Quan hệ giữa cái chung và cái riêng, và vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta

LỜI NÓI ĐẦU Ngày nay hầu hết các quốc gia trên thế giới đều nhận thấy rằng, đường lối phát triển kinh tế là yếu tố đầu tiên quyết định đến sự thành bại trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của một đất nước. Thực tế cho thấy rằng, chính phủ các nước NICS Châu Á, sau gần một thập kỷ thực hiện chiến lược thay thế nhập khẩu, đã nhận ra những mặt hạn chế của nó và ngay đầu thập kỷ 60 đã có sự chuyển hướng chiến lược. Với khoảng thời gian ngắn họ đã đưa đất nước trở thành những con rồng Châu Á

doc28 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 2187 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ giữa cái chung và cái riêng, và vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
. Đối với Việt Nam, các chuyên gia kinh tế đều có nhận xét chung là: Chúng ta đã có bước khởi đầu tốt đẹp trong quá trình phát triển mới. Nhưng để đạt được tốc độ tăng trưởng cao và liên tục trong thời gian tới còn rất nhiều khó khăn. Việt Nam đang trong quá trình chuyển biến nền kinh tế từ nền kinh tế tự nhiên sang nền kinh tế thị trường hoạt động theo quy luật khách quan của nó. Do vậy mà Việt Nam đang đứng trước những thuận lợi cũng như những thách thức cần được giải quyết. Nhận thức được vấn đề cấp bách của kinh tế - xã hội như vậy nên em đã mạnh dạn chọn đề bài: “Quan hệ giữa cái chung và cái riêng, và vận dụng vào xây dựng nền kinh tế thị trường ở nước ta”. Bài tiểu luận này gồm 5 phần: Phần I: Cái chung và cái riêng theo quan điểm của các nhà duy vật biến chứng. Phần II: Bước chuyển nền kinh tế giản đơn sang nền kinh tế thị trường. Phần III: Thị trường và cơ chế thị trường . Phần IV: Những đặc trơng chung của nền kinh tế thị trường và tính định hướng chủ nghĩa của kinh tế thị trường tại Việt Nam. Phần V: Kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Vì đây là bài tiểu luận đầu tiên của em nên vẫn còn nhiều hạn chế và thiếu sót. Em rất mong nhận được ý kiến đóng góp của các thầy, cô giáo và các bạn để bài tiểu luận của em được hoàn thiện hơn. PHẦN I : CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG THEO QUAN ĐIỂM CỦA CÁC NHÀ TRIẾT HỌC DUY VẬT BIỆN CHỨNG. 1. ĐỊNH NGHĨA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG 1.1. Định nghĩa cái riêng. Cái riêng là một phạm trù triết học để chỉ một sự vật, một hiện tượng, một quá trình riêng lẻ nhất định trong thế giới khách quan. Chẳng hạn một hiện tượng kinh tế, một con người, một giai đoạn xã hội, … 1.2. Định nghĩa cái chung. Cái chung là một phạm trù triết học dùng để chỉ những mặt, những thuộc tính những mỗi liên hệ, tồn tại không chỉ ở một sự vật mà tồn tại trong nhiều sự vật hiện tượng khác nhau. Chẳng hạn, phạm trù triết học Mác – xít về vật chất vận động, không gian thời gian… 2. MỐI LIÊN HỆ BIỆN CHỨNG GIỮA CÁI CHUNG VÀ CÁI RIÊNG. Phạm trù cái riêng và cái chung đã được bàn đến nhiều trong triết học phương tây thời trung cổ. Phái duy thực đồng nhất Thượng đế với cái chung (phổ biến ) và nhấn mạnh rằng: Chỉ có cái chung mới tồn tại độc lập, khách quan, là cội nguồn sản sinh ra cái riêng. Đối lập với chủ nghĩa duy thực, các nhà triết học duy danh như: Đun – xcốt (1265-1308 ), P. Abơla( 1079-1142) lại cho rằng chỉ có những sự vật hiện tượng tồn tại riêng biệt với những chất lượng riêng của chúng mới là có thực, còn các khái niệm chung (cái phổ biến ) là sản phẩm tư duy của con người. Mặc dù có một số hạn chế, chủ nghĩa duy danh có một cái nhìn duy vật về toàn bộ hiện thực. Khắc phục nhược điểm của chủ nghĩa duy danh, tách biệt cái riêng khỏi cái chung một cách trìu tượng và tuyệt đối, chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng: Giữa cái riêng và cái chung có mối quan hệ biện chứng với nhau. Chúng là hai mặt đối lập tồn tại trong bản thân một sự vật, hiện tượng bất kỳ và tồn tại một cách khách quan. Mối liên hệ biện chứng giữa cái chung và cái riêng: 