Quan hệ kinh tế thương Mại Việt Nam - Trung Quốc hiện tại và triển vọng

Lời nói đầu Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có đường biên giới chung dài hơn 1350 Km, trong đó Việt Nam có 6 tỉnh : Quảng Ninh, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Giang, Lai Châu và Lào Cai tiếp giáp với 2 tỉnh( Khu tự trị ) của Trung Quốc là Quảng Tây và Vân Nam. Quan hệ về Chính trị - Ngoại giao, kinh tế- thương mại và giao lưu văn hoá giữa hai nước đã có từ lâu đời và đã trở thành mối quan hệ truyền thống bền vững. Tuy nhiên qua các thời kỳ lịch sử cũng có những biến động về chính trị -

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1288 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ kinh tế thương Mại Việt Nam - Trung Quốc hiện tại và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xã hội làm ảnh hưởng tới quan hệ kinh tế thương mại giữa hai nước nhưng chưa bao giờ làm triệt tiêu quan hệ kinh tế đó, trái lại hoạt động kinh tế, thương mại giữa hai nước ngày càng có điều kiện thuận lợi để phát triển, phù hợp với xu thế hoà bình, ổn định và phát triển trong khu vực và trên thế giới . Có thể nói đẩy mạnh quan hệ thương mại qua biên giới Việt -Trung đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước, góp phần làm tăng thu ngân sách, nâng cao đời sống nhân dân, làm thay đổi bộ mặt kinh tế - xã hội và văn hoá của nhân dân hai bên vùng biên giới. Mặc dù trong thời gian qua hoạt động kinh tế thương mại Việt - Trung đã mang lại những thành công to lớn, đã phát huy được tiềm năng, thế mạnh của kinh tế cửa khẩu biên giới, góp phần xây dựng công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá của mỗi nước, song đã nảy sinh những vấn đề phức tạp cần phải nhìn nhận, đánh giá một cách đúng đắn. Tình hình trên đòi hỏi phải có một chương trình nghiên cứu cơ bản và toàn diện về hoạt động thương mại giữa hai nước, nhằm đánh giá đúng đắn những mặt tích cực và hạn chế những phát sinh không thuận lợi, từ đó có những kiến nghị cụ thể, sát thực, phù hợp với những hoạch định về chính sách phát triển kinh tế đối ngoại của Đảng và nhà nước ta. Xuất phát từ yêu cầu đó, trên cơ sở hệ thống lý luận đã được học tập nghiên cứu, cùng với sự giúp đỡ, hướng dẫn tận tình của Thầy Phan Anh Tuấn, tôi chọn đề tài: “Quan hệ Kinh tế, Thương Mại Việt Nam - Trung Quốc hiện tại và triển vọng” với mong muốn đóng góp một phần nhỏ trong chương trình nghiên cứu về quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc. Những nội dung chủ yếu được trình bày trong khoá luận bao gồm các chương sau: Lời nói đầu Chương I : Khái quát về quan hệ kinh tế - thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc. Chương II : Thực trạng quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Trung Quốc . Chương III : Triển vọng của quan hệ kinh tế - thương mại Việt Nam - Trung Quốc. Kết luận. Dựa trên những tư liệu sưu tầm được khoá luận tập trung làm rõ quan hệ kinh tế- thương mại giữa Việt Nam và Trung Quốc trong hơn 10 năm qua. Chỉ ra những mặt tích cực cũng như những hạn chế nảy sinh, để từ đó có những ý kiến đóng góp nhằm phát triển quan hệ kinh tế-thương mại Việt - Trung. Đây là một vấn đề phức tạp, đối tượng và phạm vi nghiên cứu quá rộng lớn, phải có sự tham gia của nhiều ngành, nhiều người với thời gian dài nên bài viết của tôi không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong được sự quan tâm giúp đỡ của các thầy, cô giáo và các bạn để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn. Tôi xin trân trọng cảm ơn ! Hà nội, Tháng 5 năm 2003 Sinh viên thực hiện PHẠM NGỌC NAM CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC I. VÀI NÉT VỀ LỊCH SỬ QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI VIỆT - TRUNG 1. Quan hệ kinh tế- thương mại Việt - Trung trong tiến trình lịch sử. Kể từ khi Việt Nam lập quốc, do nhu cầu giao lưu tự nhiên của cư dân hai nước, Vịêt Nam và Trung Quốc đã sớm thiết lập mối quan hệ bang giao nói chung và quan hệ kinh tế - thương mại nói riêng. Trong các giai đoạn lịch sử, hai nước đều sự chịu ảnh hưởng của tư tưởng nho giáo, thường thiếu sự chú ý đến các hoạt động kinh tế nên trong các bộ sử nội dung viết về vấn đề kinh tế không nhiều. Mặt khác do tình hình chính trị của mỗi nước, đặc biệt là chiến tranh giữa các vương triều, đã gây khó khăn làm gián đoạn mối quan hệ kinh tế giữa hai nước. Tuy nhiên, những gián đoạn, những khoảng trống vắng trong quan hệ giữa hai nước nói chung và quan hệ kinh tế- thương mại nói riêng cũng chỉ có ý nghĩa nhất thời vì quan hệ giao lưu buôn bán giữa hai nước đã được hình thành và phát triển qua hàng nghìn năm lịch sử kể từ khi hai nước lập quốc. Dưới các triều đại phong kiến quan hệ trao đổi buôn bán mới chỉ dừng ở phạm vi hẹp nhưng cũng mang một ý nghĩa rất quan trọng cho sự ổn định chính trị và phát triển kinh tế của mỗi quốc gia trong quá trình lịch sử. Trong giai đoạn từ đầu thế kỷ X đến cuối thế kỷ XIX quan hệ kinh tế giữa hai nước có những đặc điểm nổi bật sau đây: - Ngay từ xa xưa quan hệ kinh tế thương mại đã vượt ra khỏi biên giới một quốc gia, việc buôn bán từ nước ngoài thường mang về lợi nhuận cao hơn, hơn nữa thông qua hoạt động buôn bán qua biên giới làm thoả mãn nhu cầu tiêu dùng của bộ máy quân chủ của hai nước. - Chính sách xuyên suốt trong lịch sử các vương triều Việt Nam là độc lập tự chủ, luôn áp dụng nguyên tắc “hoà hiếu với phương Bắc “, nới lỏng, cho tự do buôn bán, trao đổi hàng hoá, miễn là tôn trọng, thực hiện đúng pháp luật Việt Nam . - Quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Trung Quốc trong suốt hơn 20 thế kỷ không phải diễn ra bình lặng, mà quan hệ kinh tế ấy có những biến động thăng trầm phụ thuộc vào quan hệ chính trị giữa hai quốc gia. - Mặc dù cả hai nước phong kiến Việt Nam và Trung Quốc trong nhiều thời gian dài thực hiện chính sách “ Bế quan, toả cảng “ song các hoạt động kinh tế, nhất là hoạt động trao đổi buôn bán ở vùng biên giới Việt - Trung vẫn diễn ra, vượt khỏi sự cấm đoán của triều đình trung ương . - Trong quan hệ kinh tế Việt Nam - Trung Quốc suốt hơn 20 thế kỷ, thì phần ưu thế, thường thuộc về các thương nhân Trung Quốc hơn là thương nhân Việt Nam. Điều này cho thấy khả năng vươn xa của và việc tổ chức buôn bán của thương nhân Việt Nam còn có nhiều hạn chế . 2. Giai đoạn sau khi hai nước giành được độc lập Từ khi hai nước giành được độc lập cho đến những năm 80 của thế kỷ 20 , quan hệ kinh tế giữa hai nước được chia ra làm 4 giai đoạn chính sau đây: Giai đoạn 1950 - 1954: Sau chiến thắng lợi của chiến dịch biên giới 1950, các tỉnh Cao Bằng, Bắc Cạn, Lạng Sơn được giải phóng đã tạo điều kiện cho giao lưu buôn bán trao đổi hàng hoá của nhân dân hai bên biên giới. Tháng 9/1951 Chính phủ hai nước Việt - Trung đã ký các hiệp định về mậu dịch, Hiệp định về tiền tệ và Hợp đồng xuất nhập khẩu. Đồng thời thành lập các Ty quản lý xuất nhập khẩu ở Lạng Sơn, Cao Bằng và các Đồn quản lý xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu biên giới. Một số công ty xuất nhập khẩu ở các tuyến được ra đời dưới sự lãnh đạo của Bộ Công thương để làm nhiệm vụ xuất nhập khẩu hàng hoá. Tháng 2/1953 cửa khẩu Lào Cai được mở cửa thông thương buôn bán với Hồ Kiều của Trung Quốc. Từ dầu năm 1954 công cuộc kháng chiến chống thực dân pháp của nhân dân ta đã tiến triển mạnh mẽ. Hội nghị toàn quốc lần thứ tư bàn về đấu tranh kinh tế với địch họp tại Việt Bắc đã nêu rõ chủ trương tích cực đẩy mạnh xuất khẩu để đáp ứng nhu cầu nhập khẩu các loại hàng hoá cần thiết phục vụ sản xuất và chiến đấu. Chính phủ ta khuyến khích trao đổi một số mặt hàng như sa nhân, cà phê với Trung Quốc. Để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho buôn bán dân gian qua biên giới Chính phủ ta đã ban hành nghị định 391/TTg về quản lý mậu dịch tiểu ngạch nhân dân biên giới Việt - Trung. Giai đoạn từ 1954 -1964 Đây là thời kỳ khôi phục và xây dựng kinh tế ở miền Bắc, ngày 10/2/1955 đã khánh thành đường sắt Hà Nội - Mục Nam Quan, tạo điều kiện thuận lợi cho việc vận chuyển hành khách và hàng hoá từ Thủ đô lên biên giới phía Bắc để trao đổi hàng hoá với Trung Quốc và các nước Xã hội chủ nghĩa khác. Ngày 7/7/1955 Chính phủ ta đã ký với Trung Quốc Nghị định thư về trao đổi hàng hoá giữa các công ty mậu dịch địa phương vùng biên giới và Hiệp định viện trợ. Xuất phát từ yêu cầu thực tế kỳ họp khoá 8 Quốc hội Việt Nam đã quyết định chia Bộ Thương nghiệp ra thành Bộ Nội thương và Bộ ngoại thương. Với sự thay đổi lại tổ chức, công tác xuất nhập khẩu đã trưởng thành thêm một bước, hàng loạt các công ty xuất nhập khẩu biên giới được thành lập với nhiệm vụ trao đổi hàng hoá và nhận hàng viện trợ qua biên giới Việt - Trung . Giai đoạn từ 1965 - 1975 Trong khi Việt Nam tiến hành công cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam thì từ những năm 1966 Trung Quốc bắt đầu tiến hành “ Đại cách mạng văn hoá vô sản “ , kết thúc vào năm 1976. Mặc dù thời kỳ đó tình hình xã hội Trung Quốc hỗn loạn nhưng quan hệ giữa Chính Phủ Việt Nam và Chính Phủ Trung Quốc vẫn phát triển tốt đẹp. Việt Nam tiếp tục củng cố thêm một bước các tổ chức ngoại thương của mình, hoàn chỉnh các chính sách chế độ về mậu dịch đối ngoại, đồng thời tăng cường sự hợp tác giúp đỡ của phía Trung Quốc nhằm khắc phục những khó khăn trong thời chiến . Hàng năm Chính phủ phê duyệt cho Bộ ngoại thương được phép cử đoàn đại diện tham dự Hội chợ Quảng Châu Trung Quốc, để giao dịch với các công ty Trung Quốc và các thương nhân của các nước khác, nghiên cứu các kinh nghiệm làm ăn và chuẩn bị hàng xuất khẩu. Tháng 7/1965 Chính phủ Việt Nam ký với Trung Quốc Nghị định thư về việc chuyển tải hàng xuất khẩu của Việt Nam trong thời chiến qua các cảng của Trung Quốc. Chính Phủ ta đã đề nghị với Chính Phủ Trung Quốc cho phép thành lập một số trạm tiếp nhận và điều chuyển hàng viện trợ của các nước và hàng xuất khẩu của Việt Nam trên đất Trung Quốc ( ở Mãn Châu Lý, Nam Ninh, Côn Minh, Hoàng Phố, Trạm Giang). Từ 1967 đến 1975 Chính phủ ta và Trung Quốc lần lượt ký các Hiệp định, Nghị định thư và thư trao đổi về việc Chính phủ Trung Quốc viện trợ không hoàn lại, viện trợ bệnh viện, lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng cho Việt Nam; viện trợ kinh tế và quân sự, viện trợ kinh tế và kỹ thuật cho Việt Nam; cung cấp vật tư, cung cấp thiết bị lẻ cho đài phát thanh. Có thể nói rằng hoạt động xuất nhập khẩu trong thời kỳ này tập trung chủ yếu vào việc vận chuyển hàng viện trợ từ Trung Quốc và các nước anh em khác phục vụ cho công cuộc kháng chiến chống Mỹ giải phóng miền Nam. Giai đoạn từ 1976 - 1978 Sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ cao cả là giải phóng miền Nam, Việt Nam đã tiến hành tổng tuyển cử trong cả nước bầu ra Quốc hội của cả nước Việt Nam thống nhất. Cũng trong thời gian đó cuộc “ đại cách mạng văn hoá vô sản “ kết thúc, Trung Quốc thực sự bước vào thời kỳ cải cách mở cửa. Trong giai đoạn này Việt Nam và Trung Quốc tiếp tục ký các Hiệp định trao đổi hàng hoá và thanh toán. Mặc dù mậu dịch biên giới Việt - Trung có nhiều lợi thế đối với nhân dân vùng biên của hai nước, không thị trường nào có thể so sánh được, đó là thị trường gần, vị trí núi liền núi, sông liền sông, nhân dân hai nước có quan hệ truyền thống lâu đời, hàng hoá hai bên bổ sung cho nhau. Nhưng từ năm 1978 trở về trước buôn bán qua biên giới Việt - Trung còn giới hạn ở mức nhỏ bé không đáng kể , chủ yếu là các hoạt động mua bán dân gian tự phát do nhu cầu sinh hoạt thông thường điều tiết. Phía Việt Nam bán sang Trung Quốc một số hàng nông lâm thổ sản, muối biển, gia súc... . Phía Trung Quốc bán sang Việt Nam một số hoa quả tươi, một số hàng công nghiệp nhẹ tiêu dùng như vải vóc, quần áo may sẵn, một số đồ gia dụng, công cụ sản suất ... Mậu dịch biên giới Việt - Trung từ năm 1978 trở về trước chưa thể phát triển mạnh được chủ yếu là vì nền kinh tế của hai nước chưa phát triển. Kinh tế vùng biên giới của hai nước đều là kinh tế miền núi, mang nặng tính tự cung tự cấp, lạc hậu, phân tán, cư dân chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số văn hoá chậm phát triển. 