Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản

MỞ ĐẦU 1. SỰ CẦN THIẾT CỦA ĐỀ TÀI Việt Nam và Nhật Bản thiết lập quan hệ ngoại giao vào ngày 21/ 03/1973. Trong 30 năm qua, quan hệ kinh tế giữa hai nước không ngừng phát triển trong đó quan hệ thương mại ngày càng được tăng cường mạnh mẽ. Đặc biệt từ khi Liên Xô và Đông Âu tan rã, Nhật Bản đã trở thành bạn hàng lớn nhất của Việt Nam, có vai trò quan trọng đối với quá trình phát triển kinh tế của Việt Nam. Quá trình phát triển thương mại giữa hai nước có thể chia làm ba giai đoạn ; 1973 - 1

doc96 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1680 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
986, 1987 - 1992, 1993 cho đến nay với hai bước ngoặt quyết định vào năm 1987 và 1992. Trước năm 1987, quan hệ thương mại giữa hai nước vẫn được duy trì nhưng nói chung không ổn định và còn ở mức độ thấp. Trong giai đoạn này, buôn bán giữa hai nước gia tăng từ năm 1973 đến năm 1978, sau đó giảm đi trong những năm 1979 - 1982. Sau đó đến năm 1986, quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản phát triển trở lại. Từ năm 1987, Việt Nam bước vào một giai đoạn mới với công cuộc đổi mới chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường và thực hiện chính sách mở cửa. Đây là bước ngoặt lớn của Việt Nam trong phát triển kinh tế cả đối nội cũng như cả đối ngoại. Quan hệ thương mại giữa Việt Nam và Nhật Bản cũng bước vào một giai đoạn mới với hai đặc trưng là sự tăng lên vững chắc về khối lượng buôn bán và sự quan tâm ngày càng cao của các nhà kinh doanh và các công ty Nhật Bản đối với thị trường Việt Nam. Năm 1992 là năm đầu tiên giá trị buôn bán giữa hai nước đạt trên 1 tỷ USD. Từ năm 1992 cho dến nay- những năm đầu tiên của thế kỷ thứ 21, quan hệ thương mại giữa hai nước liên tục có sự phát triển khả quan mặc dù có sự suy giảm trong hai năm 1998 - 1999 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở châu Á. Nguyên nhân cơ bản nhất, quan trọng nhất thúc đẩy quan hệ thương mại giữa hai nước phát triển ngày càng mạnh mẽ là hoàn cảnh môi trường quốc tế và khu vực thuân lợi; công cuộc đổi mới của Việt Nam với các chính sách kinh tế đối ngoại năng động, phù hợp với xu thế phát triển thời đại và lợi ích của cả hai bên Nhật Bản - Việt Nam ... Đương nhiên, đó mới chỉ là những nguyên nhân có tính khách quan bên ngoài đối với Nhật Bản. Điều cần lưu ý là về phía chủ quan Nhật Bản: sự chuyển hướng chiến lược trong chính sách đối ngoại nói chung và chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng của Nhật Bản đối với các nước ASEAN nói chung và Việt Nam nói riêng kết hợp với các sự kiện chính trị quan trọng khác như Mỹ huỷ bỏ chính sách cấm vận thương mại chống Việt Nam ( tháng 2/ 1994), Mỹ tuyên bố bình thường quan hệ với Việt Nam( tháng 7/ 1995) và Việt Nam gia nhập ASEAN( tháng 7 / 1995) ... Tuy nhiên , quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản trong những năm qua còn nhiều hạn chế như tỷ trọng xuất nhập khẩu trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước là chưa hợp lý dẫn đến Việt Nam luôn xuất siêu, cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá giữa hai nước còn nhiều bất cập ...Vì vậy nhiều vấn đề đặt ra cần được nghiên cứu như : tại sao kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đã tăng lên một cách nhanh chóng nhưng tỷ trọng của nó trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam lại tăng giảm thất thường? Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản đã tương xứng với tiềm năng vốn có của hai nước hay chưa? Việt Nam cần phải làm gì để thúc đẩy và nâng cao hiệu quả của quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản. Mặc dù cho đến nay trong quan hệ thương mại Việt - Nhật vẫn còn khó khăn, song trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá thương mại, gần đây Nhật Bản cũng đã có một số động thái tích cực, đó là liên minh tự do thương mại với một số quốc gia như Singapo, Canađa, Chilê và Mêhicô và Nhật cũng đang nỗ lực xúc tiến việc thành lập khối mậu dịch tự do với ASEAN, nhằm mở rộng hơn nữa vai trò cường quốc kinh tế ở khu vực châu Á. Đây là một thay đổi lớn trong chính sách thương mại của Nhật Bản vì cho đến tận cuối những năm 1990, Nhật Bản vẫn cứng rắn không tham gia một thoả thuận thương mại song phương nào mà chủ yếu chỉ dựa vào các tổ chức đa phương như Tổ chức thương mại thế giới (WTO). Chính vì thế, hy vọng rằng trước những yêu cầu mới của bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá các hoạt động kinh tế, sự thay đổi chính sách thương mại quốc tế của Nhật Bản cùng với sự kiện kỷ niệm trọng thể 30 năm ngày chính thức thiết lập quan hệ ngoại giao Việt Nam - Nhật Bản trong năm 2003, trong tương lai gần hai nước sẽ ký kết hiệp định về thương mại song phương, khi đó quan hệ thương mại Việt - Nhật càng có điều kiện phát triển mạnh hơn nữa. Đương nhiên để đạt được sự phát triển như vậy, về phía Việt Nam đòi hỏi chúng ta phải nỗ lực thực hiện có hiệu quả cao nhất các giải pháp cơ bản về phát triển ngoại thương Việt Nam nói chung và thương mại Việt - Nhật nói riêng. 2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU Ở Việt Nam từ trước đến nay các công trình của một số các tác giả nghiên cứu liên quan đến quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản là : Đỗ Đức Định, “ Quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản đang phát triển”, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1996. Trần Anh Phương, chương 4: “ Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản trong những năm 1990 “ trong cuốn sách: Quan hệ kinh tế Việt Nam- Nhật Bản trong những năm 1990 và triển vọng ( Vũ Văn Hà chủ biên ), Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2000. Ngô Xuân Bình - Hồ Việt Hạnh , Chương 2 - mục 2.4. “ Quan hệ kinh tế Nhật - Việt năm 2001” trong cuốn sách “ Nhật Bản năm đầu thế kỷ XXI ” , Nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 2002. Nguyễn Duy Dũng , “ Năm 2002: quan hệ kinh tế Việt Nam - Nhật Bản tiếp tục phát triển ổn định ”, Tạp chí Nghiên cứu Nhật Bản và Đông Bắc Á , số 1(43) 2- 2003. Nguyễn Xuân Thiên, “ 20 năm quan hệ thương mại Việt Nam – Nhật Bản ” , Tạp chí Con số và Sự kiện số 1/1995 v.v.. Các công trình trên đây đã nghiên cứu về quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản trong thời gian một số năm của thế kỷ 20 . Các công trình nói trên đã nghiên cứu thực trạng quan hệ thương mại Việt - Nhật , thuân lợi và khó khăn và có đưa ra những giải pháp để giải quyết những khó khăn, bất cập đó tuy nhiên các công trình nói trên mới chỉ đáp ứng những yêu cầu của thực tiễn trong khoảng thời gian mà các tác giả nghiên cứu mà khoảng thời gian đó đã qua, mặt khác vấn đề mà các tác giả nghiên cứu chỉ là một nội dung trong công trình mà các tác giả nghiên cứu hoặc nêú có tách riêng thì mới chỉ dừng ở một bài báo, một chương sách... nên tính khái quát là rất cao, không đi sâu nghiên cứu một cách sâu sắc, vì thế không thể giải quyết được một cách căn bản các vấn đề đặt ra trong quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản. Cho nên tác giả luận văn nghiên cứu vấn đề này ở một phạm vi nghiên cứu rộng hơn và sâu sắc hơn của một luận văn cao học. Hướng tiếp cận của luận văn là nghiên cứu trực tiếp thực trạng quan hệ thương mại Việt- Nhật trong giai đoạn hiện nay, phát hiện những vấn đề mới nảy sinh, đề xuất những giải pháp thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản phát triển hơn nữa phù hợp với những lợi ích kinh tế, chính trị của Việt Nam và Nhật Bản. Nhưng luận văn không tách rời, cô lập quan hệ thương mại Việt Nam- Nhật Bản mà đặt trong quan hệ tác động qua lại với các vấn đề kinh tế chính trị khác như đầu tư, ODA, hoạt động chính trị và ngoại giao... 3. MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU Nhằm thúc đẩy và nâng cao hiệu quả quan hệ thương mại Việt Nam- Nhật Bản, góp phần phát triển quan hệ thương mại giữa hai nước ngày càng sâu sắc hơn. 4. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đối tượng nghiên cứu : Nghiên cứu quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản và nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản. Phạm vi nghiên cứu : Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản có từ thế kỷ XVI - XVII nhưng luận văn tập trung phân tích quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản từ năm 1976 đến nay. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Ngoài các phương pháp cơ bản được sử dụng rộng rãi trong việc nghiên cứu như duy vật biện chứng, duy vật lịch sử, trừu tượng hoá khoa học, luận văn còn sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp phân tích và trường hợp đặc biệt sử dụng phương pháp phân tích so sánh, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ vấn đề nghiên cứu. 6. ĐÓNG GÓP MỚI CỦA LUẬN VĂN Phân tích những cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản. Làm rõ những đặc điểm nổi bật của quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản, xu hướng vận động và phát triển. Đề xuất những giải pháp đối với Việt Nam để thúc đẩy và nâng cao hiệu quả quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản. 7. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Ngoài phần mở đầu và kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gồm 3 chương: CHƯƠNG 1 : Cơ sở lý luận và thực tiễn của quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản CHƯƠNG 2 : Thực trạng quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản CHƯƠNG 3 : Những giải pháp nhằm tăng cường và nâng cao hiệu quả quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN 1.1. MỘT SỐ LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Lý thuyết lợi thế tuyệt đối Theo Adam Smith (1723-1790) - nhà kinh tế chính trị cổ điển Anh cho rằng “ Sự giàu có của một quốc gia phụ thuộc vào số hàng hoá và dịch vụ có sẵn hơn là sự phụ thuộc vào vàng ”. Tại sao các nước cần phải giao dịch buôn bán với nhau? Tại sao Việt Nam (hay bất cứ một quốc gia nào khác) không bằng lòng với hàng hoá và dịch vụ sản xuất tại nước mình? Trong cuốn “sự giàu có của các quốc gia” xuất bản năm 1776, Adam Smith đã nghi ngờ về chủ nghĩa trọng thương vì cho sự phồn vinh của một nước phụ thuộc vào châu báu mà nước đó tích luỹ được. Thay vào đó, ông cho rằng sự giàu có thực sự của một nước là tổng số hàng hoá và dịch vụ có sẵn ở nước đó. Ông cho rằng những quốc gia khác nhau có thể sản xuất những loại hàng hoá khác nhau có hiệu quả hơn những thứ khác. Adam Smith cho rằng nếu thương mại không bị hạn chế thì lợi ích của thương mại quốc tế thu được do sự thực hiện nguyên tắc phân công. Ông phê phán sự phi lý của những hạn chế của lý tưởng trọng thương và chứng minh rằng mậu dịch sẽ giúp ích cả hai bên tăng gia sản - hiểu theo ý lợi tức thực sự qua việc thực thi một nguyên tắc cơ bản : nguyên tắc phân công. Theo cuốn “The Wealth of Nations - Sự giàu có của một quốc gia” Adam Smith cho rằng : phương ngôn của mọi người chủ gia đình khôn ngoan là không bao giờ tự sản xuất những gì mà nếu đi mua sẽ được rẻ hơn. Người thợ may không khi nào hì hục đóng đôi giày mà thường đi mua ở người thợ giày. Và người thợ giày cũng không cần loay hoay cắt may, mà nhờ anh thợ may may hộ. Người nông dân không tự làm lấy hai thứ trên, mà nhờ vào các tay thợ khéo. Mọi người dân đều có lợi khi chăm chỉ làm công việc của mình có lợi thế hơn láng giềng, và dùng một phần số sản phẩm của mình hay tiền bán được số sản phẩm ấy để đi mua mọi thứ cần dùng khác. Những gì trong sinh hoạt cá nhân được coi là khôn ngoan ít khi nào lại là một điều rồ dại đối với quốc gia. Nếu một nước ngoài có thể cung cấp một loại hàng rẻ hơn là khi ta tự sản xuất, thì tốt hơn hết nên đi mua loại hàng ấy, dành thì giờ chuyên chú vào một hoạt động khác mà ta có lợi hơn, để bán lấy tiền tiêu dùng. Theo Adam Smith, nếu quốc gia chuyên môn hoá vào những ngành sản xuất mà họ có lợi thế tuyệt đối thì cho phép họ sản xuất sản phẩm với chi phí và hiệu quả hơn các quốc gia khác. Nhờ sự chuyên môn hoá, các nước có thế gia tăng hiệu quả do : Người lao động sẽ lành nghề hơn do họ lặp lại cùng một thao tác nhiều lần. Người lao động không phải mất thời gian chuyển từ việc sản xuất sản phẩm này sang sản xuất sản phẩm khác. Do làm một công việc lâu dài, người lao động sẽ nẩy sinh các sáng kiến, đề xuất các phương pháp làm việc tốt hơn. Tuy nhiên, một nước chuyên môn hoá vào những sản phẩm nào? Mặc dù Adam Smith cho rằng thị trường chính là nơi quyết định, nhưng Ông vẫn nghĩ rằng lợi thế của một nước có thể là lợi thế tự nhiên hay do nỗ lực của nước đó. Lợi thế tự nhiên liên quan đến các điều kiện khí hậu và tự nhiên. Điều kiện tự nhiên có thể đóng vai trò quyết định trong việc sản xuất có hiệu quả rất nhiều sản phẩm như càfê, chè, cao su, dừa..., các loại khoáng sản. Lợi thế do nỗ lực là lợi thế có được do sự phát triển của kỹ thuật và sự lành nghề. Ngày nay, người ta thường buôn bán, trao đổi các loại hàng hoá đã được sản xuất công phu hơn là các nông phẩm hay tài nguyên thiên nhiên nguyên khai hoặc sơ chế. Quy trình sản xuất những loại hàng hoá này phần lớn phụ thuộc vào ”lợi thế do nỗ lực” thường do kỹ thuật chế biến, là khả năng sản xuất các loại sản phẩm khác nhau, khác biệt với các thứ khác. Ví dụ, Đan Mạch