2.1. Cái riêng chỉ tồn tại trong mồi liên hệ dẫn tới cái chung. Không có cái riêng cô lập tuyệt đối, bất kỳ cái riêng nào cũng đều liên hệ với cái riêng và liên hệ biện chứng với cái chung. Mặt khác, vừa liên hệ với cái chung sự liên hệ trên mới thoạt nhìn vừa mang tính chất song trùng, nhưng thực chất chỉ là một, vì cái chung – xét cho cùng là: Sản phẩm được rút ra từ sự khái quát hóa những phẩm chất của những cái riêng cùng loại. Chẳng hạn khi khảo sát hiện tượng khủng hoảng kinh tế trong một nước nhất định, chúng ta có thể thấy được những đường nét riêng như: Những hoàn cảnh địa lý đặc thù, tình trạng kinh tế của nước đó khi bắt đầu khủng hoảng, các quan hệ xã hội chính trị khác nhau… Đây là những yếu tố riêng biệt. Song đằng sau tất cả những cái riêng đó và những cái chung mang tính quy luật của hiện tưởng khủng hoảng kinh tế như: tính chu kỳ, hiện tượng thất nghiệp, các giai đoạn chuyển biến theo hình sóng… 2.2. Cái chung chỉ tồn tại trong cái riêng, thông qua cái riêng mà biểu hiện sự tồn tại. Không có cái chung tồn tại độc lập ở đâu đó. Cái chung chỉ tồn tại trong tưng cái riêng. Phép biện chứng của cái chung và cái riêng nói trên chỉ có thể thấy rõ trong vấn đề lợi ích kinh tế. Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta hiện nay, lợi ích kinh tế phải được thể hiện qua từng thành phần kinh tế với những hình thức sở hữu khác nhau, đối lập nhau. Vì vậy phải làm thế nào để vừa đảm bảo lợi ích chung của toàn dân, vừa không rơi vào tình trạng triệt tiêu mọi lợi ích chính đáng của tưng công dân 2.3. Cái chung là cái bộ phận, cái riêng là cái toàn bộ. Thật vậy, cái chung chiếm giữ phần bản chất, hình thành nên chiều sâu của sự vật. Còn cái riêng là cái tòan bộ vì nó là một thực thể hoàn chỉnh và sống động. Cái riêng tồn tại trong sự “va chạm” với những cái riêng khác. Sự va chạm này vừalàm cho các sự vật xích lại gần nhau bởi cái chung, với tư cách là một bộ phận tồn tại trong cái chung, vừa làm cho chúng xa nhau bởi cái đơn nhất không lặp lại trong các sự vật khác. Như vậy, cái chung và cái đơn nhất cùng tồn tại trong cái riêng, làm phong phú và sâu sắc cho cái riêng. 2.4. Cái đơn nhất và cái chung có thể chuyển hóa cho nhau. Đây là chuyển hóa của các mặt đối lập trong một sự vật. Sự chuyển hóa này phản ánh quá trình vận động đa dạng của các kết cấu vật chất trong thế giới. Quá trình chuyển hóa cái đơn nhất thành cái chung thể hiện quá trình phát triển biện chứng của sự vật. Ngược lại sự chuyển hóa cái chung thành cái đơn nhất chỉ ra sự thoái bộ của một sự vật, hiện tượng trong quá trình tồn tại của chúng. 3. Một số kết luận có tính chất phương pháp luận. 3.1. Không có cái chung tồn tại cô lập mà nó tồn tại trong cái riêng; nói cách khác, thông qua cái riêng mà cái chung biểu hiện sự tồn tại của mình. Ý nghĩa phương pháp luận của quan điểm này là trong hoạt động nhận thức và thực tiễn, để phát hiện ra cái chung cần phải thông qua những cái riêng. Mặt khác nói cái chung tồn tại như một bộ phận của cái riêng. Thì phải thấy rằng khi áp dụng cái chung vào từng trường hợp riêng thì cần phải cá biệt hóa nó. Hiện tượng cá biệt hóa cái chung vào từng trường hợp riêng thường thấy xuất hiện trong lĩnh vực kinh tế, chẳng hạn, lý thuyết về quản lý kinh tế (vi mô và vĩ mô) đã được xây dựng từ lâu ở các nước có nền kinh tế thị trường phát triển. Song điều đó không đảm bảo chắc chắn sự thành công, nều như chúng ta áp dụng nguyên chúng vào thực tiễn kinh tế nước ta mà không có sự điều chỉnh, cải biến cho phù hợp với những đặc thù ở Việt Nam. 3.2. Từ phép biện chứng giữa cái chung và cái riêng nêu trên, có thể rút ra kết luận rằng: Khi giải quyết các vấn đề riêng trong thực tế, cần phải đặt nền tảng trên những nguyên tắc chung. Nói cách khác không được lẩn tránh các vấn đề chung khi bắt tay giải quyết các vấn đề riêng. Nếu không sẽ rơi vào tình trạng dò dẫm và vô nguyên tắc. 3.3. Cần nắm vững tính quy luật của quá trình chuyển hóa giữa cái riêng (đơn nhất) và cái chung. Việc tạo điều kiện cần thiết để nhanh chóng phổ biến những hiện tượng hợp quy luật, hoặc triệt tiêu những điều kiện làm kéo dài những nhân tố không phù hợp, trì trệ có ý nghĩa quan trọng thúc đẩy sự phát triển. PHẦN II: BƯỚC CHUYỂN TỪ NỀN KINH TẾ GIẢN ĐƠN SANG NỀN KINH TẾ THỊ TRƯỜNG 1. Kinh tế thị trường ( KTTT). Kinh tế thị trường là hình thức phát triển cao của kinh tế hàng hóa. Kinh tế hàng hóa phát triển đồng nghĩa với phạm trù hàng hóa, phạm trù tiền tệ, phạm vi thị trường được mở rộng. Hàng hóa không chỉ bao gồm những sản phẩm đầu ra mà còn bao gồm yếu tố đầu vào. Dung lượng thị trường và cơ cấu thị trường được mở rộng và hòan thiện. Mọi quan hệ kinh tế trong xã hội đều được tiền tệ hóa. Khi đó người ta gọi kinh tế hàng hóa là kinh tế thị trường ( KTTT). 2. Điều kiện hình thành kinh tế thị trường Điều kiện cơ bản để hình thanh KTTT là phải có một nền kinh tế hàng hóa phát triển cùng với sự xuất hiện của một số điều kiện sau: Một là, sự xuất hiện của hàng hóa sức lao động và thị trường sức lao động. Hàng hóa sức lao động là loại hàng hóa đặc biệt, khác hẳn so với hàng hóa thông thường bởi ngoài thời gian lao động cần thiết còn có thời gian lao động thặng dư. Khi lực lượng sản xuất phát triển, năng xuất xã hội nâng cao thì sức lao động trở thành đối tượng của quan hệ mua bán, kéo theo sự ra đời của thị trường sức lao động, và thị trường yếu tố sản xuất. Hai là, phải tích lũy được một số tiền nhất định và số tiền đó phải trở thành vốn để tiền hành sản xuất kinh doanh nhằm mục đích có lợi nhuận. Ba là, phải có hệ thống tài chính, tín dụng ngân hàng tương đối phát triển đáp ứng được nhu cầu về vốn cho sản xuất kinh doanh. Bốn là, phải có hệ thống cơ sỏ hạ tầng tương đối phát triển, đảm bảo cho lưu thông hàng hóa và lưu thông tiền tệ được thuận lợi dễ dàng, tăng phương tiện vật chất nhằm mở rộng quan hệ trao đổi. Năm là, tăng cường vai trò kinh tế nhà nước nhằm tạo ra môi trường và hành lang pháp lý cho thị trường phát triển lành mạnh, mở rộng hình thức kinh tế, tăng cường sức cạnh tranh, thực hiện chính sách phân phối và đìều tiết trên cơ sở kết hợp nguyên tắc công bằng xã hội và hiệu quả kinh tế, phát huy ưu thế và hạn chế những mặt tiêu cực của nền KTTT. PHẦN III: THỊ TRƯỜNG VÀ CƠ CHẾ THỊ TRƯỜNG 1. Thị trường Có nhiều định nghĩa khác nhau về thị trường tuy nhiên có thể hiểu theo nghĩa đầy đủ thì nó là lĩnh vực trao đổi hàng hóa thông qua tiền tệ làm môi giới, tại đây người mua và người bán tác động qua lại lẫn nhau để xác định giá cả và số lượng hàng hóa lưu thông trên thị trường, hình thành các quan hệ hàng hóa- tiền tệ, cung – cầu, và giá cả hàng hóa. 2. Cơ chế thị trường Nói tới cơ chế thị trường là nói tới bộ máy tự điều tiết quá trình sản xuất và lưu thông hàng hóa, điều tiết sự vận động của nền KTTT. Hiện nay còn nhiều ý kiến khác nhau về khái niệm cơ chế thị trường. Có thể xem xét một vài khái niệm sau: “ Cơ chế thị trường là tổng thể các nhân tố, quan hệ môi trường, động lực và quan hệ chi phối sự vận động của thị trường.” “ Cơ chế thị trường là thiết chế kinh tế chi phối ý chí và hành động chi phối ý chí và hành động của người sản xuất và người tiêu dùng, người bán và người mua thông qua thị trường và giá cả.” Sự hoạt động của quy luật giá trị có biểu hiện: Giá cả thị trường lên xuống xoay quanh giá trị của hành hóa, nghĩa là sự hình thành giá cả thị trườngphải dựa trên cơ sở giá trị trường. Ngoài giá trị thị trường, sự hình thành giá cả thị trường còn chịu sự tác động của quy luật hàng hóa. Tính quy luật của quan hệ giữa giá cả thị trường với giá trị trong sự tác động của quan hệ cung cầu được biểu hiện: Nếu cung lớn hơn cầu thì giá cả thị trường sẽ nhỏ hơn giá trị thị trường vsf ngược lại. Quan hệ cung cầu hàng hóa trên thị trườnglà biểu hiện của quan hệ giữa người bán và người mua cũng như quan hệ của người sản xuất và người tiêu dùng. Trên cơ sở giá trị thị trường. gía cả thị trường là kết quả của