Quan hệ giữa xã hội tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở nước ta

Mục lục Trang Lời mở đầu Cùng với sự phát triển về kinh tế – văn hoá - xã hội của thế giới, Việt Nam cũng đang trên đà phát triển mạnh mẽ trong tất cả các lĩnh vực. Tuy nhiên cũng như thế giới, ngày nay Việt Nam chúng ta đang phải đối mặt với những vấn đề hết sức cấp thiết về môi trường như sự ô nhiễm môi trường do phát triển công nghiệp, nhiều cơ sở công nghiệp có mức độ ô nhiễm cực kỳ nghiêm trọng, hay ô nhiễm do hoạt động sản xuất nông nghiệp, ô nhiễm do hoạt động giao thông vận tải đang

doc24 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1304 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ giữa xã hội tự nhiên và vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thải đầy khí bụi độc hại ra môi trường.v.v. Cuộc sống của chúng ta gắn liền với môi trường tự nhiên vì con người rất cần và luôn cần một môi trường sống trong lành, an toàn nên nếu như môi trường sinh thái bị huỷ hoại đến mức không thể sống được thì cũng đồng nghĩa với việc con người không còn nơi cư trú, loài người sẽ bị diệt vong do chính những tác động của chúng ta. Vấn đề bảo vệ môi trường giờ đây đang là đề tài cấp bách được cả thế giới trong đó có Việt Nam rất chú trọng. Do tính cấp thiết của vấn đề nên ngày càng có nhiều nhà khoa học , nhà nghiên cứu đi vào nghiên cứu tác động ô nhiễm môi trường nhằm mong tìm ra nguyên nhân lý giải sự suy thoái môi trường sống. Từ đó có những biện pháp thích hợp kịp thời để bảo vệ môi trường. Đề tài này được đặt ra cũng với mong muốn tương tự đó là góp phần nào trong việc chỉ ra thực trạng môi trường Việt Nam, cho thấy tầm quan trọng của công tác bảo vệ môi trường. Thế giới cũng như Việt Nam đã xuất hiện bộ môn khoa học mới, đó là khoa học môi trường nhằm nghiên cứu các vấn đề liên quan đến môi trường. Để phục vụ cho môn khoa học này cũng ngày càng nhiều công trình nghiên cứu về đề tài bảo vệ môi trường ra đời và đóng góp rất lớn vào công cuộc khôi phục môi trường sống trong lành, phù hợp các quy luật tự nhiên. Các đề tài đi vào rất nhiều khía cạnh liên quan đến môi trường như: ô nhiễm môi trường đất, nước, không khí, sinh vật ... Mỗi đề tài có mục đích đi sâu vào một điểm cụ thể hoặc phân tích tổng hợp các điểm để đi tới mục đích cung là cảnh báo loài người dừng những hành động phá hoại môi trường nhằm thu lợi lại. Tiểu luận này được thực hiện với đề tài: “Quan hệ giữa xã hội tự nhiên vầ vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở nước ta”. Nội dung chính của đề tài là đưa ra cơ sở lý luận về mối quan hệ con người – xã hội – tự nhiên và ứng dụng lý luận đó vào thực tiễn để chỉ ra tác động của con người đối với môi trường tự nhiên. Với tầm hiểu biết hạn hẹp và hạn chế trong việc tìm tài liệu nên tiểu luận này chỉ mong đưa ra được tình hình hiện tại của vấn đề môi trường ở Việt Nam và một số giải pháp cho việc bảo vệ môi trường. Chương 1. Quan điểm triết học về mối quan hệ biện chứng giữa xã hội và tự nhiên. 1.1. Xã hội – Bộ phận đặc thù của tự nhiên: Tự nhiên, theo nghĩa rộng là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan. Quá trình phát triển của tự nhiên đã sản sinh ra sự sống và theo quy luật tiến hoá, trong những điều kiện nhất định, con người đã xuất hiện từ động vật. Nhưng sự ra đời của con người không chỉ là kết quả của các quy luật sinh học mà quan trọng hơn là kết quả của quá trình lao động. Sự hình thành con người gắn liền với sự hình thành các quan hệ giữa người với người, quá trình chuyển biến từ động vật thành người là quá trình chuyển biến cộng đồng mang tính bầy đàn, hành động theo bản năng thành một cộng đồng mới khác hẳn về chất, gọi là xã hội. Qua đó ta thấy xã hội là hình thái vận động cao nhất của thế giới vật chất. Hình thái vận động này lấy con người và sự tác động lẫn nhau giữa người với người làm nền tảng. Xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân, “là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người”. Theo Mác, “Xã hội – cho dù nó có hình thức gì đi nữa – là cái gì? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người”. Con người là sản phẩm cao nhất của tự nhiên, bằng hoạt động của mình, con người đã làm nên lịch sử, tạo ra xã hội. Do đó, xã hội chính là một bộ phận đặc thù của tự nhiên. Tính đặc thù của bộ phận này thể hiện: Phần còn lại của tự nhiên chỉ có những nhân tố vô ý thức và mù quáng tác động lẫn nhau, còn trong xã hội, nhân tố hoạt động là những con người có ý thức, hành động có suy nghĩ và theo đuổi những mục đích nhất định. Hoạt động của con người không chỉ tái sản xuất ra chính bản thân mình mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên. 1.2. Đặc điểm của quy luật xã hội: Xã hội vừa là một bộ phận đặc thù của tự nhiên vừa là kết quả của sự tác động qua lại giữa con người với con người để tồn tại và phát triển. Như vậy xã hội muốn tồn tại phải tuân theo những quy luật chung của tự nhiên nhưng nó cũng có những quy luật riêng của bản thân, việc này cũng giống như các sinh vật trên trái đất phải tuân theo những quy luật sống chết, quy luật cá lớn nuốt cá bé... để tồn tại. Như ta đã biết, nhân tố hoạt động trong xã hội là những con người hoạt động có ý thức, hành động có suy nghĩ, theo đuổi những mục đích nhất định. Nên quy luật xã hội được hình thành trên cơ sở hoạt động có ý thức của con người. Xã hội là sản phẩm hoạt động của chúng ta, mà “tất cả cái gì thúc đẩy con người hành động đều tất nhiên phải thông qua đầu óc họ”. Do đó, quy luật xã hội chính là quy luật hoạt động của con người theo đuổi mục đích của mình. Hoạt động của con người diễn ra trong các quan hệ xã hội nên quy luật xã hội là những mối liên hệ khách quan, tất yếu phổ biến giữa cac hiện tượng và quá trình xã hội. 1.2.1. Quy luật xã hội có tính khách quan: Tuy quy luật xã hội thể hiện thông qua hoạt động của con người nhưng nó không vì thế mà phụ thuộc vào ý muốn chủ quan của một cá nhân, một lực lượng xã hội nào. Vì bằng hoạt động thực tiễn con người tạo ra xã hội, làm nên lịch sử, song, những hoạt động của con người được thực hiện trong những điều kiện sinh hoạt vật chất nhất định, trong những mối quan hệ nhất định giữa con người với con người, giữa con người với tự nhiên. Mà những điều kiện và những quan hệ đó là khách quan đối với mỗi thời đại, mỗi dân tộc, mỗi thế hệ, mỗi con người khi họ theo đuổi mục đích của bản thân vì hoàn cảnh lịch sử khác nhau qua từng thời kì, thời đại. Quan hệ giữa người với người đã tạo ra những liên hệ và tác động lẫn nhau vô cùng phức tạp. Tổng hợp những lực tác động lẫn nhau đó tạo thành xu hướng vận động của lịch sử, trong đó lực hoạt động của khối đông người hơn chiếm ưu thế. Hoạt động của con người trong xã hội biểu thị nhiều ý muốn, nhiều mục đích của nhiều người khác nhau, những ý muốn đó luôn chồng chéo mâu thuẫn thậm chí đối lập nhau, nhưng quy luật xã hội chỉ phản ánh những ý muốn, mục đích của khối đông người, phù hợp xu hướng vận động và phát triển của lịch sử. Xu hướng này là khách quan, không một thế lực nào có thể điều khiển được. 1.2.2. Quy luật xã hội mang tính tất yếu phổ biến: Con người sống cần có rất nhiều nhu cầu như nhu cầu sống, nhu cầu tồn tại và phát triển của xã hội. Nhằm thoả mãn những nhu cầu này thì một cách tất yếu và phổ biến phải hình thành những mối quan hệ của con người trong xã hội. Quan hệ của con người trong xã hội có nhiều hình thức khác nhau. _ Quan hệ xã hội tồn tại phổ biến cho mọi hình thái kinh tế – xã hội như quan hệ giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, quan hệ giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội, quan hệ giữa kiến trúc thượng tầng và cơ sở hạ tầng... Quy luật xã hội phản ánh quan hệ này ở mọi hình thái kinh tế – xã hội vì nước nào, xã hội nào cũng tồn tại những quan hệ này. _ Quan hệ xã hội chỉ tồn tại trong một số hình