sản xuất đĩa bạc không phải vì nước này có nguồn mỏ bạc dồi dào mà do họ có thể sản xuất được những đĩa bạc thật đặc biệt. Lợi thế về kỹ thuật chế biến là khả năng chế tạo các sản phẩm đồng nhất có hiệu quả hơn. Ví dụ, Nhật Bản là nước phải nhập sắt và than, là hai thành phần quan trọng và cần thiết cho quá trình sản xuất thép. Nhưng nhờ có được quy trình sản xuất thép tiên tiến nên tiết kiệm được nguyên liệu và lao động đã làm cho các nhà sản xuất thép Nhật Bản rất thành công trong cạnh tranh trên thị trường. Lợi thế tuyệt đối đề cập tới số lượng của một loại sản phẩm có thể được sản xuất ra, sử dụng cùng một nguồn lực ở hai nước khác nhau. Một nước được coi là có lợi thế tuyệt đối so với nước kia trong việc sản xuất hàng hoá A khi cùng một nguồn lực có thể sản xuất được nhiều sản phẩm A ở nước thứ nhất hơn là nước thứ hai. Giả sử Việt Nam có lợi thế tuyệt đối so với Hàn Quốc trong một loại hàng hoá, trong khi Hàn Quốc lại có lợi thế tuyệt đối so với Việt Nam một loại hàng hóa khác. Đó là trường hợp lợi thế tuyệt đối tương hỗ. Mỗi nước đều có lợi thế tuyệt đối trong sản xuất một loại sản phẩm. Trong trường hợp như thế, tổng sản phẩm của cả hai nước có thể tăng lên (so với nền kinh tế tự cung tự cấp) nếu mỗi nước chuyên môn hoá sản xuất loại sản phẩm mà nước đó có lợi thế tuyệt đối. Ví dụ sau đây đưa ra tình huống giả định về sản lượng gạo và vải vóc đều tăng lên khi mỗi nước sản xuất nhiều hơn số hàng hoá mà nước đó có lợi thế tuyệt đối. Kết quả là sẽ có nhiều lúa gạo và vải vóc cùng một chi phí về nguồn lực. Bảng 1: Lượng lúa gạo và vải vóc có thể được sản xuất với một đơn vị nguồn lực ở Việt Nam và Hàn Quốc. Nước Lúa gạo (tạ) Vải vóc (m2) Việt Nam 10 6 Hàn Quốc 5 10 Ta có thể thấy ngay Việt Nam có lợi thế trong việc sản xuất lúa gạo, còn Hàn Quốc trong việc sản xuất vải. Bảng 2: Những thay đổi xẩy ra khi chuyển một đơn vị nguồn lực của Việt Nam sang sản xuất lúa gạo, và một đơn vị nguồn lực của Hàn Quốc sang sản xuất vải. Nước Lúa gạo (tạ) Vải vóc (m2) Hàn Quốc -5 +10 Việt Nam +10 - 6 Tổng số +5 + 4 Do việc chuyển đổi nguồn lực đầu vào của việc sản xuất lúa gạo ở Việt Nam và vải ở Hàn Quốc, quá trình chuyên môn hoá sẽ làm tăng sản lượng cả cả hai loại hàng hoá. Ví dụ này trình bày sự thay đổi về sản lượng do chuyển một đơn vị nguồn lực từ việc sản xuất vải sang việc sản xuất gạo (Việt Nam) và từ việc sản xuất lúa gạo sang sản xuất vải (Hàn Quốc). Sản lượng trên thế giới tăng 5 tạ lúa và 4m2 vải, trên toàn thế giới sẽ có lợi ích do chuyên môn hoá. Trong trường hợp này có nhiều sự chuyển đổi nguồn lực sang sản xuất lúa ở Việt Nam và càng có nhiều sự chuyển đổi nguồn lực sang sản xuất vải ở Hàn Quốc thì lợi ích càng lớn. Những lợi ích này của việc chuyên môn hoá sẽ khiến những lợi ích của ngoại thương trở thành hiện thực. Việt Nam sẽ sản xuất nhiều lúa gạo và Hàn Quốc thì sản xuất nhiều vải hơn so với trước khi hai nước này còn ở tình trạng tự cung tự cấp. Như vậy, Việt Nam sẽ phải sản xuất nhiều lúa gạo và ít vải hơn so với nhu cầu người tiêu dùng ở Việt Nam và Hàn Quốc sẽ sản xuất nhiều vải và ít lúa gạo hơn so với nhu cầu của người tiêu dùng ở Hàn Quốc. Nếu người tiêu dùng ở cả hai nước có vải và lúa gạo theo một tỷ lệ mong muốn thì Hàn Quốc cần phải xuất khẩu vải sang Việt Nam và nhập lúa gạo từ Việt Nam. 1.1.2 . Lý thuyết lợi thế so sánh Lợi ích thương mại vẫn diễn ra ở những nước có lợi ích tuyệt đối về tất cả các sản phẩm vì các nước này cần phải hy sinh sản lượng kém hiệu quả để sản xuất ra sản lượng có hiệu quả hơn. Hay nói cách khác những lợi ích do chuyên môn hoá và ngoại thương mang lại phụ thuộc vào lợi thế so sánh chứ không phải lợi thế tuyệt đối. Khi mỗi nước có lợi thế tuyệt đối so với nước khác về một loại hàng hoá, lợi ích của ngoại thương là rõ ràng. Nhưng điều gì sẽ xẩy ra nếu một nước có thể sản xuất có hiệu quả hơn nước kia trong hầu hết các mặt hàng? Hoặc những nước không có lợi thế tuyệt đối nào cả, thì chỗ đứng của họ trong phân công lao động quốc tế là ở đâu? hoạt động thương mại diễn ra như thế nào với những nước này? Trên thực tế đó là một câu hỏi mà David Ricardo từ hơn 170 năm trước và chính ông đã trả lời câu hỏi đó trong các tác phẩm với tiếng của mình “Những nguyên lý của kinh tế chính trị, 1817” trong tác phẩm này, David Ricardo đã đưa ra một lý thuyết tổng quát chính xác hơn về cơ chế xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế. Theo David