Quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ từ 1991 đến nay

Phần mở đầu I - Lí do chọn đề tài. Lịch sử đã đi qua đều để lại dấu ấn của nó, lịch sử là nhân chứng cho những sự kiện quan trọng mang tính cột mốc. Trong quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ, lịch sử cũng đã từng khép lại để rồi lại mở ra “một chương mới “ cho quan hệ hai nước. Đó là ngày 11/7/1995 Tổng thống Mỹ Bill Clinton tuyên bố thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt Nam. Với tuyên bố này quan hệ hai nước bước sang một trang mới: hợp tác đôi bên cùng có lợi. Trước đó Việt Nam và Mỹ cùng là kẻ thù

doc52 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1447 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ từ 1991 đến nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
của nhau trong chiến tranh. Sau chiến tranh, quan hệ giữa hai nước bị gián đoạn từ năm 1975 - 1995, nghĩa là phải mất 20 năm sau quan hệ Việt - Mỹ mới được hàn gắn trở lại và đi đến bình thường hoá. Nhưng thực tế là từ sau chiến tranh lạnh, quan hệ giữa hai nước đã có biểu hiện ấm dần lên và có những bước đi tích cực để tiến đến bình thường hoá quan hệ ngoại giao cũng như bình thường hoá các quan hệ khác. Vấn đề đặt ra cho các nhà nghiên cứu là phải xem xét, đánh giá một cách tổng thể, toàn diện các mối quan hệ này để phát huy mặt mạnh, khắc phục hạn chế để tạo điều kiện cho công tác hoạch định chính sách của nhà nước và đưa ra những dự báo chiến lược trong tương lai. Hơn nữa, Mỹ là siêu cường mạnh về mọi mặt, đặc biệt Việt Nam cần tranh thủ quan hệ này để đẩy mạnh hợp tác về kinh tế, tranh thủ công nghệ, vốn, học tập cách quản lý về kinh tế để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Việc bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ còn là một nhân tố quan trọng trong việc duy trì, cân bằng lực lượng cũng như sự ổn định trong khu vực Đông Nam á nói riêng và Thái Bình Dương nói chung. Chính vì lẽ đó, tác giả đã mạnh dạn chọn đề tài về quan hệ Việt - Mỹ, tập trung vào quan hệ ngoại giao giữa hai nước từ sau chiến tranh lạnh đến nay. Đây là một đề tài mới mẻ song do thời gian và việc thu thập tài liệu còn nhiều hạn chế, bài viết này chỉ bước đầu sưu tầm tài liệu, hệ thống hoá các sự kiện và làm rõ diễn biến quan hệ Việt - Mỹ trước và sau khi bình thường hoá quan hệ ngoại giao. Do hiểu biết và trình độ có hạn, bài viết khó tránh khỏi khuyếm khuyết, tác giả rất mong nhận được sự chỉ bảo và giúp đỡ của các thầy, cô giaó. Tác giả xin chân thành cảm ơn ! II - Tình hình nghiên cứu Đây là một đề tài đã có nhiều cơ quan và tổ chức trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu nhưng đề tài được đặt ra ở cấp độ một luận văn đại học thì ít người đề cập đến. Cái mới của đề tài là tập trung vào quan hệ Việt - Mỹ từ năm 1995 đến nay. III - Giới hạn của đề tài : Tập trung vào quan hệ Việt Mỹ từ sau chiến tranh lạnh đến nay. IV - Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu : Phương pháp nghiên cứu chủ yếu là phương pháp lịch sử - logic, trình bày quá trình hình thành và phát triển của một vấn đề, từ đó rút ra những khái quát cần thiết. Luận văn sử dụng phương pháp tiếp cận khu vực như thực thể địa - chính trung vào quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ từ 1991 đến nay Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một vấn đề lịch sử, bởi vậy cơ sở phương pháp luận được sử dụng làm phép biện chứng duy vật, coi cơ sở kinh tế - vật chất là yếu tố có vai trò quyết định cuối cùng đối với mọi hiện trị , địa - kinh tế, địa - văn hoá; phương pháp phân tích so sánh v.v... V - Cấu trúc của luận văn : Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được chia thành các phần sau : Chương I : Những nhân tố tác động đến việc bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ I - Bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực. II - Lợi ích của hai bên trong việc bình thường hoá Chương II : Quan hệ Việt - Mỹ từ sau chiến tranh lạnh đến nay I - Khái quát quan hệ Việt - Mỹ trong lịch sử II - Những thay đổi trong quan hệ Việt - Mỹ thông qua các hoạt động ngoại giao III - Triển vọng hợp tác Việt - Mỹ Chương I Những nhân tố tác động đến việc bình thường hoá Quan hệ Việt - Mỹ I - Bối cảnh tình hình quốc tế và khu vực. 1. Cục diện thế giới thời kỳ sau chiến tranh lạnh. Sau khi Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, trật tự hai cực cũng chấm dứt theo. Trật tự hai cực ở đây là Liên Xô và Mỹ đứng đầu cho hai phe XHCN và TBCN tiến hành chiến tranh lạnh kéo dài suốt mấy thập kỷ.Thực chất của chiến tranh lạnh là chạy đua vũ trang, cấm vận lẫn nhau, giương cao ngọn cờ hệ tư tưởng đã ảnh hưởng sâu sắc đến toàn bộ quan hệ quốc tế. Tóm lại, đây là một cuộc đấu tranh giai cấp lấy ý thức hệ làm đầu. Khi Liên Xô sụp đổ, lẽ đương nhiên Mỹ trở thành một cực duy nhất còn lại sau chiến tranh lạnh, với đầy đủ thực lực và tham vọng làm bá chủ thế giới. Nếu như chiến tranh lạnh là giai đoạn đánh đấu thời kỳ vàng son của nước Mỹ với vai trò, vị trí làm sen đầm quốc tế và âm mưu bá chủ thế giới thì sau chiến tranh lạnh, nước Mỹ có phần nào suy yếu (tính trong khoảng thời gian từ 1991 - 1993) do chạy đua vũ trang, chi phí ngân sách quá lớn cho các cuộc chiến tranh mà tiêu biểu là sa lầy trong chiến tranh Việt Nam đã làm tổn hao sức người, sức của, gây thiệt hại 166 tỷ đôla và thiệt mạng 21 vạn người (cho Mỹ) Hơn nữa, Mỹ còn phải đương đầu với thách thức là các nước phương Tây và Nhật Bản vốn là các nước đồng minh chiến lược của Mỹ, được Mỹ trợ giúp về vốn và kỹ thuật, giờ đây đang trở thành đối thủ cạnh tranh quyết liệt với Mỹ. Kế nữa là vai trò của các nước vừa và nhỏ thời kỳ hậu chiến tranh lạnh ngày càng tăng lên. Với sức mạnh kinh tế, trình độ cao về khoa học và công nghệ, các nước tầm trung như Australia, Canada, ASEAN v v.... ngày càng có vị trí lớn hơn trong các vấn đề quốc tế. Môi trường chiến lược của thế giới sau chiến tranh lạnh tỏ ra rất thuận lợi cho các nước bậc trung trong việc tác động đến chính sách của các nước lớn cũng như các nước nhỏ hơn. Có thể thấy rõ điều đó qua vai trò của các nước ASEAN. Vai trò của các nước ASEAN đã trở thành một nét đặc trưng trong bức tranh toàn cảnh ở khu vực châu á - Thái Bình Dương từ đầu những năm 90 trở lại đây. Trong thời kỳ chiến tranh lạnh, nhân tố quyết định trật tự Đông Nam á là các nước lớn. Thời kỳ này, các nước ASEAN đã không có một tiếng nói độc lập cho mình, nhưng giờ đây khó có thể tranh cãi một thực tế là ASEAN đã trở thành một thực thể chính trị, có khả năng tham gia tạo dựng một trật tự khu vực mới. ASEAN đã có vai trò đầu trong các diễn đàn ARF và AFTA v.v... Các nước lớn kể cả Mỹ, Nhật, Nga, Trung Quốc đều tìm kiếm sự hợp tác của ASEAN. Tầm quan trọng về địa chính trị cũng như địa kinh tế của ASEAN được mở rộng, trong các vấn đề khu vực được nâng cao. Trong quan hệ với các nước lớn, vị trí của ASEAN ngày càng được tăng cường. Do vậy, cục diện thế giới hiện nay nhìn chung đang ở thời kỳ chuyển tiếp từ trật tự hai cực sang trật tự thế giới mới. Có nhiều trung tâm nổi lên và vai trò của các nước vừa và nhỏ cũng tăng lên: Tuy phải đối mặt với nhiều thách thức và nguy cơ như vậy nhưng hiện tại Mỹ vẫn là siêu cường duy nhất còn lại sau chiến tranh lạnh và đang quá độ từ tính chất bá chủ thế giới sang vai trò người lãnh đạo thế giới. 2. Xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá. Chiến tranh lạnh kết thúc, trật tự thế giới mới trong quan hệ quốc tế được xác lập trên cơ sở nền kinh tế là chủ yếu. Kinh tế đã trở thành nhân tố quyết định trong sức mạnh tổng hợp của mỗi quốc gia. Điều đó đã làm nẩy sinh việc liên kết khu vực và toàn cầu để thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế. Hơn nữa, quá trình toàn cầu hoá còn được thúc đẩy mạnh mẽ do cuộc cách mạng về khoa học kỹ thuật và liên lạc viễn thông bùng nổ, hình thành mạng lưới hệ thống liên lạc toàn cầu. Một thông tin ở một nơi xa xôi, hẻo lánh đều có thể truyền đến cho mọi người trên thế giới đều biết trong giây lát. Tính quốc tế hoá nền kinh tế thế giới ngày càng diễn ra nhanh và rộng. Kinh tế thế giới, toàn cầu hoá đã chấm dứt việc hai hệ thống xã hội đối lập nhau. Trong những năm 80, từng bước các nước XHCN chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Từ đầu năm 1990, toàn thế giới có cơ sở chung là nền kinh tế thị trường thuận tiện cho việc trao đổi và hợp tác trên phạm vi toàn thế giới thành một thị trường chung mặc dù khác nhau về chế độ chính trị. Sự phụ thuộc kinh tế giữa các nước lớn và nhỏ ngày càng gia tăng và có quy mô ngày một rộng hơn. Quan hệ giữa các nước giờ đây không chỉ đơn thuần là quan hệ về ngoại giao mà còn là mối quan hệ ràng buộc về kinh tế. Sau chiến tranh lạnh, cùng với toàn cầu hoá, khu vực hoá nền kinh tế cũng trở thành những “ ưu tiên trọng điểm “ trong sách lược của mỗi quốc gia. Các nước đều coi trọng chính sách khu vực, ưu tiên quan hệ với các nước láng giềng, đẩy mạnh liên kết khu vực, đồng thời có cân bằng với các nước lớn, khai thác mọi khả năng và những điểm đồng nhất trên từng vấn đề và từng lúc để mở rộng hợp tác vì lợi ích của mỗi bên. Sự ra đời của các tổ chức kinh tế quốc tế và khu vực như: APEC, AFTA, NAFTA vv ... đã tự nói lên xu thế vận động tất yếu của nền kinh tế thế giới. Cùng với sự hợp tác về kinh tế, có sự phân công lao động giữa các nước trong cùng một sản phẩm. Ví dụ: Một chiếc xe máy nhãn mác sản xuất ở một nước nhưng linh kiện và phụ tùng lại được sản xuất ở một nước thứ hai và lắp ráp ở một nước thứ ba. Chính do sự phân công lao động như vậy đòi hỏi các nước phải hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Nếu không thì có nghĩa là chấp nhận sự tụt hậu, đứng ngoài cuộc. Còn hội nhập, thì sẽ có được cả cơ hội cũng như thách thức. Mỗi nước, hơn lúc nào hết phải tự tìm ra ưu thế riêng cho mình. Trong quá trình hội nhập có một nghịch lý là khoảng cách giữa các nước giàu và nước nghèo rất lớn dẫn đến sự phát triển không đồng đều giữa các nước. Những nước nghèo và kém phát triển sẽ bị cạnh tranh trong tình trạng bất bình đẳng bởi các nước giàu có vốn, kỹ thuật công nghệ cao sẽ luôn áp đặt những điều kiện khắt khe khi hợp tác kinh tế, mà với khả năng của mình các nước nghèo chưa thể đáp ứng được do vậy họ sẽ luôn bị thiệt thòi. Vấn đề đặt ra là các nước có nền kinh tế yếu kém như nước ta phải làm thế nào để vượt qua những thách thức mà lại tận dụng được những mặt lợi của quá trình hội nhập và những thành tựu mới của khoa học công nghệ để công nghiệp hóa, hiện đại hoá thành công. Trong cuộc cạnh tranh kinh tế khốc liệt này, nước nào nắm trong tay sức mạnh về kinh tế, nước đó sẽ chi phối quan hệ quốc tế và nắm quyền lãnh đạo thế giới. 3. Xu thế hoà bình, hợp tác để phát triển là nét nổi bật. Xuất phát từ tình hình bối cảnh ở trên, nguy cơ về một cuộc chiến tranh lạnh thứ hai có thể tạm coi như bị đẩy lùi. Về cơ bản, thế giới đã chuyển từ thời kỳ đối đầu sang thời kỳ vừa hợp tác vừa đấu tranh cùng tồn tại hoà bình. Đối thoại chính trị, đàm phán ngoại giao trở thành một trong những công cụ chủ yếu, hiệu quả để giải quyết các vấn đề trong quan hệ quốc tế. Nước nào cũng muốn có hoà bình, ổn định phát triển kinh tế. Môi trường ổn định là điều kiện tiên quyết trong hợp tác phát triển kinh tế hiện nay. Đó là nguyện vọng thiết thực và chính đáng của các dân tộc cũng như đông đảo nhân dân yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Tuy xu thế hoà bình, hợp tác để phát triển là nét nổi bật sau chiến tranh lạnh nhưng bên cạnh đó, ở nơi này, nơi nọ, vẫn xuất hiện các cuộc chiến tranh cục bộ khu vực về tôn giáo, sắc tộc, dân tộc v.v .... Qua cuộc chiến tranh ở Bancang gần đây, nhân dân thế giới lại lo ngại về sự tái xuất hiện của chủ nghĩa đế quốc mà người cầm đầu chiến tranh ở Nam Tư là Mỹ và các nước NATO. Cái gọi là trừng phạt Nam Tư thực chất chỉ là sự phô trương thanh thế và bộc lộ bản chất hiếu chiến xâm lược của các nước này, đi ngược lại với luật pháp quốc tế, tạo ra những tiền lệ xấu trong quan hệ quốc tế. Trong số các nước tiến hành không kích Nam Tư, Mỹ là nước không có lợi nhất, nhờ bán vũ khí cho các nước đồng minh. Mỹ luôn tỏ ra sốt sắng với các tuyên bố “ không ngừng không kích Nam Tư . " Trong vụ việc này, Mỹ lại là kẻ trục lợi nhờ buôn bán vũ khí giống như trong chiến tranh thế giới II. Điều này có cái gì đó lặp lại thật “ đặc biệt " kiến người ta thêm nghi ngờ về ý nghĩa thực chất của cuộc chiến tranh này. Qua vấn đề này, ta thấy trong quan hệ quốc tế hình thức vừa hợp tác vừa đấu tranh đang ngày càng nổi lên. Trước đại cục thế giới như vậy, từng nước phải đề ra những chính sách phù hợp để phục vụ cho lợi ích dân tộc, đó là cơ sở cho mọi quan hệ, trước hết là lợi ích kinh tế. Tình hình khu vực Châu á Thái Bình Dương thời kỳ hậu chiến tranh lạnh là tương đối ổn định so với các khu vực khác. Đây là khu vực phát triển mạnh, năng động với GDP chiếm 2/3 thế giới, chiếm 68,4% dân số thế giới và bao gồm hầu hết các cường quốc như: Nga, Mỹ, Trung Quốc, Australia, Nhật Bản v v... Chiến lược của Mỹ trong những năm gần đây là hướng về Châu á Thái Bình Dương. Vô hình chung, Mỹ và Việt Nam cùng nằm trong khu vực này, do vậy nó cũng tác động không nhỏ đến quan hệ hai nước. II - Lợi ích của hai bên trong việc bình thường hoá. Để đi đến bình thường hoá, quan hệ hai bên đã có những bước tiến dài, khác xa so với trước. Sở dĩ quan hệ Việt - Mỹ có những "đột phá khẩu" như vậy, từ sự thù địch chuyển sang thời kỳ hàn gắn, thiết lập quan hệ ngoại giao một phần là do sự tác động của đặc điểm, xu thế của thế giới, một phần cũng là do lợi ích chiến lược của mỗi nước cùng với sự điều chỉnh chiến lược của Mỹ kết hợp với đường lối đổi mới, chính sách mở cửa của Việt Nam. Đây là một trong những nhân tố quan trọng giúp cho việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao giữa hai nước được khai thông. 1 .Lợi ích của Mỹ khi thiết lập quan hệ với Việt Nam. Như trên đã nói, do bối cảnh quốc tế, các nước, trước hết là các nước lớn đều có sự điều chỉnh chiến lược và chính sách của mình. Với Mỹ, một siêu cường muốn nắm giữ vai trò "người lãnh đạo thế giới" thì việc thay đổi điều chỉnh chiến lược để thực hiện được ý đồ của mình cũng là điều dễ hiểu. Kế nhiệm George Bush, tổng thống đầu tiên của nước Mỹ trong thời kỳ sau chiến tranh lạnh, người có tham vọng để lại dấu ấn trong lịch sử nước Mỹ bằng một chiến lược mới thay thế cho chiến lược "ngăn chặn" của thời kỳ chiến tranh lạnh, Bill Clinton đã đề ra chiến lược "mở rộng dân chủ". Ngày 27/ 9/1993 trong diễn văn đầu tiên đọc trước Đại hội đồng Liên hợp quốc nói rõ: "trong chiến tranh lạnh chúng ta tìm cách ngăn mối đe doạ đối với sự sống còn của các thể chế tự do ... Giờ đây chúng ta tìm cách mở rộng tập hợp các quốc gia sống dưới các thể chế tự do đó".