thái xã hội như quan hệ giai cấp, quan hệ dân tộc, quan hệ gia đình... _ Quan hệ xã hội chỉ có ở một hình thái xã hội nhất định như: quan hệ chủ nô và nô lệ, quan hệ địa chủ và nông dân, quan hệ tư sản và vô sản. _ Quan hệ xã hội riêng cho từng lĩnh vực kinh tế, chính trị, tư tưởng, văn hoá... như quan hệ giữa các đảng phái chính trị, buôn bán thương mại, đạo đức, tôn giáo, pháp luật... Tuỳ thuộc mức độ quan trọng và phổ biến của các mối quan hệ xã hội mà các quy luật thể hiện chúng cũng có mức độ tất yếu và phổ biến khác nhau. 1.2.3. Đặc điểm riêng của quy luật xã hội: Ngoài việc tuân theo các quy luật tự nhiên, quy luật xã hội cũng có những đặc điểm riêng của nó. Nghiên cứu những đặc điểm này giúp con người có nhận thức đúng đắn, hiểu được bản chất khi nghiên cứu các vấn đề của xã hội. _ Quy luật xã hội chỉ tồn tại và tác động trong những điều kiện nhất định. Ví dụ, đấu tranh giai cấp là một động lực thúc đẩy sự phát triển của xã hội có đối kháng giai cấp. Nhưng khi không còn giai cấp đối kháng thì quy luật đấu tranh giai cấp sẽ tự chấm dứt hoạt động. Các quy luật xã hội thể hiện một cách rõ rệt khi các quan hệ xã hội vốn có của nó đạt đến trình độ chín muồi nhất định. Các Mác cũng chỉ phát hiện ra quy luật giá trị thặng dư - quy luật kinh tế cơ bản của chủ nghĩa tư bản khi chủ nghĩa tư bản phát triển đến một trình độ cao ở Châu Âu. _ Yếu tố quan trọng trong cơ chế hoạt động của quy luật xã hội là lợi ích. Sở dĩ nói vậy vì, quy luật xã hội tác động thông qua hoạt động của con người mà động lực cơ bản thúc đẩy hoạt động của con người là lợi ích. Nhưng không vì thế mà quy luật xã hội bị mất đi tính khách quan vì quy luật xã hội không bị chi phối bởi ý muốn của một số cá nhân mà hướng đến ý muốn của khối đông người. Lợi ích ở đây là lợi ích của cộng đồng. _ Để nhận thức quy luật xã hội cần có phương pháp khái quát hoá và trừu tượng hoá rất cao. Vì quy luật xã hội diễn ra trong một thời gian rất dài, không thể dùng sự quan sát tại một thời điểm nhất thời mà đi dến kết luận vội vã. Cũng không thể dùng cách suy luận lôgíc để suy ra quy luật xã hội từ một vài hiện tượng. Các Mác viết:”Khi phân tích những hình thái kinh tế, không thể dùng kính hiển vi hay những chất phản ứng hoá học được. Sức trừu tượng hoá phải thay thế cho cả hai cái đó”. Để nhận thức các quy luật xã hội cần phải nghiên cứu những nguyên nhân thúc đẩy sự vận động và phát triển của xã hội. Các nguyên nhân đó là: Nhu cầu – Lợi ích – Mục đích – Hoạt động thực hiện mục đích. Như vậy quy luật xã hội là quy luật hoạt động của loài người trong quá trình làm nên lịch sử.Quy luật xã hội và quyluật tự nhiên gắn bó chặt chẽ trong hoạt động của con người. Để đạt được sự phát triển bền vững của xã hội, con người phải tôn trọng và tuân theo những quy luật của tự nhiên, như vậy mới đảm bảo được những cơ sở tự nhiên cho sự tồn tại của xã hội. 1.3. Sự tác động qua lại giữa xã hội và tự nhiên: Như ta đã biết, xã hội là một bộ phận đặc thù của tự nhiên nên giữa xã hội và tự nhiên phải có mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. 1.3.1. Vai trò của yếu tố tự nhiên và yếu tố xã hội trong hệ thống tự nhiên – xã hội: Hệ thống tự nhiên - xã hội được cấu thành bởi hai bộ phận tự nhiên và xã hội do đó hai yếu tố này nắm vai trò chính trong việc hoạt động của hệ thống. Tự nhiên và xã hội có mối quan hệ biện chứng tác động qua lại lẫn nhau. Hệ thống tự nhiên – xã hội được hình thành trong quá trình tiến hoá thế giới vật chất. Sự thống nhất của hệ thống tự nhiên - xã hội được xây dựng trên cơ sở cấu trúc liên hoàn chặt chẽ của sinh quyển và được bảo đảm bởi cơ chế hoạt động của chu trình sinh học - đó là chu trình trao đổi chất, năng lượng và thông tin giữa các hệ thống vật chất sống với môi trường tồn tại của chúng trong tự nhiên. Tự nhiên vừa là nguồn gốc của sự xuất hiện xã hội vừa là môi trường tồn tại và phát triển xã hội. Là nguồn gốc sự xuất hiện xã hội