3. Giai đoạn sau khi hai nước bình thường hoá quan hệ Từ sau năm 1978, quan hệ hữu nghị của hai nước có phần lắng xuống, khu vực biên giới trở thành những điểm nóng về an ninh, chính trị và trật tự an toàn xã hội đã phải đóng cửa hàng loạt các cửa khẩu biên giới. Quan hệ kinh tế thương mại bị ngừng trệ, đã có ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ phát triển kinh tế của hai nước và đặc biệt là kinh tế khu vực cửa khẩu biên giới. Sau nhiều nỗ lực cố gắng của cả hai bên, quan hệ giữa hai nước đã khởi sắc và trở lại bình thường hoá vào cuối năm 1991. Từ đó cho đến nay, quan hệ giữa hai nước nói chung và quan hệ kinh tế - thương mại nói riêng, đã phát triển ngày càng mạnh, ngày càng bền vững và đang trở thành một bộ phận quan trọng trong chính sách đối ngoại của cả hai nước. Từ khi hai nước bình thường hoá đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu của hai bên đã tăng lên nhanh chóng, hàng hoá trao đổi qua các cửa khẩu biên giới Việt - Trung hết sức nhộn nhịp, thị trường ở đây đã sớm trở thành nơi sôi động nhất của nước ta, đặc biệt là ở các cửa khẩu Quảng Ninh, Lạngáơn, Cao Bằng và Lào Cai. Quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước từ năm 1991 trở lại đây không ngừng phát triển với qui mô khá lớn, tuy nhiên vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của cả hai nước. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, tổng trị giá kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước năm 1991 chỉ đạt 37,7 triệu USD đến năm 1993 đã là 221,2 triệu USD và đặc biệt năm 2002 đạt trên 3,6 tỷ USD, tăng 97 lần so với năm 1991. Về cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu ngày càng mở rộng, ngoài những mặt hàng xuất khẩu truyền thống như dầu thô, cao su, hải sản... hai bên đã bổ sung một số mặt hàng có thế mạnh khác. Trong những năm gần đây, Việt Nam đã đẩy mạnh xuất khẩu các sản phẩm đã qua chế biến như sản phẩm cà phê hoà tan, hạt điều đã qua chế biến, dầu ăn và một số hàng tiểu thủ công nghiệp và hàng tiêu dùng khác cũng đã và đang dần chiếm được thị trưởng ở Trung Quốc. Về phía Trung Quốc áp dụng chính sách mậu dịch biên giới, hỗ trợ và đặc biệt ưu đãi cho thương mại biên giới nhằm khai thác triệt để thị trường các nước láng giềng cho tiêu thu hàng hoá tiêu dùng của Trung Quốc. Cũng do thành công trong phương thức buôn bán biên mậu biên giới, trong những năm qua, hàng hoá của Trung Quốc đã chiếm được thị trường của Việt Nam. Có thể nói, ở đâu cũng có hàng hoá của Trung Quốc. Qua nghiên cứu lịch sử quan hệ giữa hai nước nói chung và quan hệ kinh tế - thương mại nói riêng cho thấy rằng, sự ổn định về an ninh, chính trị là một nhân tố hết sức quan trọng trong quan hệ nhiều mặt giữa hai nước. Như đã biết, Trung Quốc là một quốc gia đông dân nhất thế giới, có nhiều nét tương đồng về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội với Việt Nam. Bản thân nền kinh tế Việt Nam ở nhiều ngành, nhiều lĩnh vực trước đây đã có sự giúp đỡ của Trung Quốc. Chính vì vậy, mở rộng quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế, đồng thời tạo sự ổn định về quan hệ chính trị giữa hai nước là vấn đề hết sức cần thiết. II. PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI VIỆT - TRUNG LÀ MỘT XU THẾ TẤT YẾU 1. Vài nét về tình hình quốc tế và khu vực Tình hình Quốc tế và khu vực vào cuối những năm 80 đầu những năm 90 có những thay đổi cực kỳ sâu sắc. Sự tan rã của Liên Xô vào tháng 9/1991 đã đánh dấu sự kết thúc thời kỳ chiến tranh lạnh. Từ đây thế giới bước vào một thời kỳ mới. Các nước lớn đều tiến hành điều chỉnh chiến lược toàn cầu và chính sách đối ngoại của mình. Hoà bình và phát triển đã trở thành trào lưu chính của thời đại. Trên thế giới, các nước dù lớn hay nhỏ đều tranh thủ môi trường quốc tế hoà bình để tập trung lực lượng cho nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế của nước mình. Tình hình quốc tế trên đây đã có những tác động mạnh mẽ đến tình hình khu vực châu Á nói chung và Đông Nam Á nói riêng. Trong khu vực Đông Nam Á, xu thế hoà hoãn giữa các nước và nhóm nước trong khu vực với các nước lớn đã xuất hiện. Các nước trong khu vực cũng điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình cho phù hợp với tình hình mới. Đặc biệt mối quan hệ giữa hai nhóm nước Đông Dương và ASEAN ( 5 nước trước đây ) cũng như quan hệ giữa các nước này với Trung Quốc đã từng bước được cải thiện. Từ năm 1989, lần lượt các nước Lào, Indônêxia... đã bình thường hoá và quan hệ với Trung Quốc; còn các nước Xingapo, Brunây cũng đã thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung Quốc. Như vậy, sự kết thúc của chiến tranh lạnh đã làm cho những xung đột về chính trị và hệ tư tưởng trong khu vực giảm đi rất nhiều, đối thoại thay cho đối đầu. Mở rộng giao lưu kinh tế, văn hoá không chi trở thành xu thế chung giữa các nước trong khu vực, mà còn là đòi hỏi tất yếu trong công cuộc xây dựng kinh tế ở mỗi quốc gia. 2. Tình hình riêng của hai nước đầu những năm 90 Quan hệ Việt Nam và Trung Quốc là hai nước láng giềng, có hoàn cảnh địa lý gần gũi, có truyền thống văn hoá tương đồng, gắn bó với nhau. Trải qua hàng nghìn năm lịch sử, Việt Nam và Trung Quốc chia sẻ nhiều giá trị chung của nền văn minh phương đông. Việt Nam tiếp thu nhiều giá trị về văn hoá và tôn giáo Trung hoa cổ đại: đạo Khổng, thơ Đường của Trung Quốc được trân trọng ở Việt Nam. Nhân dân Việt Nam và Trung Quốc có mối quan hệ hữu nghị tốt đẹp, truyền thống, đã trải qua thử thách của thời gian và những thành tích đạt được trong những năm qua tạo tiền đề tốt đẹp cho sự phát triển hơn nữa mối quan hệ Việt - Trung. Những yếu tố quan trọng thúc đẩy mối quan hệ giữa hai nước trong thời gian qua. Trước hết, Việt Nam - Trung Quốc có nét tương đồng về văn hoá, có phong tục tập quán Á Đông tương đối giống nhau. Có thể nói, sự tương đồng về văn hoá và sự gần gũi về phong tục tập quán nảy sinh từ nền văn minh lúa nước là nhân tố hết sức quan trọng tạo nên truyền thống láng giềng hoà mục, hữu hảo, gần gũi và dễ thông cảm lẫn nhau trong giao lưu, quan hệ giữa nhân dân hai nước Việt - Trung từ bao đời nay. Thứ hai, hai nước Việt Nam - Trung Quốc núi liền núi, sông liền sông và có chung biên giới lãnh hải Vịnh Bắc Bộ và biển Đông. Yếu tố địa lý này khác với biên giới giữa Trung Quốc với Thái Lan, Lào và Mianma. Đây là yếu tố thuận lợi tạo dựng nên mối quan hệ giao lưu văn hoá, thông thương kinh tế, buôn bán và giúp đỡ lẫn nhau cuộc đấu tranh cách mạng giữ nước của mỗi bên. Nhân dân các dân tộc thiểu số sống hai bên biên giới từ bao đời nay đã hình thành quan hệ thân tộc. Mối giao hoà láng giềng thân thiện đó đã tạo nên tình cảm gắn bó “ Tắm chung một dòng sông”, “ Nghe chung tiếng gà gáy “, “gặp nhau như anh em một nhà”. Thứ ba, về thể chế chính trị, Việt Nam và Trung Quốc có thể chế chính trị giống nhau, đều do Đảng Cộng sản lãnh đạo, trung thành với Chủ nghĩa Mác- Lê Nin, không chấp nhận đa nguyên, đa đảng. Hai nước đều kiên trì xây dựng nhà nước pháp quyền dân chủ nhân dân và chế độ Xã Hội Chủ Nghĩa. Đặc biệt trong hoàn cảnh CNXH tạm thời đang trong giai đoạn khó khăn, Đảng Cộng Sản Trung Quốc và Đảng Cộng Sản Việt Nam đã và đang gánh vác trọng trách bảo vệ vai trò lãnh đạo bền vững của Đảng Cộng Sản và sức sống mạnh mẽ của CNXH . Thứ tư, về kinh tế, Hai nước Việt - Trung đều có tiềm năng to lớn trong nhiều lĩnh vực hợp tác kinh tế, mậu dịch và đầu tư vì lợi ích chung và lợi ích riêng của mỗi bên. Hai nước đã có chung đường biên giới trên bộ, trên biển là điều kiện thuận lợi cho hai bên thông thương mậu dịch, đẩy mạnh hoạt động xuất nhập khẩu. Trung Quốc là thị trường rộng lớn, đầy tiềm năng, có sức tiêu thụ lớn của của một thị trường trên 1,2 tỷ dân. Việt Nam là quốc gia thuộc hàng trung bình trên thế giới, sấp xỉ 80 triệu dân, tài nguyên thiên nhiên nhiên phong phú, nguyên liệu sản xuất dồi dào. Đó là những yếu tố bổ sung, hỗ trợ cho nhau vì chiến lược phát triển kinh tế của mỗi nước và tiến trình tham gia hợp tác, hội nhập kinh tế khu vực, toàn cầu. Trong bối cảnh chung của tình hình Quốc tế và khu vực nêu trên, tình hình riêng của Việt Nam và Trung Quốc cũng có những thay đổi theo chiều hướng thuận lợi. Về phía Việt Nam, trên cơ sở phân tích đánh giá tình hình quốc tế và khu vực, Đại hội đảng VI Đảng Cộng Sản Việt Nam họp tháng 12 năm 1986 đã đề ra đường lối đổi mới. Một thành tựu về đổi mới tư duy của Đại hội Đảng VI là đã rút ra 4 bài học cơ bản có ý nghĩa quan trọng đối với sự nghiệp xây dựng Chủ Nghĩa Xã Hội và bảo vệ tổ quốc, trong đó bài học thứ 3 là “ Phải kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại trong điều kiện mới “. Cũng trong Đại hội Đảng VI, Đảng ta xác định “ Việt Nam sẵn sằng là bạn của tất cả các nước trên cơ sở tôn trọng độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau”. Trong quan hệ đối ngoại , Đảng và nhà nước ta đặc biệt coi trọng mối quan hệ với các nước láng giềng, Việt Nam sẵn sàng đàm phán để giải quyết những vấn đề thuộc quan hệ Việt Nam - Trung Quốc. Về phía Trung Quốc, sau một thời gian dài bị đình trệ do những sai lầm “tả” khuynh, Hội nghị Trung ương 3 khoá XI Đảng Cộng Sản Trung Quốc họp cuối tháng 12 năm 1978 đã quyết định dịch chuyển trong tâm công tác của toàn Đảng từ chỗ lấy đấu tranh giai cấp làm chính sang lấy xây dựng kinh tế làm nhiệm vụ trọng tâm, mở đầu cho công cuộc cải cách mở cửa. Để phục vụ cho công cuộc cải cách ở trong nước, trong lĩnh vực đối ngoại, Trung Quốc đã tiến hành những điều chỉnh lớn trong quan hệ với các nước lớn trên thế giới như Mỹ, Nga, Nhật và Tây Âu. Trung Quốc cũng từng bước thực hiện bình thường hoá quan hệ và thiết lập quan hệ ngoại giao với các nước láng giềng. Trong quan hệ với Việt Nam, Trung Quốc cũng thể hiện những thiện chí của mình đối với việc bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. Như vậy với một mục tiêu chung là bình thường hoá quan hệ, ngày 4/9/1990 tại Tứ Xuyên đã diễn ra cuộc gặp gỡ đầu tiên giữa các nhà lãnh đạo cấp cao hai nước để bàn về vấn đề bình thường hoá quan hệ giữa hai nước và một số vấn đề khác mà hai bên cùng quan tâm. Sau nhiều lần đàm phán hai nước đã đi đến thống nhất và khẳng định: “ Việc bình thường hoá quan hệ giữa Việt Nam và Trung Quốc phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của nhân dân hai nước và cũng có lợi cho hoà bình, ổn định và sự phát triển của khu vực “. Về kinh tế, hai bên nhất trí thúc đẩy sự hợp tác giữa hai nước trong các lĩnh vực kinh tế, thương mại, khoa học kỹ thuật và văn hoá theo nguyên tắc bình đẳng cùng có lợi. Có thể nói, cuộc gặp cấp cao này đã đưa quan hệ Việt Nam - Trung Quốc bước sang một giai đoạn mới, với tính chất và nội dung hết sức mới trên cơ sở 5 nguyên tắc: Tôn trọng chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không xâm phạm lẫn nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, bình đẳng cùng có lợi và cùng tồn tại hoà bình. III. NHỮNG CƠ SỞ TIỀN ĐỀ CHO SỰ PHÁT TRIỂN QUAN HỆ KINH TẾ - THƯƠNG MẠI GIỮA HAI NƯỚC. 1. Những Hiệp định và các cặp cửa khẩu biên giới được mở là cơ sở pháp lý tạo thuận lợi cho quan hệ kinh tế, thương mại phát triển. Với quyết tâm xây dựng mối quan hệ kinh tế lâu dài, bền vững, từ tháng 11 năm 1991 đến nay, Chính phủ nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc đã cùng nhau ký kết nhiều Hiệp định kinh tế thương mại quan trọng như: Hiệp định thương mại giữa hai nước, Hiệp định tạm thời giải quyết công việc