Quan hệ phân phối và giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta

Mục lục Lời mở đầu. 2 Nội dung 3 Chương 1: Một số lý luận chung về quan hệ phân phối, bản chất của quan hệ phân phối 3 1.1. Phân phối là một khâu của quá trình tái sản xuất xã hội. 3 1.1.1. Bản chất của quan hệ phân phối 3 1.1.2. Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất. 4 1.2. Nguyên tắc phân phối ở nước ta hiện nay 5 1.2.1. Phân phôí theo lao động 5 1.2.2. Phân phối theo vốn và tài sản 7 1.2.3. Phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội 8 Chương 2: Thực trạng quan hệ phân phối ở

doc26 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1319 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ phân phối và giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nước ta hiện nay 10 Phân phối theo lao động 10 Phân phối theo vốn và tài sản 15 Phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội 17 Chương 3: Các giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta trong thời gian tới. 19 Kết luận. 25 Danh mục tài liệu tham khảo. 26 Lời mở đầu. Từ những năm 1990 đến nay, nền kinh tế nước ta bước vào nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Nền kinh tế này bao gồm nhiều thành phần kinh tế dựa trên nhiều hình thức sở hữu. Nhà nước ta thừa nhận và bảo đảm bằng pháp luật, không chỉ sở hữu toàn dân, sở hữu Nhà nước, mà cả sở hữu tư nhân về tiền vốn, của cải để dành và các tài sản khác, thu nhập hợp pháp khác. Phù hợp với mỗi thành phần kinh tế, mỗi hình thức sở hữu là một hình thức phân phối thu nhập nhất định. Mặc dù, các thành phần kinh tế ở nước ta không còn tồn tại biệt lập mà đan xen vào nhau và hợp thành cơ cấu kinh tế quốc dân thống nhất, nhưng chưa thể thực hiện phân phối thu nhập theo một hình thức mà phải được thực hiện theo nhiều hình thức như phân phối theo lao động, phân phối theo vốn và tài sản đóng góp, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội... Với nhiều hình thức phân phối như vậy, nên đòi hỏi Nhà nước phải đưa ra những chính sách nhằm đảm bảo công bằng xã hội, dân giàu nước mạnh. Thực hiện tốt các chính sách mà Đảng và Nhà nước đặt ra chúng ta mới càng thấy được vị trí, vai trò và tính tất yếu của quan hệ phân phối. Đó là : quan hệ phân phối là một khâu không thể thiếu của quá trình tái sản xuất. Nó nối liền sản xuất với tiêu dùng, phục vụ và thúc đẩy sản xuất, phục vụ tiêu dùng. Nó phản ánh mối quan hệ giữa lợi ích của mỗi thành viên và lợi ích của toàn xã hội. Đề tài về quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay là một đề tài hay và tổng quát. Đề tài này giúp cho bản thân em hiểu rõ về các hình thức phân phối ở nước ta trong cả chặng đường đổi mới của đất nước. Trong đề tài này, em xin trình bày bố cục đề tài như sau : Chương 1: Một số lý luận chung về quan hệ phân phối. Chương 2: Thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay. Chương 3 : Các giải pháp nhằm hoàn thiện quan hệ phân phối ở nước ta trong thời gian tới. Được sự hướng dẫn, giúp đỡ tận tình của thầy giáo, em đã hoàn thành đề án này. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề án này, em không tránh khỏi những thiếu sót. Mong thầy giáo thông cảm và giúp đỡ, để đề án của em hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn thầy. Nội dung Chương 1 Một số lý luận chung về quan hệ phân phối. 1.1. Bản chất của quan hệ phân phối : 1.1.1. Phân phối là một khâu cảu quá trình tái sản xuất xã hội Quá trình tái sản xuất xã hội, theo nghĩa rộng, bao gồm 4 khâu :sản xuất, phân phối, trao đổi và tiêu dùng. Các khâu này có quan hệ chặt chẽ với nhau, trong đó sản xuất là gốc, đóng vai trò quyết định; các khâu khác phụ thuộc vào sản xuất, nhưng chúng có quan hệ trở lại đói với sản xuất cũng như ảnh hưởng lẫn nhau. Trong quá trình tái sản xuất xã hội, phân phối và trao đổi là các khâu trung gian nối sản xuất và tiêu dùng, vừa phục vụ và thúc đẩy sản xuất, vừa phục vụ tiêu