vì xã hội hình thành trong quá trình tiến hoá thế giới vật chất. Là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội vì chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết nhất cho sự sống con người và các hoạt động xã hội. Tự nhiên có thể tác động thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất xã hội, có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của chính bản thân xã hội. Xã hội gắn bó với tự nhiên thông qua quá trình hoạt động thực tiễn của con người, trước hết là quá trình lao động sản xuất. Lao động là đặc trưng cơ bản đầu tiên phân biệt hoạt động của con người và động vật. Là yếu tố đầu tiên, cơ bản nhất, quan trọng nhất tạo nên sự thống nhất hữu cơ giữa xã hội và tự nhiên vì lao động là quá trình diễn ra giữa con người và tự nhiên, bằng hoạt động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Trong quá trình sử dụng các nguồn vật chất của sinh quyển để sống và lao động sản xuất, con người đã làm biến đổi tự nhiên mạnh mẽ nhất, nhanh chóng nhất so với tất cả các thành phần khác của chu trình sinh học. Biến đổi này có thể là sự cải tạo nhưng cũng có khi là sự phá hoại. Nếu con người không điều tiết việc sử dụng, khai thác, bảo quản các nguồn vật chất của tự nhiên thì khủng hoảng sinh thái sẽ xảy ra, sự cân bằng của hệ thống tự nhiên – xã hội bị phá vỡ, sự sống của con người và xã hội loài người bị đe doạ. Chính vì vậy, trong sự tác động qua lại giữa tự nhiên và xã hội, yếu tố xã hội ngày càng giữ vai trò quan trọng. Con người cần phải nắm chắc các quy luật tự nhiên, sử dụng hợp lý các nguồn vật chất của tự nhiên để bảo đảm sự cân bằng của hệ thống tự nhiên xã hội. 1.3.2. Các yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên: _ Phụ thuộc trình độ phát triển xã hội: Người ta nói rằng:”Có thể xem xét lịch sử dưới hai mặt, có thể chia lịch sử ra thành lịch sử tự nhiên và lịch sử nhân loại. Tuy nhiên, hai mặt đó không thể tách rời nhau. Chừng nào mà loài người còn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên quy định lẫn nhau.” Tự nhiên là nguồn gốc của xã hội vì thế lịch sử xã hội là sự tiếp tục lịch sử tự nhiên. Từ khi xuất hiện con người và xã hội loài người, lịch sử phát triển của tự nhiên không chỉ phụ thuộc sự tác động lẫn nhau giữa các yếu tố tự nhiên thuần tuý mà còn chịu sự chi phối mạnh mẽ và sâu sắc của các yếu tố xã hội. Ngược lại sự phát triển của lịch sử xã hội không thể tách rời các yếu tố tự nhiên vì trong mối quan hệ tự nhiên và quan hệ với nhau con người mới làm nên lịch sử nhân loại. C. Mác và Ph. Ăngghen đã xuất phát từ tiền đề – sự tồn tại của những con người sống và sự tác động của những con người đó lên phần còn lại của giới tự nhiên nhằm thoả mãn những nhu cầu của mình. Để làm nên lịch sử xã hội, con người phải tồn tại trong môi trường tự nhiên và phải tác động vào môi trường đó để lấy những gì cần thiết cho sự sống của mình, cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. Song lịch sử xã hội còn phát triển song hành với lịch sử tự nhiên. Sự phát triển của xã hội được C. Mác coi là một quá trình lịch sử – tự nhiên. Ta phải tất yếu thừa nhận lịch sử xã hội và lịch sử tự nhiên gắn bó hữu cơ và quy định lẫn nhau trong một quá trình lịch sử duy nhất. Chừng nào mà con người còn tồn tại thì lịch sử của họ và lịch sử tự nhiên còn quy định lẫn nhau. Không thể loại trừ mối quan hệ lý luận và thực tiễn của con người với tự nhên ra khỏi sự vận động của lịch sử. Tự nhiên và xã hội thống nhất với nhau tạo thành môi trường sống của con người – môi trường sinh thái. Tính chất mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên được quy định bởi phương thức sản xuất, trước hết là lực lượng sản xuất và phù hợp với nó là quan hệ sản xuất, quan hệ xã hội nói chung. Như Ăngghen viết:”Những quan hệ nhất định đó với giới tự nhiên, là do hình thức của xã hội quyết định và ngược lại”. Mối quan hệ xã hội – tự nhiên thể hiện thông qua quan hệ con người – tự nhiên, mà quan hệ này thực hiện thông qua lực lượng sản xuất, trong đó lực lượng sản xuất luôn vận động, biến đổi tạo ra các bước chuyển về chất của xã hội loài người. Sự phát triển đó là kế tiếp nhau của các hình thái kinh tế – xã hội, mỗi một hình thái kinh tế - xã hội đều đặc trưng bởi một trình độ phát triển của công cụ sản xuất nhất định. Điều đó cho thấy, sự phát triển của lực lượng sản xuất, trước hết là công cụ sản xuất – nhân tố năng động và cốt lõi quyết định trình độ phát triển của xã hội, quy định nội dung của sự phát triển của phương thức sản xuất. Công cụ sản xuất biến đổi và phát triển khiến sức chinh phục tự nhiên của con người ngày càng tăng, sự khác biệt giữa con người và tự nhiên tăng lên dẫn đến mau thuẫn, đối lập gay gắt trong hệ thống tự nhiên – xã hội dưới chủ nghĩa tư bản. Con người không chỉ coi tự nhiên như môi trường sống mà còn coi đó là kho tài nguyên vô tận để voư vét, khai thác không quan tâm tới hậu quả. Khủng hoảng sinh thái đang đe doạ nhân loại, đe doạ sự sống trên hành tinh. Muốn tồn tại và phát triển bền vững con người cần phải dừng hành động phá hoại môi trường vô tội vạ như hiện nay, thay đổi phương thức khai thác sử dụng hiên nhiên, nhất là phải xoá bỏ chế độ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, nguồn gốc phá hoại thiên nhiên. _ Phụ thuộc nhận thức và vận dụng quy luật tự nhiên và quy luật xã hội trong hoạt động thực tiễn: Xã hội và tự nhiên có mối quan hệ tác động nhau, điều này thể hiện thông qua các hoạt động của con người với tự nhiên. Các hoạt động đó tác động sâu sắc tới hệ thống tự nhiên – xã hội nhất bao gồm cả những hành động vô ý thức và những hành động có nhận thức rõ ràng, biết nắm bắt quy luật xã hôi và tự nhiên của chúng ta. Xã hội, tự nhiên, con người và hành động của con người tạo nên một thế giới mà ta đang sống. Sự phát triển của tự nhiên phụ thuộc và hoạt động thực tiễn của con người và xã hội. Trên phương diện xã hội, kết quả mà con người đạt được trong lao động sản xuất là nhằm mục đích phát triển xã hội. Song, dưới sự thống trị của chủ nghĩa tư bản, sự khai thác tự nhiên , vơ vét của cải để thu lợi nhuận tối đa đã tàn phá nặng nề tự nhiên. Xét trên bình diện tổng thể hệ thống tự nhiên – xã hội, hoạt động của con người là tự phát vì những hoạt động đó chưa tính toán đầy đủ quy luật tồn tại và phát triển của tự nhiên. Những hành động đó không chỉ huỷ hoại các sinh vật, mà còn làm tổn hại đến khả năng tự điều chỉnh của các hệ thống tự nhiên hay hệ thống tự điều chỉnh của sinh quyển. Lẽ đương nhiên tự nhiên đang quay lại trả thù chúng ta. Để không tiếp tục phạm sai lầm, phải tìm cách sống hài hoà với thiên thiên, điều khiển có ý thức mối quan hệ con người và tự nhiên. Để điều khiển tự nhiên, con người cần nhận thức được rằng mình là một bộ phận của tự nhiên, hơn thế còn là con đẻ của tự nhiên. Muốn thế chúng ta cần nắm vững các quy luật của tự nhiên, biết vận dụng những quy luật đó một cách chính xác vào trong hoạt động thực tiễn của mình. Vì tính chất của mối quan hệ lẫn nhau giữa xã hội và tự nhiên trước hết phụ thuộc vào quan hệ sản xuất, vào chế độ xã hội, vào tính chất những điều kiện chính trị kinh tế – xã hội nên nếu chỉ thay đổi nhận thức thì chưa đủ. Muốn điều khiển được những lực lượng tự nhiên cần phải điều khiển được các lực lượng xã hội. Để loại trừ tận gốc nguyên nhân phá hoại tự nhiên và gây ô nhiễm môi trường thì phải loại bỏ chế độ người bóc lột người dựa trên cơ sở tư hữu tư nhân về tư liệu sản xuất. Thiết lập nên một hình thái xã hội mới – hình thái xã hội cộng sản chủ nghĩa chính là tiền đề giải quyết mâu thuẫn gay gắt giữa con người với con người và giữa con người với tự nhiên. Chỉ dưới chủ nghĩa cộng sản, con người mới được giải phóng khỏi áp bức, bóc lột, được hành động tự do, có đầy đủ điều kiện xã hội và những tri thức cần thiết để nắm bắt các quy luật tự nhiên, quy luật xã hội biết tự giác