vùng biên giới( hai hiệp định này được ký tại Bắc Kinh trong chuyến đi thăm chính thức Trung Quốc lần thứ nhất của Tổng bí thư Đỗ Mười và Thủ tướng Võ Văn Kiệt ngày 5 tháng 11 năm 1991); Hiệp định hợp tác kinh tế Việt Nam - Trung Quốc( ký tại Hà Nội nhân dịp Phó thủ tướng kiêm Ngoại trưởng Trung Quốc Tiền Kỳ Tham sang thăm Việt Nam, tháng 2 năm 1992); Hiệp định về hợp tác kinh tế kỹ thuật; Hiệp định về hợp tác khoa học kỹ thuật được ký tại Hà Nội nhân dịp Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng sang thăm chính thức Việt Nam đầu tháng 12 năm 1992; Hiệp định về thanh toán và hợp tác giữa Ngân hàng Nhà nước Việt Nam và Ngân hàng nhân dân Trung Quốc được ký vào ngày 26 thán 5 năm 1993 tại Bắc Kinh; Hiệp định giữa Chính phủ Việt Nam và Chính phủ Trung Quốc về hàng hoá quá cảnh vào ngày 9 tháng 4 năm 1994 tại Hà Nội; Hiệp định về thành lập Uỷ ban hợp tác kinh tế thương mại Việt Nam - Trung Quốc; Hiệp định về bảo đảm chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu; Hiệp định về vận tải đường bộ, bộ ba Hiệp định này được ký ngày 19 tháng 11 năm 1994 tại Hà Nội nhân chuyến đi thăm chính thức Việt Nam của Tổng Bí thư Đảng, Chủ tịch nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc Giang Trạch Dân; Hiệp định về mua bán hàng hoá ở vùng biên giới giữa Chính phủ nước Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam và Chính phủ nước Cộng Hoà Nhân Dân Trung Quốc ký ngày 7 tháng 11 năm 1998 tại Bắc Kinh; Hiệp định về biên giới đường bộ được ký kết ngày 23 tháng 2 năm 1999 nhân dịp Thủ tướng Chu Dung Cơ sang thăm Việt Nam . Với chủ trương hoà bình, ổn định cùng phát triển đặc biệt là phát triển kinh tế thương mại, hai bên quyết định mở 21 cặp cửa khẩu đó là: Đồng Đăng - Bằng Tường, Hữu Nghị - Hữu Nghị Quan, Móng Cái - Đông Hưng, Lào Cai - Hà Khẩu, Tà Lùng - Thuỷ Khẩu, Ma Lu Thàng - Kim Thuỷ Hà và Thanh Thuỷ - Thiên Bảo là các cửa khẩu Quốc tế dành cho những người mang Hộ chiếu và thị thực Xuất nhập cảnh, Giấy thông hành xuất nhập cảnh cũng như hàng hoá xuất nhập khẩu; các cặp cửa khẩu khác được mở nhờ vào sự nỗ lực của cả hai bên, các cặp cửa khẩu này được mở cho những người mang giấy thông hành xuất nhập cảnh và hàng hoá buôn bán trao đổi tiểu ngạch của cư dân biên giới. Ngoài các cửa khẩu nêu trên, hiện nay trên tuyến biên giới Việt - Trung còn có 59 cặp đường mòn truyền thống và 13 chợ biên giới phục vụ cho các hoạt động giao lưu kinh tế giữa hai nước. Để tranh thủ khai thác lợi thế của chính sách khai phá miền tây của phía Trung Quốc, tỉnh Lào Cai đã và đang xây dựng trung tâm thương mại Kim Thành, chắc chắn đây sẽ là điểm thu hút một lượng lớn hàng hoá xuất nhập khẩu qua biên giới Việt - Trung tỉnh Lào Cai. Những hiệp định và văn bản ký kết, cùng với các cặp cửa khẩu được khai thông trên biên giới Việt - Trung đã tạo cơ sở pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các ngành, các địa phương biên giới của hai nước phát triển quan hệ hợp tác kinh tế và mậu dịch, mở ra một thời kỳ mới cho giao lưu kinh tế qua biên giới Việt - Trung. 2. Chính sách về phát triển kinh tế đối ngoại của hai nước. 2.1. Chính sách phát triển kinh tế - thương mại của Việt Nam đối với Trung Quốc Trong những năm đầu sau khi hai nước Việt Nam - Trung Quốc bình thường hoá quan hệ( năm 1991), hoạt động giao lưu buôn bán hàng hoá đã bắt đầu có sự tăng trưởng nhưng còn ở qui mô nhỏ, không ổn định. Về chính sách quản lý hoạt động kinh tế đối ngoại của nhà nước ta còn nhiều bất cập chưa phù hợp với thực tiễn của hoạt động kinh tế thương mại giữa hai nước; chính sách quản lý xuất nhập khẩu còn dựa trên cơ chế cấp giấy phép chuyến đối với hoạt động xuất nhập khẩu do đó đã làm hạn chế hoạt động giao lưu thương mại, không khuyến khích được các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, khiến các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu còn ở phạm vi hẹp. Thực tiễn cho thấy, cơ chế này một mặt đã làm hạn chế phương thức kinh doanh xuất nhập khẩu theo thông lệ và tập quán quốc tế mặt khác lại khuyến khích các thành phần kinh tế kinh doanh theo phương thức tiểu ngạch biên giới, phương thức này lại hoàn toàn phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế biên mậu biên giới của Trung Quốc( sẽ được đề cập ở phần sau). Nhìn chung trong giai đoạn đầu sau khi hai nước bình thường hoá quan hệ, Nhà nước ta chưa ban hành đầy đủ chính sách khung về buôn bán qua biên giới nên chưa có cơ chế, chính sách cụ thể để quản lý điều hành hoạt động xuất nhập khẩu ở các cửa khẩu biên giới. Trong điều kiện như vậy, hoạt động giao lưu kinh tế thương mại qua biên giới Việt - Trung ta còn chịu thua thiệt hơn so với Trung Quốc. Để đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế đối ngoại nói chung và phát triển quan hệ kinh tế - thương mại với Trung Quốc nói riêng, ngày 15/12/1995, Chính phủ đã ban hành nghị định số 89/NĐ về bãi bỏ thủ tục cấp giấy phép chuyến đối với hoạt động xuất nhập khẩu, các doanh nghiệp được tự do kinh doanh xuất nhập khẩu theo phạm vi ngành hàng trong giấy phép kinh doanh xuất nhập khẩu do Bộ Thương Mại cấp. Quyết định này tuy đã tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động xuất nhập khẩu nhưng chưa thực sự khuyến khích được các thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu. Đứng trước xu thế hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, năm 1997 Chính phủ đã ban hành luật thương mại và hàng loạt các văn bản pháp qui khác nhằm điều chỉnh cơ chế quản lý hoạt động kinh tế, đặc biệt là kinh tế đối ngoại. Trong đó nghị định số 57/NĐ-TTg của Chính phủ ban hành năm 1997 đã khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, tháo gỡ mọi trở ngại pháp lý đối với hoạt động xuất nhập khẩu, từ thời điểm này các thành phần kinh tế đều được tham gia vào hoạt động xuất nhập khẩu, đồng thời, Nhà nước đã ban hành các chính sách ưu đãi đặc biệt đối xuất khẩu và hạn chế dần nhập khẩu các mặt hàng tiêu dùng, những mặt hàng mà trong nước đã sản xuất được. Có thể nói, đây là bước đột phá có tính chất quyết định trong chiến lược phát triển kinh tế đối ngoại của nhà nước ta. Cùng với sự cải cách mạnh mẽ trong cơ chế quản lý kinh tế đối ngoại, Chính phủ đã ban hành một số chính sách ưu đãi đối với khu vực kinh tế cửa khẩu biên giới. Đặc biệt, các quyết định 53/QĐ-TTg ngày 19/4/2001 của Thủ tướng Chính phủ về chính sách đối với khu kinh tế cửa khẩu; Quyết định 186/2001/QĐ-TTg ngày 7/12/2001 về phát triển kinh tế-xã hội ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi biên giới phía Bắc thời kỳ 2001 - 2005 là những cơ sở tiền đề quan trọng cho việc phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt - Trung. Theo nội dung của quyết định 53/2001/QĐ- TTg của Chính phủ, nhà nước đặc biệt ưu đãi đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu vực cửa khẩu bằng nguồn vốn vay ưu đãi nhà nước, cho phép các tỉnh biên giới có số thu ngân sách dưới 50 tỷ đồng/năm thì được đầu tư trở lại 100% để xây dựng cơ sở hạ tầng, có số thu từ 50 tỷ đồng trở lên thì được đầu tư trở lại 50 tỷ đồng và 50% số thu còn lại. Đối với thương mại du lịch cũng được dặc biệt quan tâm, các hoạt động thương mại được hưởng các ưu đãi về buôn bán biên giới theo các văn bản nhà nước ta đã ký kết với các nước láng giềng. Về đầu tư trong nước và nước ngoài vào khu kinh tế của khẩu ngoài quyền được hưởng các ưu đãi hiện hành về thuế, các doanh nghiệp đầu tư còn được giảm thêm 50% giá thuê đất và mặt nước so với mức giá cho thuê đất, mặt nước đang áp dụng tại khu kinh tế của khẩu đó. Với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội ở 6 tỉnh đặc biệt khó khăn miền núi phía bắc thời kỳ 2001 - 2005, quyết định số 186/2001/QĐ-TTg đã giải quyết được nhiều vần đề bức xúc trong phát triển kinh tế các tỉnh miền núi phía Bắc, đã tạo nhiều điều kiện thuận lợi cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội, tập trung quy hoạch và huy động mọi nguồn lực để phát triển giao thông, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt phát huy lợi thế cửa khẩu, các di tích lịch sử và danh lam thắng cảnh để phát triển ngành thương mại, du lịch, dịch vụ tạo động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội của toàn vùng. 2.2. Chính sách phát triển kinh tế - thương mại của Trung Quốc đối với việt Nam Trung Quốc có một hệ th._.ống chính sách đối ngoại khá chặt chẽ, đặc biệt là chính sách biên giới mềm, coi nặng lợi ích cục bộ, dân tộc. Hoạt động mậu dịch biên giới đối với các nước có chung đường biên giới đặc biệt là Việt Nam được quản lý một cách chặt chẽ và hệ thống từ Chính phủ cho tới các địa phương, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan hữu quan theo đúng tinh thần mà Quốc Vụ Viện đưa ra là : Khẩn trương định ra biện pháp quản lý đồng bộ, tích cực ủng hộ mậu dịch biên giới. Tăng cường sự lãnh đạo và quản lý dối với mậu dịch biên giới, thúc đẩy mậu dịch biên giới phát triển lành mạnh. Điều chỉnh, quy phạm hoá các biện pháp chính sách mậu dịch biên giới theo hướng thể chế hoá kinh tế thị trường Xã hội Chủ Nghĩa. Thúc đẩy mạnh mẽ sự phát triển kinh tế khu vực biên giới, tăng cường đoàn kết dân tộc, phồn vinh và ổn định vùng biên giới, củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị láng giềng với các nước xung quanh . Trong quan hệ buôn bán với các nước láng giềng, đặc biệt là với Việt Nam, Trung Quốc xây dựng chiến lược biên mậu biên giới, đồng thời tiến hành hai hình thức buôn bán chính ngạch và biên mậu, áp dụng các chính sách ưu đãi về thuế, nhằm phát huy mọi lợi thế về địa lý để phát triển kinh tế vùng biên giới. Với chính sách thương mại trên, vào đầu những năm 1990, Trung Quốc bắt đầu có sự thay đổi về chính sách đối ngoại với Việt Nam. Tiếp theo sự tăng cường về quan hệ chính trị, Trung Quốc bắt đầu coi trọng hợp tác kinh tế và thương mại với Việt Nam, nhất là sau khi Việt Nam ra nhập ASEAN thì Trung Quốc coi Việt Nam là đối tác quan trọng trong khu vực. Với chiến lược lâu dài, Trung Quốc không muốn Việt Nam mạnh lên, nhưng trước xu hướng phát triển của thế giới đã buộc Trung Quốc phải suy xét, tính toán vừa khai thác được thị trường Việt Nam, vừa thông qua thị trường việt Nam để thâm nhập vào các thị trường khác trong ASEAN nhất là Lào và Campuchia. Tóm lại, Trung Quốc đã xây dựng một hệ thống chính sách điều hành hoạt động kinh tế thương mại với Việt Nam theo các định hướng cơ bản sau: Triệt để áp dụng hình thức buôn bán biên mậu, Chính phủ Trung Quốc dành nhiều ưu đãi về thuế quan cho các Tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây và Vân Nam. Hàng hoá của các doanh nghiệp mậu dịch tiểu ngạch biên giới được miễn 50 % thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng; hàng hoá của cư dân biên giới nhập khẩu qua biên giới. Xây dựng hoàn chỉnh chiến lược khai thác kinh tế Vịnh Bắc Bộ với dự kiến xây dựng vòng cung kinh tế kết nối Dương Phố - Khâm Châu( Quảng Tây) với Hải Phòng( Việt Nam ). Trung Quốc xây dựng mạng lưới giao thông đường sắt, đường bộ kết nối toàn khu vực, tăng cường thăm dò, khai thác Vịnh Bắc Bộ. Trung Quốc chủ trương sử dụng thị trường Việt Nam để bổ sung cho Tây Nam, đồng thời sử dụng“ chính sách biên giới mềm“ để kìm hãm kinh tế Việt Nam với các nội dung như sau: Lợi dụng biên giới trên bộ, trên biển để xuất hàng tồn kho, hàng kém phẩm chất vào Việt Nam, đồng thời thu hút nguyên liệu, khoáng sản, lương thực, thực phẩm. Một mặt Trung Quốc khuyến khích, tạo mọi điều kiện để xuất khẩu hàng hoá (chủ yếu là hàng tiêu dùng chất lượng bình thường và thấp) sang Việt Nam. Mặt khác lại sử dụng các biện pháp hạn chế bằng hạn ngạch, ép giá để gây sức ép với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Như ta đã biết Trung Quốc có 2 tỉnh ( khu tự trị ) biên giới Quảng Tây và Vân Nam tiếp giáp