dùng. Quan hệ phân phối bao gồm : phân phối cho tiêu dùng sản xuất ( sự phân phối tư liệu sản xuất, sức lao động của xã hội vào các nghành sản xuất ) là tiền đề, điều kiện và là một yếu tố sản xuất, nó quyết định quy mô, cơ cấu và tốc độ phát triển của sản xuất. Phân phối thu nhập quốc dân hình thành thu nhạp của các tầng lớp dân cư trong xã hội, phân phối thu nhập là kết quả của sản xuất, do sản xuất quyết định. Tuy là sản vật của sản xuất, song sự phân phối có ảnh hưởng không nhỏ đối với sản xuất : có thể thúc đẩy hoặc kìm hãm sự phát triển của sản xuất. Ph. Ăng - ghen viết : ( phân phối không phải chỉ đơn thuần là một kết quả thụ động của sản xuất và của trao đổi, nó tác động trở lại tới sản xuất và trao đổi ). Nó cũng có liên quan mật thiết với việc ổn định tình hình kinh tế - xã hội và nâng cao đởi sống trong nhân dân. Như vậy, quan hệ phân phối là phân phối tỏng sản phẩm xã hội. Và phân phối thu nhập quốc dân, nó được thực hiện dưới các hình thái : phân phối hiện vật và phân phối dưới hình thái giá trị ( phân phối qua quan hệ tài chính, quan hệ tín dụng...). 1.1.2. Phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất : Các - Mác đã nhiều lần đã nêu rõ quan hệ phân phối cũng bao hàm trong phạm vi quan hệ sản xuất : " quan hệ phân phối về thực chất cũng đồng nhất với các quan hệ sản xuất ấy ". Xét về quan hệ giữa người và người thì phân phối do quan hệ sản xuất quyết định. Ph. Ăng - ghen cho rằng, trên những nét chủ yếu của nó, sự phân phối là kết quả tất nhiên của những quan hệ sản xuất và trao đổi trong một xã hội nhất định. Vì vậy, mỗi phương thức sản xuất có quy luật phân phối của cải vật chất thích ứng với nó. Quan hệ sản xuất như thế nào thì quan hệ phân phối như thế ấy. Cơ sở của quan hệ phân phối là quan hệ sở hữu về tư liệu sản xuất và quan hệ trao đổi hoạt động cho nhau. Sụ biến đổi lịch sử của lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất kéo theo sự biến đổi của quan hệ phân phối. Quan hệ phân phối có tác động trở lại đối với quan hệ sở hữu và do đó đối với sản xuất : có thể làm tăng hoặc giảm quy mô sở hữu, hoặc cũng có thể làm biến dạng tính chất của quan hệ sở hữu. Các quan hệ phân phối vừa có tính đồng nhất, vừa có tính lịch sử. Tính đồng nhất thể hiện ở chỗ, trong bất cứ xã hội nào, sản phẩm lao động cũng phải được phân chia thành : một bộ phận cho tiêu dùng sản xuất, một bộ phận để dự trữ và một bộ phận cho tiêu dùng ching của xã hội và cho tiêu dùng cac nhân. Tính lịch sử của quan hệ phân phối là nơi mỗi xã hội có quan hệ phân phối riêng, phù hợp với tính chất quan hệ sản xuất của xã hội đó, nghĩa là quan hệ phân phối là một mặt của quan hệ sản xuất và cũng như quan hệ sản xuất, quan hệ phân phối có tính chất lịch sử. C. Mác viết : " quan hệ phân phối nhất định chỉ là biểu hiện của quan hệ sản xuất lịch sử nhất định ". Do đó, các hình thái phân phối đều mất đi cùng một lúc với phương thức sản xuất nhất định tương ứng với hình thái phân phối ấy. Chỉ thay đổi được quan hệ phân phối khi đã cách mạng được quan hệ sản xuất đẻ ra quan hệ phân phối ấy. Phân phối có tác động rất lớn đối với sản xuất nên Nhà nước cánh mạng cần sử dụng phân phối như là một công cụ để xây dựng chế độ mới, để phát triển kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Đối với nước ta hiện nay, trình độ sản xuất còn thấp, sản xuất không đáp ứng kịp nhu cầu và nhiều mặt phát triển chưa cân đối, nên phân phối thu nhập càng có vị trí quan trọng. Có thể xem xét vai trò, vị trí của nó dưới các phương diện khác nhau : Thứ nhất : phân phối thu nhập có ảnh hưởng to lớn đối với sản xuất, C. Mác đã từng nói tới vai trò của phân phối đối với sản xuất. Trên phương diện phân phối trực tiếp các yếu tố cho quá trình sản xuất, nó nối liền sản xuất với sản xuất. Điều này có nghĩa là nó đảm bảo các yếu đầu vào cho các doanh nghiệp, đảm bảo các nguồn lực phục vụ cho việc sản xuất kinh doanh để cung cấp hàng hoá