sống theo những quy luật đó. + Tính thống nhất vật chất của thế giới là cơ sở của sự thống nhất biện chứng giữa con người, xã hội và tự nhiên: Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới: Triết học Mác đã nghiên cứu con người và tự nhiên trong sự thống nhất hữu cơ giữa chúng, đồng thời cũng chỉ ra sự khác nhau về chất giữa con người xã hội và tự nhiên. Một mặt chủ nghĩa Mác khẳng định ảnh hưởng to lớn của tự nhiên đối với sự tồn tại và phát triển của con người và xã hội; mặt khác, nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng của con người và xã hội với tư cách là nhân tố gây ra sự biến đổi không ngừng của tự nhiên. Tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó dù tồn tại là tiền đề của tính thống nhất của nó, vì trước khi thế giới có thể là một thể thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã... Tính thống nhất thực sự của thế giới là ở tính vật chất của nó. Tính vật chất này được chứng minh bằng sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên. Ăngghen còn đặc biệt nhấn mạnh sự thống nhất vật chất của thế giới nằm trong sự vận động chuyển hoá và phát triển không ngừng:”Vận động là cách thức tồn tại của vật chất. Bất kì ở đâu và bất cứ lúc nào cũng không có và không thể có vật chất mà không có vận động”. Thế giới cực kì phức tạp và đa dạng, được cấu thành từ nhiều yếu tố, suy cho cùng là từ ba yếu tố cơ bản: giới tự nhiên, con ngươi và xã hội loài người. Ba yếu tố thống nhất với nhau trong một hệ thống “Tự nhiên – Con người – Xã hội”. Chúng đều là những dạng thức khác nhau, những trạng thái, những đặc tính và những quan hệ khác nhau, những trạng thái những đặc tính và những quan hệ khác nhau của vật chất đang vận động. Thế giới luôn vận động, nhưng lại luôn ổn định vì sự vận động của thế giươí là sự vận động có quy luật và tuân theo quy luật. Tất cả các quá trình diễn ra trong tự nhiên, trong xã hội và trong con người đều phải chị chi phối của một số quyluật phổ biến nhất định. Sự hoạt động của các quy luật đó đã nối liền các yếu tố của thế giới thành một chỉnh thể thống nhất, vĩnh viễn vận dộng và phát triển không ngừng trong không gian và thời gian. Nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới do Ph. Ăngghen đưa ra đã khẳng định rằng tuy thế giới muôn màu muôn vẻ, vô cùng phức tạp nhưng chúng là một chỉnh thể toàn vẹn, vì chúng đều được cấu thành từ vật chất. Bằng sự vận động, các yếu tố của thế giới đẫ nối liền với nhau thành một hệ thống. ý nghĩa phương pháp luận rút ra từ nguyên lý về tính thống nhất vật chất của thế giới đối với việc giải quyết vấn đề sinh thái hiện nay: ý nghĩa phương pháp luận thứ nhất là: Các khoa học như thiên văn học, vũ trụ học... đã chỉ ra tính thống nhất của thế giới ở tầm vĩ mô. Vật lý học, hoá học... đã chứng minh được tính thống nhất vật chất của thế giới ở mức độ vi mô. Nhờ sinh vật học, con người đã nhận thức ra sự thống nhất vật chất của thế giới hữu cơ ở tầm vi mô và vĩ mô: đó là sự tồn tại của các đại phân tử di truyền ADN và ARN ở tất cả các cơ thể sống. Hệ thống Tự nhiên – Con người – xã hội là một bộ phận lớn nhất, bao trùm nhất đối với sự sống con người. Cơ sở thống nhất của hệ thống này được quy định bởi cấu trúc chặt chẽ, liên hoàn của sinh quyển và bởi cơ chế hoạt động theo nguyên tắc tự tổ chức, tự bảo vệ, tự điều chỉnh, tự làm sạch của chu trình sinh học. ý nghĩa phương pháp luận đầu tiên rút ra từ nguyên lý là: Phải có quan điểm hệ thống, quan điểm toàn diện và phát triển trong việc giải quyết các vấn đề sinh thái hiện nay. Do đó, con người cần nhận thức rằng con người và xã hội dù phát triển đến mức độ cao cũng chỉ là một bộ phận của sinh quyển. Con người và xã hội tuy đã có sức mạnh to lớn, về một mặt nào đó có thể so sánh với sức mạnh tự nhiên nhưng hoạt động của con người không thể vượt ra ngoài hệ thống. ý nghĩa phương pháp luận thứ hai là: Con người cần phải tìm ra những phương sách thích