với Việt Nam. Đối với 2 tỉnh này, ngay từ khi bình thường quan hệ giữa hai nước Trung Quốc đã áp dụng chiến lược“ Biên giới mềm “, mọi hoạt động thương mại biên giới được chỉ đạo tập trung thống nhất ở cơ quan đầu mối là Ban biên mậu, cơ quan này có đủ quyền hạn để quản lý , chỉ đạo toàn bộ các hoạt động có liên quan đến biên giới. Chính sách mậu dịch biên giới ở Quảng Tây: Các chính sách hiện hành của Trung Quốc có liên quan đến mậu dịch biên giới ở Quảng Tây gồm có: - Thông tư của Quốc Vụ Viện về vấn đề liên quan đến mậu dịch biên giới . - Biện pháp quản lý hợp tác kinh tế kỹ thuật đối ngoại đối với mậu dịch tiểu ngạch biên giới và khu vực biên giới của Bộ Kinh tế mậu dịch đối ngoại và Tổng cục Hải quan. - Biện pháp thực thi quản lý nhập khẩu sản phẩm cơ điện mậu dịch tiểu ngạch biên giới của Ban xuất nhập khẩu cơ điện cơ điện nhà nước. - Thông tri của Chính phủ nhân dân Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây Trung Quốc quán triệt về vấn đề liên quan đến mậu dịch biên giới của Quốc Vụ Viện. - Quy định tạm thời về quản lý mậu dịch hỗ thị đối với cư dân vùng biên giới Quảng Tây. - Quy định của địa khu Nam Ninh về mậu dịch biên giới. - Biện pháp quản lý mậu dịch hỗ thị của cư dân vùng biên giới và mậu dịch tiểu ngạch biên giới của Chính phủ nhân dân Thành phố Bằng Tường . Các chính sách hiện hành nói trên có những quy định rất thuận lợi cho việc xây dựng khu mậu dịch biên giới đó là: - Quy định về miễn thuế nhập khẩu đối với cư dân vùng biên với trị giá dưới 1000 nhân dân tệ mỗi người mỗi ngày. - Quy định giảm thuế nhập khẩu mậu dịch tiểu ngạch biên giới. - Miễn đối ngạch xuất khẩu và giấy phép . - Quy định miễn thuế xuất nhập khẩu trong điều khoản hợp tác kinh tế kỹ thuật. Những quy định và chính sách tạo thuận lợi nói trên đã thúc đẩy sự phát triển trung tâm mậu dịch Pò Chài - Quảng Tây, làm cho Pò Chài trở thành một trong những điểm thực hiện chính sách biên mậu thành công nhất của Trung Quốc . Chính sách về phát triển mậu dịch biên giới tỉnh Vân Nam. Nhằm quán triệt Thông tư quy định bổ sung và phát triển hơn nữa mậu dịch biên giới của Bộ mậu dịch và hợp tác kinh tế đối ngoại và Tổng cục Hải quan, đồng thời củng cố và phát triển hơn nữa mối quan hệ hợp tác mậu dịch kinh tế với Việt Nam, Chính quyền nhân dân Tỉnh Vân Nam và các ngành hữu quan đã quán triệt và thực hiện thông tư nói trên với các nội dung chủ yếu sau đây: - Về quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu: Cục biên mậu tỉnh chịu trách nhiệm phân phối hạn ngạch xuất khẩu đối với những hàng hoá nhà nước quản lý trọng điểm, Cục biên mậu tỉnh chịu trách nhiệm phân phối hạn ngạch xuất khẩu cho doanh nghiệp biên mậu trong hạn ngạch xuất khẩu mà Bộ Mậu dịch hợp tác đối ngoại cấp, Hải quan cửa khẩu căn cứ giấy phép để làm thủ tục kiểm tra. Nhà nước quản lý hạn ngạch nhập khẩu hàng hoá sản xuất từ các nước láng giềng, Cục biên mậu tỉnh tiến hành phân phối hạn ngạch nhập khẩu trên cơ sở hạn lượng đã được Bộ mậu dịch và kinh tế đối ngoại cấp cho cả năm, Hải quan căn cứ giấy phép để kiểm tra hang nhập khẩu tại cửa khẩu. - Về quản lý dự án hợp tác kinh tế kỹ thuật đối ngoại: Doanh nghiệp tiến hành hợp tác kinh tế kỹ thuật như công trình bao thầu, hợp tác lao động, tư vấn thiết kế ... và ký hợp đồng đối ngoại phải báo cáo Cục biên mậu tỉnh để xin giấy phép phê duyệt. Hàng hoá do các nước láng giềng sản xuất được mang về theo hạng mục hợp tác kinh tế kỹ thuật với các nước láng giềng, ngoài xe ôtô và linh kiện thì doanh nghiệp được nhập khẩu theo hạng mục, không phải xin giấy phép. Hàng hoá thuộc diện quản lý chính ngạch nhập khẩu theo dự án kinh tế kỹ thuật với 3 nước Việt Nam, Mianma, Lào do Vụ mậu dịch và hợp tác kinh tế đối ngoại phê duyệt . - Về quản lý doanh nghiệp biên mậu: Doanh nghiệp sản xuất, lưu thông xin đăng ký kinh doanh mậu dịch tiểu ngạch biên giới phải có đủ các điều kiện sau: Phải được cơ quan quản lý hành chính công thương đăng ký pháp nhân Doanh nghiệp phải đăng ký vốn pháp định trên 500.000 nhân dân tệ trở lên Doanh nghiệp phải có tài sản cố định ở khu vực biên giới trên 1 triệu nhân dân tệ - Quản lý chợ biên giới: Chính quyền nhân dân tỉnh phê duyệt thành lập chợ biên giới trên cơ sở báo cáo của Châu biên giới. Hàng hoá của cư dân biên giới nhập khẩu qua chợ biên giới nếu trị giá dưới 3.000 nhân dân tệ được miễn thuế nhập khẩu. - Quản lý hành chính mậu dịch biên giới: Chính quyền Châu, Chính quyền Huyện cửa khẩu chỉ đạo các cơ quan quản lý như Hải quan, Công thương, Thuế vụ, Thương kiểm, Kiểm dịch động vật, thực vật tiến hành kiểm tra, kiểm dịch và thu thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu trên địa bàn quản lý theo đúng chức năng nhiệm vụ của từng ngành. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VỀ QUAN HỆ KINH TẾ, THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC. I. THỰC TRẠNG VỀ QUAN HỆ KINH TẾ, THƯƠNG MẠI GIỮA VIỆT NAM VÀ TRUNG QUỐC TRONG HƠN 10 NĂM QUA. 1. Hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc thời kỳ 1991 - đến nay. Kể từ khi bình thường hoá hoạt động xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc đã phát triển theo chiều hướng hoàn thiện hơn, tích cực hơn và đã đạt được những thành tựu đáng kể. Trước hết, điều dễ dàng nhận thấy là hoạt động ngoại thương giữa hai nước được thực hiện thông qua nhiều phương thức khác nhau như buôn bán chính ngạch, buôn bán tiểu ngạch, tạm nhập tái xuất, trong đó buôn bán chính ngạch và buôn bán tiểu ngạch là hai phương thức chính. Đa dạng hoá về phương thức trao đổi đã làm cho hoạt động ngoại thương giữa Việt Nam và Trung Quốc có nhiều nết đặc trưng và cũng là lợi thế của hai bên. 1.1. Kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều. Từ năm 1991 đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước tăng lên nhanh chóng và tăng đều qua các năm. Năm 1991 tổng kim ngạch hai chiều đạt 37,7 triệu USD thì đến năm 2000 đạt 2.957,0 triệu USD, đặc biệt năm 2002 tổng kim ngạch xuất nhập khẩu hai chiều đã đạt 3.654,275 triệu USD tăng 97 lần so với năm 1991. Năm 2002 Tổng kim ngạch hai nước đạt mức tăng trưởng cao và tăng hơn 1,2 lần so với năm 2000 đã vượt sớm hơn mục tiêu 3 tỷ USD mà hai nước đề ra. Trong đó kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc đạt 1.495,485 triệu USD (xem bảng 1) . Cần nói thêm rằng, thương mại Việt - Trung trong thống kê chính thức chưa phản ánh đầy đủ tình hình buôn bán sôi động giữa hai nước vì rất khó đưa vào thống kê hoạt động buôn lậu, gian lận thương mại đã và đang xảy ra trên biên giới. Tình trạng nhập lậu hàng hoá qua biên giới và khai khống trị giá hàng xuất khẩu của một số doanh nghiệp xuất khẩu nhằm gian lận trong việc hưởng chế độ hoàn thuế VAT đang diễn ra với tính chất hết sức nghiêm trọng. Nếu tính đầy đủ các con số này thì tình hình buôn bán hai chiều sẽ tăng lên, đồng thời con số nhập siêu của Việt Nam vào các năm 2001, 2002 cũng lớn hơn so với số liệu thống kê . Bảng 1 : Kim ngạch XNK hàng hoá hai chiều Việt Nam - Trung Quốc Thời kỳ 1991 - 2002 Đơn vị : Triệu USD Năm Tổng kim ngạch Việt Nam xuất Việt Nam nhập 1991 37,7 19,3 18,4 1992 127,4 95,6 31,8 1993 221,3 135,8 85,5 1994 439,9 295,7 144,2 1995 691,6 361,9 329,7 1996 669,2 340,2 329,0 1997 878,5 471,1 404,4 1998 989,4 478,9 510,5 1999 1.542,3 858,9 683,4 2000 2.957,0 1.534,0 1.423,0 2001 3.047,221 1.418,092 1.629,129 2002 3.654,275 1.495,485 2.158,790 Nguồn: Hải quan Việt Nam ( Cục Công nghệ thông tin ) Nhìn chung trong một thời gian khá dài 1991- 2002, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Trung Quốc khá cân bằng, kim ngạch tăng đều qua các năm và chỉ giảm nhẹ vào năm 1996. Sự biến động này có thể chấp nhận được do những dao động của thị trường qua hàng năm . Năm 1997, Việt Nam giảm nhập thiết bị cho các nhà máy đường, xi măng, nhất là đối với các thiết bị của nhà máy xi măng là đứng đã làm giảm kim ngạch nhập khẩu, trong khi đó số lượng hàng xuất khẩu không giảm đã dẫn đến hiện tượng xuất siêu khá cao đạt 11,2 triệu USD năm 1996, năm 1997 là 66,7 triệu USD. Bên cạnh đó cũng còn có những nguyên nhân khác dẫn tới tình trạng xuất siêu do khủng hoảng tài chính Châu Á đã làm giảm nhu cầu nhập khẩu của các nước Hàn Quốc, Thái Lan, Indonesia ... là những đối tác thương mại lớn của Việt Nam. Vì vậy, các Doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam phải tìm thị trường tiêu thụ hàng hoá của mình tại Trung Quốc. Số lượng hàng xuất khẩu của các vùng nội địa chiếm 75%-80% trong tổng số lượng hàng xuất khẩu, lượng hàng xuất khẩu của vùng biên giới chỉ chiếm 20%- 25%. Trong giai đoạn 1991- 2002 Việt Nam đã nâng cao được kim ngạch xuất nhập khẩu với Trung Quốc và duy trì sự tăng trưởng ổn định , bất chấp những biến động của nền kinh tế khu vực và thế giới. Đây là một kế quả đáng ghi nhận trong trao đổi thương mại nói chung và trong quan hệ thương mại Việt - Trung nói riêng. 1.2. Cơ cấu hàng hoá xuất nhập khẩu. 1.2.1. Cơ cấu hàng xuất khẩu. Trung Quốc là một trong những nước có nền kinh tế khá phát triển trong khu vực cũng như trên thế giới. Với thế mạnh là giá rẻ, công nghệ sản xuất khá tiên tiến, mẫu mã đẹp, sản phẩm của Trung Quốc không chỉ có ưu thế ở thị trường Châu Á mà còn chiếm lĩnh được thị trường các nước Châu Âu và Châu Mỹ. Một trong những khó khăn của Việt Nam khi xuất khẩu hàng sang Trung Quốc là: những mặt hàng có thế mạnh của Việt Nam như gạo, chè, cà phê và một số sản phẩm nông nghiệp khác cũng là thế mạnh của Trung Quốc nên những mặt hàng này rất khó mở rộng thị trường và nâng cao số lượng tiêu thụ tại thị trường này. Trong giai đoạn đầu sau khi bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Trung Quốc chủ yếu là nông sản và một số loại khoáng sản có thế mạnh như quặng Crôm, dầu thô. Việc nhập khẩu các loại nguyên liệu thô này sẽ giúp Trung Quốc giải quyết được khâu nguyên liệu cho các ngành sản xuất, chế biến trong nước, tận dụng giá lao động rẻ, tạo được nhiều công an việc làm cho người lao động cũng như nâng cao giá thành sản phẩm. Trước yêu cầu cần phải giảm xuất khẩu nguyên liệu thô và các sản phẩm chưa qua chế biến. Trong những năm gần đây,Việt Nam đã và đang giảm tỷ lệ xuất khẩu nguyên liệu để tận dụng sức lao động sáng tạo trong nước sản xuất sản phẩm thành phẩm rồi mới xuất khẩu. Tuy nhiên, một số nhóm hàng như sản phẩm nhựa giầy dép, hàng dệt may, máy tính và linh kiện, dây cáp điện, cao su, đường tinh cùng một số mặt hàng thực phẩm khác dã thâm nhập được vào thị trường Trung Quốc nhưng với số lượng không còn rất khiêm tốn. Theo số liệu thống kê của Tổng cục Hải quan, trong 2 năm 2001và 2002 ( Bảng 2 ) cho thấy, trị giá mặt hàng dệt may xuất khẩu sang Trung Quốc là 34,8 triệu USD, chiếm 1,19% Tổng kim ngạch hàng xuất khẩu; mặt hàng giầy dép các loại là 12,39 triệu USD, chiếm 0,42% trong tổng kim ngạch xuất khẩu. Bảng 2 : Một số mặt hàng chủ yếu Việt Nam xuất khẩu sang Trung Quốc trong 2 năm ( 2001 - 2002). STT Tên hàng Tên đơn vị Lượng Trị giá (USD) 1 Cà phê Tấn 15.319 6.527.400 2 Cao su Tấn 256.868 139.886.124 3 Chè Tấn 923 1.432.229 4 Dầu ăn Tấn 26.517 8.684.757 5 Dầu thô Tấn 6.613.963 1.206.235.328 6 Dây điện và dây cáp điện USD 739.266 7 Đồ chơi trẻ em USD 37.014 8 Đường tinh Tấn 86.678 25.691.988 9 Gạo Tấn 11.368 2.225.554 10 Giày dép các loại USD 12.349.157 11 Hải sản USD 435.391.121 12 Hàng dệt may USD 34.851.236 13 Rau quả USD 264.330.461 14 Thủ công mỹ nghệ USD 6.413.467 15 Hạt điều Tấn 22.688 68.838.410 16 Hạt tiêu Tấn 7.504 11.779.411 17 Lạc nhân Tấn 2.248 1.168.352 18 Máy tính và linh kiện USD 27.171.638 19 Sản phẩm gỗ USD 19.689.651 20 Sản phẩm nhựa USD 8.155.468 21 Than đá Tấn 3.415.612 63.597.553 22 Thiếc Tấn 490 2.509.020 23 Xe đạp và phụ tùng xe đạp USD 101.176 24 Mỳ gói USD 521.757 25 Quế Tấn 18 35.863 Tổng 2.913.577.298 