trên thị trường sản phẩm. Sự phân phối các nguồn lực diễn ra thông suốt sẽ đảm bảo quá trình tái sản xuất sẽ được tiến hành một cách liên tục. Thứ hai : phân phối thu nhập quyết định sự tiêu dùng của các chủ thể yếu tố sản xuất. Thông qua phân phối thu nhập, các chủ thể yếu tố sản xuất có được thu nhập để mua hàng tiêu dùng và dịch vụ trên thị trường sản phẩm. Về cơ bản, quy mô phân phối quyết định quy mô tiêu dùng. Các chủ thể nhận được thu nhập nhiều thì mức tăng tiêu dùng sẽ càng cao hơn về tuyệt đối. Như vậy, phân phối thu nhập đúng đắn theo yêu cầu của quy luật khách quan và phù hợp với tình hình thực tế của đất nước sẽ là động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, ổn định tình hình kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống nhân dân. Ngược lại, phân phối thu nhập không đúng, không đảm bảo lợi ích kinh tế, không công bằng, chênh lệch quá đáng... sẽ tác động tiêu cực tới sản xuất, kìm hãm, thậm chí phá hoại sản xuất. Vì vậy, phải nắm vững và giải quyết tốt mối quan hệ giữa đẩy mạnh sản xuất và tiến hành phân phối, có chính sách phân phối đúng đắn để tác động lại sản xuất, thúc đẩy sản xuất phát triển, tăng năng suất lao động, tạo tiền đề vật chất cho tái sản xuất mở rộng, tạo môi trường chính trị - xã hội, kinh tế lành mạnh, ổn định cho các doanh nghiệp, cá nhân hoạt động sản xuất kinh doanh. 1.2. Nguyên tắc phân phối ở nước ta hiện nay : 1.2.1. Phân phối theo lao động : * Định nghĩa : Phân phối theo lao động là nguyên tắc phân phối vạt phẩm tiêu dùng cho cá nhân dựa vào số lượng, chất lượng lao động hay hiệu quả lao động mà họp đã cống hiến cho xã hội, không phân biệt màu da, tôn giáo, đảng phái, nam nữ. *. Tính tất yếu khách quan của phân phối theo lao động : Trong giai đoạn đầu của cộng sản chủ nghĩa, tức dưới chủ nghĩa xã hội, trình độ phát triển của sản xuất chưa bảo đảm được sự dư thừa về của cải và vật chất. Đồng thời, các thành viên trong xã hội coi lao động như là một phương tiện để bảo đảm cuộc sống. Lao động chưa phải là nhu cầu bậc nhất, chưa phải là thói quen làm việc không cần tính đến sự thù lao. Do đó, cần có sự kiểm soát của xã hội về mức lao động và mức tiêu dùng, cũng như cần có sự kích thích vật chất đối với kết quả lao động của những người tham gia sản xuất xã hội. Điều này, được thực hiện bằng cách phân phối của cải vật chất và dịch vụ theo lao động. Phương thức phân phối như vậy dưới chủ nghĩa xã hội là tất yếu khách quan và vì vậy là quy luật ht của chủ nghĩa xã hội. Phân phối phải vì lợi ích của người lao động. Có nhiều cách phân phối vì lợi ích của người lao động : phân phối theo nhu cầu, phân phối bình quân và phân phối theo lao động. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội và ngay cả trong giai đoạn thấp của chủ nghĩa cộng sản, tức là chủ nghĩa xã hội cũng chưa thể thực hiện phân phối theo nhu cầu và cũng không thể phân phối bình quân mà chỉ có thể phân phối theo lao động. Vì thế, tất yếu phải thực hiện phân phối theo lao động trong các đơn vị kinh tế thuộc thành phần kinh tế ở nước ta. *. Yêu cầu của phân phối theo lao động : Phân phối theo lao động có nghĩa là việc bù đắp ngang giá những hao phí lao động sau khi trừ đi phần dùng để thoả mãn các nhu cầu xã hội. Mỗi người đều nhận được của xã hội một phần mà họ đã cống hiến cho xã hội. Phân phối theo lao động biểu hiện quan hệ giữa các thành viên trong xã hội, các tập thể xí nghiệp, cơ quan và xã hội nói chung đối với phần thu nhập quốc dân dành cho tiêu dùng cá nhân của nhân dân. Phân phối theo lao động đòi hỏi phải thực hiện một số nguyên tắc. Trong số đó, nguyên tắc thứ nhất là lao động bắt buộc, bởi vì dưới chủ nghĩa xã hội không có nguồn nào khác để chiếm hữu các vật phẩm tiêu dùng ngoài lao động. Nguyên tắc thứ hai là lao động như nhau sẽ được trả công bằng nhau. Chủ nghĩa xã hội không dung thứ một sự phân biệt đối xử nào đối với việc trả công lao động : về cả giới tính, tuổi