chiến lược nhất quán, là mô hình kinh tế tổng quát trong suốt thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”.(4) Đến nay, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta vẫn tiếp tục được Đảng khẳng định tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X như sau: “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết dân tộc; xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế”(5). 1. Văn kiện Đại hôị Đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Nxb Sự Thật, H.1997, tr.21. 2. Văn kiện Đại hôị Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính Trị quốc gia, H.1996, tr.26. 3,4. Văn kiện Đại hôị Đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính Trị quốc gia, Hà Nội. 2001, tr.86 5. Văn kiện Đại hôị Đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính Trị quốc gia, Hà Nội 2006, tr.69 Đồng thời, những vấn đề lý luận liên quan đến xây dựng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được làm sáng rõ hơn, cụ thể với 4 nội dung cơ bản là: - Nắm vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong nền kinh tế thị trường ở nước ta hiện nay. - Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý của Nhà nước. - Phát triển đồng bộ và quản lý có hiệu quả sự vận hành của các loại thị trường cơ bản theo cơ chế cạnh tranh lành mạnh. - Phát triển mạnh các thành phần kinh tế, các loại hình tổ chức kinh doanh. 3. Những giải pháp để phát triển KTTT định hướng XHCN ở Việt Nam hiện nay. Từ thực tiễn phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong thời gian qua và căn cứ vào yêu cầu phát triển trong thời gian tới, có thể xác định những phương hướng, nhiệm vụ cơ bản phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam như sau: Phải tiếp tục thực hiện một cách nhất quán chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần, coi các thành phần kinh tế kinh doanh theo pháp luật đều là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh. Không nên có thái độ định kiến và kỳ thị đối với bất cứ thành phần kinh tế nào. Kinh tế nhà nước phải phát huy được vai trò chủ đạo trong nền kinh tế quốc dân, là nhân tố mở đường cho sự phát triển kinh tế, là lực lượng vật chất quan trọng và là công cụ để Nhà nước định hướng và điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Doanh nghiệp nhà nước giữ những vị trí then chốt; đi đầu ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ; nêu gương về năng suất, chất lượng, hiệu quả kinh tế - xã hội và chấp hành pháp luật. Đẩy mạnh việc củng cố, sắp xếp, điều chỉnh cơ cấu của các doanh nghiệp nhà nước; đồng thời tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách để tạo động lực phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp nhà nước theo hướng xóa bao cấp; doanh nghiệp thực sự cạnh tranh bình đẳng trên thị trường, tự chịu trách nhiệm về sản xuất, kinh doanh; nộp đủ thuế và có lãi; thực hiện tốt quy chế dân chủ trong doanh nghiệp. Kinh tế tập thể gồm các hình thức hợp tác đa dạng, trong đó hợp tác xã là nòng cốt. Các hợp tác xã dựa trên sở hữu của các thành viên và sở hữu tập thể, liên kết rộng rãi những người lao động, các hộ sản xuất, kinh doanh, các doanh nghiệp nhỏ và vừa, không giới hạn quy mô, lĩnh vực và địa bàn; liên kết công nghiệp và nông nghiệp, doanh nghiệp nhà nước và kinh tế hộ nông thôn. Nhà nước giúp hợp tác xã đào tạo cán bộ, ứng dụng khoa học và công nghệ, thông tin, mở rộng thị trường, xây dựng các quỹ hỗ trợ phát triển hợp tác xã. Kinh tế cá thể, tiểu chủ cả ở nông thôn và thành thị có vị trí quan trọng lâu dài. Nhà nước tạo điều kiện và giúp đỡ phát triển, bao gồm cả các hình thức tổ chức hợp tác tự nguyện, làm vệ tinh cho các doanh nghiệp hoặc phát triển lớn hơn. Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển rộng rãi trong những ngành nghề sản xuất, kinh doanh mà pháp luật không cấm. Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những định hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc22883.doc
Tài liệu liên quan