Ricardo, cơ chế xuất hiện lợi ích trong thương mại quốc tế là : Mỗi nước đều có lợi khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì ngoại thương cho phép mở rộng khả năng tiêu dùng của một nước : do chỉ chuyên môn hoá vào sản xuất một số sản phẩm nhất định và xuất khẩu hàng hoá của mình để đổi lấy hàng hoá nhập khẩu từ nước khác. Những nước có lợi thế tuyệt đối hoàn toàn hơn nước khác hoặc bị kém lợi thế tuyệt đối hơn các nước khác trong việc sản xuất mọi sản phẩm, thì vẫn có lợi thế khi tham gia vào phân công lao động quốc tế bởi vì mỗi nước có một lợi thế so sánh nhất định về một số mặt hàng và kém lợi thế so sánh về một số mặt hàng khác. Ví dụ sau đây minh hoạ về lợi thế so sánh giữa hai nước Việt Nam và Hàn Quốc : Bảng 3: Năng lực sản xuất trong trường hợp lợi thế tương đối Các giả thiết Đơn vị nguồn lực có sẵn Đơn vị nguồn lực để sản xuất 1 tấn lúa gạo Đơn vị nguồn lực để sản xuất 1 kiện vải Sử dụng một nửa tài nguyên cho mỗi loại sản phẩm khi không có ngoại thương Vải Lúa gạo Sản xuất Không có ngoại thương Việt Nam Hàn Quốc Tổng cộng Có ngoại thương (Việt Nam sản xuất toàn bộ sản lượng lúa gạo cần thiết) Việt Nam Hàn Quốc Tổng cộng Có ngoại thương (Việt Nam sản xuất lượng vải cần thiết còn lại) Tăng sản xuất lúa gạo Việt Nam Hàn Quốc Tổng cộng Việt Nam 100 3 4 50 50 vải 12,5 10 22,5 6,3 20 26,3 2,5 20 22,5 Hàn Quốc 100 6 5 50 50 Lúa gạo 16,6 8,3 24,9 24,9 0 24,9 30 0 30 Dù Việt Nam có lợi thế tuyệt đối cả hai loại sản phẩm, nhưng Việt Nam lại có lợi thế tương đối trong việc sản xuất lúa gạo. Cũng một nguồn lực, Việt Nam có thể sản xuất lúa gạo gấp hai lần so với Hàn Quốc, còn về sản xuất vải thì Việt Nam lại chỉ có gấp hơn một lần. Cho dù Hàn Quốc bất lợi về sản xuất cả hai loại sản phẩm nhưng Hàn Quốc vẫn có lợi thế tương đối về vải. Do sản xuất lúa gạo của Hàn Quốc chỉ bằng 50% so với Việt Nam, còn sản xuất vải chỉ bằng 75% so với Việt Nam. Chúng ta giả thiết mỗi quốc gia đang có 100 đơn vị nguồn lực. Nếu mỗi nước dùng một nửa đơn vị nguồn lực cho việc sản xuất mỗi sản phẩm thì Việt Nam có thể sản xuất được 12,5 kiện vải (50/4) và 16,6 tấn lúa gạo (50/3), còn Hàn Quốc được 10 kiện vải (50/5) và 8,3 tấn gạo (50/6). Nếu không có ngoại thương, sản lượng lúa gạo tổng cộng là 24,9 tấn (Việt Nam 16,6 tấn; Hàn Quốc 8,3 tấn) và 22,5 kiện vải (Việt Nam 12,5 kiện; Hàn Quốc 10 kiện) . Nhờ mở cửa buôn bán mà sản lượng lúa gạo và vải hay tổng cộng cả hai loại sản phẩm có thể tăng thêm. Nếu ta tăng sản xuất vải, mà không thay đổi sản xuất lúa gạo như trước khi ta trao đổi, thì Việt Nam có thể sản xuất tất cả 24,9 tấn lúa gạo bằng cách sử dụng 74,7 đơn vị nguồn lực (74,7/3) với 25,3 đơn vị nguồn lực còn lại, Việt Nam có thể sử dụng để sản xuất 6,3 kiện vải (25,3/4). Hàn Quốc trong trường hợp này sử dụng toàn bộ nguồn lực của mình để sản xuất 20 kiện vải. Sản lượng lúa gạo tổng cộng là 24,9 tấn, nhưng sản lượng vải tăng lên từ 22,5 kiện lên 26,3 kiện. Nếu ta tăng sản xuất lúa gạo tại Việt Nam, và vẫn giữ nguyên sản lượng vải như trước khi có buôn bán giữa hai nước, Hàn Quốc có thể sử dụng toàn bộ nguồn lực của mình để sản xuất 20 kiện vải, Việt Nam có thể sản xuất 2,5 kiện vải còn lại với 10 đơn vị nguồn lực (10/4); 90 đơn vị nguồn lực còn lại Việt Nam có thể sản xuất 30 tấn lúa gạo (90/3) không cần phải hy sinh lượng vải có sẵn trước khi có ngoại thương, lượng lúa gạo vẫn tăng lên từ 24,9 tấn lên 30 tấn. Xét cho kỹ thì lý luận của David Ricardo chỉ là mở rộng nguyên tắc phân công. Một cách khái quát, cho cả quốc gia cũng như cá nhân, chuyên môn hoá phải dựa theo khả năng. Chúng ta thấy lý thuyết lợi thế so sánh của David Ricardo đã đi xa hơn quan điểm của Adam Smith về căn bản của mậu dịch quốc tế, khắc phục được những hạn chế của lý thuyết thương mại dựa trên lợi thế tuyệt đối của Adam Smith. 