tác, lẫn đặc điểm dân tộc hoặc đặc điểm chủng tộc. Cần phải nhấn mạnh điều này, bởi vì dưới chủ nghĩa tư bản, sự phân biệt đối xử như vậy được lan truyền rất rộng rãi. Việc phân phối theo lao động đòi hỏi phải có sự phân biệt phù hợp với tính chất phức tạp và mức đọ nặng nhọc của lao động. Lao động lành nghề hơn, phức tạp, tức lao động giản đơn được nhân lên, trong một đơn vị thời gian tạo ra nhiều giá trị hơn. Bởi vậy so với lao động giản đơn, ít lành nghề hơn, lao động phức tạp, lành nghề được trả công theo mức lương cao hơn, lao động dưới đất, trong các phân xưởng có nhiệt độ cao, trong điều kiện khí hậu phức tạp... đi đôi với sự hao phí nhiều năng lượng hơn. Do đó, nó cũng được bù đắp theo mức lương cao hơn. Sự phân biệt trong việc trả công là nội dung của nguyên tắc thứ ba. * Tác dụng của nguyên tắc phân phối theo lao động : + Phân phối theo lao động là phương thức phân phối hợp lý, nó có tác dụng thúc đẩy mọi người nâng cao tinh thần trách nhiệm, thúc đẩy nâng cao năng suất lao động, tinh thần và thái độ lao động, khắc phục những tàn dư tư tưởng cũ, củng cố kỷ luật lao động. + Phân phối theo lao động còn có tác dụng thúc đẩy mọi người nâng cao trình độ nghề nghiệp, trình độ văn hoá, ổn định lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho việc tổ chức lao động xã hội. + Tác động mạnh đến đời sống vật chất và văn hoá của người lao động, vừa đảm bảo tái sản xuất sức lao động, vừa tạo mọi điều kiện cho người lao động phát triển toàn diện. 1.2.2. Phân phối theo vốn và tài sản : * Định nghĩa : Phân phối theo vốn và tài sản là nguyên tắc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân nhưng căn cứ vào vốn tài sản của họ để phân phối. * Tính tất yếu khách quan của nguyên tắc phân phối theo vốn và tài sản : Phân phối theo vốn và tài sản bắt nguồn từ quyền sở hữu. Ai có quyền sở hữu thì có quyền chiếm đoạt một phần do mình sản xuất ra. Người có quyền sở hữu vốn và tài sản thì có quyền chiếm đoạt một phần giá trị mà do nguồn vốn và tài sản đó tạo ra. Quyền sở hữu ở đây bao gồm quyền định đoạt, quyền sử dụng, chiếm đoạt, chiếm hữu đối với vốn và tài sản của mình. Nguồn vốn và tài sản trong quá trình sản xuất cũng có " công " trong việc tạo ra lợi nhuận, do đó phải trích một phần lợi nhuận " để trả công ", tức là phải trích một phần lợi nhuận để phụ thêm vào vốn cũ nhằm mở rộng sản xuất. Từ đó cho thấy nguyên tắc phân phối theo vốn và tài sản là không thể thiếu vì nó đảm bảo cho sự công bằng xã hội. * Tác dụng của nguyên tắc phân phối theo vốn và tài sản : + Giúp bảo toàn và phát triển các nguồn vốn và các nguồn tài sản khác. + Giúp huy động được các nguồn vốn trong các tầng lớp dân cư và sử dụng các nguồn vốn có hiệu quả. 1.2.3. Phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội : * Định nghĩa : Phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội là nguyên tắc phân phối vật phẩm tiêu dùng cho cá nhân nhằm đảm bảo những nhu cầu tiêu dùng chung của xã hội và đảm bảo cuộc sống cho một số người không có khả năng lao động ( người tàn tật không có khả năng lao động, người già cả không nơi nương tựa, trẻ em mồ côi ), những người nghèo khổ so với mức sống chung của xã hội. * . Tính tất yếu khách quan của nguyên tắc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội : Cũng như việc phân phối theo lao động, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội biểu hiện quan hệ giữa các thành viên trong xã hội, các tập thể xí nghiệp và xã hội nói chung về phần thu Nhập quốc dân dành cho tiêu dùng cá nhân của nhân dân. Thông qua các quỹ phúc lợi, nhân dân được học tập không mất tiền và được nâng cao trình độ lành nghề không mất tiền, được chữa bệnh không mất tiền, được trợ cấp, được cấp lương hưu trí, được cấp học bổng cho học sinh, được trả lương những ngày nghỉ phép định kỳ. Các quỹ phúc lơịi được hình thành dựa vào vốn của ngâng sách Nhà nước và phân phối theo thể thức tập trung. Ngoài ra, các