(1) Phan Doãn Nam, Về sự điều chỉnh chiến lược của một số nước lớn sau chiến tranh lạnh - Tạp chí nghiên cứu quốc tế số 20 Thực chất của chiến lược "mở rộng dân chủ" là chuyển từ vai trò của một nước Mỹ làm sen đầm quốc tế trước đây sang vai trò người lãnh đạo thế giới "hay dễ hiểu hơn là người lãnh đạo thế giới". Đưa ra chiến lược này, nhưng mức độ áp dụng vào từng khu vực như thế nào là còn tuỳ thuộc vào tầm quan trọng của khu vực đó đối với Mỹ. Với khu vực Châu á Thái Bình Dương, Mỹ cho rằng đây mới chính là khu vực đem lại lợi ích cho nước Mỹ, được đặt vào vị trí ưu tiên ngang hàng với Châu Âu, khác so với trước kia là khu vực Châu Âu được coi trọng hơn. Bởi lẽ, Mỹ đã nhìn xa một bước về t iềm năng của Châu á Thái Bình Dương cả về kinh tế và chính trị. Bản điều trần của trợ lý ngoại trưởng Mỹ tại hạ viện phụ trách về vấn đề Châu á - Thái Bình Dương cho rằng đây là khu vực chiếm hơn 1/2 dân số thế giới. Đây là khu vực bao gồm hầu hết các nước lớn mà Mỹ phải kiềng nể như : Nga, Nhật Trung Quốc v v ..., trong đó có Mỹ. Với Nga, trước đây là đối thủ của Mỹ trong chiến tranh lạnh hai nước từng chạy đua, tranh giành vị trí, ảnh hưởng với nhau trong từng vấn đề. Giờ đây, khi Liên Xô mất đi thì vị thế của Nga thay vào đó không còn nguyên vẹn như xưa nhưng tiềm lực quân sự của Nga vẫn là điều mà Mỹ đáng phải gờm. Với Nhật Bản, một đồng minh tin cậy của Mỹ trong thời kỳ chiến tranh lạnh thì nay vẫn là một đối tác, đồng minh quan trọng của Mỹ cả về an ninh và kinh tế. Mỹ luôn coi Nhật là hòn đá tảng trong chính sách của Mỹ ở Châu á - Thái Bình Dương. Nó đã được thể hiện qua chiến lược của Clinton là củng cố nâng cấp, và mở rộng hệ thống các hiệp ước an ninh đã có từ thời chiến tranh lạnh. Mỹ và Nhật vốn có nhiều thoả ước với nhau về quân sự đặc biệt là trong chiến tranh lạnh bởi Nhật là căn cứ quân sự quan trọng của Mỹ trong chiến tranh Việt Nam, Triều Tiên v.v .... Còn Nhật, ngược lại cũng muốn lợi dụng Mỹ làm lá chắn về quân sự, do vậy mà hai bên có những lợi ích song trùng nhau cả về kinh tế và quân sự. Còn với Trung Quốc, mục tiêu đối ngoại của Mỹ là thực hiện vừa hợp tác vừa kiềm chế. Trung Quốc luôn bị coi là vật cản trong bước đường tiến đến chủ nghĩa bá quyền của Mỹ. Trung Quốc là một nước có dân số đông nhất thế giới, là thị trường tiêu thụ hàng hoá đầy tiềm năng cũng như nhập khẩu hàng hoá quan trọng. Năm 1997, Mỹ xuất khẩu sang Trung Quốc hơn 12 tỷ USD trong khi đó lại nhập khẩu của Trung Quốc lên đến 62 tỷ USD. Nghĩa là trong kim ngạch buôn bán hai chiều Mỹ còn là nước nhập siêu tới gần 50 tỷ USD. Trung Quốc theo lời bà Albright đánh giá tại hội thảo tháng 10/97 lại ngày càng có vai trò quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề thế giới như vấn đề Campuchia, bán đảo Triều Tiên v v ... Bên cạnh đó, Trung Quốc lại đang hiện đại hoá quân đội, phổ biến vũ khí hạt nhân tăng ngân sách quốc phòng, đây là điều mà Mỹ lo ngại. Khuynh hướng chung của các nhà chính trị Mỹ cho rằng việc cô lập Trung Quốc là việc làm ngu xuẩn, là đi ngược lại lợi ích của Mỹ. Chính sách của Mỹ là làm thế nào để đối thoại với Trung Quốc, lôi kéo Trung Quốc hoà nhập vào cộng đồng quốc tế, bảo vệ tích cực hơn nền an ninh của Mỹ và thúc đẩy tự do dân chủ ở Trung Quốc. Hơn nữa, mối lo ngại tiềm ẩn của Mỹ về việc Trung Quốc hợp nhất với Đài Loan, Ma Cao thì Trung Quốc sẽ là một Đại Trung Hoa, điều đó sẽ là thách thức đối với vị thế vai trò của Mỹ ở khu vực. Do vậy, chính sách mới của Mỹ là cố gắng củng cố vị trí ảnh hưởng của mình ở khu vực Châu á - Thái Bình Dương nhằm ngăn ngừa bất cứ cường quốc nào nổi lên thách thức vị trí ảnh hưởng ấy, đảm bảo cho an ninh trên biển cho Mỹ, bành trướng kinh tế và truyền bá các giá trị văn hoá "dân chủ và nhân quyền", thực hiện "diễn biến hoà bình" với các nước XHCN còn lại. Đối với các nước Đông Dương, chính sách của Mỹ chuyển từ gây căng thẳng, chia rẽ các quốc gia sang lôi kéo, thu hút tăng cường ảnh hưởng của Mỹ với các quốc gia ở khu vực này. Qua phân tích chính sách của Mỹ với các nước lớn trong khu vực ta thấy mục tiêu của Mỹ khi quan hệ với Việt Nam không nằm ngoài những mục tiêu chung trong chiến lược toàn cầu hay trong chính sách với Đông Nam á của siêu cường này. Một trong những mục tiêu Mỹ hướng tới khi quyết định bình thường hoá quan hệ với Việt Nam là muốn thu hút lôi kéo Việt Nam lại gần Mỹ hơn và tách Việt Nam ra khỏi các đối tác truyền thống (cụ thể là làm cho Việt Nam độc lập hơn với Trung Quốc - một đối thủ đe doạ vai trò cường quốc số một của Mỹ ở Châu á - Thái Bình Dương cũng như toàn cầu). Bởi thế, ngay sau khi Việt Nam gia nhập ASEAN, Mỹ đã tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Mỹ không phản đối là có dụng ý của Mỹ: Mỹ muốn Việt Nam gia nhập ASEAN để tổ chức này mạnh thêm và đây sẽ là đối trọng với Trung Quốc. Việt nam gia nhập ASEAN không làm cho Mỹ lo ngại bởi vì các nước trong ASEAN đều là đồng minh của Mỹ trong tổ chức quân sự SEATO trước đây nên Mỹ hoàn toàn có thể yên tâm để đứng “ giật dây “ đằng sau khi cần. Tuy nhiên, trước khi có tuyên bố bình thường hoá, cuộc tranh luận về việc có nên bình thường hoá quan hệ với Việt Nam hay không vẫn còn gay gắt. Quan điểm của những người theo trường phái cứng rắn, cực hữu trong Quốc hội Mỹ cho rằng Việt Nam không quan trọng đối với Mỹ vì "Việt Nam quá xa và quá nhỏ bé so với nước Mỹ, xét cả về khả năng kinh tế và diện tích tự nhiên. Diện tích nước Mỹ là 9,37 triệu km2, còn Việt Nam là 329,566 km2 = 1/28,5 diện tích của Mỹ ... Tổng sản lượng quốc dân GNP của Mỹ là 4880 tỷ USD còn Việt Nam là 12,4 tỷ USD = 1/361,3 ; chỉ số GNP đầu người của Mỹ là 19.856 USD còn Việt Nam là 200 USD xấp xỉ 1/992 của Mỹ (2) Tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.Báo nhân dân ngày12/7/1995 . Những con số nói trên cho thấy dung lượng thị trường Việt Nam quả là nhỏ bé so với Mỹ. Do vậy việc cấm vận hay bình thường hoá là ít ý nghĩa. Trên thực tế, quan điểm này đã chi phối phần lớn chính sách của Mỹ trong hai mươi năm qua. Quan điểm thứ hai thuộc về các doanh nghiệp, cựu chiến binh và nhiều nhân vật trong chính giới Mỹ, những người quan tâm đến Việt Nam đánh giá Việt Nam có vai trò quan trọng ở Đông Dương và Đông Nam á vì nếu xét về diện tích là nhỏ nhưng vị trí lại rất quan trọng. Việt Nam nằm án ngữ con đường biển huyết mạch từ Bắc á xuống Đông Nam á và ấn Độ Dương. Thêm vào đó, Việt Nam còn có cảng Cam Ranh là căn cứ quân sự chiến lược trong khu vực. Việt Nam tuy nhỏ nhưng có tiềm năng lớn, dân đông có trình độ dân trí cao, cộng với tài nguyên thiên nhiên phong phú với nhiều mỏ dầu có trữ lượng khá lớn, hứa hẹn những khả năng hợp tác và đầu tư. Kết quả như chúng ta đã rõ, Mỹ đã bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Bên cạnh những lợi ích trên, Mỹ muốn thiết lập quan hệ với Việt Nam còn để nhằm giải toả hội chứng Việt Nam trong nội bộ nước Mỹ. Vết thương này đã để lại những nỗi đau trong lòng người Mỹ, âm ỉ suốt mấy chục năm qua. Việc thiết lập quan hệ với Việt Nam là để làm nguôi ngoai nỗi đau của người dân Mỹ gạt bỏ những ám ảnh và giúp họ hướng về tương lai: "Bước đi này sẽ giúp đất nước chúng ta tiến lên phía trước về một vấn đề chia rẽ người Mỹ với nhau quá lâu rồi. Chúng ta hãy hướng về tương lai, chúng ta có quá nhiều việc phải làm ở phía trước. Đây là lúc tạo cho chúng ta cơ hội để hàn gắn các vết thương của chúng ta. Những vết thương này đã không chịu lành quá lâu rồi. Giờ đây chúng ta có thể tiến tới một cơ sở chung, bất kể những gì đã chia rẽ chúng ta trước đây, chúng ta hãy xếp vào quá khứ, hãy để cho giây phút này, theo từ của kinh thánh là một thời điểm để kiến tạo" (*). Sau cùng, thiết lập quan hệ với Việt Nam, Mỹ mong muốn một sự hợp tác từ phía Việt Nam để giải quyết vấn đề POW - MIA, vấn đề về tù binh chiến tranh và quân nhân Mỹ mất tích - một vấn đề do di sản quá khứ của chiến tranh để lại. Đây là vấn đề Mỹ đặt làm điều kiện hàng đầu để quan hệ với Việt Nam. Trở lại với chiến lược "mở rộng dân chủ" hay còn gọi là "học thuyết Clinton, Mỹ đề ra chiến lược này là nhằm đem áp dụng vào các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam nhằm làm thay đổi chế độ chính trị - xã hội của Việt Nam, thực thi diễn biến hoà bình đối với chế độ xã hội chủ nghĩa và nhằm lật đổ Đảng cộng sản Việt Nam. Với mục tiêu đó, Mỹ cho rằng việc xoá bỏ cấm vận, giúp Việt Nam phát triển kinh tế là nhằm đưa Việt Nam vào vòng ảnh hưởng chi phối của Mỹ, xoá bỏ sự thù hận của người dân Việt Nam đối với Mỹ từ đó dễ dàng thực hiện diễn biến hoà bình ở Việt Nam. Thực chất, mục tiêu này không nằm ngoài mục