1.1.3. Lý thuyết về giá trị quốc tế, mối tương quan của cầu Lý thuyết của David Ricardo mới chỉ đề cập đến yếu tố cung, chưa chú ý tới yếu tố cầu. Để bổ sung cho khiếm khuyết này, J.Stuart Mill đã bàn đến vấn đề giá trị quốc tế hay tỷ lệ trao đổi giữa các sản phẩm. Ông là một trong những nhà kinh tế học của thế kỷ XIX ủng hộ lợi ích của ngoại thương. J.Stuart Mill cho rằng “sự mở rộng của ngoại thương... đôi khi là một kiểu cách mạng công nghiệp ở một nước mà các nguồn lực của nó trước đó chưa được phát triển". Thay vì so sánh phí tổn nhân công của quốc gia khi sản xuất ra một sản phẩm ngang nhau, ông lại so sánh các sản phẩm sản xuất ra của hai quốc gia khi sử dụng đầu vào nhân công ngang nhau. Lý thuyết của S.Mill dựa trên năng xuất tương đối của nhân công chứ không phải phí tổn của nhân công như D.Ricardo. Cấu trúc của S.Mill như sau: Bảng 4: Đầu vào và đầu ra hai sản phẩm ở hai quốc gia Đầu vào nhân công (số ngày) Quốc gia Đầu ra Rượu (thùng) Vải (kiện) 300 300 Bồ Đào Nha Anh 100 50 75 60 Chúng ta thấy, cùng một nguồn lực (đầu vào) là nhân công, Bồ Đào Nha có lợi thế tuyệt đối trong việc sản xuất cả hai thứ hàng, nhưng có lợi thế tương đối hơn về rượu (100/50=2/1 so với 75/60=5/4) . Ngược lại, Anh lại có lợi thế tương đối hơn về vải (60/75=4/5 so với 50/100=1/2). Một cách tổng quát, có thể phát triển nguyên tắc lợi thế tương đối như sau: Nếu với cùng một điều kiện đầu vào, người ta có thể sản xuất được a1 và b1 lượng hàng A và B ở quốc gia I, và a2 và b2 ở quốc gia II thì quốc gia I sẽ xuất khẩu A để nhập B nếu a1/b1>a2/b2, nghĩa là so với quốc gia II, tương đối quốc gia I có khả năng sản xuất A nhiều hơn B (hoặc có thể a1/a2>b1/b2) và ngược lại b2/b1>a2/a1 thì quốc gia II sẽ xuất khẩu sản phẩm B và nhập khẩu sản phẩm A. 1.1.4. Quan điểm của Các Mác về ngoại thương Trong học thuyết của mình, Các Mác chưa trình bày một cách hệ thống các quan điểm về lý luận ngoại thương. Tuy nhiên trong học thuyết kinh tế của CácMác, nhất là trong bộ “ Tư bản ” trong khi phân tích về nền kinh tế hàng hoá tư bản chủ nghĩa, quan điểm của Các Mác về ngoại thương được hình thành. Lý luận về ngoại thương của Các Mác có thể nói được tập trung ở những điểm sau đây: Thứ nhất nguyên tắc chi phí ngoại thương là bình đẳng, cùng có lợi. Sự phân tích của ông về ngoại thương là dựa trên quy luật giá trị, Các Mác cho rằng chi phí về lao động là cơ chế cho trao đổi, buôn bán hàng hoá giữa các nước, theo đó hạ thấp được chi phí lao động thì hoạt động ngoại thương tất yếu là có lợi. Điều có nghĩa là chi phí lao động là nguồn lực quan trọng nhất, là cơ sở quan trọng nhất để phân tích lợi ích của ngoại thương. Trong mậu dịch quốc tế, nguyên tắc trao đổi hàng hoá phải tuân theo nguyên tắc ngang giá. Ông đã phê phán gay gắt quan điểm sai lầm, thô thiển của chủ nghĩa trọng thương cho rằng “Trọng thương mại sở dĩ là một bên có lợi là vì đã làm thiệt hại bên kia”. Thứ hai, sự hình thành và phát triển của ngoại thương là tất yếu khách quan của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa là một nền kinh tế hàng hoá luôn đòi hỏi thị trường ngày càng mở rộng, không chỉ là thị trường tiêu thụ sản phẩm mà còn là thị trường cung cấp nguyên liệu cho sản xuất. Và điều quan trọng hơn hết, ngoại thương xuất hiện là một tất yếu do sự chi phối của quy luật giá trị thặng dư tối đa. 1.2. NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN 1.2.1. Xu hướng chung của quan hệ thương mại quốc tế * Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế Xu hướng toàn cầu hoá kinh tế diễn ra mạnh mẽ, đặc biệt là từ đầu những năm 1990 đến nay đã có tác động rất lớn đến quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Nhật Bản. Bước vào thập kỷ 90, xu hướng hoà bình hợp tác và phát triển đã trở thành chủ đề chính của thời đại. Hình thức chủ yếu của cạnh tranh quốc tế đã chuyển từ chạy đua vũ trang thời kỳ chiến tranh lạnh sang cạnh tranh kinh tế. Có thể nói rằng, kể từ sau chiến tranh thế giới hai, dưới sự tác động của quốc tế hoá sản xuất và cách mạng khoa học kỹ thuật không ngừng phát triển, tính tuỳ thuộc lẫn nhau và bổ sung cho nhau của nền kinh tế các nước vốn đã khá phát triển lại càng gia tăng mạnh mẽ trong xu thế của quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện nay. Và chính quá trình toàn cầu hoá và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nền kinh tế ngày càng chặt chẽ đã làm cho các hoạt động hợp tác và cạnh tranh giữa các quốc gia cũng như giữa các công ty trên thế giới ngày càng phức tạp và đa dạng. Đặc biệt là xu hướng tự do hoá thương mại và đầu tư của các quốc gia và các công ty trong khu vực ngày càng mang tính quy định và bổ sung cho nhau như một chính thể thống nhất. Không phải ngẫu nhiên mà người ta thường cho rằng các trung tâm kinh tế buôn bán của thế giới như Mỹ, Nhật Bản và EU đang dẫn dắt quá trình tự do hoá và toàn cầu hoá hiện nay, đặc biệt trong việc chi phối Quỹ tiền tệ quốc tế( IMF), Ngân hàng thế giới (WB), tổ chức thương mại thế giới (WTO). Thứ nhất, có thể nói xu thế toàn cầu