sự thỏa thuận giữa người mua và người bán. Gía cả thị trường điều hòa được quan hệ giữa người mua và người bán. Thông qua sự biến động của giá cả thị trường,quy luật giá trị có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa. Điều tiết sản xuất hàng hóa đượ hiểu theo nghĩa là điều tiết tư liệu sản xuất và sức lao động vào từng ngành kinh tế. Điều này tạo ra động lực kinh tế thúc đẩy người sản xuất hàng hóa khai thác những khả năng tiềm tàng, tranh thủ giá cao, mở rộng quan hệ sản xuất và ngược lại. Như vậy, lợi nhuận là động lực thúc đẩy hoạt động của cơ chế thị trường. Theo C.Mác, những nhà kinh doanh dưới CNTB “Ghét cay ghét đắng tình trạng không có lợi nhuận hay lợi nhuận quá ít, chẳng khác gì thế giới tự nhiên chân không.” 2.1 Ưu điểm của cơ chế thị trường: Một là: KTTT lấy lợi nhuận siêu ngạch làm đông lưc hoạt động. Động lực nay đòi hỏi các doanh nghiệp thường xuyên hạ thấp chi phí lao động chi phí xã hội cần thiết.Điều này phải nâng cao năng suất lao động trên cơ sở áp dụng những thành tựu mới của khoa học kỹ thuật công nghệ. Hai là: Cơ chế thị trường có tính năng động do trong kinh tế thị trường tồn tại một nguyên tắc ai đưa ra thị trường một loại hàng hóa mới và đưa ra sớm nhất sẽ thu được nhiều lợi nhuận nhất. Ba là: Trong nền kinh tế thị trường, hàng hóa rất phong phú và đa dạng. Do vậy, nó có thể đáp ứng mọi nhu cầu người tiêu dùng. 2.2. Những khuyết tật mà bản thân cơ chế thị trường không tự giải quyết được. Căn bệnh nổi bật gắn liền với sự hoạt động của cơ chế thị trường: khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp, lạm phát, phân hóa giàu nghèo và ô nhiễm môi trường. Khủng hoảng “thừa” là căn bệnh cố hữu của nền kinh tế thị trường phát triển. Do mức cung hàng hóa vượt quá sức cầu nên dẫn tới tình trạng “dư thừa hàng hóa”. Xu hướng mở rộng sản xuất vô hạn độ mâu thuẫn với sức mua có hạn. Mâu thuẫn đối kháng giữa giai cấp tư sản và giai cấp vô sản. Một khuyết tật khác của cơ chế thị trường là gây ô nhiễm môi trường sinh thái, tàn phá đất đi, rừng đầu nguồn do chạy theo mục đích lợi nhuận. Tóm lại, cơ chế thị trường có tác dụng điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa, chi phối sự vận động của KTTT nhưng các chủ thể tham gia thị trường hoạt động vì lợi ích riêng của mình, cho nên sự vận động của cơ chế thị trường tất yếu dẫn tới những mâu thuẫn và xung đột. Cạnh tranh khó tránh khỏi lừa gạt, phá sản và thất nghiệp… Vì vậy, cần có sự kiểm tra của xã hội, đó là lý do cần thiết vai trò quản lý của nhà nước. Vai trò của nhà nước trong nền kinh tế của nước ta là hướng tới sự ổn định về kinh tế xã hội, sự công bằng và làm cho nên kinh tế ngày càng tăng trưởng, phát triển với tốc độ cao. PHẦN IV: NHỮNG ĐẶC TRƯNG CHUNG CỦA NỀN KTTT VÀ TÍNH ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA NỀN KTTT Ở VIỆT NAM 1. Những đặc trưng chung của nền kinh tế thị trường Do KTTT là sự phát triển cao của nền kinh tế hàng hóa và mọi yếu tố của sản xuất đều được thị trường hóa nên KTTT có những đặc trưng chủ yếu sau: Một là: Tính tự chủ của các chủ thể kinh tế rất cao. Các chủ thể kinh tế tự bù đắp những chi phí và tự chịu trách nhiệm đối với kết quả sản xuất kinh doanh của mình, được tự do liên kết, tự do liên doanh theo định luật. kinh tế hàng hóa không bao dung hành vi bao cấp. Nó đối lập với bao cấp và đồng nghĩa với tự chủ năng động. Hai là: Hàng hóa trên thị trường rất phong phú, phản ánh trình độ cao của năng xuất lao động xã hội, trình độ phân công lao động xã hội, sự phát triển của sản xuất và thị trường. Ba là: Giá cả được hình thành ngay trên thị trường, vừa chịu sự tác động của quan hệ cạnh tranh và quan hệ cung cầu hàng hóa và dịch vụ. Bốn là: Cạnh tranh là một tất yếu của KTTT, có nhiều hình thức phong phú vì mục tiêu lợi nhuận. Năm là: Kinh tế thị trường là hệ thống kinh tế mở. 2. Tính định hướng xã hội chủ nghĩa của kinh tế thị trường ở Việt Nam. 2.1. Bản chất và nguyên tắc hình thành. Để hiểu