tiêu “ thúc đẩy và củng cố các nền dân chủ mới và các nền kinh tế thị trường ở nơi nào có thể “ trong chiến lược toàn cầu của Mỹ. Tổng thống Bill Clinton cũng đã không giấu giếm, che đậy ý đồ đó mà công khai nói trong tuyên bố binh thường hoá quan hệ với Việt Nam: “ Tôi tin rằng việc bình thường hoá và tăng cường các cuộc tiếp xúc giữa người Mỹ và Việt Nam sẽ thúc đẩy sự nghiệp tự do ở Việt Nam như đã từng diễn ra ở Đông Âu và Liên Xô trước đây. Tôi tin tưởng mạnh mẽ rằng việc cuốn người Việt Nam vào mặt trận kinh tế rộng lớn của cải cách dân chủ sẽ giúp tôn vinh sự hi sinh của những người đã chiến đấu vì tự do ở Việt Nam (3): Tuyên bố bình thường hoá quan hệ với Việt Nam.Báo Nhân Dân ngày 12/7/1995 2.Lợi ích của Việt Nam khi quan hệ với Mỹ. Xuất phát từ tình hình thực tế ở trong nước cũng như xu thế của thế giới, Việt Nam đã đề ra đường lối, chính sách mới cho phù hợp với thực tế. Trong quan hệ quốc tế hiện nay, chính trị, quân sự vẫn quan trọng nhưng kinh tế thương mại đang dần dần đóng vai trò trội hơn: Việt Nam thực hiện chính sách : Tiếp tục đẩy mạnh việc thực hiện chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá, tranh thủ tối đa mặt đồng, hạn chế mặt bất đồng ... Sự điều chỉnh chính sách và đường lối đối ngoại này đã đem lại cho Việt Nam những thành tựu to lớn về kinh tế, từng bước xây dựng và củng cố cơ sở hạ tầng, tình hình chính trị, xã hội ổn định. Chính sự đi lên trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng và tăng cường các quan hệ ngoại giao. Kế tục đường lối đổi mới đó, năm 1991, Đại hội đảng toàn quốc lần thứ VII đã đề ra đường lối: Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển . Với phương châm đối ngoại rộng mở cùng chính sách kinh tế thông thoáng, Việt Nam đã mở rộng quan hệ với nhiều nước, thu hút được nhiều nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam. Việc phát triển quan hệ với các nước lớn đã được đưa ra trong đường lối chiến lược phát triển của Việt Nam, trong đó có Hoa Kỳ. Việt Nam coi Hoa Kỳ là nhân tố quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình, từng bước có sự diều chỉnh chiến lược để làm thay đổi thái độ, lập trường của Mỹ với Việt Nam. Với phương châm: "Khép lại quá khứ, hướng tới tương lai" Việt Nam đã làm hết sức mình để khép lại quá khứ chiến tranh tàn khốc, hướng về tương lai tốt đẹp hơn trong quan hệ hai nước. Việt Nam đã tích cực giải quyết vấn đề POW-MIA về những quân nhân Mỹ bị mất tích và chết trong chiến tranh Việt Nam. Bằng nỗ lực hợp tác, Việt Nam, Mỹ, Campuchia và các nước khác đã thành công trong việc tìm ra giải pháp cho vấn đề Campuchia mà kết quả là hiệp định Paris về vấn đề Campuchia ra đời ngày 23/ 10/1991 gỡ bỏ dần những áp đặt được đưa ra trong lộ trình bốn giai đoạn của Mỹ. Những nỗ lực hợp tác này đã xoay chuyển được "cục diện quan hệ Việt Nam và Mỹ theo chiều hướng tốt đẹp hơn. Điều này đã được khẳng định ngay từ Nghị quyết Đại hội VI của Đảng: "Chính phủ Việt Nam tiếp tục bàn bạc với Mỹ giải quyết các vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và sẵn sàng cải thiện quan hệ với Mỹ vì lợi ích của hoà bình ở Đông Nam á". Tiếp tục đối đầu sẽ không có lợi cho cả hai nước: Việt nam và Mỹ, chỉ bằng cách cải thiện quan hệ thì các quan hệ khác mới được thúc đẩy, đem lại lợi ích cho cả hai bên. Về phía Việt Nam, mục tiêu chiến lược của Việt Nam đề ra trong quan hệ với Mỹ là đạt được những điều sau: Một là, bình thường hoá quan hệ với Mỹ, Việt Nam sẽ củng cố và nâng cao vị thế của mình trên trường quốc tế, tạo điều kiện cho việc cải thiện quan hệ với các nước khác và khai thông quan hệ với các tổ chức, thể chế tài chính, kinh tế thương mại khu vực cũng như toàn cầu: ADB, IMF, WB, WTO, APEC v v... giúp Việt Nam hội nhập với khu vực và thế giới. Hai là, phát triển quan hệ với Mỹ sẽ đem lại cho ta khả năng tận dụng vốn, công nghệ, kinh nghiệm quản lý của Mỹ. Mỹ là nước đầu tư ra nước ngoài rất lớn, công nghệ phát triển vào loại bậc nhất, các nhà khoa học, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện tiếp cận học hỏi kinh nghiệm ở một nước phát triển cao như Mỹ, tạo môi trường thuận lợi cho việc hợp tác đầu tư, trao đổi kinh tế, thương mại. Điều này hỗ trợ trực tiếp cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Việt Nam, giúp Việt Nam đẩy lùi nguy cơ tụt hậu. Ba là, bình thường hoá quan hệ với Mỹ, Việt Nam sẽ có điều kiện hối thúc Mỹ giúp đỡ để giải quyết những hậu quả của chiến tranh. Việt Nam đã tích cực giúp đỡ Mỹ trong việc tìm tung tích nạn nhân trong chiến tranh thì ngược lại Mỹ cũng nên có thái độ tích cực trong việc giúp đỡ Việt Nam giải quyết những hậu quả chiến tranh do Mỹ để lại. Bên cạnh đó, Việt Nam và Mỹ sẽ cùng hợp tác để giải quyết dứt điểm những vấn đề còn tồn đọng trong công tác POW/MIA. Sau cùng, việc thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước sẽ mở đường cho Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN) và quy chế đặc miễn dành cho một nước đang phát triển (GSP). Theo đó, Việt Nam sẽ được phép xuất khẩu sang Mỹ với chế độ thuế quan rất thấp, hoặc không phải chịu thuế. Điều này sẽ giúp cho việc phát triển kinh tế của Việt Nam được thuận lợi hơn. Chương II Quan hệ Việt - Mỹ từ sau chiến tranh lạnh đến nay. I. Khái quát quan hệ Việt- Mỹ trong lịch sử Trong lịch sử quan hệ Việt Nam và Mỹ. Đây không phải là lần đầu tiên hai nước đặt quan hệ ngoại giao với nhau. Đã có rất nhiều lần hai bên chủ động tìm đến nhau để thiết lập quan hệ ngoại giao nhưng do sự ngẫu nhiên của lịch sử và vì những lý do khách quan và chủ quan mà hàng loạt cơ hội thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nhà nước Việt Nam và Mỹ bị bỏ lỡ. 1. Những cơ hội tiếp xúc đầu tiên. a. Về phía Mỹ. Ngay từ khi nước Cộng hoà Mỹ non trẻ được thành lập (1776), Chính phủ Mỹ đã biết tới Việt Nam khi đó với tên gọi là xứ (Cochin china), được hiểu là Đàng Trong. Tháng 7 năm 1787, đại diện Mỹ ở Pháp là Thomas Jefferson đã thông báo cho Chính phủ Mỹ về thị trường lúa gạo Đàng Trong. Bốn tháng trước khi cách mạng Pháp bùng nổ, Thomas Jeferson khẩn cầu nhà thực vật học nổi tiếng người Pháp Malesherbes tìm kiếm giống lúa Đàng Trong để đem về gieo trồng trên đất Mỹ. Malesh -erbes không giúp gì được Jefferson .Vậy là cơ hội tiếp xúc đầu tiên bị bỏ lỡ.(5) Hữu Ngọc - Hồ sơ văn hoá Mỹ, NXB Thế giới, H,1995, tr 774 Năm 1799, một thương thuyền Mỹ đầu tiên ghé vào một cảng Đàng Trong. Gần 30 năm sau, một thương thuyền Mỹ khác từ Việt Nam về mang theo lụa, đường và thóc giống. Trong thời kỳ này, phong trào bài ngoại dấy lên mạnh mẽ khắp các vùng Việt Nam khiến cho không mấy ai quan tâm đến buôn bán với Mỹ. Hơn nữa, do gặp thời tiết xấu, thóc giống bị sâu mọt phá huỷ hết trước khi cập đất Mỹ. Cây lúa biểu trưng của Việt Nam lại một lần nữa không có cơ hội hiện diện trên đất Mỹ. Đến năm 1831, Tổng thống Hoa Kỳ Andrew Jackson đã cử một phái đoàn thương mại do ông Edmund Robert dẫn đầu sang thăm Việt Nam hồi đó đang do vua Minh Mạng trị vì. Mùa đông tháng 11 Năm Minh Mạng thứ 13, (tức tháng 12 năm 1832), một chiếc thuyền Hoa Kỳ do Ông Georges Thomas điều khiển ghé đậu ở Vũng Lâm, Phú Yên (Cách sông Cầu chừng chín cây số). Trên tàu chở một phái đoàn do Ông Edmund Robert dẫn đầu. Vua Minh Mạng đã hạ chiếu chỉ cho phép hai ông Nguyễn Tri Phương và Lý Văn Phúc tới Phú Yên để giao thiệp với tàu Hoa Kỳ. Song với điều kiện: tàu phải đậu ở cửa Trà Sơn (nay là Đà Nẵng) và không được dựng nhà ở trên đất liền. Nhưng đây cũng mới chỉ là giao thiệp sơ bộ. Năm Minh Mạng thứ 17 (1836) tàu Mỹ lại đến lần thứ hai và đậu ở cửa Trà Sơn. Tàu này mang một quốc thư của Tổng thống Hoa Kỳ và vị đại diện Mỹ xin được vào yết kiến. Ngay trong bức thư đầu tiên này, tổng thống Andrew Jackson đã nói rõ ý định giao hảo của chính phủ Hoa Kỳ. “ Thư này sẽ được