Nguồn: Hải Quan Việt Nam ( Cục Công nghệ thông tin ) 1.2.2. Cơ cấu hàng nhập khẩu. Nhìn chung, hàng nhập khẩu từ Trung Quốc khá phong phú về chủng loại song chủ yếu là các mặt hàng đã qua chế biến và các sản phẩm công nghiệp. Tuỳ theo nhu cầu tiêu thụ của từng năm, từng giai đoạn mà số lượng các mặt hàng nhập khẩu đã tăng hoặc giảm. Theo con số thống kê của Tổng Cục Hải quan, trong giai đoạn 1991 - 1995, các mặt nhập khẩu có trị giá lớn là xi măng là 5,15 triệu USD năm 1992, đến năm 1995 là 29,98 triệu USD; kính xây dựnglà 2,392 triệu USD năm 1992 đến năm 1995 là 10,88 triệu USD; thép xây dựng năm 1992 là 8,774 Triệu USD đến năm 1995 là 10,928 triệu USD. Trong giai đoạn 1996 - 2002, cơ cấu hàng hoá nhập khẩu có sự thay đổi do nhà nước ta chủ trương hạn chế nhập khẩu một số nhóm mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch nhập khẩu giai đoạn 1991 - 1995 như xi măng, kính xây dựng, thuốc bảo vệ thực vật để bảo vệ và phát triển sản xuất trong nước. Nhà nước khuyến khích nhập một số mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất công nông nghiệp, các mặt hàng nhập khẩu chiếm tỷ trọng lớn trong giai đoạn này là Máy móc thiết bị, phụ tùng, xăng dầu, nguyên vật liệu dệt may, phân bón và linh kiện xe máy. Cũng theo số liệu thống kê của Tổng Cục Hải quan, trong 2 năm 2001 và 2002 ( Bảng 3 ), ta đã nhập một lượng lớn máy móc thiết bị với trị giá là 567,277 triệu USD chiếm tỷ trọng 14,9% trong tổng kim ngạch hàng nhập khẩu; xăng dầu là 705,099 triệu USD chiếm tỷ trọng 18,6 ; nguyên vật liệu dệt may là 202,06 triệu USD và một số mặt hàng khác như phân bón là 120,011 triệu USD... Các mặt hàng máy móc thiết bị nhập khẩu của Trung Quốc chỉ ở trình độ kỹ thuật thấp hoặc trung bình so với khu vực và thế giới, nhưng khá phù hợp với trình độ phát triển của nước ta trong thời kỳ qua. Đối với nhóm hàng tiêu dùng nhập khẩu, các sản phẩm của Trung Quốc đang cạnh tranh rất mạnh với hàng sản xuất trong nước do hàng Trung Quốc có mẫu mã đẹp, đa dạng về chủng loại, tuy có chất lượng không cao, chủ yếu là hàng địa phương nhưng giá rẻ, khá phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của thị trường Việt Nam . Trước thực tế đó đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải không ngừng nâng cao chất lượng sản phẩm trong nước, hạ giá thành để tăng tính cạnh tranh của các sản phẩm cùng loại trên thị trường nội địa và khẳng định sản phẩm của mình trên thị trường khu vực cũng như Quốc tế. Bảng 3 : Một số mặt hàng chủ yếu Việt nam nhập khẩu từ Trung Quốc trong 2 năm (2001 - 2002) STT Tên hàng Tên đơn vị Lượng Trị giá ( USD) 1 Chất dẻo nguyên liệu Tấn 19.815 15.471.206 2 Clinker Tấn 19.690 383.484 3 Linh kiện điện tử và Vi tính USD 64.227.418 4 Máy móc thiết bị, phụ tùng USD 567.277.230 5 NVL dệt may da USD 202.060.525 6 Ôtô dạng CKD,SKD Bộ 96 742.160 7 Ôtô nguyên chiếc Chiếc 673 8.299.078 8 Phân bón các loại Tấn 810.109 120.011.236 9 Sắt thép các loại Tấn 548.668 123.801.744 10 Tân dược USD 12.524.006 11 Xăng dầu các loại USD 3.038.758 705.099.337 12 Xe máy dạng CKD,IKD Bộ 632.204 121.890.246 Tổng 3.787.920.368 Nguồn: Hải Quan Việt Nam ( Cục Công nghệ thông tin ) 1.3.Một số nhận xét đánh giá chung. Kết quả và thuận lợi: - Phát triển quan hệ kinh tế- thương mại giữa hai nước làm giảm đi những căng thẳng về chính trị, tạo nên sự ổn định về an ninh, chính trị và trật tự an toàn khu vực biên giới, đó là môi trường tốt cho phát triển kinh tế - thương mại giữa hai nước trong thời gian qua. - Giao lưu kinh tế - thương mại giữa hai nước đã khắc phục được tình trạng khan hiếm hàng hoá trong thời kỳ đầu chuyển từ cơ chế kinh tế kế hoạch tập trung sang nền kinh tế thị trường. Đáp ứng cơ bản nhu cầu tiêu dùng của nhân dân hai nước trong thời kỳ cải cách, mở cửa. - Thu hút được nhiều thành phần kinh tế tham gia vào hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo ra nhiều việc làm cho người lao động, góp phần xoá đói giảm nghèo,cải thiện đời sống kinh tế xã hội nói chung và đời sống của nhân dân khu vực biên giới nói riêng. - Mở rộng quan hệ thương mại với Trung Quốc giúp ta tiêu thụ được nhiều hàng hoá là thế mạnh như nông sản, hải sản, khoáng sản, hàng thủ công mỹ nghệ... sang thị trường gần, có chi phí vận chuyển thấp lại là thị trường dễ tính không đòi hỏi quá cao về tiêu chuẩn chất lượng cũng như mẫu mã của sản phẩm. - Hàng hoá nhập khẩu từ Trung Quốc có ưu điểm là giá rẻ, mẫu mã khá đẹp, phù hợp với thị hiếu tiêu dùng của thị trường nước ta trong giai đoạn 1991 – 1995. Những nhóm hàng máy móc phục vụ sản xuất công, nông nghiệp tuy trình độ công nghệ ở mức trung bình nhưng phù hợp với trình độ phát triển của ta trong giai đoạn đầu của công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; những hàng hoá là nguyên vật liệu như xi măng, thép xây dựng, kính xây dựng, hoá chất cơ bản... đã có đóng góp tích cực và các lĩnh vực sản xuất công nghiệp và xây dựng cơ sở hạ tầng của ta trong những năm qua. - Phát triển quan hệ kinh tế thương mại với Trung Quốc đã làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu kinh tế vùng biên giới từ kinh tế miền núi chậm phát triển sang phát triển kinh tế hàng hoá. Các hoạt động thương mại, du lịch và dịch vụ có xu hướng tăng mạnh trong những năm gần đây. Những tồn tại và khó khăn. - Kinh tế khu vực các tỉnh biên giới phía Bắc của việt Nam và 2 tỉnh Quảng Tây và Vân Nam của Trung Quốc chậm phát triển, cơ sở hạ tầng khu vực cửa khẩu biên giới chưa được đầu tư cải tạo kịp thời, do đó đã có ảnh hưởng làm hạn chế tốc độ phát triển kinh tế - thương mại qua biên giới Việt – Trung; - Mặc dù tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất nhập khẩu của hai nước tăng nhanh và ổn định trong hơn 10 năm qua nhưng con số này chỉ chiếm một tỷ trọng khiêm tốn trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của mỗi nước. Đối với Việt Nam, kim ngạch xuất nhập khẩu với Trung Quốc chiếm 10% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước; đối với Trung Quốc con số này chỉ đạt xấp xỉ 1% . Rõ ràng, hoạt động giao lưu kinh tế thương mại giữa hai nước mói dừng lại ở phạm vi hẹp, chưa xứng với tiềm năng của các hai phía. - Do chưa có sự chuẩn bị đầy đủ và nghiên cứu kỹ thị trường, chính sách phát triển kinh tế đối ngoại của Trung Quốc nên ta bị động trước chính sách mậu dịch biên giới của Trung Quốc. Bên cạnh đó, các chính sách quản lý hoạt động thương mại qua biên giới Việt - Trung còn nhiều điểm hạn chế, không phát huy được lợi thế trong thương mại. Vì vậy chỉ một thời gian ngắn sau khi mở cửa, hàng hoá của Trung Quốc đã thâm nhập vào thị trường nước ta với một số lượng chủ yếu thông qua phương thức tiểu ngạch biên giới. - Cán cân thương mại song phương còn có những điểm chưa hợp lý, nhất là phía Việt Nam, trong 2 năm 2001, 2002 tình trạng nhập siêu tăng lên rõ rệt, đã gây nên những bất lợi cho việc thúc đẩy quan hệ thương mại phát triển đồng đều, cân bằng về cán cân thương mại. - Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu với Trung Quốc còn có bất lợi cho phía Việt Nam. Hàng xuất khẩu sang Trung Quốc của ta mới chỉ dừng ở nguyên liệu thô, các sản phẩm qua gia công chế biến còn ít do đó khối lượng hàng xuất khẩu có thể lớn hơn nhưng giá trị xuất khẩu chưa cao. Vấn đề này đã gây nên những bất lợi cho Việt Nam như không tận dụng và tạo được công ăn việc làm cho nguồn nhân lực trong nước, khai thác không hợp lý và không hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên... Trong khi đó, sản phẩm nhập khẩu từ Trung Quốc chủ yếu là hàng tiêu dùng, các sản phẩm đã qua chế biến, các mặt hàng đa dạng hơn, số lượng nhiều nhưng phân tán, khó quản lý. Về chất lượng, hàng hoá trao đổi giữa hai nước thường có phẩm cấp thấp, nhất là hàng Trung Quốc, hầu hết hàng hoá này là sản phẩm của địa phương, chất lượng không cao. Trong buôn bán hàng hoá qua biên giới, tình trạng hàng giả, hàng kém chất luợng vẫn chiếm một tỷ trọng khá lớn, gây ảnh hưởng không tốt cho người tiêu dụng. - Buôn lậu trên bộ và trên biển giữa hai nước trong giai đoạn vừa qua là một trong những vấn đề phức tạp mà cả hai bên cùng quan tâm. Tình trạng buôn lậu không có chiều hướng thuyên giảm mà ngày càng trở nên tinh vi hơn, gây rất nhiều khó khăn cho việc quản lý khu vực biên giới, làm hỗn loạn thị trường và ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế của mỗi nước. 2. Một số vấn đề về đầu tư trực tiếp. 2.1. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam trong thời gian qua. Việt Nam với mục tiêu trong 10 - 15 năm tới là tiếp tục công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng đất nước Việt Nam giầu mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, phấn đấu duy trì mức tăng trưởng kinh tế ít nhất 7%/năm, GDP năm 2005 tăng gấp đôi so với năm 1995. Để đạt được những mục tiêu này, một mặt cần huy động tối đa các nguồn nội lực và sáng tạo của mọi thành phần kinh tế trong nước, mặt khác tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế và khu vực, trong đó có đầu tư nước ngoài. Việt Nam luôn coi khu vực có vốn đầu tư nước ngoài là một bộ phận không thể tách rời của nền kinh tế. Quan điểm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài là nhất quán, lâu dài và được cụ thể hoá trong Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam và các văn bản pháp quy có liên quan. Thực tế trong những năm qua, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần không nhỏ cho sự nghiệp phát triển kinh tế của Việt Nam. Nhìn lại thời gian qua, nhịp độ thu hút đầu tư nước ngoài vào Việt Nam từ cuối năm 1997 đến thời gian gần đây có chiều hướng giảm sút. Sự giảm sút trong đầu tư nước ngoài do những yếu tố khách quan như ảnh hưởng của khủng hoẳng kinh tế khu vực và sự cạnh tranh thu hút vốn đầu tư nước ngoài giữa các nước ngày càng trở nên gay gắt. Hơn nữa sự giảm sút đầu tư nước ngoài còn có nguyên nhân chủ quan do những hạn chế của môi trường đầu tư Việt Nam. Chính vì vậy trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã thường xuyên lắng nghe các nhà đầu tư và đề ra nhiều biện pháp cải thiện môi trường đầu tư, tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đầu tư trực tiếp nước ngoài như giảm tiền thuê đất, miễn giảm thuế ( thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế chuyển lợi tức ra nước ngoài), giảm giá dịch vụ để giảm chi phí đầu tư, bổ sung ưu đãi đầu tư đối với vùng và lĩnh vực ưu tiên, cải cách thủ tục hành chính, cải thiện các điều kiện cơ sở hạ tầng. Những biện pháp khuyến khích này cho thấy Việt Nam có sự quan tâm đặc biệt tới đầu tư trực tiếp nướcngoài, luôn chia sẻ thành công cùng những rủi ro với các doanh nghiệp đầu tư nước ngoài. Trong những năm qua, mặc dù có những khó khăn trong kinh doanh nhưng nhiều công ty lớn, có tiềm năng vẫn duy trì và tiếp tục mở rộng quy mô đầu tư ở Việt Nam do họ đánh giá được những lợi thế lâu dài như môi trường chính trị - xã hội ổn định, an ninh được bảo đảm và lợi thế về địa lý, quy mô thị trường, nguồn lao động dồi dào. Theo Bộ kế hoạch và đầu tư cho đến nay, đã có trên 3260 dự án nước ngoài được cấp giấy phép đầu tư tại Việt Nam, với số vốn đăng ký trên 44 tỷ USD. 2.2. Tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài của Trung Quốc tại Việt Nam trong thời gian qua. Trung Quốc là một nước lớn trong khu vực và trên thế giới. Từ sau khi thực hiện cải cách mở cửa, một mặt Trung Quốc ra sức thu hút nhiều đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, đặc biệt là các nước phát triển nhằm phục vụ cho sự nghiệp xây dựng“ Bốn hiện đại hoá“ mà Trung Quốc đang tiến hành, mặt khác, Trung Quốc cũng tiến hành đầu tư trực tiếp ra nước ngoài với số lượng và qui mô không lớn, trong đó có Việt Nam . So sánh với các nước khác trong khu vực thì Trung Quốc nhiều ưu