sâu hơn khái niệm KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ,cần hiểu rõ bản chất và nguyên tắc hình thành Phương pháp luận tiếp cận bản chất và nguyên tắc hình thành KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta đòi hỏi phải đặt nó trong sự kết hợp giữa cái chung (KTTT ) với cái đặc thù (định hướng xã hội chủ nghĩa ). Xoay quanh phương pháp luận này, có ý kiến cho rằng KTTT với định hướng xã hội chủ nghĩa như “nước với lửa” làm sao có thể kết hợp được với nhau ? Thực tế KTTT không phải là cái riêng có của chủ nghĩa tư bản, mà là thành quả chung của văn minh nhân loài tồn tại qua nhiều phương thức sản xuất xã hội khác nhau. Đúng như Đảng ta đã nhận định: “Sản xuất hàng hóa không đối lập với chủ nghĩa xã hội, mà là thành tựu phát triển của nền văn minh nhân loại, tồn tại khách quan, cần thiết cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội đã được xây dựng.”(Văn kiện Đại Hội VIII ) Bên cạnh những phạm trù kinh tế và quy luật kinh tế chung, KTTT còn có những đăc điểm gắn với tính chất và trinh độ phát triển của lực lượng sản xuất, gắn với bản chất của chế độ xã hội trong đó nó tồn tại qua mỗi giai đoạn lịch sử. Đúng là KTTT đã đạt tới đỉnh cao dưới chủ nghĩa tư bản nhưng không vì thế mà đồng nhất KTTT là kinh tế TBCN. Hơn nữa xét về bản chất KTTT không chỉ hoàn toàn là tiêu cực như người ta lầm tưởng trước đây nó mà có những yếu tố tích cực không thể phủ nhận.KTTT tạo ra động lực thúc đẩy sản xuất xã hội phát triển, đẩy nhanh quá trình hóa sản xuất, làm thay đổi cung cầu theo hướng có lợi cho sản xuất và cải thiên đời sống. Cần ý thức rằng chỉ có KTTT tư bản chủ nghĩa và KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa mới khác nhau về mục đích, chế độ sở hữu, tính chất phân phối và tính chất của nhà nước trong quản lý KTTT. Nếu giai cấp tư sản có thể lợi dụng được KTTT để phát triển chủ nghĩa tư bản, thì không có lý do gì lại cho rằng giai cấp công nhân mà đội tiên phong của nó là Đảng cộng sản không thể vận dụng được KTTT. Vì vậy ý kiến coi KTTT và định hướng xã hội chủ nghĩa ‘ như nước với lửa’chỉ có giá trị như lời nhắc nhở, phải quan tâm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa khi phát triển KTTT, có không có nghĩa coi chúng hoàn toàn đối lập nhau … 2.2 Định nghĩa về KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt nam. Từ phương pháp luận nêu trên có thể hiểu được bản chất của KTTTđịnh hướng xã hội chủ nghĩa là: Kiểu tổ chức kinh tế phản ánh sự kết hợp giữa cái chung là KTTT với cái đặc thù là định hướng xã hội chủ nghĩa, dựa trên nguyên tắc lấy cái đặc thù-định hướng xã hội chủ nghĩa – làm chủ đạo. 2.3 Ba khía cạnh chủ yếu về bản chất của KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa. Thứ nhất: Với tư cách là cái chung KTTT đòi hỏi trong quá trình kết hợp phải tạo lập và vận dụng đồng bộ các yếu tố :a) Cơ sở kinh tế mang tính đa dạng về sở hữu và thành phần kinh tế có thể có “tự do hóa kinh tế” (tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ) .b) Các phạm trù kinh tế vốn có của KTTT như hàng hóa , tiền tệ thị trường canh tranh,cung cầu, giá trị thị trường và lợi nhuận. c) các quy luật kinh tế của KTTT ( Quy luật giá trị, quy luật lưu thông tiền tệ, quy luật cạnh tranh và quy luật cung cầu) d) Cơ chế vận hành nền KTTT –cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước. Thứ hai: Với tư cách là đặc thù – định hướng xã hội chủ nghĩa –trong quá trình kết hợp đòi hỏi phải tuân theo các mục tiêu,nguyên tắc và nhiệm vụ kinh tế cơ bản hướng đến mục tiêu và các đặc trưng của CNXH mà nước ta cần xây dựng. Định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta là một sự lựa chọn tất yếu một khái niệm khoa học. Tuy vậy, vẫn còn một số cách hiểu khác khác nhau thậm chí không phải không có tư tưởng hoài nghi và tính hiện thực của định hướng xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã chọn. Cần ý thức rằng định hướng xã hội chủ nghĩa đã chọn là một tất yếu,vì sự lựa chọn phù hợp với nội dung thời đại-“ thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên CNXH trên pham vi toàn thế giới”.