trình bệ hạ bởi ngài Edmund Robert, một công dân khả kính của Hoa Kỳ, được cử làm đặc sứ mang trọng trách chuyển tới bệ hạ những việc hệ trọng của bản quốc. Tôi xin bệ hạ bảo hộ cho ông ta trong khi phụng mệnh và đối đãi với ông ta một cách bao dung và tin cậy, xin hãy hoàn toàn tin tưởng vào những điều mà ông ta nhân danh._. tôi nhắc lại lời cam đoan về tình hữu hảo và thiện chí đối với bệ hạ (6 Lưu Văn Lợi, Năm mươi năm ngoại giao Vệt Nam, NXB Công An nhân dân, H, 1998, tậ 2 tr 268. . Tuy nhiên, chuyến đi mở đường này mới chỉ dừng lại ở một cuộc chiêu đãi và không giải quyết được vấn đề gì cụ thể. Nguyên nhân là do E. Roberts bị bệnh và mất đột ngột tại Ma Cao, không hoàn thành được nhiệm vụ và cũng bỏ lỡ cơ hội bang giao giữa hai nước. Quan hệ ngoại giao giữa Mỹ và Việt Nam đã được nhen nhúm vào năm 1845. Một hạm đội của Mỹ là một bộ phận của sư đoàn Đông ấn thuộc hải quân Mỹ dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng John Pereival đã cập bến tại bờ biển Đà Nẵng. Hạm đội này đang trên đường từ Canton tới vịnh Manila. Pereival đã mời các quan chức Việt Nam lên tàu của hạm đội và khẩn cầu họ giúp thả nhà truyền giáo người Pháp bị vua Thiệu Trị giam ở Huế. Pereival đã giữ các quan lại này làm con tin để đàm phán cho việc thả nhà truyền giáo. Khi vua Thiệu Trị từ chối trao đổi nhà truyền giáo lấy quan lại, Pereival đã thả các con tin, bắn vài quả đại bác rồi dong tàu bỏ đi. Bốn năm sau, 1849, Tổng thống Zachary Taylor đã xin lỗi về hành động không được phép của Pereival. Bức thư đã được Josseph Balestier, công sứ về Đông Nam á chuyển tới cho “ Hoàng đế An Nam”. Tổng thống viết rằng, Ngài gửi bức thư này để “ Hoàng đế hiểu rằng tôi rất đau lòng khi được biết bốn năm trước đây (Mà tôi cũng mới chỉ được nghe gần đây, lần đầu tiên, vì nước các ngài quá xa nước tôi) Thuyền trưởng Pereival đã cho quân đổ bộ lên đất liền ở vịnh Turan, bắn vào thần dân của ngài, giết và làm bị thương một số người ... (7) Barbara Cohen, The Việt Nam Guide Book, NY,1990,Tr 52. . b. Về phía Việt Nam. Người Việt Nam đầu tiên đến Mỹ cho đến nay vẫn chưa được xác định rõ. Tuy nhiên, người được sử sách ghi chép lại và được coi là người đến Mỹ đầu tiên rất có thể là Bùi Viện, Đại sứ đầu tiên của Việt Nam đến Mỹ. Vào nửa cuối thế kỷ 19, trong lúc Nhật hoàng Minh Trị đang đưa nước Nhật Bản tiến mạnh mẽ vào con đường duy tân thì Việt Nam đang rơi vào tình trạng sắp mất nốt Trung kỳ, Bắc Kỳ. Vua Tự Đức nhu nhược trước âm mưu mở rộng của thực dân Pháp, bác bỏ đề nghị canh tân của Nguyễn Trường Tộ và nhiều nhà canh tân tâm huyết khác. Tuy vậy, ông vẫn muốn nắm tình hình phương tây để điều chỉnh chính sách. Tháng 7 năm 1873, Tự Đức cử Bùi Viện, một nhà nho thức thời và năng động, đi ra nước ngoài, trước hết là tới Hương Cảng. Do có sự giúp đỡ của viên lãnh sự Mỹ tại Hương Cảng mà ông đã làm quen, Bùi Viện đáp tàu sang Mỹ với hy vọng tìm được người bạn mới giúp Việt Nam đánh Pháp. Tới Mỹ, ông được Tổng thống Ulysse Grant tiếp và hứa sẽ giúp Việt Nam bảo vệ đất nước nhưng cần có quốc thư uỷ nhiệm chính thức của nhà nước Việt Nam. Khi Bùi Viện trở lại Mỹ, thực hiện chuyến công cán lần thứ hai vào năm 1875 với quốc thư của vua Tự Đức trong tay nhưng tình hình quan hệ Mỹ- Pháp đã khác, Mỹ không còn muốn viện trợ cho Việt Nam chống Pháp nữa vì lúc này Mỹ chưa có điều kiện cạnh tranh với thực dân Pháp. Như vậy, sau hai lần sang Mỹ, Bùi Viện vẫn trở về nước với hai bàn tay không. Hai nước vẫn chưa thiết lập được quan hệ ngoại giao. Đã có nhiều cơ hội loé lên, manh nha kể từ khi Jefferson sang Việt Nam rồi Bùi Viện sang Mỹ nhưng đều không mang lại kết quả khả quan. Từ đó, Mỹ từ bờ Thái Bình Dương đứng nhìn quá trình chủ nghĩa thực dân Pháp bóc lột nhân dân Việt Nam cho đến khi nó bị gót sắt của chủ nghĩa quân phiệt Nhật đè bẹp trong chiến tranh thế giới thứ II. 2 . Thăng trầm của quan hệ Việt - Mỹ qua hai cuộc chiến tranh ở Việt Nam. a. Trong kháng chiến chống Pháp. Từ giữa thế kỷ XIX, Việt Nam nằm dưới sự đô hộ, cai trị của chủ nghĩa thực dân Pháp. Từ đó, nhân dân Việt Nam đã không ngừng đấu tranh để giành lại tự do độc lập. Sau thắng lợi hoàn toàn của Cách mạng tháng 8 năm 1945, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ra đời đã chấm dứt hơn 80 năm chế độ Pháp thuộc. Nhưng ngay sau khi giành lại được độc lập, theo quy định của hiệp ước Postdam, Đông Dương chia làm hai khu vực giải giáp quân Nhật Bản: Khu vực phía Bắc từ vĩ tuyến 16 trở lên, khu vực phía Nam từ vĩ tuyến 16 trở xuống. Quân Tưởng Giới Thạch kéo vào miền Bắc Việt Nam, quân Anh kéo vào miền Nam Việt Nam. Ngay từ thời này, giữa Mỹ và Việt Nam cũng bắt đầu quan hệ bang giao thông qua sự hợp tác tích cực chống quân đội phát xít. Trong chiến tranh thế giới thứ hai, khi nước Mỹ tham gia Đồng minh, đang trong hàng ngũ lực lượng dân chủ toàn thế giới chống phe Trục: Đức - ý - Nhật, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã chủ động đặt quan hệ với Mỹ. Suốt thời gian lưu lại Trung Quốc, sau khi được chính quyền Tưởng Giới Thạch trả tự do (1943 - 1944), Hồ Chí Minh đã làm quen với một số sỹ quan Mỹ đang hoạt động ở Trung Quốc. Trong chuyến đi Côn Minh, từ tháng 2 đến tháng 4 năm 1945, với danh nghĩa đại diện mặt trận Việt Minh, Người đã tiếp xúc với các sỹ quan được tổ chức cứu trợ không quân Mỹ (A. G. A.S) và Cơ quan nghiên cứu chiến lược Mỹ (O.S.S). Người còn gặp tướng Chennault, tư lệnh quân đoàn không quân số 14 của Mỹ. Vấn đề hợp tác giữa Việt minh với Đồng minh được phía Mỹ quan tâm. Ngày 27/4/1945, Hồ Chí Minh trên đường về nước gặp thiếu tá Archimedes Patti thuộc tổ chức O.S.S tại một làng nhỏ gần Tĩnh Tây (Trung Quốc). Ngày 16/7/1945, một nhóm quân nhân Mỹ mang biệt danh “ Deer team” do thiếu tá Allion Thomas chỉ huy, thuộc tổ chức O.S.S, đã nhẩy dù xuống Tuyên Quang trong khu du kích do Việt Minh kiểm soát. Nhóm có nhiệm vụ hợp tác với Việt minh xây dựng mạng lưới thông tin về hoạt động của quân đội Nhật từ Nam ra Bắc Việt Nam. Nhóm này tham gia huấn luyện du kích, cung cấp điện đài và một ít súng ống, đạn dược... Đến tháng 8 thì nhóm Thomas theo quân du kích của Hồ Chí Minh xuôi Hà Nội, trở thành nhân chứng của một trong những sự tích thần kỳ nhất trong lịch sử Việt Nam - ngày tuyên bố Việt Nam độc lập. Cách Mạng tháng 8 thắng lợi, với cương vị Chủ tịch nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, lại trực tiếp phụ trách công tác ngoại giao, Hồ Chí Minh đã thảo bản Tuyên bố về chính sách ngoại giao trong đó khẳng định chủ trương quan hệ hoà bình hữu nghị với tất cả các nước trên thế giới, trên cơ sở bình đẳng, tôn trọng độc lập chủ quyền của mỗi nước. Với Mỹ, Hồ Chí Minh tiếp tục duy trì những quan hệ đã có trong chiến tranh. Nhân danh chính phủ Việt Nam, Người đã gửi hàng chục bức thư, điện, công hàm tới Tổng thống Mỹ Truman, chính phủ và bộ ngoại giao Mỹ. Nội dung của những văn bản ấy xoay quanh vấn đề yêu cầu Mỹ ủng hộ nền độc lập của Việt Nam, khẳng định sự hợp pháp của nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, kiến nghị để Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc và tham gia các tổ chức, các hội nghị quốc tế có liên quan đến vận mệnh của Đông Dương. Khi Tổng thống Truman ra tuyên bố 12 điểm về chính sách đối ngoại của Mỹ (10- 1945), Hồ Chí Minh đã bày tỏ thái độ hoan nghênh và mong muốn chính phủ Mỹ sẽ thực hiện đúng tinh thần của bản Tuyên bố, ủng hộ chủ quyền của các dân tộc nhược tiểu. Song lúc này Chính phủ Mỹ đã ngả hẳn sang chủ trương ủng hộ Pháp trở lại Đông Dương. Những cố gắng trong quan hệ ngoại giao chính thức với Mỹ không đạt kết quả. Tuy vậy, Việt Nam vẫn luôn chú ý thể hiện sự tôn trọng của Chính phủ Việt Nam đối với vai trò của Mỹ trong Đồng minh. Sự có mặt của đại diện phái bộ Mỹ trong các buổi lễ lớn và trong lễ ký Hiệp định sơ bộ (6-3-1946) cũng như trong các văn bản mà Chủ Tịch Hồ Chí Minh gửi cho Chính phủ Mỹ đã nói lên điều đó. Thời gian này, tuy quan hệ ngoại giao chính thức không thành công nhưng quan hệ của Việt Nam vơí Chính phủ Mỹ vẫn có dấu hiệu khả quan thông qua hình thức ngoại giao nhân dân. Việt Nam đã đặt quan hệ ngoại giao với các tổ chức phi Chính phủ, các đoàn thể của nhân dân hai nước mà điển hình là hội hữu nghị Việt- Mỹ. Trong thư gửi Việt -Mỹ ái hữu hội viết ngày 2-9-1947, Hồ Chủ Tịch đã viết: ‘ Chúng ta không bao giờ quên sự hợp tác giúp đỡ thân ái của các bạn người Mỹ hồi chúng ta du kích chống Nhật và chúng ta mong rằng sự hợp tác đó được tiếp tục, trong cuộc tranh đấu của chúng ta chống thực dân phản động Pháp giành thống nhất và độc lập. Chúng ta mong rằng, Hoa Kỳ - nước đầu tiên đã tranh đấu cho nền độc lập và dân chủ của quốc gia... sẽ giúp chúng ta trong công cuộc đấu tranh giải phóng hiện nay và trong công cuộc kiến thiết xây dựng sau này”. (8) Hồ Chí Minh toàn tập, NXB Chính trị quốc gia, H, Tập 5, tr 211 Sau ngày 19-12-1946, Việt Nam vẫn tiếp xúc với Chính phủ Mỹ, Chính phủ Việt Nam đã cử ông Phạm Ngọc Thạch sang Thái Lan để tiếp xúc với Mỹ. Những đề nghị mà ông Phạm Ngọc Thạch thay mặt Chính phủ Việt Nam đưa ra với Chính phủ Mỹ thời gian này được một số người Mỹ cho rằng có tính thực tiễn. Sang năm 1947 là thời điểm mà Pháp đã thuộc diện ưu tiên đặc biệt trong kế hoạch Marshall của Mỹ. Chính phủ Mỹ đã không đáp ứng những yêu cầu về độc lập dân tộc và về sự hợp tác bình đẳng mà Chính phủ Việt Nam nêu ra, đã bỏ qua một cơ hội lập quan hệ giữa hai nước. Ngược lại, Chính phủ Mỹ đã giúp Pháp tiến hành chiến tranh Việt Nam. Sự phát triển theo chiều hướng đó đã dẫn tới sự dính líu trực tiếp ngày càng sâu của Mỹ vào cuộc chiến tranh hao người tốn của ở Việt Nam. b. Trong kháng chiến chống Mỹ. Là một nước sinh sau đẻ muộn, Mỹ đã sớm xây dựng cho mình tham vọng được làm bá chủ thế giới, nắm quyền chi phối mọi vấn đề lớn nhỏ trên trường quốc tế. Bước ra khỏi cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai, Mỹ không những không bị hao hụt về người và của mà trái lại còn thu được nhiều lợi nhất nhờ làm giàu bằng cách bán vũ khí trong chiến tranh. Cùng thời gian này, sự kết thúc thắng lợi của chiến tranh thế giới thứ hai chống chủ nghĩa phát xít tạo điều kiện cho cách mạng Việt Nam thành công, lập nên nước Việt Nam Dân chủ cộng hoà. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản do Chủ Tịch Hồ Chí Minh sáng lập, Cách mạng Việt Nam “là ngọn cờ tiêu biểu cho sự kết hợp các trào lưu Cách mạng của thời đại, cho xu thế phát triển tất yếu của phong trào giải phóng dân tộclên chủ nghĩa xã hội. Do vậy, sau chiến tranh thế giới thứ II, Việt Nam trở thành tiền đồn của hệ thống xã hội chủ nghĩa Đông Nam á. Đây là lý do vì sao những nhân vật quan trọng của nhà Trắng đều coi Việt Nam là địa bàn then chốt có ý nghĩa quyết định đối với việc mở rộng và củng cố địa vị chủ chốt của chủ nghĩa đế quốc ở Đông Nam á. Đông Dương trong chiến lược toàn cầu của Mỹ được coi như “ một bậc đá lót đường” dẫn đến phần còn lại ở Đông Nam á nên Mỹ luôn e sợ rằng nếu mất Việt Nam và Đông Nam á thì chính sách của Mỹ ở những nơi khác trên thế giới sẽ bị ảnh hưởng nghiêm trọng. Sau khi Pháp thua, Mỹ đã thế chân Pháp can thiệp trực tiếp vào Việt Nam. Việc Mỹ ép Pháp phải nhận Ngô Đình Diệm lên thay Bửu Lộc làm Thủ tướng Chính Phủ nguỵ đã chứng tỏ rõ ràng ý đồ của Mỹ muốn hất cẳng Pháp để nắm miền Nam Việt Nam. Ngày 23-10-1954, khi Eisenhour gửi bức thư cho Ngô Đình Diệm cam kết ủng hộ hoàn toàn sự viện trợ của Hoa Kỳ đối với chế độ của ông ta. Điều đó có ý nghĩa rõ ràng rằng Hoa Kỳ chính thức và công khai cam kết chống lại Việt Nam dân chủ cộng hoà với miền Nam Việt Nam. Cuộc chiến đấu của Đảng và nhân dân ta chống cuộc chiến tranh phá hoại ở miền Bắc và cuộc chiến tranh cục bộ ở miền Nam (mà Tổng thống Jonhson đã tiến hành để cứu vãn sự thất bại ở miền Nam),đã khởi đầu trong sự so sánh lực lượng bất lợi cho ta. Thấm nhuần lời dạy của Chủ Tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, nhân dân cả hai miền đều kiên quyết đứng lên chống Mỹ xâm lược. Năm 1967 ta mở mặt trận ngoại giao phối hợp với mặt trận quân sự và mặt trận chính trị cùng đánh Mỹ. Ta tăng cường đoàn kết với Liên Xô, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác, phát triển và củng cố mặt trận nhân dân Đông Dương, mở rộng mặt trận nhân dân thế giới , đoàn kết với phong trào phản chiến ở Mỹ, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Tuy nhiên, song song với việc động viên nhân dân ta kiên quyết chiến đấu vì độc lập, tự do của Tổ Quốc, Nhà nước Việt Nam luôn luôn phân biệt rõ bạn - thù, phân biệt rõ nhân dân Mỹ với những nhà cầm quyền của nước Mỹ theo đuổi chính sách chiến tranh. Mục đích của nhân dân Việt Nam là giành độc lập tự do, cũng là để có điều kiện xây dựng đất nước đem lại hạnh phúc cho dân tộc và chung sống hoà bình với cộng đồng thế giới trên cơ sở bình đẳng, hữu nghị. Do vậy, Chính phủ và nhân dân Việt Nam sẵn sàng đàm phán để giải quyết vấn đề Việt Nam với điều kiện tiên quyết là quân Mỹ rút ra khỏi cuộc chiến tranh Việt Nam. Với mục đích đó, ta chủ trương buộc địch xuống thang từng bước, giành thắng lợi từng phần. Sau thắng lợi Tết Mậu Thân(1968), Mỹ buộc phải ngồi vào bàn đàm phán, mở cho ta cục diện vừa đánh vừa đàm, kết hợp một cách tài tình và khéo léo quân sự và ngoai giao, tạo điều kiện thuận lợi cho những thắng lợi sau này. Trong Hội nghị công khai cũng như thương lượng bí mật ở Paris, ta kiên trì đấu tranh bốn năm liền, buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris năm 1973, chịu rút quân Mỹ và Đồng minh ra khỏi miền Nam trong lúc quân miền Bắc vẫn ở lại miền Nam, tạo ra tình thế miền Nam có hai chính quyền, hai quân đội, hai vùng kiểm soát, ba lực lượng chính trị. Theo Hiệp định Paris 1973 thì “ Hiệp định này sẽ tạo điều kiện thiết lập quan hệ mới, bình đẳng và cũng có lợi giữa Việt Nam dân chủ cộng hoà và Hoa Kỳ, trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của nhau và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau”. (9) Hiệp định Paris, 1973, Chương VIII, điều 22 29-4-1975: Sứ quán Mỹ rút hết số nhân viên cuối cùng và đóng cửa. 30-4-1975: Ta giải phóng Sài Gòn, thống nhất đất nước, mở ra một chương mới trong lịch sử 4000 năm của dân tộc Việt Nam. Cũng trong ngày đó, Chính quyền Mỹ(Ford) quyết định lệnh cấm vận toàn Việt Nam. Việt Nam và Mỹ cắt đứt quan hệ ngoại giao. c . Quan hệ Việt - Mỹ sau chiến tranh Việt Nam Ngày 2-7-1976, nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam chính thức ra đời đánh dấu bước phát triển rực rỡ của nước Việt Nam. Trong thời kỳ 1976-1978, hai Chính phủ đã bắt đầu đàm phán để thiết lập quan hệ ngoại giao. Phía Việt Nam đã bày tỏ quan điểm của mình: Mỹ phải thực hiện đúng Hiệp định Paris 1973, theo đó Mỹ đã cam kết viện trợ tái thiết cho Việt Nam sau chiến tranh. NhưngTổng thống G.Ford đã bác bỏ yêu cầu này và đặt ra hai điều kiện tiên quyết cho việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao. Hai điều kiện đó là: kiểm kê đầy đủ những người Mỹ bị coi là mất tích trong chiến tranh mà họ gọi là MIA(mising in action) và giải trình “những hành động gây căng thẳng liên tiếp của Việt Nam” ở Đông Nam á. Trong thời gian này, giữa Việt Nam và Campuchia có mâu thuẫn về lãnh thổ do lực lượng vũ trang Campuchia gây ra nhiều hoạt động nghiêm trọng như lấn sâu vào lãnh thổ Việt Nam, bắt và đem đi hơn 100 người Việt...gây cho ta những thiệt hại nghiêm trọng. Trong hai năm 1975 và 1976, Mỹ đã ba lần phủ quyết việc Việt Nam gia nhập Liên hiệp Quốc, Ngân hàng thế giới, Quỹ tiền tệ Quốc tế, Ngân hàng phát triển Châu á, đi ngược lại ý kiến của 14 thành viên khác của Hội đồng bảo an. Việc làm