hợp, cần thiết để giải quyết những mâu thuẫn giữa xã hội và tự nhiên. Về mặt cấu trúc, giữa con người xã hội và tự nhiên không có gì mâu thuẫn. Mâu thuẫn giữa xã hội và tự nhiên nảy sinh từ hoạt động của con người, bắt đầu từ phương thức sản xuất. Bởi vậy, việc giải quyết mâu thuẫn cũng phải bắt đầu từ việc khắc phục những sai lầm của phương thức sản xuất. Hoạt động sản xuất của con người ngoài việc tái sản xuất xã hội mà còn phải tái sản xuất những tài nguyên thiên nhiên đã tiêu dùng và thải bỏ trong qua trình sản xuất. ý nghĩa phương pháp luận thứ ba là: Sự thống nhất của ba yếu tố tự nhiên, con người và xã hội trong hệ thống là một tất yếu khách quan, vốn có. Chính con người và xã hội góp phần quan trọng vào việc phá vỡ sự thống nhất đó. Con người phải có trách nhiệm thiết lập lại sự thống nhất đó để tạo nên sự hài hoà thật sự giữa xã hội và tự nhiên. Trên cơ sở nền khoa học, kỹ thuật và công nghệ phát triển cao, con người cần phải hướng hoạt động của xã hội vào việc tìm kiếm các con đường dẫn đến sự thống nhất thật sự giữa các yếu tố trong hệ thống Tự nhiên – Con người – Xã hội. + Sự thống nhất biện chứng của mối quan hệ giữa con người với con người và giữa con người với tự nhiên. C. Mác và Ph. Ăngghen luôn nhấn mạnh đến vai trò quyết định của lực lượng sản xuất, của kinh tế đối với sự phát triển xã hội, song, không bao giờ các ông tách rời lực lượng sản xuất ra khỏi quan hệ sản xuất, nghĩa là tách mối quan hệ giữa con người với con người, vì đó là sự thống nhất giữa nội dung và hình thức của một phương thức sản xuất xác định. Con người làm nên lịch sử xã hội mà xã hội là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa người và người. Do đó, nói đến sự tiến bộ xã hội không thể chỉ nói đến mối quan hệ giữa con người với tự nhiên mà phải tính đến cả mối quan hệ giữa con người và con người, nhất là mối quan hệ giữa người và người trong quá trình sản xuất. Nếu sự tiến bộ xã hội được xem xét theo sự thống nhất lịch sử cụ thể của các mối quan hệ giữa con người với con người và con người với tự nhiên, thì trong quá trình lịch sử tự nhiên, các cuộc cách mạng lực lượng sản xuất đã đưa đến ba trình độ phát triển của xã hội loài người. Cuộc cách mạng sản xuất lần thứ nhất đã tách con người ra khỏi thế giới động vật, song, trong buổi đầu sơ khai của lịch sử, xã hội và tự nhiên đã hoà nhập lại thành một chỉnh thể thống nhất, chưa có sự đối lập giữa con người và tự nhiên, giữa con người và con người. ở giai đoạn hai của sự tiến bộ xã hội, các cuộc cách mạng lực lượng sản xuất đã đưa đến sự tách biệt, đối lập gay gắt giữa con người và tự nhiên, cùng với nó là sự mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa con người với con người. Điều này tiêu biểu ở các nước tư bản chủ nghĩa, bọn tư bản nhằm thu lợi nhuận tối đa đã không tiếc gì việc khai thác bừa bãi môi trường và người gánh chịu hậu quả chính là những người lao động nghèo. Hiện nay, ở các nước chậm phát triển nếu không có nhận thức đúng về mối quan hệ giữa phát triển kinh tế với bảo vệ môi trường cũng rất dễ trở thành nạn nhân, bãi thải công nghệ lạc hậu, phá hoại môi trường của các nước phát triển. Việc đưa khoa học, kỹ thuật công nghệ trở thành lực lượng sản suất trực tiếp, cuộc cách mạng lực lượng sản xuất lần thứ tư dẫn đến sự biến đổi sâu sắc mối quan hệ con người với tự nhiên và con người với con người. Sự vận động khách quan tất yếu của quá trình lịch sử tự nhiên sẽ dẫn đến sự thống nhất giữa môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, giữa con người – xã hội – tự nhiên. Cơ sở bảo đảm sự thống nhất đó chính là sự thống trị của công nghệ trí tuệ trong giai đoạn phát triển mới này. Hoạt động trí tuệ của con người sẽ giữ vai trò quyết định trực tiếp đến cả sự tồn tại của xã hội lẫn tự nhiên. Môi trường sống duy nhất mà con người đang hướng đến để xây dựng là môi trường mà trong đó không cần sự đối lập gay gắt giữa con người và tự