Đảng ta nhận định: “xã hội chủ nghĩa trên thế giới, từ những bài học thành công thất bại cũng như từ khát vọng và sự thức tỉnh của các dân tộc,có điều kiện và khả năng tạo ra bươc phát triển mới. Theo quy luât tiến hóa của lịch sử. loai người sẽ nhất định tiến tới xã hội chủ nghĩa .” (Văn kiện Đại Hội Đảng IX). Định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là một tất yếu về chính trị và nguyện vọng mong muốn của nhân dân ta, mà còn là một tất yếu kinh tế, nếu chúng ta đặt những tiền đề cho việc xây dựng CNXH ở nước ta theo tư duy mới,mở cửa về kinh tế với tất cả các nước trên thế giới, và nếu chúng ta xem xét các tiền đề kinh tế không dừng lại ở điểm xuất phát ban đầu mà xem xét những thành tựu đã đạt được sau hơn 15 năm đổi mới nền kinh tế. Thứ ba: Trong mối quan hệ giữa cái chung-KTTT với cái đặc thù –định hướng xã hội chủ nghĩa, không thể lấy KTTT làm chủ đạo. Đây là nguyên tắc cơ bản trong mối quan hệ kết hợp giữa cái chung và cái đặc thù, vì chính ta không chủ trương xây dựng mô hình KTTT bất kỳ , trừu tượng, càng không chủ trương xây dựng KTTT tư bản chủ nghĩa, mà chủ trương xây dựng KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, tất yếu phải lấy định hướng xã hội chủ nghĩa làm chủ đạo. Hơn nữa KTTTcó nhiều yếu tố tích cực, và hạn chế tiêu cực nhất định, muốn phát huy yếu tố tích cực và hạn chế tiêu cực không thể không định hướng xã hội chủ nghĩa trong quá trình xây dựng và phát triên KTTT. Xa rời nguyên tắc này sẽ làm cho việc xây dựng KTTT rễ đi chệch hướng XÃ HộI CHủ NGHĨA . vì vậy lấy định hướng xã hội chủ nghĩa làm chủ đạo trở thành nguyên tắc cơ bản chi phối lương tâm trách nhiêm đối với các ngành, các cấp và các chủ doanh nghiệp trong việc ban hành và thực hiện các chủ trương, quyết định về sản xuât kinh doanh trong tiến trình xây dựng KTTT ở nước ta. 3. Các đặc điểm chủ yếu của KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa. Các đặc điểm chủ yếu của KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa có quan hệ mật thiết với nhau được tiếp cận đi từ lực lượng sản xuất đến cơ sở kinh tế, chế độ phân phối, cơ chế vận hành, văn hóa và mở cửa. Thứ nhất: Lấy sự phát triển lực lượng sản xuất theo hướng hiện đại làm cơ sở vật chất – kỹ thuật nhằm mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Thứ hai: Lấy nền kinh tế đa dạng về hình thức sở hữu tư liệu sản xuất và thành phần kinh tế làm cơ sở kinh tế, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Thứ ba: Dựa trên chế độ phân phối đa dạng bao gồm các nguyên tắc phân phối theo kiểu CNXH với phân phối theo kiểu KTTT. Trong đó, lấy phân phối theo lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh và phân phối qua phúc lợi tập thể và xã hội làm chủ đạo. Thứ tư: Lấy cơ chế thị trường có sự qửan lý Nhà nước làm cơ chế vận hành, nhưng không phải là Nhà nước tư sản mà Nhà nước xã hội chủ nghĩa Nhà nước của dân do dân và vì dân. Thứ năm: Kết hợp hài hòa văn hóa dân tộc truyền thống với văn hóa hiện đại có chọn lọc. Trong đó phải lấy văn hóa dân tộc làm gốc. Thứ sáu: Không dựa trên cơ cấu kinh tế khép kín, mà dựa trên cơ cấu mở cửa, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế vào khu vực, song phải đảm bảo độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ. Cần nhận thức các đặc điểm nói trên ở trạng thái động và đang trong quá trình hình thành; đang phát triển đi từ thấp đến cao, từ chỗ chưa định hình đến định hình, gắn liền với giai đoạn CNH - HĐH và sẽ định hình vào năm 2020 ở nước ta. 4. Nội dung định hướng xã hội chủ nghĩa. 