này của Mỹ chứng tỏ rõ ràng việc Mỹ tiếp tục thi hành chính sách thù địch, lỗi thời với nhân dân ta và làm cho quan hệ quốc tế có phần bị ảnh hưởng. Mỹ đã làm ngơ trước thiện chí mà Chính phủ ta đã nhiều lần bày tỏ để tạo điều kiện thuận tiện cho cả hai bên có thể gặp nhau, nhằm giải quyết vấn đề còn lại giữa hai bên. Thực tế là Chính phủ ta đã nhiều lần trao trả cho Mỹ những lính Mỹ bị chết, cũng như cung cấp tin tức về những người đã chết...Những việc làm trên thể hiện rõ lập trường và thiện chí đúng đắn của ta. Đầu năm 1977, Jimmy Carter lên làm Tổng thống, ông đã nhận thấy rõ lợi ích của việc cải thiện quan hệ nhằm phát triển thương mại và thúc đẩy sự bền vững trong khu vực. Ông cũng coi thường hoá quan hệ với Việt Nam là một “biểu tượng” nhằm chấm dứt sự chia rẽ bên trong và phục hồi uy tín của Mỹ ở bên ngoài. Ngày 16-3-1977, Tổng thống J.Carter cử đoàn phái viên của Tổng thống sang Việt Nam, do ông L.Woodcook dẫn đầu để thăm dò khả năng bình thường hoá quan hệ với Việt Nam. Cũng trong tháng 3-1977, Tổng thống J.Carter cũng cho phép tàu thuỷ, máy bay nước khác chở hàng cho Việt Nam được ghé qua các sân bay của Mỹ để lấy nhiên liệu. Đây là một động thái rất đáng hoan nghênh của Tổng thống J.Carter nói riêng cũng như của Chính phủ Mỹ nói chung trong một cố gắng nhằm đạt được sự bình thường hoá với Việt Nam. Cuộc đàm phán lần hai vào tháng 5-1977 tại Paris giữa trợ lý ngoại trưởng Mỹ R.Holbrooke và Thứ trưởng ngoại giao Phan Hiền cũng không đạt thoả thuận nào. Trong khi các cuộc đàm phán giữa Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn chưa có một chút chuyển biến gì thì tình hình quốc tế lại có nhiều thay đổi. Trung Quốc và Mỹ bắt đầu tăng cường hợp tác, mâu thuẫn giữa Trung Quốc với Liên Xô và Trung Quốc với Việt Nam ngày càng tăng. Liên Xô và Trung Quốc nảy sinh những bất đồng, công khai tranh luận về đường lối của phong trào Cộng sản quốc tế. Thêm vào đó là sự khác nhau giữa Trung Quốc và Việt Nam về đường lối đối với phong trào Cộng sản và công nhân Quốc tế đã dẫn tới cuộc chiến tranh Trung- Việt vào tháng 7-1978. Trung Quốc cho rằng Việt Nam muốn làm tiểu bá thực hiện bá quyền khu vực để phối hợp với Liên Xô là đại bá để chống lại Trung Quốc. Do vậy, Trung Quốc quyết định cắt toàn bộ viện trợ kinh tế, kỹ thuật và rút chuyên gia về nước. Trong năm 1978, Mỹ và Trung Quốc bắt đầu có sự hợp tác để đi đến bình thường hoá quan hệ. Từ giữa năm 1978, Mỹ đã bàn với Trung Quốc để xây dựng mối quan hệ chiến lược lâu dài giữa hai nước trong đó có cả việc phối hợp để chống Liên Xô. Cuối năm 1978, Trung Quốc và Mỹ xúc tiến đàm phán để bình thường hoá quan hệ. Trước triển vọng một mối quan hệ sắp mở ra với Trung quốc, Tổng thống Mỹ J.Carter đã quyết định xếp lại kế hoạch đàm phán để bình thường hoá quan hệ với Việt Nam lại, chờ đợi thiết lập quan hệ với Trung Quốc. Vậy là cơ hội thiết lập quan hệ ngoại giao Việt -Mỹ tưởng như đã có thể nhìn được đích của nó thì một lần nữa lại tuột khỏi tầm tay và bị bỏ lỡ. Sau khi Việt Nam đưa quân vào Campuchia năm 1979, quá trình đàm phán để bình thường quan hệ Việt - Mỹ bị ngừng trệ. Phía Mỹ cho rằng Việt Nam đã vi phạm luật quốc tế, đưa quân đội sang can thiệp ở nước ngoài, lập ra chính quyền Campuchia- Hiêngxamrin. Mỹ lấy lý do này để lôi kéo dư luận quốc tế ủng hộ những hành động chống phá Việt Nam dưới danh nghĩa bảo vệ sự ổn định an ninh thế giới. Vấn đề Campuchia đã kéo theo sự dính líu của nhiều nước và sự phân cực gay gắt trong nền chính trị khu vực. Từ đó, các cuộc tiếp xúc giữa Mỹ và Việt Nam bị ngừng lại đánh dấu thời kỳ băng giá trong quan hệ Việt Mỹ. Tháng 1-1981, Tổng thống Mỹ Regan tuyên thệ nhậm chức. Dưới sức ép từ cuộc vận động hành lang về vấn đề MIA, ông đã hứa coi việc tìm kiếm người mất tích là ưu tiên cao nhất trong nhiệm kỳ Tổng thống của ông. Nhưng trong nhiệm kỳ đầu của Regan, cả hai bên ít đạt được tiến bộ về vấn đề này bởi những lý do khách quan cũng như chủ quan của mình. Năm 1986, Việt Nam đổi mới thành công nên Mỹ bắt đầu thay đổi chính sách quan hệ với Việt Nam. Tháng 1 năm1987, hai Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hoà là Mark Harfreld và James Mc Caure đến Hà Nội. Tháng 5/1987, Ruhard Childress, chuyên gia về Châu á của Hội đồng an ninh quốc gia Mỹ được cử làm tiền trạm của tướng Vessay tới Hà Nội. Từ 3-8-1987, tướng Vessay, đặc phái viên của Tổng thống Reagan thăm Việt Nam. Đây là những dấu hiệu cho thấy quan hệ Việt-Mỹ đã có biểu hiện ấm dần lên. Sang năm 1988, tình hình lại có chiều hướng sáng sủa hơn. Ngày 20-1-1988, Tổng thống Regan tuyên bố: trong khung cảnh một giải pháp cho vấn đề Campuchia bao gồm việc Việt Nam rút hoàn toàn quân đội ra khỏi Campuchia, Mỹ sẵn sàng đi vào bình thường hoá quan hệ với Việt Nam trên cơ sở tiến bộ trong vấn đề MIA, trẻ lai, trại cải tạo. Ngày 8-6-1988, diễn ra cuộc gặp gỡ giữa tướng Vessay và Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch tại New York, bàn về sự hợp tác sâu hơn về vấn đề quan hệ song phương và đặt nền tảng cho một vài thoả thuận. Cuộc gặp gỡ này đã được Reagan đánh giá là “sự phá vỡ có thể có”. Đầu năm 1989, Tướng Vessay đã đệ trình một danh mục chi tiết những lời khuyên cho tương lai của các mối quan hệ với Bộ ngoại giao Mỹ trong đó nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc theo đuổi các mối quan hệ ngoại giao bình thường với các nước Đông Dương. Vào thời gian này, Việt Nam cũng bắt đầu có các cuộc gặp song phương cũng như là đa phương nhằm tìm một giải pháp cho vấn đề Campuchia. Tháng 1-1989, Việt Nam bắt đầu rút các chuyên gia dân sự ra khỏi Campuchia, sau đó tiến tới rút hết quân ra khỏi Campuchia trong năm 1989. Ngày 16-9-1989, Việt Nam hoàn thành việc rút quân khỏi Campuchia, mở ra một thời kỳ mới với nhiều hi vọng cho quan hệ Việt- Mỹ. II. Những thay đổi trong quan hệ Việt Mỹ thông qua các hoạt động ngoại giao 1. Tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt Mỹ . Tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt -Mỹ có thể được coi như đánh dấu bắt đầu từ nhiệm kỳ của Bush, người trúng cử và lên là Tổng thống thứ 41 của Hợp Chủng Quốc Hoa Kỳ. Nhận thấy rõ lợi ích của Mỹ ở Đông Nam á, cũng như lợi ích trong quan hệ Việt -Mỹ, ông và Chính phủ của mình đã quyết định thay đổi chính sách với Việt Nam. Trong bài diễn văn nhận chức của mình vào tháng 1 năm1989, Tổng thống Bush đã ám chỉ về vấn đề POW/MIA, hứa rằng viện trợ trong lĩnh vực này sẽ được nhớ đến lâu dài và kêu gọi người Mỹ xoá tình trạng chia rẽ về cuộc chiến tranh Việt Nam. Mỹ nhận thấy rằng quan hệ Việt -Mỹ như lúc này là bất bình thường, không đáp ứng nguyện vọng của nhân dân hai nước và cũng chưa theo kịp sự phát triển của tình hình thế giới. Trước một thực tế không thể phủ nhận, chính quyền Bush đã quyết định tìm kiếm quan hệ với Việt Nam và bắt đầu xúc tiến các cuộc tiếp xúc với Chính phủ Việt Nam. Ngày 6-8-1990, đối thoại một vòng Mỹ - Việt tại New York giữa Đại sứ Trịnh Xuân Lãng và phó trợ lý Bộ trưởng ngoại giao K.Quyn về quan hệ Việt -Mỹ. Điểm nổi bật của giai đoạn mới trong mối quan hệ Mỹ-Việt là hai Ngoại trưởng đã tới gặp nhau tại New York vào ngày 29-9-1990 (Nguyễn Cơ Thạch và James Baker). Đây là cuộc gặp gỡ đầu tiên của hai ngoại trưởng kể từ năm 1973. Ngoại trưởng Việt Nam sau đó gặp Tướng Vessay và hứa có sự hợp tác mới về vấn đề POW/MIA. Ngày 9-4-1991, lần đầu tiên Mỹ công khai đưa ra bản lộ trình 4 giai đoạn. Bản “lộ trình” cho việc bình thường hoá quan hệ với Việt Nam nhằm : -Tìm ra giải pháp ở Campuchia để khôi phục ổn định ở Đông Nam á. -Thúc đẩy Việt Nam tìm kiếm đầy đủ thông tin về POW/MIA. Mỹ tạo điều kiện thực hiện các thủ tục di cư có trật tự cho thân nhân Việt Nam của các công dân Mỹ hoặc người định cư ở Mỹ. -Cho phép người Việt Nam hợp tác với Chính phủ miền Nam Việt