quỹ phúc lợi xã hội còn được lập ra ở các liên hiệp, xí nghiệp, xí nghiệp và các cơ quan. Sự phân phối thông qua các qũy phúc lơị xã hội có một ý nghĩa to lớn về kinh tế- xã hội. Vì thế, nó không thể thiếu trong các hình thức phân phối ở nước ta. * Tác dụng của nguyên tắc phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hôị + Phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội trong một chừng mực nhất định làm cho thu nhập thực tế của các loại người lao động khác nhau nhích lại gần nhau, và do đó làm giảm bớt sự không công bằng trong việc thoả mãn các nhu cầu mà sự phân phố thưo lao động không thể xóa bỏ được. + Sự phân phối này giáo dục cho con người tính tập thể trong việc thoả mãn các nhu cầu. + Phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội nhằm phát triển các công trình phúc lợi xã hội và đảm bảo cuộc sống cho người không có khả năng lao động. Tóm lại, lý luận về phân phối có vị trí quan trọng trong kinh tế- chính trị. Nó là vấn đề rộng lớn, liên quan đến các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội...của Nhà nước và nhân dân lao động. Đặc biệt, phân phối thu nhập là vấn đề vô cùng quan trọng để tạo ra động lực mạnh mẽ góp phần tích cực thúc đẩy sản xuất phát triển, ổn định tình hình kinh tế- xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chương 2 Thực trạng quan hệ phân phối ở nước ta hiện nay 2.1. Phân phối theo lao động Trong nền kinh tế nước ta hiện nay, tồn tại và nguyên tắc cơ bản: phân phối theo lao động, phân phối theo vốn và tài sản, phân phối thông qua các quỹ phúc lợi xã hội. Tương ứng với nguyên tắc phân phối theo lao động có hình thức thu nhập là tiền lương, tiền thưởng. Việc xác định hợp lý và chính xác bậc lương, ngạch lương theo từng ngành và từng khu vực có tính đến trình độ chuyên môn và điều kiện lao động có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Trong quá trình thực hiện như vậy, hình thức phân phối tiền lương cũng có những ưu điểm và nhược điểm của nó. Kể từ năm 1957, thực hiện chế độ trả lương bằng tiền, đến nay chúng ta đã qua ba lần cải cách tiền lương( 1960, 1985 và 1993). Chế độ trả lương năm 1993 và những đổi mới trong công tác quản lý kinh tế tài chính những năm qua về cơ bản đã chuyển dần sang cơ chế thị trường, từng bước tiền tệ hóa tiền lương. Điều đó góp phần cải thiện đời sống, thúc đẩy tăng trưởng và phát triển kinh tế. Tuy nhiên, chế độ tiền lương 1993 ngày càng tỏ ra lạc hậu với sự phát triển kinh tế xã hội, là nguyên nhân làm tăng bất bình đẳng và cản trở sự phát triển nhanh và ổn định chính trị- xã hội của đất nước. Theo điều tra của trường đại học kinh tế quốc dân đối với tiền lương, thu nhập và chi tiêu của 2153 hộ công chức tại 9 tỉnh Đắc Lắc, Cần Thơ, TP Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Nghệ An, Thái Bình, Hà Nội, Lạng Sơn và Sơn La hiện nay tiền lương chỉ đáp ứng được 35- 43% chi tiêu của cán bộ, công chức. Tiền lương của công chức hành chính, công chức sự nghiệp chỉ chiếm từ 26.66% đến 46.52% thu nhập, còn thu nhập ngoài lương của công chức hành chính là 71.34%, của công chức sự nghiệp là 53.48%. Tình trạng tiền lương, thu nhập và chi tiêu như trên dẫn đến những bất cập sau đây: - Tiền lương chính thức trả theo bảng lương không đảm bảo tái sản xuất sức lao động của công chức, nói cách khác, Nhà nước chưa tính đúng, tính đủ giá trị sức lao động cho công chức. Thu nhập ngoài tiền lương chiếm từ 53.48%- 71.34% trong tổng thu nhập của công chức làm cho công chức không yên tâm thực hiện chức trách của mình, vì thế tiền lương không còn tác dụng là công cụ quản lý lao động. Thu nhập ngoài tiền lương quá lớn, Nhà nước nước không kiểm soát được thu nhập của từng cơ sở cũng như của từng người lao động, do vậy không thể điều tiết được thu nhập, làm cho sự bất bình đẳng trong thu nhập ngày càng tăng. Tiền lương thấp hơn so với thu nhập, trong khi đó mức đóng và hưởng bảo hiểm xã hội lại theo tiền lương, làm cho đời sống của người hưởng bảo hiểm xã hội lại theo tiền lương, làm cho đới sống của người hưởng bảo hiểm xã hội gặp khó khăn, là nguyên nhân của những vấn đề chính trị- xã hội phức tạp Ngoài ra, hệ thống thang bảng lương hiện nay còn quá nhiều, quá phức tạp, trùng lấp và bình quân chủ nghĩa, gấy khó khăn cho công tác quản lý, phức tạp trong công tác quản lý cán bộ, công chức. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng tiền lương như hiện nay, trong đó phải nói đến các nguyên nhân chủ yếu sau: Một là, nhận thức và vận dụng chưa đúng nguyên tắc tổ chức khi trả tiền lương, thể hiện: Tiền lương tối thiẻu thấp hơn nhu cầu mức sống tối thiểu, lại không được điều chỉnh kịp thời với tốc độ tăng trưởng và trượt giá. Tại thời điểm ban hành ché độ lướng mới ( tháng 4/1993) nhu cầu tối thiểu phải là 202.470 đồng/ tháng, những lương tối thiểu theo quy định cỉ là 120.000 đồng, bằng 59.3% mức nhu cầu tối thiểu. Thêm vào đó, từ 1993 đến 2001, nền kinh tế tăng trưởng là 60.02% và tốc độ trượt giá là 40.7%. như vậy, so với năm 1993, tăng trưởng kinh tế và trượt giá là 100.72%, trong khi đó, tiền lương tối thiểu đến năm 2001 là 210.000 đồng/tháng, so với năm 1993 tăng lên 75%. Như vậy, tiền lương tối thiểu vốn dĩ đã thấp hơn nhu cầu tối thiểu ngay từ khi ban hành, lại không kịp thời điều chỉnh và điều chỉnh thấp hơn mức tăng trưởng và trượt giá làm cho lương tối thiểu năm 1993 chi trả đúng là 202.470 đồng/tháng, cộng thêm tốc độ tăng trưởng và trượt giá thì lương tối thiểu năm 2001 phải là 202.470 đồng/tháng cộng 203.907 đồng/tháng bằng 406.377 đồng/tháng. Ngay cả khi tiền lương tối thiểu là 406.377 đồng/tháng, thì trong điều kiện hiện nay vẫn chưa đáp ứng nhu cầu mức sống tói thiểu của người lao động làm tốt công việc đơn giản nhất, chưa nói đến cán bộ công chức, là nững người đã qua đào tạo ở trình đội cao. Chẳng hạn, nhu cầu chi tiêu của nhóm công chức có thu nhập thấp gồm hai vợ chồng và hai người con là 1.891.000 đồng/tháng. Điều này, có nghĩa là tiền lương tối thiểu cho cán bộ, công chức phải đạt khoảng 945.000 đồng/người/tháng. Nguyên tắc trả lương theo công việc và chức vụ không gắn tiền lương với chức năng, nhiệm vụ của công chức, tạo ra xu hướng chạy theo chức vụ mà coi nhẹ chuyên môn, nghiệp vụ. Nguyên tắc phân phối theo lao động quy định làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, có sức lao động mà không làm thì không được hưởng, nhưng điều đó không có nghĩa là công chức, hành chính cứ làm việc gì, giữ chức vụ gì thì hưởng lương theo công việc và chức vụ đó. Việc chi trả lương theo nguyên tắc trên tạo ra sự tách rời tiền lương với chức danh, chức năng, nhiệm vụ của công chức, dẫn đến tình trạng công chức phải đi làm thêm, Nhà nước nước không quản lý được công chức. Việc đưa ra nguyên tắc: “ giữ chức vụ gì, được hưởng lương theo chức vụ đó” dẫn đến tình trạng cán bộ chạy theo chức vụ, tìm mọi cách để giữ được một chức vụ nào đó, trong khi đó trình độ chuyên môn nghiệp vụ không được coi trọng. Đây đang là tình trạng nan giải hiện nay trong bộ máy quản lý Nhà nước ở nước ta. Hai là: đối tượng hưởng lương từ ngân sách Nhà nước quá rộng trong khi nguồn trả lương từ ngân sách Nhà nước lại quá hẹp. Cho nên đến năm 2001, ngân sách Nhà nước trả lương, trợ cấp, phụ cấp và sinh hoạt phí cho khoảng 6.000.000 người, trong đó khoảng 286.000 công chức hành chính, cán bộ dân cử và bầu cử, khoảng 760. 