4.1 Mục đích. Mục đích của KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa là phát triển lực lượng sản xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của CNXH, nâng cao đời sống nhân dân. 4.2 Các nội dung định hướng chính. Ngoài những giá trị đặc trưng chung của nền KTTT, nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta còn mang những đặc trưng riêng dự trên nguyên tắc của bản chất của CNXH, dựa trên tính đặc thù về tình hình kinh tế- chính trị- xã hội Việt Nam. Tính đặc thù ấy thể hiện ở chỗ sự phát triển KTTT nước ta diễn ra với 2 bước chuyển cơ bản: Từ mô hình kinh tế chỉ huy sang nền KTTT và nền kinh tế tự nhiên của người tiểu nông sang KTTT. Từ thực tiễn hơn 15 năm xây dựng và phát triển KTTT, có thể rút ra nội dung định hướng XÃ HộI CHủ NGHĨA đối với nền KTTT nước ta là: Thứ nhất, nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế kết hợp hai mặt kinh tế- xã hội ngay trong từng bước phát triển. Trong nhiều đặc tính có thể làm tiêu thức để phân biệt nền KTTT này với nền KTTT khác, phải nói đến mục tiêu kinh tế - xã hội mà Nhà nước và nhân dân đã chọn làm định hướng chi phối sự vận động, phát triển của nền KTTT. Mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bàng, dân chủ, văn minh đã qui định tính tất yếu khách quan phải định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền KTTT ở nước ta: Đó chính là sự khác biệt rõ nét nhất giữa KTTT nước ta với các nước khác. Cái khác cơ bản của thị trường xã hội chủ nghĩa là thu hẹp dần sự phân biệt giàu nghèo. Công bằng về phân phối về thu nhập đã tạo ra và là nguồn gốc của mọi công bằng khác như công bằng về chăm sóc về kinh tế, về học hành…Muốn vậy phải vận dụng các qui luật thị trường để kiên trì thực hiện công bằng xã hội chứ không phải là những mệnh lệch hành chính thay cho thị trường hay dùng một bộ máy phân phối thay cho thị trường, phải dùng luật pháp để cho qui luật phân phối theo lao động dần dần phát huy tác dụng ngày càng cao hơn kiểu tư bản. Để đạt tới công bằng trong phân phối thu nhập, chúng ta thực hiện nhiều hình thức phân phối thu nhập: Phân phối theo kết quả lao đọng và hiệu quả kinh tế, hiệu xuất công tác, phân phối theo mức góp vốn và các nguồn kực khác vào sản xuất kinh doanh, phân phối thông qua các quĩ phúc lợi xã hội, trong đó, hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả kinh tế là chủ yếu, đi đôi với chính sách điều tiết thu nhập một cách hợp lý nhằm thu hẹp khoảng cách chênh lệch giàu nghèo, vừa khuyến khích lao động vừa đảm bảo những phúc lợi xã hội cơ bản. Để phát triển công bằng, cần có nhìn nhận mới hơn đối với phạm trù lợi ích với tư cách là động lực cho phát triển, về mối quan hệ với lợi ích cá nhân, lợi ích tập thể và xã hội. Sự thiên lệch về lợi ích nào đó cũng triệt tiêu động lực của sự phát triển. Cần có chính sách tôn vinh những người tổ chức sản xuất kinh doanh theo luật pháp tạo được nhiều việc làm cho xã hội, dù ở thành phần kinh tế nào. Thứ hai, nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. Nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa nước ta láy việc giải phóng sức sản xuất làm căn cứ chủ yếu để hoạch định cơ cấu thành phần kinh tế, hình thức sở hữu. Trong nền KTTT nước ta tồn tại ba laọi hình sở hữu cơ bản: SH toàn dân, SH tập thể, SH tư nhân. Từ ba loại hình sở hữu cơ bản đó hình thành nhiều thành phần kinh tế, nhiều hình thức tổ chức kinh doanh.Do đó không chỉ ra sức phát triển các thành phần kinh tế,của chế độ công hữu, mà còn phải khuyến khích phát triển các thành phần kinh tế thuộc sở hưu tư nhân để hình thành nền KTTT rộng lớn bao gồm các đơn vị kinh tế thuộc chế độ công hữu, các đơn vị kinh tế tư doanh, các hình thức hợp tác liên doanh giữa trong và ngoài nước, các hình thức đan xen và thâm nhập vào nhau giữa các thành phần kinh tế đều có thể tham gia thị trường với tư cách chủ thể thị trường bình đẳng. Thứ ba, Nhà nước quản lý nền KTTT ở nước ta là nhà nước của dân do dân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong nền KTTT hiện đại, nhà nước tham gia vào các quá trình kinh tế là xu hướng khách quan. Nhưng khác với bản chất của nhà nước tư sản, nhà nước ta là nhà nước của dân, do dân vì dân dưới sự lãnh đạo của đảng