Nam được Mỹ hỗ trợ di cư sang Mỹ. Khi đưa ra bản lộ trình này thì ngay trong quốc hội Mỹ vẫn có những cuộc tranh luận công khai về vấn đề Việt Nam giữa những người mềm dẻo, muốn thúc đẩy quan hệ với Việt Nam và những người chống đối. Ngược lại, khi đó, phía Việt Nam vẫn làm hết sức mình để khép lại quá khứ chiến tranh tàn khốc, hướng về tương lai tốt đẹp hơn trong quan hệ hai nước. Bên cạnh những mất mát đau thương không gì bù đắp nổi của mình về hàng vạn người mất tích dến nay vẫn chưa có chút thông tin nào, về hàng vạn thương bệnh binh, nhân dân Việt Nam rất thông cảm với nhân dân Mỹ và những gia đình có người thân còn bị mất tích trong chiến tranh Việt Nam.Chính phủ và nhân dân Việt Nam coi việc giải quyết vấn đề MIA là công việc nhân đạo mà truyền thống nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam đòi hỏi phải làm. Với quan niệm chung cho rằng các vấn đề nhân đạo phải tách khỏi các vấn đề chính trị, Chính phủ Việt Nam đã hợp tác với Chính phủ Mỹ trong nhiều chương trình để giải quyết các vấn đề: người Mỹ mất tích, con lai, đoàn tụ gia đình theo chương trình ra đi có trật tự (ODP) và các chương trình cho phép những người ra khỏi các trại cải tạo xuất cảnh. Chính vì được tạo điều kiện như vậy nên ngày 8-7-1991, Mỹ đã mở một văn phòng ở Hà Nội để giúp tìm kiếm MIA. Những vấn đề nhân đạo khác mà Việt Nam quan tâm như trẻ mồ côi, chân tay giả cho người tàn tật, thuốc men và lương thực cho các vùng bị chiến tranh tàn phá cũng bắt đầu được sự giúp đỡ và chú ý của nhiều tổ chức khác nhau của Mỹ. Mặc dầu những chương trình hợp tác trong các vấn đề nhân đạo vẫn còn rất khiêm tốn so với những hậu quả chiến tranh để lại nhưng nó cũng là sự mở đầu hết sức quan trọng để quá khứ đi vào dĩ vãng và xây dựng sự hiểu biết chung trên tinh thần nhân đạo. Thêm vào đó, Việt Nam luôn luôn ủng hộ việc đàm phán nhằm đưa ra một giải pháp cho vấn đề Campuchia. Việt Nam tán thành 3 nguyên tắc mà Mỹ nêu ra trong vấn đề Campuchia. Đó là: -Rút quân đội nước ngoài. -Không để trở lại chế độ diệt chủng. -Quyền tự quyết của nhân dân Campuchia thực hiện thông qua tuyển cử tự do và bình đẳng dưới sự giám sát quốc tế. Việt Nam luôn mong muốn một nước Campuchia hoà bình, độc lập, trung lập và không liên kết, có quan hệ hữu nghị với tất cả các nước và không đe doạ nước nào. Với việc ký Hiệp định Paris về vấn đề Campuchia, con đường đầy chông gai của quan hệ Việt- Mỹ bắt đầu vào giai đoạn I của bản lộ trình. Việt Nam đã đáp ứng các đòi hỏi của Mỹ liên quan đến Campuchia và tăng cường hợp tác trong việc giải quyết các vấn đề POW/MIA. Chính quyền Bush quả quyết rằng tất cả các đòi hỏi của giai đoạn I vẫn chưa hoàn tất đặc biệt là việc hồi hương các hài cốt người Mỹ và tiếp cận toàn bộ các thông tin mà Mỹ mong muốn - các sổ nhật ký bay, bản đồ và báo cáo của các tỉnh liên quan đến lính Mỹ bị mất tích. Tuy nhiên, cũng đã đạt được tiến bộ để có đi có lại. Mỹ đã thực hiện các nghĩa vụ mà Mỹ tự ý đặt ra cho mình trong giai đoạn I. Tháng3-1992, Chính phủ Mỹ đã cam kết : -Viện trợ nhân đạo cả gói 3 triệu đola dưới hình thức học bổng cho sinh viên Việt Nam sang Mỹ học. -Cho phép các tổ chức phi Chính phủ(NGOs) viện trợ nhân đạo cho Việt Nam. -Mở rộng viện trợ với y tế và chân tay giả cho Việt Nam dưới hình thức viện trợ của các đội y tế Mỹ đến tìm kiếm MIA tại Việt Nam. Mỹ cũng đã thực hiện một số cam kết của giai đoạn II. Các cuộc đàm phán cấp cao về bình thường hoá đã được tổ chức vào tháng 11-1991 ở New York, vào tháng 3-1992 ở Hà Nội và các cuộc thảo luận đó vẫn tiếp tục. Các giao dịch thương mại đáp ứng các tiêu chuẩn về nhu cầu cơ bản của con người như tay giả và các chăm sóc y tế khác, đánh giá các nhu cầu giáo dục đào tạo và sách vở, nói chung đã được phép; các hạn chế đối với các hoạt động của các tổ chức phi Chính phủ Mỹ(NGO) ở Việt Nam đã được bãi bỏ. Đến lúc này, có thể kết luận rằng Campuchia không còn là trở ngại cho quá trình bình thường hoá quan hệ nữa. Vấn đề POM/MIA cũng đã được xác định rõ,Việt Nam đã đi bước tiến dài hoà hợp với lập trường Mỹ về các thể thức giải quyết. Sau chuyến đi Hà Nội hồi tháng 3 năm 1992 của trợ lý ngoại trưởng phụ trách về vấn đề Đông á và Thái Bình Dương của Mỹ, ông Richard Solomon, Việt Nam đã thay đổi chính sách một cách có ý nghĩa và đã tác thành một số những yêu cầu chủ chốt của Mỹ. Các đòi hỏi này bao gồm việc tiếp cận một số hồ sơ quân sự của Việt Nam từ thời kỳ chiến tranh và cuộc điều tra phản ứng nhanh về các tin tức nói đến “những tù binh Mỹ được nhìn thấy còn sống” thông qua việc sử dụng máy bay lên thẳng để đi tới bất kỳ nơi nào để tìm kiếm hài cốt lính Mỹ mất tích hoặc trong thông tin về MIA. Trong Bản báo cáo của uỷ ban đặc biệt Thượng viện Mỹ phụ trách về POW/MIA. Cuối năm 1992, vấn đề POW/MIA đã được xem xét trên mọi phương diện, bao gồm cả sự hợp tác của cả Việt Nam và sự hợp tác sẽ tác động đến quá trình bình thường hoá quan hệ như thế nào. Các cuộc điều trần đầy tranh cãi của uỷ ban và cuộc cãi vã công khai của các phe trong nội bộ Chính phủ Mỹ và giữa các nhóm quan tâm đến POW/MIA đã làm nổi bật tính nan giải của vấn đề nhức nhối này, trong đó gồm tất cả những bất đồng gay gắt về những tin nói đến những tù binh được nhìn thấy còn sống, và luận điệu tố cáo chính phủ “bưng bít” tin tức suốt từ kỷ nguyên chiến tranh Việt Nam. Có thể nói rằng, diễn biến quan trọng nhất trong nhiều thập kỷ thương lượng vấn đề POW/MIA diễn ra vào tháng 10 năm 1992 khi có tuyên bố rằng người Việt Nam đồng ý trao 4800 tấm ảnh tù binh và lính Mỹ chết trong chiến tranh và mở hồ sơ lưu trữ quân sự cho các nhân viên điều tra Mỹ.(10) Nguồn: Frederic Brown, Viện nghiên cứu Phát triển quốc tế John Hopkins, USA, 1992 Ngày23 tháng 10 năm 1992, Tổng thống Bush tuyên bố rằng Mỹ sẽ nhanh chóng tiến tới bình thường hoá, kể cả bãi bỏ cấm vận, nếu những tấm ảnh này và bằng chứng có thể bổ sung cho việc giải quyết số phận các quân nhân Mỹ bị mất tích, những người mà Mỹ tin rằng Việt Nam có những tin tức cuối cùng. Năm 1993, Bill Clintơn đắc cử Tổng thống Mỹ và lên thay G.Bush. Chính quyền Clintơn cũng kế thừa chính sách “lộ trình” của chính quyền Bush, trong đó cốt lõi của quá trình bình thường hoá quan hệ vẫn là “ tốc độ và quy mô” của quá trình bình thường hoá bị tác động của sự hợp tác của Việt Nam về vấn đề POW/MIA. Tuy rằng lộ trình 4 giai đoạn cho quá trình bình thường hoá quan hệ với Việt Nam do chính quyền Mỹ công bố tháng 4-1991 không chính thức được coi là bản chỉ dẫn tuyệt đối cho việc cải thiện quan hệ hai nước, nhưng trên thực tế nhiều bước đi đã diễn ra theo đúng lịch trình này. ở giai đoạn 3, có 2 điều kiện Việt Nam phải thực hiện là: -Tiếp tục ủng hộ và khuyến khích sự ủng hộ của chính phủ PhnômPênh với hiệp định hoà bình Campuchia, rút hết các cố vấn, lực lượng quân sự Việt Nam ra khỏi Campuchia. -Giải quyết các trường hợp POW/MIA không trùng khớp thông tin. Trên thực tế, điều một đã quá lạc hậu trong tình hình hiện nay và điều này đã bắt đầu phù hợp với giai đoạn 4. Điều kiện 2 cũng được giải quyết tích cực với sự giúp đỡ to lớn của Việt Nam. Mỹ đã thực hiện đầy đủ các điều ghi trong khoản 3: Huỷ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kinh tế đối với Việt Nam ngày 3-2-1994 mở văn phòng liên lạc và ngoại giao tại Hà Nội và mời Việt Nam lập văn phòng tại Washingtơn cũng như ủng hộ các cơ quan tài chính quốc tế viện trợ để đáp ứng các nhu cầu cơ bản của con người ở Việt Nam. ở giai đoạn 4, không có đòi hỏi bổ sung yêu cầu Việt Nam thực hiện trong giai đoạn này Mỹ sẽ lập quan hệ ngoại giao cấp Đại sứ với Việt Nam, xem xét việc dành chế độ Tối huệ quốc cho buôn bán với Việt Nam của Mỹ. Ngày 28-1-1995, CHXH Việt Nam và Hợp chủng quốc Hoa Kỳ chính thức thông báo mở ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docR0018.doc