thế hơn trong buôn bán và hợp tác kinh tế với Việt Nam vì những lý do sau: Thứ nhất, Việt Nam là nước là nước chậm phát triển, đang thực hiện cải cách mở cửa để phát triển kinh tế và Trung Quốc được coi là một đối tác quan trọng của Việt Nam trong hợp tác và phát triển kinh tế, thương mại. Thứ hai, Trung Quốc hiện đang có khối lượng lớn hàng công nghiệp có chất lượng trung bình, giá rẻ, kỹ thuật lại phù hợp với nhu cầu của người Việt Nam. Thứ ba, trong thời gian qua Trung Quốc đã giúp Việt Nam xây dựng nhiều hạng mục công nghiệp ở phí Bắc, bao gồm đường sắt, cầu cống, nhà máy gang thép, dệt, vật liệu xây dựng, phân hoá học mà hiện nay các nhà máy này đang cần thay thế và đổi mới trang thiết bị. Việt Nam cũng mong muốn Trung Quốc giúp để cải tạo các nhà máy đó. Ngay sau khi bình thường hoá quan hệ, một số doanh nghiệp của Trung Quốc đã tiến hành đầu tư sang Việt Nam dưới hình thực hợp tác với doanh nghiệp Việt Nam như nhà hàng Hoa Long tại phố Hàng Trống Hà Nội. Trong thời gian qua đã có nhiều doanh nghiệp khác lần lượt sang Việt Nam thực hiện nhiều dự án đầu tư trực tiếp sản xuất kinh doanh. Dưới đây là bảng thống kê các dự án và kim ngạch đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Trung Quốc tại Việt Nam từ năm 1991 đến năm 2001. Bảng 4: Số liệu về hoạt động đầu tư của Trung Quốc vào Việt Nam các năm 1991 - 2001 Đơn vị tính: USD Thời gian Tổng số dự án đầu tư Tổng kim ngạch đầu tư theo giấy phép 1991 1 200.000 1992 10 3.044.143 1994 22 24.000.000 1995 33 60.000.000 1998 61 120.000.000 1999 76 130.000.000 2000 92 148.000.000 2001 110 221.000.000 Nguồn: Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc số 2- 2002 Tính tới nay, Trung Quốc là nước đứng thứ 22 trong số các nước đầu tư vào Việt Nam . Các nhà đầu tư Trung Quốc có mặt tại 20 tỉnh và thành phố; 50,1 % vốn đăng ký tập trung tại bốn địa phương lớn là Thành phố Hồ Chí Minh 9 dự án, vốn đầu tư 39,9 triệu USD; Hà Nội 24 dự án, vốn đầu tư 33,5 triệu USD; Hải Phòng 8 dự án, vốn đầu tư 27,2 triệu USD; Nam Định 3 dự án, vốn đầu tư là 14,1 triệu USD. Các địa phương như Quảng Ninh, Thái Bình, Hoà Bình, Sơn Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Giang, Thái Nguyên, Lào Cai, Lạng Sơn với số lượng và vốn đầu tư ở qui mô nhỏ. Căn cứ vào nhu cầu của thị trường Việt Nam và dựa vào khả năng tiền vốn và ưu thế kỹ thuật sẵn có, các doanh nghiệp Trung Quốc đã đầu tư chủ yếu vào các lĩnh vực sản xuất khinh doanh như Khách sạn, nhà hàng, sản xuất lắp ráp đồ diện dân dụng, sản xuất phụ tùng và lắp ráp xe máy, thuốc trừ sâu, gia công gương kính, da giầy, sản xuất máy đếm tiền và các thiết bị có liên quan đến ngân hàng, chế biến sản phẩm lâm nghiệp, nuôi trồng hải sản, chế biến thực phẩm và rau quả, sản xuất thức ăn gia súc, sản xuất đầu lọc thuốc lá, giấy vệ sinh, đồ chơi trẻ em, sản xuất gạch men, gốm sứ vệ sinh phục vụ dân sinh, đèn chiếu sáng, thuốc đông y, đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng khu chế xuất Linh Trung tại thành phố Hồ Chí Minh, xây dựng siêu thị tại chợ sắt Hải phòng ... Nhìn chung đây là những lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà Việt Nam đang có nhu cầu phát triển trong thời kỳ xây dựng công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước và cũng là những lĩnh vực sản xuất kinh doanh mà các doanh nghiệp Trung Quốc có ưu thế cạnh tranh tương đối nhất là về giá cả . Từ tình hình diễn biến về hoạt động đầu tư của Trung Quốc tại Việt Nam như đã nêu trên, chúng ta có thể có một số nhận xét đánh giá như sau: Thứ nhất, Trong những năm qua, đầu tư trực tiếp của Trung Quốc tại Việt Nam có sự tăng trưởng với tốc độ trung bình, năm 1995 tăng gấp 3,3 lần về số dự án đầu tư và gần 20 lần về kim ngạch đầu tư so với năm 1992; đến năm 2001, tăng hơn 3,3 lần về số dự án đầu tư và hơn 3,5 lần về kim ngạch đầu tư so với năm 1995. Đến nay, Trung Quốc đứng hàng thứ 22 trên tổng số hơn 60 nước đầu tư vào Việt Nam( Theo báo đầu tư 11-9- 2001) . Thứ hai, Nguyên nhân làm cho hoạt động đầu tư của Trung Quốc tại việt Nam còn._.ểu thuế, hạn chế việc áp dụng thuế suất theo công dụng của hàng hoá, gây sự bất bình đẳng trong thực hiện nghĩa vụ thuế,vì cùng một mặt hàng có thể thay đổi mục đích sử dụng theo ý muốn của người nhập khẩu. Tiếp tục dành ưu đãi thuế suất đối với hàng xuất khẩu, trong giai đoạn này nên áp dụng mức thuế suất 0% cho tất cả các mặt hàng xuất khẩu đã qua chế biến. Hạ thấp mức thuế suất đối với nguyên vật liệu, phụ liệu nhập khẩu sản xuất hàng xuất khẩu, đồng thời áp dụng các ưu đãi tín dụng để khuyến khích xuất khẩu. 4. Thu hút đầu tư trực tiếp từ phía Trung Quốc. Nhận xét ở tầm vĩ mô, môi trường kinh tế Việt Nam khá ổn định, đời sống nhân dân các vùng, cả thành thị và nông thôn không ngừng được nâng cao, bình quân mỗi năm thu nhập tăng khoảng 4 - 5 %. Đó là điều kiện để không ngừng mở rộng dung lượng của thị trường. Với chính sách phát huy mạnh mẽ nội lực ,vốn trong nước chiếm tới 60% tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Hơn nữa, chỉ số phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam đạt mức cao hơn trình độ phát triển kinh tế, phản ánh những điểm nổi trội của chất lượng nguồn nhân lực, có khả năng tiếp thu và thích nghi cao với việc chuyển giao công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất và sức cạnh tranh. Trong những năm qua song song với công cuộc cải cách hành chính, Việt Nam đã dành những khoản đầu tư lớn để cải thiện đáng kể chất lượng cơ sở hạ tầng kinh tế và xã hội như đảm bảo cung cấp điện ổn định hơn, cấp nước sạch và xử lý nước thải tốt hơn, hệ thống viễn thông được phát triển với tốc dộ rất cao cũng đã góp phần làm hạ giá thành các khoản đầu tư và kinh doanh tại Việt Nam. Cùng với việc ban hành Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp, Luật Ngân hàng nhà nước, Luật đầu tư trong nước, Luật kinh doanh bảo hiểm, nhằm tạo hành lang pháp lý đồng bộ cho hoạt động của doanh nghiệp, Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam đã được sửa đổi, bổ sung theo hướng cởi mở, minh bạch, có tính cạnh tranh cao, thuận lợi cho các nhà đầu tư và từng bước xoá bỏ những khác biệt giữa đầu tư nước ngoài và đầu tư trong nước, tiến tới một hệ thống pháp lý áp dụng chung cho các doanh nghiệp, phù hợp với thông lệ quốc tế. Một số biện pháp cụ thể: - Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật liên quan đến đầu tư nước ngoài theo hướng tạo sự hấp dẫn, thông thoáng, rõ ràng, ổn định. Tiến tới xây dựng một bộ luật chung cho cả đẩu tư trong nước và đầu tư nước ngoài; - Xây dựng hệ thống cơ chế chính sách cụ thể để cải thiện môi trường kinh doanh và khuyến khích mang tính cạnh tranh cao so với các nước trong khu vực, nhất là đối với các lĩnh vực, địa bàn và các dự án ưu tiên khuyến khích đầu tư; - Đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài, tiếp tục cổ phần hoá một số doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; - Nâng cao năng lực quản lý và sự phối hợp của chính quyền nhà nước các cấp đối với đầu tư nước ngoài, mở rộng thẩm quyền và trách nhiệm của địa phương nhằm giải quyết kịp thời các vướng mắc, hỗ trợ tốt nhất cho các nhà đầu tư; - Đơn giản hoá thủ tục hành chính ở mọi khâu, mọi cấp, công khai các qui trình, và thời hạn, trách nhiệm xử lý các thủ tục, nhắm tiết kiệm thời gian, chi phí kinh doanh, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. - Đầu tư cải thiện điều kiện cơ sở hạ tầng như cung cấp điện, nước, thông tin, cũng như nâng cao chất lượng các dịch vụ tài chính, ngân hàng, dịch vụ kỹ thuật, công nghệ để tạo thuận lợi cho hoạt động kinh doanh. Với những quyết tâm cải cách về chính sách và thể chế, chúng ta tin tưởng rằng cơ hội đầu tư tại Việt Nam sẽ tiếp tục được mở rộng và công việc đầu tư kinh doanh tại Việt Nam sẽ ngày càng thuận lợi hơn. Hy vọng rằng các nhà đầu tư Trung Quốc sẽ tiếp tục đến với Việt Nam để cùng hợp tác làm ăn lâu dài và khai thác những tiềm năng, thế mạnh của Việt Nam, tạo ra những sản phẩm uy tín và chất lượng. 5. Tăng cường công tác đấu tranh chống buôn lậu và gian lận thương mại. Chúng ta đã biết, buôn lậu là một hiện tượng tiêu cực có tính lịch sử, phổ thông và quốc tế, nhất là trong điều kiện phát triển kinh tế như nước ta hiện nay. Do đó, cuộc đấu tranh này đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên, kiên trì và lâu dài với các giải pháp toàn diện, đồng bộ và khoa học mới dành được hiệu quả. Trong khuôn khổ của bài viết tôi xin đưa ra một số giải pháp cơ bản sau đây: 5.1. Đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển kinh tế góp phần hạn chế tình trạng buôn lậu và hạn chế buôn lậu cũng nhằm tạo điều kiện cho phát triển kinh tế; tập trung phát triển kinh tế là một nhiệm vụ cơ bản của sự nghiệp đổi mới. Trước mắt muốn đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế phải phát huy tối đa các nguồn lực, đầu tư hợp lý, phát triển khoa học và công nghệ, đồng thời đẩy mạnh đầu tư kết cấu hạ tầng cho những vùng trọng điểm, khuyến khích thu hút đầu tư nước ngoài, tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế, đặc biệt là cơ cấu kinh tế nông thôn, nông nghiệp nhằm phát huy hiệu quả giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động. Đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ kinh tế đối ngoại, đẩy mạnh xuất khẩu; trước mắt chuẩn bị các điều kiện cần thiết để hội nhập kinh tế khu vực và quốc tế theo tinh thần Nghị quyết 7 của Bộ chính trị và chương trình hành động của Chính phủ. Phát triển kinh tế là một giải pháp cơ bản, có ý nghĩa toàn diện trong việc giải quyết các vấn đề lớn của các địa phương vùng biên giới, trong đó có chống buôn lậu. Xét về mặt xã hội, phát triển kinh tế làm tăng trưởng sản phẩm xã hội, tăng khối lượng và chất lượng hàng hoá, giảm chi phí sản xuất, hạ giá thành, tăng khả năng cạnh tranh của hàng nội ngay ở thị trường biên giới cũng như nội địa. Kinh tế phát triển tạo thế ổn định trên cán cân ngoại thương, sẽ hạn chế xu thế "nước chảy từ chỗ cao xuống chỗ thấp" của hàng lậu, đồng thời giải quyết tốt các vấn đề kinh tế, xã hội, càng hoàn thiện các biện pháp có tính toàn diện, tổng lực trên mặt trận chống buôn lậu ở biên giới. 5.2. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá nội địa. Nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trong nước là một giải pháp hết sức cơ bản, vừa là động lực của phát triển và hiệu quả cao trong sản xuất kinh doanh, vừa là giải pháp hạn chế việc nhập khẩu cũng như nhập lậu hàng hoá qua biên giới. Chống buôn lậu bằng giải pháp kinh tế chính là trách nhiệm của các nhà sản xuất trong nước, các doanh nghiệp trong nước. Nhất là trong điều kiện nước ta đã và đang từng bước tham gia hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực. Theo quy định của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực như AFTA, APEC, WTO… đối với các nước tham gia, chúng ta không thể bảo hộ sản xuất lâu dài mà phải mở cửa thị trường bằng việc cắt giảm hàng rào thuế quan và phi thuế quan, cho phép hàng hoá nước ngoài được nhập khẩu và cạnh tranh bình đẳng. Trong những năm tới hàng hoá của các nước ASEAN ngày càng có cơ hội tràn vào thị trường Việt Nam khi bắt đầu từ năm 2003 chúng ta thực hiện lộ trình cắt giảm thuế quan theo thoả thuận. Đặc biệt chúng ta phải chịu sức cạnh tranh rất lớn hàng hoá từ nước láng giềng Trung Quốc vào nưóc ta. Trung Quốc hiện nay là nước có tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhất trên thế giới, hàng hoá nhiều chủng loại, mẫu mã đẹp, giá rẻ là những lợi thế gây sức ép trực tiếp rất lớn đối với thị trường Việt Nam, nhất là khi hình thành khu vực thương mại tự do ASEAN + Trung Quốc sắp tới. Buôn lậu hàng hoá từ Trung Quốc vào Việt Nam qua biên giới phía Bắc hiện nay vẫn là chủ yếu, có thể nói ở đâu ta cũng thấy hàng hoá tiêu dùng Trung Quốc tràn ngập. Bởi vậy giải pháp hạn chế tối đa hoạt động buôn lậu là phải tăng cường đầu tư, kể cả đầu tư nước ngoài, đổi mới công nghệ nhằm nâng cao năng lực sản xuất cả về số lượng và chất lượng hàng hoá, giảm giá thành, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá là một đòi hỏi bức xúc đối với các doanh nghiệp trong nước hiện nay, vừa bảo hộ phát triển sản xuất, giải quyết các vấn đề xã hội, vừa góp phần ngăn chặn làn sóng nhập lậu hàng hoá từ biên giới. 5.