hoá các hoạt động kinh tế đối ngoại của các nước nhằm thích ứng với một môi trường kinh tế quốc tế mới và đang thay đổi. Dù biện minh dưới hình thức nào và thay đổi hoạt động theo cách thức gì thì mục tiêu cuối cùng của các quốc gia cũng như các nhà kinh doanh cũng là lợi nhuận, thị phần, và những ảnh hưởng quốc tế ngày càng sâu rộng của mình. Để đạt được những mục đích cần thiết này, các quốc gia phải bắt kịp, thích ứng, và thậm chí phải đón đầu được với cả những triển vọng phát triển mới của nền kinh tế thế giới. Thứ hai, trong quá trình toàn cầu hoá, tiến bộ công nghệ nói chung, đặc biệt là sự bùng nổ của cuộc cách mạng tin học trong những năm gần đây đã đẩy nhanh quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế công nghiệp sang nền kinh tế tin học trong nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là nhân tố nổi bật giúp cho việc điều hành một cách dễ dàng các hoạt động kinh tế phân tán ở nhiều nơi khác nhau trên thế giới bằng sử dụng rộng rãi các thiết bị tin học, nhờ đó các quốc gia phát triển và các nhà kinh doanh không những có thể mở rộng các hoạt động kinh tế về quy mô ra nước ngoài mà còn có thể tăng cường các hoạt động về chiều sâu, đổi mới về phương thức tổ chức và quản lý... Theo sự phát triển của mạng lưới thông tin hiện đại, sự trao đổi và thông tin lẫn nhau giữa các quốc gia ngày càng trở nên rõ ràng và thuận tiện. Chính vì thế, hoạt động thương mại và đầu tư không những đã có thể phát triển rộng khắp đến những khu vực và các nền kinh tế trên khắp thế giới mà còn có thể tiến sâu hơn vào những vùng sâu, vùng xa và những nơi hẻo lánh mà trước đây không thể có điều kiện vươn tới được. Thứ ba, dưới tác động của toàn cầu hoá và cách mạng tin học, các quá trình liên kết khu vực và toàn cầu cũng đang diễn ra mạnh mẽ đòi hỏi các quốc gia phải sử dụng tối ưu các nguồn lực để hội nhập có hiệu quả vào quá trình hợp tác và phân công lao động quốc tế. Các tiến trình này sẽ làm nảy sinh nhu cầu kết hợp chặt chẽ giữa các chính sách thương mại với đầu tư và viện trợ, đẩy mạnh tự do hoá thương mại bằng cách dỡ bỏ các hàng rào thuế quan và phi thuế quan giữa các quốc gia... Các nước phát triển có điều kiện thực hiện các chiến lược đầu tư và thương mại mà trước đó luôn bị các hàng rào bảo hộ phong toả thông qua việc đặt các chi nhánh ở nước ngoài và cho phép các chi nhánh đó thực hiện đầu tư trực tiếp và mở rộng buôn bán sang các nước thứ ba. Vâỵ thực chất của toàn cầu hoá kinh tế là gì và những đặc trưng cơ bản của quá trình này là như thế nào? thực chất của toàn cầu hoá về kinh tế: “ là sự tự do hoá kinh tế và hội nhập kinh tế và hội nhập quốc tế, mà trước hết là về thương mại đầu tư, và dịch vụ..v...v. Tự do hoá kinh tế cũng có các mức độ khác nhau, từ giảm thuế quan đến xoá bỏ thuế quan; từ tự do hoá thương mại đến tự do hoá về hàng hoá và dịch vụ, từ tự do hoá về kinh tế trong quan hệ đôi bên đến nhiều bên, trong quan hệ khu vực đến toàn cầu. Hội nhập kinh tế cũng vậy, cũng có những thứ bậc cao thấp khác nhau, song các quốc gia dù muốn hay không dần dần đều phải hội nhập vào các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu, cần phải có chiến lược và có chính sách để thích ứng với quá trình toàn cầu hoá”1 Võ Đại Lược - Toàn cầu hoá. Những tác động và đối sách của Việt Nam, Kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương, số 1(22), 3-1999, trang 3. Cùng với sự phát triển không ngừng của toàn cầu hoá, sự dựa vào nhau, tác động và ảnh lẫn nhau của kinh tế các nước ngày càng sâu sắc, trách nhiệm của chính phủ các nước đối với sự phát triển kinh tế toàn cầu ngày càng lớn, các nước phát triển trên cơ sở tinh thần cùng gánh chịu trách nhiệm và sự rủi ro (nếu có) để tiến hành hợp tác, phối hợp quốc tế rộng rãi và hiệu quả thiết thực. Cùng với xu thế này các nước đang phát triển cần phải áp dụng các chính sách có hiệu quả trong việc tham gia vào quá trình toàn cầu hoá. Nói cách khác, cần tiến hành sự hợp tác và phát triển sao cho có thể thu được lợi ích tối đa và thiệt hại ở mức thấp nhất. Một trong những mốc đánh dấu tiến trình toàn cầu hoá kinh tế tăng nhanh là sự luân chuyển nhanh chóng tiền vốn với quy mô ngày càng lớn. Nguồn vốn với quy mô lớn với tốc độ luân chuyển nhanh đã trở thành một lĩnh vực mạo hiểm và sôi động nhất của kinh tế thế giới hiện nay. “Theo số liệu thống kê, mỗi ngày mức giao dịch ngoại hối trên phạm vi toàn cầu đạt 1500 tỷ đô la Mỹ (USD), nếu tính theo 250 ngày làm việc thì một năm mức giao dịch ngoại hối toàn cầu đạt tớí 375.000 tỉ USD, trong đó, 98% chủ yếu dùng để mua bán có tính chất đầu tư với nhiều hình thức”.2 Toàn cầu hoá kinh tế và đối sách của các nước đang phát triển, Tạp chí tri thức thế giới, số 16,1999. 