000 cán bộ xã phường, khoảng 1.630.000 người hưởng bảo hiểm xã hội và 1.340.000 người có công, 1.220.000 công chức sự nghiệp, giáo dục, y tế, văn hoá. Đối tượng hưởng lương, phụ cấp và sinh hoạt phí như trên là sự thừa hưởng đi sản từ thời kỳ kế hoạch hoá tập trung. Nnay chuyển sang điều kiện kinh tế thị trường, nhiều đối tượng chưa được tính toán lại cho phù hợp. Đối với công chức hành chính, việc hưởng lương từ ngân sách Nhà nước là đúng. Nhưng ai là công chức hành chính thì vẫn còn nhiều ý kiến khác nhau. Vấn đề này đòi hỏi phải làm rõ trong pháp lệnh công chức. Hiện nay, chúng ta phân ra mười một loại công chức ngành hành chính bao gồm: chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính, chuyên viên, cán sự, kỹ thuật viên đánh máy, nhân viên kỹ thuật, nhân viên văn thư, nhân viên phục vụ, lái xe cơ quan và nhân viên bảo vệ. Liệu rằng mười một loại công chức ngành hành chính như vậy đã hợp lý chưa? Đối với bộ phận hưởng lương thuộc khu vực dân cử, bầu cử trong điều kiện nước ta việc trả lương từ ngân sách Nhà nướclà phù hợp. Song hiện tại giữa bộ máy bầu cử và bộ máy hành chính Nhà nước đang có sự trùng lặp, chồng chéo. Thêm nữa, trong khu vừc này, một bộ phận lao động làm việc mang tính chất của khu vực sự nghiệp có thu vẫn hưởng lương từ ngân sách Nhà nước là chưa phù hợp. Đối với khu vực sự nghiệp như giáo dục, đào tạo, y tế, văn hoá, phát thanh truyền hình... phần đáng kể trong khu vực này hoạt động là sự nghiệp có thu. Trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường, cơ cấu dịch vụ ngày càng tăng trong GDP. Khu vực này cần được coi như khu vực sản xuất, vì vậy tiền lương cũng cần áp dụng như khu vực sản xuất. Hiện nay, chúng ta chưa có cơ chế chính sách quản lý khu vực này một cách phù hợp. Người lao động vừa hưởng lương từ ngân sách Nhà nước, vừa hưởng thu nhập từ các nguồn thu của đơn vị. Đối với đội ngũ cán bộ xã phường, hơn 76 vạn người đang hưởng sinh hoạt phí hiện nay là quá nhiều. Trong khi đó, mức sinh hoạt phí cho một người lại quá ít. Vì vậy, chính sách tiền lương và thu nhập cho đội ngũ này cần được đổi mới. Ba là: cơ chế chính sách tài chính chậm đổi mới theo cơ chế thị trường, còn mang tính chất kế hoạch hoá tập trung. Về chính sách tạo nguồn thu ngân sách: Trong các nước có nền kinh tế thị trường, mọi hoạt động lao động sản xuất kinh doanh, dịch vụ có thu nhập đều phải đóng thuế và những người có thu nhập cao phải đóng thuế thu nhập cao. Trong khi đó ở nước ta chưa có thuế thu nhập, pháp lệnh thuế thu nhập cao trong thực tế chỉ cho những người làm việc trong liên doanh, còn lại hơn 3.000.000 người đang làm việc trong khu vực Nhà nước chưa phải đóng thuế. Đối với khu vực sự nghiệp có thu hiện tại, Nhà nước vừa đảm bảo xây dựng cơ sở vật chất, đầu tư chiều sâu, đào tạo cán bộ, vừa chi trả tiền lương, Nhưng lại không tập trung được nguồn thu vào ngân sách. Trong khi các đơn vị này hoạt động như những tổ chức dịch vụ, thì Nhà nước lại quy định quy mô hoạt động và giá cả dịch vụ. Những quy định tài chính như vậy không phù hợp với cơ chế mới, tạo ra sự cạnh tranh không bình đẳng giữa các đơn vị sự nghiệp công lập và dân lập, là nguyên nhân của những tiêu cực và làm giảm chất lượng hoạt động dịch vụ hiện nay. Trong quá trình chuyển sang kinh tế thị trường, sự biến đổi trong hệ thống phân phối thu nhập diễn ra rất đa dạng. Nhiều yếu tố sản xuất từ chỗ không có giá trị đến chỗ mang lại thu nhập cao cho các chủ thể yếu tố sản xuất. Chẳng hạn đất đai, trước đây không có giá cả và giá trị, song nay là yếu tố làm cho nhiều người trở nên giàu có. Trong khi đó chính sách đất đai lại chưa tính đến sự biến đổi này nên chưa có sự điều tiết thu nhập của những chủ đất đai, bất động sản. Trong điều kiện như vậy, quan hệ giữa tiền lương cán bộ công chức với thu nhập từ giá cả đất đai, bất động sản trở nên bất hợp lý nghiêm trọng. Như vậy, chúng ta có thể đi đến một số kết luận sau: + Việc giải quyết vấn đề tiền lương ở nước ta trong thời gian qua chưa phù hợp với nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đang hoạt động trong một thị trường thống nhất. + Tiền lương đó chưa thực sự là thước đo giá trị - sứclao động, chưa đảm bảo tái sản xuất giản đơn và mở rộng sức lao động không ngừng, chưa trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của nguồn lao động làm công ăn lương. Điều đó, dẫn đến một hiện tượng là trong một thời gian dài (vài thập niên vừa qua) hàng chục triệu