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách về kinh tế. Hơn 15 năm đổi mới, Nhà nước ta đã xây dựng và hoàn thiện được hệ thống pháp luật tương đối hoàn chỉnh, nhất là hệ thống pháp luật về kinh tế, đã thiết lập được cơ bản khung khổ pháp lý phù hợp với cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, được thường xuyên điều chỉnh, bổ sung phù hợp với chủ trương hội nhập và luật pháp quốc tế. Tuy nhiên luật pháp về kinh tế của ta chưa đồng bộ, nhất quán và còn nhiều sơ hở, bất hợp lý, do đó bọn gian thương triệt để lợi dụng để buôn lậu, gian lận thương mại. Luật thuế, biểu thuế xuất nhập khẩu của ta còn phức tạp, việc định danh, tên gọi, mã số chưa đạt được sự thống nhất cao do đó cần sửa đổi, đơn giản hoá hệ thống biểu thuế, hạn chế việc áp dụng thuế suất theo công dụng của hàng hoá, gây sự bất bình đẳng trong thực hiện nghĩa vụ thuế, vì cùng một mặt hàng có thể thay đổi mục đích sử dụng theo ý muốn của người nhập khẩu. Luật doanh nghiệp của ta tuy thông thoáng tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh doanh, song lại sơ hở và bị lợi dụng để thành lập các doanh nghiệp ma, lừa đảo chiếm dụng tài sản nhà nước, cần quy định bổ sung điều kiện thành lập doanh nghiệp tư nhân, ngoài vốn, tài chính thì người đứng ra thành lập phải có hộ khẩu, có trình độ kiến thức nhất định, am hiểu về pháp luật, quản lý kinh tế, tài chính… Luật thuế giá trị gia tăng và chính sách hoàn thuế, thủ tục hoàn thuế, tuy mới áp dụng thực hiện nhưng có nhiều bất cập, sơ hở, bị nhiều thương nhân triệt để lợi dụng để gian lận lừa đảo chiếm đoạt ngân sách Nhà nước. Vừa qua ta có điều chỉnh bổ sung một số chính sách và thủ tục hoàn thuế, song đó chỉ là những biện pháp tình thế, chưa phải là biện pháp cơ bản để khắc phục tình trạng lợi dụng gian lận trên. Đó là chưa nói đến tình trạng các văn bản hướng dẫn luật còn chậm, thậm chí biến dạng, trái với nội dung quy định của pháp luật… Thời gian tới Nhà nước cần tiếp tục xây dựng và hoàn chỉnh một số luật mới ở những lĩnh vực chưa có luật, hoặc mới chỉ ban hành các văn bản dưới luật hoặc luật cũ đã lạc hậu không phù hợp với tình hình thực tế. Cùng với việc xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật, cần phải đổi mới hoàn thiện hệ thống chính sách về kinh tế như chính sách thị trường, ruộng đất, chính sách thu nhập, chính sách đầu tư, chính sách xuất nhập khẩu… Trong đó chính sách tài chính, tiền tệ đặc biệt quan trọng. Chính sách xuất nhập khẩu cần quy định định hướng thời kỳ, giảm bớt các quy định quản lý chuyên ngành hiện nay rất phức tạp, chồng chéo và thiếu thống nhất. Cần quan tâm đến chính sách đãi ngộ như lương bổng, thưởng cho những lực lượng tham gia chống buôn lậu, người có công phát hiện; chế độ chi công tác nghiệp vụ bí mật phục vụ chống buôn lậu một cách thoả đáng, vì chế độ chính sách hiện nay chưa động viên, khuyến khích phù hợp đối với lực lượng này, mặc dù chống buôn lậu, gian lận thương mại là một nhiệm vụ cam go, phức tạp, khó khăn và nguy hiểm. 5.4. Tăng cường công tác giáo dục, vận động quần chúng kết hợp với giải quyết các chính sách xã hội. Muốn chống buôn lậu có hiệu quả thì công tác tuyên truyền, giáo dục, vận động quần chúng nhân dân tham gia công tác này là nhiệm vụ hết sức quan trọng. Phải làm cho nhân dân các dân tộc ở vùng biên giới nâng cao nhận thức, hiểu biết về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về bảo vệ chủ quyền quốc gia, trong đó có chủ quyền về kinh tế, tác hại của nạn buôn lậu với sự phát triển kinh tế, tới an ninh chính trị và trật tự xã hội, chấp hành các quy định của pháp luật như: Không vượt biên giới trái phép, không vận chuyển hàng hoá trái phép qua biên giới, tổ chức cho từng hộ, từng gia đình tự giác ký cam kết không tham gia buôn lậu, mang vác hàng lậu… Từ việc làm chuyển biến nhận thức đó để vận động nhân dân tham gia công tác chống buôn lậu, ủng hộ tạo điều kiện cho lực lượng chống buôn lậu, tố giác hoạt động buôn lậu, làm tai mắt cho cơ quan chức năng trong đấu tranh chống buôn lậu, bảo vệ an ninh biên giới, làm cho bọn buôn lậu bị cô lập không còn chỗ dựa để hoạt động. Tuy nhiên do khó khăn về kinh tế, việc làm, đời sống khó khăn, do đó công tác vận động quần chúng tham gia chống buôn lậu phải kết hợp đồng bộ với việc giải quyết các chính sách xã hội, nhất là ỏ vùng nông thôn, miền núi, đồng bào dân tộc… Nhà nước, các cấp uỷ Đảng chính quyền địa phương cần quan tâm đầu tư phát triển kinh tế ở những vùng này, có chính sách, cơ chế hợp lý, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, xoá thế độc canh cây lúa, đầu tư mở rộng làng nghề, tăng thêm việc làm, tăng thu nhập, thay đổi cơ cấu sản xuất miền núi chuyển hướng sang trồng rừng, trồng cây công nghiệp, hướng dẫn áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật cho đồng bào. Có chính sách hợp lý phát huy thế mạnh từng vùng, nhất là vùng biên giới. Cần tiếp tục đầu tư xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu, khu thương mại, khu bảo thuế… Nghiên cứu phát triển những đặc khu kinh tế, áp dụng các cơ chế chính sách ưu đãi đầu tư, phát triển kinh tế các vùng này nhằm thu hẹp khoảng cách kinh tế. Quan tâm đến công tác xoá đói giảm nghèo, đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng các vùng biên giới như đường giao thông, trường học, bệnh xá, điện, nước sạch; có chính sách hỗ trợ về xây dựng nhà ở (ngói hoá) cho đồng bào; đầu tư khai hoang mở rộng diện tích sản xuất, vận động và xây dựng các khu định canh, định cư cho đồng bào, nâng cao đời sống tinh thần như phủ sóng truyền hình, truyền thanh… Có chính sách quan tâm đầu tư cho giáo dục, đào tạo, đặc biệt là đào tạo cán bộ vùng cao, dân tộc ở biên giới, đồng thời thực hiện đúng đắn nghị quyết của Đảng về luân chuyển, tăng cường cán bộ cho cơ sở; có chính sách khuyến khích cán bộ công tác ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới… Công tác vận động quần chúng và giải quyết các vấn đề xã hội có quan hệ chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau, do đó phải được thực hiện đồng bộ, thiết thực mới có kết quả; đòi hỏi Đảng và Nhà nước, cấp uỷ, chính quyền, các cấp, các ngành phải quan tâm giải quyết có như vậy chúng ta mới thực hiện được các nhiệm vụ chính trị kinh tế - xã hội trong đó có nhiệm vụ chống buôn lậu. 5.5. Tăng cường trách nhiệm của các lực lượng chức năng quản lý biên giới cửa khẩu. - Đối với lực lượng Hải quan: Chống buôn lậu qua biên giới là một nhiệm vụ quan trọng và trách nhiệm chủ yếu của lực lượng Hải quan, do đó phải xây dựng được một hàng rào Hải quan vững chắc. Hàng rào Hải quan là một khái niệm rộng, bao gồm hàng rào vô hình là hệ thống chính sách, pháp luật của Nhà nước trong chống buôn lậu qua biên giới, về quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá, vật phẩm, phương tiện, ngoại hối, tiền tệ... qua biên giới. Còn hàng rào hữu hình là các biện pháp tổ chức quản lý, kiểm tra, kiểm soát, giám sát các hoạt động qua cửa khẩu biên giới. Do đó tăng cường hàng rào Hải quan đòi hỏi nhiều yếu tố và điều kiện khách quan và chủ quan. Trước hết lực lượng Hải quan phải xác định trách nhiệm cao trong việc chống buôn lậu, chống gian lận thương mại ở cửa khẩu biên giới, thực hiện tốt Chỉ thị 19 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường chống buôn lậu, gian lận thương mại ở cửa khẩu. Luật Hải quan hiện nay quy định quyền hạn, phạm vi hoạt động của Hải quan trong chống buôn lậu còn hạn chế. Khảo sát kinh nghiệm tổ chức, nhiệm vụ, quyền hạn của Hải quan Trung Quốc về chống buôn lậu rất lớn như thành lập lực lượng cảnh sát chống buôn lậu thuộc Tổng cục Hải quan, có quyền khám nhà, nơi ở, bắt giữ đương sự, điều tra từ khởi tố đến đề nghị truy tố các tội phạm buôn lậu, thanh tra các doanh nghiệp… nên hiệu quả chống buôn lậu của Hải quan rất cao. Để khắc phục những hạn chế này, lực lượng Hải quan Việt Nam phải phát huy hết trách nhiệm, quyền hạn hiện nay trong chống buôn lậu ở cửa khẩu biên giới, đồng thời quan hệ phối hợp chặt chẽ với các lực lượng trực tiếp khác trong chống buôn lậu như Bộ đội Biên phòng, Công an… mới hoàn thành được nhiệm vụ. Đồng thời Nhà nước cần nghiên cứu đặc thù hoạt động, chức năng, nhiệm vụ của Hải quan để xây dựng mô hình tổ chức Hải quan đủ mạnh, được trang bị phương tiện, thiết bị hiện đại đáp ứng nhiệm vụ kiểm tra, giám sát hàng hoá, phương tiện ở cửa khẩu biên giới phục vụ chống buôn lậu, gian lận thương mại và đáp ứng yêu cầu quản lý trong điều kiện mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại và quá trình hội nhập quốc tế của nước ta hiện nay. - Bộ đội Biên phòng: Với trách nhiệm bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, an ninh, trật tự và tham gia chống buôn lậu qua biên giới phải tăng cường công tác tuần tra kiểm soát ở biên giới. Đặc biệt là trách nhiệm đấu tranh ngăn chặn tình trạng vượt biên trái phép của người, phương tiện vận tải qua biên giới trên bộ, trên sông, trên biển, nếu giải quyết tốt được tình trạng này sẽ ngăn chặn được nạn "cửu vạn" vượt biên mang, vác, vận chuyển hàng lậu qua biên giới hiện nay, đồng thời hỗ trợ phối hợp kịp thời cho các lực lượng chống buôn lậu ở biên giới có hiệu quả thì sẽ làm giảm đáng kể tình hình buôn lậu và đảm bảo an ninh, trật tự xã hội ở biên giới phía Bắc hiện nay. - Lực lượng Công an: Phát huy những kết quả trong việc điều tra khám phá các vụ buôn lậu, tham nhũng trong thời gian qua, phải xác định đấu tranh chống tội phạm buôn lậu hiện nay là một mặt trận quan trọng. Có trách nhiệm thường xuyên phối hợp với các lực lượng chống buôn lậu ở biên giới để điều tra đánh vào bọn buôn lậu đầu sỏ, các đường dây, tổ chức buôn lậu trong nước và quốc tế, làm rõ các hoạt động thông đồng, móc nối, tiếp tay, bảo kê cho buôn lậu, gian lận thương mại sẽ góp phần chủ yếu ngăn chặn, hạn chế tình hình buôn lậu và gian lận thương mại hiện nay và làm trong sạch bộ máy nhà nước. - Các lực lượng khác: Như Quản lý thị trường, cơ quan thuế... phải phát huy trách nhiệm trong việc kiểm tra kiểm soát thị trường nội địa, chế độ quản lý sử dụng hoá đơn chứng từ trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các thành phần kinh tế. Phát hiện xử lý các hành vi chứa chấp, oa trữ, tiêu thụ hàng lậu. Đặc biệt là không để tình trạng hàng hoá nhập lậu được bày bán công khai như hiện nay, có như vậy mới làm mất chỗ "nương thân" để tồn tại của hàng lậu. Ngoài ra công tác chống buôn lậu đòi hỏi phải có sự tăng cường trách nhiệm và phối hợp của các tổ chức nhà nước khác, các cơ quan quản lý nhà nước như Thương mại, Đầu tư, Ngân hàng... phát huy chức năng quản lý của mình, tăng cường kiểm tra thường xuyên các hoạt động đăng ký kinh doanh, hoạt động của doanh nghiệp, quản lý thanh toán ngoại thương... nhằm hạn chế những kẽ hở trong công tác quản lý, ngăn chặn, phát hiện những hoạt động gian lận, lừa đảo, hoặc các dấu hiệu rửa tiền liên quan đến buôn lậu. Các tổ chức đoàn thể chính trị - xã hội phải phát huy vai trò tuyên truyền, giáo dục quần chúng, đồng thời các cơ quan thông tin đại chúng phối hợp thường xuyên trong việc tuyên truyền công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại. Phát huy trách nhiệm và sự phối hợp chặt chẽ của các tổ chức trực tiếp và xã hội tạo ra thế trận tấn