nhiên, cũng như sự đối kháng giữa con người với con người. Con người và tự nhiên, con người và con người có mối quan hệ thống nhất biện chứng với nhau nên con người là chủ thể chính trong việc tạo nên một môi trường tự nhiên lành mạnh hay ô nhiễm. Điều này có mối quan hệ liên quan đến nhau rất lớn vì nếu chúng ta gây tác hại cho môi trường thì chính chúng ta đang làm hại bản thân. Nếu một số người vì lợi ích riêng mà phá hoại môi trường thì họ đang làm hại đến đồng loại của mình. Đồng ý rằng việc khai thác tài nguyên là góp phần sản xuất, tạo ra sự phát triển xã hội nhưng tăng trưởng mà không quan tâm đến sự bền vững thì tăng trưởng chỉ là trước mắt không lâu dài, thậm chí theo sau tăng trưởng là nguy cơ to lớn về việc mất đi môi trường sống. + Nguyên lý về sự điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa con người và tự nhiên: Sự phát triển của xã hội loài người ngày nay đang hướng đến các mục tiêu: phồn thịnh về kinh tế, công bằng bình đẳng về xã hội và môi trường sinh thái trong sạch. Chỉ có hướng đến các mục tiêu đó, xã hội mới có thể đạt đến sự phát triển lâu bền. Con người bằng quá trình sản xuất xã hội đã gây nên biết bao vấn đề tiêu cực, bức xúc và nóng bỏng trong lĩnh vực môi trường sinh thái. Để tồn tại và phát triển trước tiên con người phải sửa chữa những sai lầm của mình, mà cơ sở phương pháp luận chung nhất đó là điều khiển một cách có ý thức mối quan hệ giữa con người (xã hội) và tự nhiên. Theo Ph. Ăngghen sự điều khiển một cách có ý thức ở đây không phải là bắt tự nhiên phải phục tùng con ngưòi một cách vô điều kiện như một kẻ xâm lược đi thống trị một dân tộc khác, mà là phải biết nắm vững những quy luật của tự nhiên và phải biết vận dụng những quy luật đó vào trong hoạt động thực tiễn của mình, trứoc hết và quan trọng hơn cả là vào quá trình sản xuất xã hội. Chương 2. Nhìn nhận thực tế môi trường hiện nay ở Việt Nam - Thực trạng và giải pháp cho vấn đề nóng bỏng này. 2.1 . Các khái niệm cần biết: _ Môi trường: Môi trường là khái niệm dùng để chỉ tổng thể các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo bao quanh con người, có quan hệ mật thiết đến sinh hoạt sống và phát triển của con người và xã hội loài người. Khái niệm môi trường ở đây không phải là thế giới tự nhiên nói chung bất kỳ mà là thế giới tự nhiên đặt trong mối quan hệ mật thiết với sinh hoạt sống và phát triển của con người và xã hội loài người. _ Môi trường sinh thái: Môi trường sinh thái là bao gồm tất cả những điều kiện xung quanh liên quan đến sự sống của sinh thể. Đối với con người, môi trường sinh thái là tất cả điều kiện tự nhiên và xã hội, cả vô cơ và hữu cơ có liên quan đến sự sống của con người, sự tồn tại, phát triển của xã hội. _ Ô nhiễm môi trường: Ô nhiễm môi trường là sự làm thay đổi tính chất của môi trường, vi phạm tiêu chuẩn môi trường (Điều 2, chương I, Luật bảo vệ môi trường của CHXHCN Việt Nam). _ Bảo vệ môi trường: Bảo vệ môi trường là những hoạt động giữ cho môi trường trong lành, sạch đẹp, cải thiện môi trường, bảo đảm cân bằng sinh thái, ngăn chặn, khắc phục các hậu quả xấu do con người và thiên nhiên gây ra cho môi trường, khai thác, sử dụng hợp lý và tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên (Điều 1, chương I, Luật bảo vệ môi trường của CHXHCN Việt Nam). _ Phát triển bền vững: Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng các nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại khả năng của các thế hệ tương lai trong đáp ứng các nhu cầu của họ. Phát triển bền vững về môi trường là đòi hỏi phải bảo vệ tài nguyên thiên nhiên cho sản xuất lương thực, chất đốt trong khi vẫn mở rộng sản xuất để đáp ứng nhu cầu của số dân tăng nhanh. Phát triển bền vững là phải sử dụng có hiệu quả đất canh tác và nguồn nước cũng như lựa chọn kỹ thuật và công nghệ tiên tiến để nâng cao sản lượng._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35561.doc
Tài liệu liên quan