cộng sản. Chính điều này làm cho mô hình kinh tế thị trường của nước ta khác về bản chất với mô hình kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế ấy đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sả, dưới sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa Việt Nam nhằm hạn chế, khắc phục những thất bại của thị trường, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không làm được. Đảng cộng sản và nhà nước xã hội chủ nghĩa đã tìm ra mô hình kinh tế thị trường của riêng mình. Đây là một nội dung quan trọng không thể thiếu trong định hướng xã hội chủ nghĩa đối với nền kinh tế thị trường. Thứ tư, sự vận hành của nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa là sự kết hợp chặt chẽ giữa thị trường và kế hoạch. Trong nền KTTT định hướng xã hội chủ nghĩa, chúng ta sử dụng cơ chế thị trường để kích thích sản xuất, phát huy tính năng động sáng tạo của người lao động, giải phong sức sản xuất của mọi thành phần kinh tế, thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đồng thời chúng ta lãnh đạo, quản lý nền kinh tế phát triển đúng hướng đi lên CNXH để khắc phục những thất bại của thị trường, thực hiện các mục tiêu xã hội, nhân đạo mà bản thân thị trường không làm được. Trong quá trình phát triển KTTT bất cứ sự thiên lệch về cơ chế nào dều biểu hiện sự chệch hướng. Với sự song hành của hai cơ chế, mọi hoạt động của sản xuất kinh doanh phải được thông qua thị trường, song phải đặt dưới sự điều tiết của nhà nước bằng kế hoạch và các công cụ quản lý vĩ mô khác. PHẦN V: KINH TẾ THỊ TRƯỜNG THEO ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA Ở VIỆT NAM 1/ Thực trạng nền kinh tế Việt Nam khi chuyển sang KTTT theo định hướng xã hội chủ nghĩa. 1.1/ Kinh tế hàng hóa còn kém phát triển, nền kinh tế còn mang nặng tính chất tự cung tự cấp Trình độ cơ sở vật chất kĩ thuật và công nghệ sản xuất còn yếu kém. Hệ thồng kết cấu hạ tầng, dịch vụ sản xuất xã hội chưa đủ để phát triển kinh tế trong nước và chưa có khả năng giao lưu với thị trường quốc tế. Cơ cấu kinh tế còn mất cân đối kèm hiệu quả. Từ điểm xuất phát thấp, nền kinh tế nhỏ nên đăc trưng nước ta là kinh tế nông nghiệp. Chưa có thị trường theo đúng nghĩa của nó. Nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần ở nước ta đang được hình thành và phát triển. Chung ta từng có thị trừong hàng hóa nói chung, trước hết là thị trường hàng tiêu dùng thông thường. Về cơ bản nước ta vẫn chưa có thị trường sức lao động. Trong khu vực kinh tế nhà nước vẫn còn sử dụng chế độ lao động theo biên chế, chưa có thị trường tiền tệ và thị trường vốn. Năng xuất lao động xã hội còn thấp và thu nhập quốc dân tính theo đầu người còn thấp. 1.2/ Ảnh hưởng của mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế quan liêu bao cấp Do nhận thức chủ quan duy ý chí về nền kinh tế xã hội chủ nghĩa cho nên trong nhiều thập kỉ qua ở qua ở nước ta đã tồn tại mô hình kinh tế chỉ huy với cơ chế quan liêu tập trung bao cấp. Thực tiễn hoạt động kinh tế đã chứng minh mô hình này có nhiều nhược điểm. Về quan hệ tổ chưc hành chính, đó là cơ chế quản lý chủ yếu theo lệnh tập trung nhưng lại được điều hành bởi nhiều đầu mối khac nhau. Kiểu quản lý như vậy mang tính chất phân tán. Về quan hệ kinh tế, cơ chế tập quan liêu thê hiện quan hệ giao nộp, thu mua, cấp phát. Hậu quả của nó hết sức nặng nề: Làm mất sức mạnh của tổ chức kinh tế Nhà nước. Suy yếu tính sáng tạo, lãnh phí gây thất thoát tài sản quốc gia. Cản trở mục tiêu ổn định, cải thiện đời sống phát triển sản xuất. 2/ CÁC BIỆN PHÁP ĐỂ THỰC HÓA MÔ HÌNH KTTT ĐỊNH HƯỚNG XÃ HỘI CHỦ NGHĨA 2.2/ Tạo lập, duy trì và phát triển tự do hóa kinh tế Đây là một điều kiện cố tầm quan trọng đến sự hình thành và phát triển KTTT ở nước ta. Tự do hóa kinh tế là một điều kiện tất yếu dể sản sinh và nuôi dướng tự do cạnh tranh, tự do kinh doanh và tự chủ, rất cần thiết cho các chủ doanh ngh._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc30331.doc