công toàn diện vào bọn buôn lậu là yếu tố thành công trên mặt trận này. 5.6. Đề cao vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp: Công tác chống buôn lậu đòi hỏi tạo ra sức mạnh tổng hợp và mạnh mẽ, rộng khắp, do đó phải có sự lãnh đạo của Đảng. Vì vậy trách nhiệm chống buôn lậu cần phải được quán triệt trong Đảng từ Trung ương đến cơ sở. Chống buôn lậu là một vấn đề lớn của đất nước, do đó hơn ai hết, mỗi tổ chức Đảng, mỗi Đảng viên phải nhận thức rõ và thực hiện nhiệm vụ phòng, chống buôn lậu. Ở những địa bàn nóng về buôn lậu, tổ chức Đảng phải coi đó là một nhiệm vụ chính trị quan trọng để tập trung lãnh đạo, chính quyền phải đề ra các kế hoạch, biện pháp tổ chức lực lượng, đề ra những cơ chế, chính sách phù hợp để huy động tối đa lực lượng tham gia chống buôn lậu. Buôn lậu là giặc "nội xâm" do đó chống buôn lậu phải là cuộc cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, các ngành, các cấp - một cuộc chiến tổng lực thời bình. Do đó phải xác định nơi nào tình hình buôn lậu còn xảy ra nhiều thì trước hết cấp uỷ Đảng, chính quyền nơi đó phải chịu trách nhiệm trước Đảng, trước dân. Có như vậy mới phát huy được vai trò lãnh đạo của tổ chức Đảng và chính quyền các cấp. Coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, vươn lên giải quyết những vấn đề thực tiễn hiện nay đặt ra trong công tác chống buôn lậu đối với từng địa phương và trong phạm vi cả nước, làm cơ sở cho Đảng, nhà nước hoạch định đường lối, chính sách, chủ trương, giải pháp để tăng cường công tác chống buôn lậu có hiệu quả, ngăn chặn đẩy lùi tệ nạn buôn lậu nói chung và buôn lậu ở biên giới phía bắc nói riêng cũng là trách nhiệm của các cấp uỷ Đảng và chính quyền hiện nay. 6. Phát triển, đào tạo nâng cao trình độ cán bộ làm công tác kinh tế - thương mại. Cán bộ trong lĩnh vực quan hệ kinh tế- thương mại phải có năng lực quản lý, quản trị kinh doanh, ngoại thương, ngoại ngữ , marketing. Đội ngũ đó phải thể hiện sự kết hợp chặt chẽ giữa các ngành như: Hải quan, Công an, Biên phòng, cán bộ làm công tác xuất nhập khẩu, quản lý thị trường... thực trạng đội ngũ cán bộ trong quan hệ kinh tế- thương mại qua biên giới Việt – Trung còn thiếu, nghiệp vụ chưa thực sự tinh thông, một số ít yếu cả về phẩm chất đạo đức. Để đáp ứng yêu cầu trong giai đoạn phát triển mới, công tác cán bộ trong lĩnh vực hoạt động kinh tế- thương mại cần phải được quy hoạch, đào tạo , bồi dưỡng cho phù hợp với đặc điểm vùng, tập quán vùng. Vì cán bộ là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển các quá trình kinh tế nói chung, các quan hệ kinh tế- thương mại qua biên giới Việt - Trung nói riêng. Đây là một lĩnh vực khó khăn nên đòi hỏi phải đặc biệt chú trọng công tác đào tạo đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực này giỏi về nghiệp vụ, tốt về phẩm chất đạo đức theo hướng sau: - Cần quy hoạch, xây dựng kế hoạch đào tạo đội ngũ cán bộ có năng lực, có trình độ chuyên môn vững, hiểu biết pháp luật và các tập quán, thông lệ quốc tế, có phẩm chất đạo đức , chính trị tư tưởng vững vàng, đủ sức hoàn thành tốt nhiệm vụ kinh tế đối ngoại. Đa dạng hoá các hình thức đào tạo ngắn hạn, dài hạn, tuyển dụng... - Đào tạo cán bộ mới đi đôi với đào tạo lại đội ngũ cán bộ hiện có, để từng bước thực hiện quy hoạch xây dựng đội ngũ cán bộ trong quan hệ kinh tế- thương mại vững mạnh cả về nghiệp vụ chuyên môn và phẩm chất. - Phải có chính sách sử dụng cán bộ một cách khoa học, hợp lý, đúng người, đúng việc, phù hợp với yêu cầu nhiệm vụ ngày càng cao của nền kinh tế thị trường hiện đại. Mặt khác, cần chú ý thích đáng đến lợi ích kinh tế của đội ngũ cán bộ thực hiện nhiệm vụ này để họ yên tâm công tác. 7. Tổ chức nghiên cứu thị trường Trung Quốc. Để dành thế chủ động và nâng cao hiệu quả kinh tế trong trong việc phát triển kinh tế- thương mại qua biên giới Việt - Trung, cần có một bộ phận chuyên nghiên cứu chiến lược và thông tin thị trường, nghiên cứu chính sách của Trung Quốc về phát triển xuất nhập khẩu đối với các nước láng giềng, đặc biệt là đối với Việt Nam. Trên cơ sở đó chúng ta xây dựng các phương án kinh doanh xuất nhập khẩu cho phù hợp với khả năng phát triển của kinh tế nước ta và của các tỉnh biên giới phía Bắc. Chú trọng hoạt động xuất nhập khẩu theo phương thức chính ngạch với các công ty Quốc mậu của Trung Quốc, từng bước giảm dần việc ký kết hợp đồng xuất nhập khẩu với các công ty biên mậu theo phương thức tiểu ngạch; việc thanh toán tiền hàng nhất thiết phải thông qua hệ thống ngân hàng theo đúng tập quán và thông lệ quốc tế. Hàng năm, chúng ta nên tổ chức đoàn đi khảo sát nghiên cứu thị trường Trung Quốc, tập trung nghiên cứu chính sách và học hỏi kinh nghiệm buôn bán trao đổi qua biên giới từ phía bạn. Bộ thương mại nên thường xuyên hơn tổ chức hội chợ trong và ngoài nước để quảng bá sản phẩm và thăm do thị trường. Từ đó xây dựng chiến lược mặt hàng, đề ra các giải pháp thúc đẩy xuất khẩu nhằm thực hiện thành công chiến lược hướng về xuất khẩu, giảm tình trạng nhập siêu như hiện nay. 8. Xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực cửa khẩu biên giới. Kết cấu hạ tầng có vai trò hết sức quan trọng trong việc phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá, thậm chí có lúc, có nơi giữ vai trò quyết định đối với việc đẩy nhanh tốc độ phát triển sản xuất và lưu thông hàng hoá. Các cửa khẩu biên giới Việt- Trung nằm ở khu vực có địa hình phức tạp, dốc, đồi núi cao lại xa các thành phố lớn, xa các trung tâm kinh tế của đất nước. Để đáp ứng nhu cầu mở rộng và phát triển nhanh quan hệ kinh tế - thương mại qua các cửa khẩu biên giới Việt- Trung thì việc xây dựng và phát triển kết cấu hạ tầng khu vực cửa khẩu là vấn đề cấp thiết cần được khẩn trương thực hiện. Thực tế trong những năm qua, phía Trung Quốc đã chủ động chuẩn bị trước, họ đã xây dựng và phát triển cả giao thông vận tải, kho tàng, bến bãi, thông tin điện nướcđến các cửa khẩu biên giới, kể cả các ngành dịch vụ, du lịch, ngân hàng, tài chính, tín dụng. Về phía Việt Nam , trong thời gian qua chúng ta đã có sự đầu tư nhất định, nhưng kết cấu hạ tầng của ta còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được nhu cầu giao lưu kinh tế – thương mại với Trung Quốc. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho quan hệ kinh tế – thương mại qua biên giới Việt – Trung còn hạn chế. Do đó, muốn đẩy mạnh quan hệ kinh tế- thương mại qua biên giới Việt – Trung thì chúng ta phải chủ động xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng theo hướng sau: - Việc xây dựng kết cấu hạ tầng khu vực biên giới cần phải gắn với khuyến khích tập trung, thu hút và có chính sách ưu đãi thuận lợi cho cư dân làm ăn, sinh sống tại khu vực cửa khẩu và dọc trên các tuyến đường đi tới cửa khẩu, tạo môi trường sầm uất nhộn nhịp, phát triển giao lưu buôn bán. - Phải xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng một cách toàn diện cả về giao thông vận tải, kho tàng bến bãi; cả về đường bộ, đường sắt, đường hàng không; cả về điện nước cho các cửa khẩu hoặc thị xã, thị trấn gần cửa khẩu; cả về thông tin liên lạc, chợ, khách sạn khu vực biên giới... Việc xây dựng kết cấu hạ tầng phải đồng bộ, phù hợp với điều kiện miền núi và mang tính hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển quan hệ kinh tế- thương mại giữa hai nước hiện tại và trong tương lai. - Kết cấu hạ tầng phải tạo điều kiện thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá, góp phần tạo việc làm, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm hàng hoá và tăng khả năng cạnh tranh trong quan hệ thương mại giữa hai nước, từ đó làm tăng thu nhập của người kinh doanh. Vì vậy, trong phát triển kinh tế- thương mại thì kết cấu hạ tầng là môi trường cứng, cần phải đi trước một bước. Chương trình phát triển kế cấu hạ tầng từ nay đến năm 2010 , cụ thể như sau: - Về giao thông vận tải: Tiếp tục đầu tư, nâng cấp các tuyến quốc lộ hiện có, chú ý các đoạn đường hay sụt lở vào mùa mưa; củng cố hệ thống đường nối giữa các quốc lộ với các trung tâm huyện, xã, đặc biệt là ở vùng cao, các tuyến đường dọc biên giới, các tuyến đường đến cửa khẩu, bến cảng, sân bay... Gắn với việc phân bổ lại dân cư theo phương châm hình thành các cụm dân cư , thị tứ, thị trấn, khu kinh tế mới... Tiếp tục khôi phục và nâng cấp các tuyến đường sắt liên vận Hà Nội- Lào cai- Côn Minh, Hà Nội - Đồng Đăng – Bằng Tường, Hà Nội - Thái Nguyên để đảm bảo vận chuyển hàng hoá, hành khách trong vùng và quá cảnh sang Trung Quốc và các nước khác. Tiếp tục nâng cấp đạt tiêu chuẩn quốc gia các quốc lộ chính từ Hà Nội đi các tỉnh vùng núi phía Bắc và giữa các tỉnh với nhau. Phát triển nâng cấp tiêu chuẩn quốc tế đường 1A; đường 18 từ Nội bài đi Bắc Ninh- Hạ Long và đoạn đường từ Hạ Long đi Móng Cái. - Phát triển thông tin, bưu chính -viễn thông: Cải tạo và nâng cấp và xây dựng mới các tổng đài và mạng lưới thông tin ở các đô thị, các khu công nghiệp và các điểm du lịch, bảo đảm nhu cầu thông tin liên lạc nội vùng, trong nước và quốc tế. Xây dựng các tổ chức hỗ trợ thương mại như: tư vấn thông tin thương mại, thị trường, pháp luật và kiến thức thương mại , dịch vụ... Phấn đấu đén năm 2010 xây dựng và phát triển hoàn chỉnh mạng lưới thông tin đến hầu hết các xã, thôn , bản... đặc biệt chú ý các xã vùng cao, biên giới, đáp ứng được nhu cầu thông tin nhanh chóng, kịp thời. - Phát triển mạng lưới điện, nước: Phấn đấu đến năm 2010, 100% số xã có điện. Ưu tiên đưa điện lưới quốc gia đến các đô thị, thị xã, các khu công nghiệp, khu kinh tế, ở các xã vùng cao, dân cư thưa, địa hình khó khăn hiểm trở, chủ yếu sử dụng thuỷ điện nhỏ để phục vụ cho từng thôn bản, phù hợp với việc quản lý. Nâng cao chất lượng cung cấp nước sạch và đảm bảo đủ nước cho khu vực cửa khẩu, các khu công nghiệp, khu kinh tế cửa khẩu. Phấn đấu đến năm 2010, 100% các hộ ở các huyện vùng cao được sử dụng nước sạch. KẾT LUẬN Trong lịch sử quan hệ Việt - Trung, chưa bao giờ mối quan hệ kinh tế – thương mại giữa hai nước phát triển mạnh mẽ như những năm qua. Các chỉ số về kim ngạch xuất nhập khẩu, đầu tư, du lịch và dịch vụ đều tăng trưởng ổn định qua các năm. Những thành tựu đạt được trong hơn 10 năm qua đã có sự đóng góp không nhỏ vào công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước nói chung và mục tiêu tăng trưởng kinh tế khu vực các tỉnh vùng núi biên giới phía Bắc nói riêng. Có thể nói rằng, sau hơn 10 phát triển kinh tế - thương mại qua biên giới Việt - Trung đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt kinh tế - xã hội các tỉnh vùng núi biên giới phía Bắc, đã từng bước đưa miền núi tiến kịp miền xuôi, đời sống nhân dân được cải thiện và ngày càng cao, an ninh quốc phòng được giữ vững. Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, quan hệ kinh tế - thương mại giữa hai nước còn bộc lộ nhiều điểm hạn chế làm nảy sinh tiêu cực, đặc biệt là tình trạng buôn lậu qua biên giới cần phải ngăn chặn và đề ra những chủ trương, chính sách phù hợp tạo nên môi trường lành mạnh làm tiền đề vững chắc cho mục tiêu phát triển quan hệ kinh tế - thương mại Việt – Trung Trong thời gian tới. Với ý chí kiên định đi theo con đường xã hội chủ nghĩa mà Việt Nam và Trung quốc đã lựa chọn, chúng ta hoàn toàn tin tưởng rằng dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt Nam và Đảng Cộng Sản Trung Quốc, cùng với những thành tích đã đạt được trong thời gian qua chúng ta tiếp tục phát huy những mặt tích cực, khai thác lợi thế vốn có của mỗi nước để đẩy nhanh phát triển kinh tế, đồng thời có các biện pháp phối hợp tích cực để hạn chế những ảnh hưởng phát sinh không thuận lợi từ mối quan hệ đó nhằm đưa quan hệ kinh tế- thương mại Việt Nam - Trung Quốc lên một tầm cao mới. ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc8396.doc
Tài liệu liên quan