người lao động làm việc với một động lực mờ nhạt, không tha thiết với công việc. Nói cách khác, tiền lương chưa thực sự trở thành đòn bẩy kích thích người lao động làm việc với sự nhiệt tình và sức sáng tạo cao. + Tiền lương vừa mang tính chất bình quân, vừa mang tính bao cấp. Mặc dù từ giữa cuối năm 1993 chúng ta đang triển khai thí điểm chính sách tiền lương mới nhưng trong nó vẫn còn đang chứa đựng nhiều điều bất hợp lý, đòi hỏi tiếp tục phải giải quyết. + Trong nhiều năm chính sách tiền lương và các chính sách kinh tế xã hội khác như nhà ở, phân phối điện, nước sinh hoạt...có liên quan mật thiết với nhau. Song trong quá trình giải quyết vấn đề tiền lương chưa tính toán cân đối với từng chính sách một cách cụ thể, do đó phát sinh nhiều hiện tượng tượng mâu thuẫn khó giải quyết gây ra sự bất bình đẳng lớn trong xã hội. Nhà nước chưa thực sự hoàn toàn làm chủ trong việc kiểm soát và quản lý tiền lương và thu nhập nói chung của người lao động. Việc chỉ đạo thực hiện chính sách điều chỉnh tiền lương thường thiếu đồng bộ và không thống nhất. Đặc biệt là những tác động của chính sách giá-lương-tiền năm 1985 đã trực tiếp ảnh hưởng đến tiền lương, cuộc sống của người lao động cụ thể là mức lương, thu nhập chỉ đủ nuôi sống một tuần lễ đến 10 ngày của tháng. Công nhân viên chức, lực lượng vũ trang gặp rất nhiều khó khăn trong đời sỗng hàng ngày. Do vậy, trong xã hội xuất hiện nhiều cách, ”nhiều kiểu làm ăn”, để bù đắp vào thu nhập (kể cả đúng đắn, chính đáng cũng như không đúng quy định, không chân chính...) Từ đây đã gây ra tình trạng hỗn loạn trong tiền lương, xuất hiện những chênh lệch quá đáng, bất công xã hội trong tiền lương và thu nhập giữa các loại lao động. 2.2. Phân phối theo vốn và tài sản: Nền kinh tế nước ta đang bước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội. Với cơ cấu kinh tế nhiều thành phần nên tất yếu có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản xuất và cũng rõ nét của nước ta trong quá độ lên CNXH từ một nền sản xuất nhỏ, nền kinh tế trong tình trạng thiếu vốn và phân tán vốn, quá trình sản xuất và tích tụ tư bản chưa cao, một phần tương đối lớn vốn hiện nay nằm trong tay các chủ tư hữu nhỏ trong đó có tài sản dươí dạng vàng, ngọại tệ. Vì vậy chúng phải đưa ra các giải pháp giải quyết các vấn đề trên Hình thức phân phối theo vốn và tài sản nổi rõ trong nền kinh tế nước ta là hoạt động của các hợp tác xã . Hợp tác xã là hình thức liên kết tự nguyện của người lao động nhằm kết hợp sức mạnh của từng thành viên với sức mạnh tập thể nhằm giải quyết những vấn đề của sản xuất kinh doanh và đời sống. Hợp tác xã được tổ chức theo nguyên tắc tự nguyện bình đẳng, cùng có lợi, quản lý dân chủ Hợp tác xã được được tổ chức trên cơ sở đóng góp cổ phần và sự tham gia lao động trực tiếp của xã viên . Phân phối thu nhập cá nhân trong hợp tác xã được thực hiện trên cơ sở kết quả lao dộng, đồng thời theo tài sản của mỗi cá nhân góp vào hợp tác xã Phân phối trong các thành phần kinh tế cá thể cũng thể hiện rõ nét nguyên tắc phân phối theo vốn và tài sản . trong thành phần kinh tế này người lao động sử dụng vốn và tài sản tự có của mình, dựa vào lao động của mình để sản xuất kinh doạnh . ở đây thu nhập cá nhân là phần còn lại sau khi đã trừ đi chi phí sản xuất . Đặc điểm của hình thức phân phối này là phụ thuộc vào tài sản sở hữu và khả năng kinh doanh của ngưòi lao động Do kết hợp chặt chẽ giữa hiệu quả sản xuất và sự cống hiến lao dộng của mình hình thức phân phối này kích thích tính tích cực của người lao động. Trong thành phần kt cá thể khó tránh khỏi tuỳ tiện trong việc xác định tỉ lệ giữa tích luỹ đầu tư cho sản xuất và tiêu dùng cá nhân . Vì vậy vấn đề này được đặt ra sao cho mọi chủ thể kinh tế tiết kiệm trong tiêu dùng cá nhân để đầu tư cho sản xuất Một hình thức phân phối theo vốn và tài sản khác là phâ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35457.doc
Tài liệu liên quan