3. Bùng nổ nguồn vốn đầu tư, Báo Đầu tư, số 513, ngày 17-1-2000. Toàn cầu hoá kinh tế đòi hỏi nguồn vốn (một yếu tố quan trọng của sản xuất ) cũng phải được toàn cầu hoá. Lưu động vốn còn là biện pháp hữu hiệu nhằm vượt qua hàng rào thuế quan để chiếm lĩnh thị trường các n._.ước. Tính đến cuối năm 1996, tổng giá trị vốn lưu động trong thị trường cổ phiếu thế giới là 20.200 tỉ USD, trong đó tổng giá trị của 70 thị trường cổ phiếu mới thành lập đã chiếm gần 1600 tỉ USD (khoảng 11% tổng số vốn). Nhờ có biện pháp áp dụng cao trong nghiệp vụ tiền tệ mà tốc độ lưu chuyển vốn toàn cầu đã được đẩy mạnh hơn bao giờ hết. Từ năm 1980 đến nay, trong khi tốc độ tăng bình quân hàng năm của mậu dịch thế giới là 5,5 - 6% thì lượng lưu thông tiền vốn đã tăng bình quân lên 20%/năm. Hiện nay, kim ngạch trao đổi ngoại tệ hàng ngày lên tới 1200 - 1300 tỉ USD. Những con số đã chứng tỏ sức sống của toàn cầu hoá kinh tế, mặt khác cũng phản ánh kinh tế đang mở rộng theo cơ cấu tiền tệ tăng lên. Chính vì thế những rủi ro liên quan đến tiền tệ cũng ngày càng gia tăng đòi hỏi công tác quản lý và giám sát thị trường ngày càng phải chặt chẽ. Một trong những lực lượng chủ yếu thúc đẩy sự phân công quốc tế và quá trình toàn cầu hoá là các công ty xuyên quốc gia thực hiện phương châm lấy thế giới làm nhà máy và lấy các nước làm phân xưởng của mình nhằm thông qua phân công quốc tế để lợi dụng ưu thế về kỹ thuật, tiền vốn, sức lao động và thị trường của các nước, thúc đẩy quốc tế hoá sản xuất nhanh chóng. Tổng giá trị sản xuất của những công ty xuyên quốc gia chiếm tới 40% GDP của thế giới, tổng kim ngạch mậu dịch chiếm 50% giá trị mậu dịch của thế giới và tổng vốn đầu tư trực tiếp ra nước ngoài chiếm tới 90% đầu tư trực tiếp của thế giới. Hơn nữa, đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các công ty xuyên quốc gia chủ yếu là đầu tư qua lại lẫn nhau. Theo số liệu thống kê, 82% đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của các công ty ở 29 nước thành viên thuộc tổ chức phát triển và hợp tác kinh tế là đầu tư lẫn nhau giữa các nước. Năm 1999, tổng vốn đầu tư nước ngoài trên toàn thế giới đã lên tới 648 tỉ USD, tăng 34,6% so với năm 1998 và gấp rưỡi so với 1997. Trong đó, các công ty xuyên quốc gia là đầu tư ra nước ngoài lớn nhất, đã rót vào các nền kinh tế khoảng 441 tỉ USD và các nước dang phát triển 165 tỉ USD.3 Đánh giá về tình hình kinh tế trên thế giới năm 1999, phần đông các nhà phân tích kinh tế cho rằng, các công ty xuyên quốc gia hiện chiếm một lượng nguồn vốn đầu tư vào các nước đang phát triển, đặc biệt là các nước Châu Á. Điều này cho thấy, các nước đang và sẽ phụ thuộc nhiều vào các công ty xuyên quốc gia. Sự phụ thuộc này vừa mang tính tích cực vừa mang tính tiêu cực, bởi vì nó vừa hỗ trợ các nước đang phát triển, vừa buộc các nước đi theo hướng do các công ty xuyên quốc gia đưa ra. Theo phân loại của ngân hàng thế giới, trong số 25 quốc gia và vùng kinh tế có môi trường đầu tư hấp dẫn nhất trong năm 1999 thì có tới 10 quốc gia và vùng lãnh thổ các nước phát triển và đang phát triển châu Á như Nhật Bản, Hàn Quốc, Trung Quốc, Ấn Độ, Thái Lan, Hồng Kông, Singapo, Philippin, Đài Loan và Malaixia. Sau cuộc khủng hoảng tài chính và tiền tệ, nhiều nền kinh tế châu Á đã lấy lại niềm tin của các nhà đầu tư trong đó, Nhật Bản là một trường hợp điển hình. Trong quý III năm1999, Nhật Bản đã thu hút hơn 10 tỉ USD đầu tư nước ngoài. Đây được coi là một mức vốn đầu tư cao nhất trong một quý kể từ sau chiến tranh thế giới thứ hai. Đối với các nước ASEAN sau khi giảm xuống mức thấp khoảng 17 tỉ USD vào năm 1998, năm 1999, tổng số vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các nước ASEAN đã tăng lên đáng kể. Theo dự báo của công ty tư vấn quốc tế (PERG) PERG dự tính, từ nay đến năm 2005, khu vực Đông Bắc Á và ASEAN cần khoảng 1500 tỉ USD đầu tư cho phát triển cơ sở hạ tầng. PERG ước tính, kế hoạch của các nước ASEAN về hệ thống đường xuyên Á, hệ thống viễn thông chung... cần từ 200 tỉ đến 500 tỉ USD vốn đầu tư. Và để thực hiện “tầm nhìn 2020” đưa các nước ASEAN trở thành các nước công nghiệp hoá và phát triển đồng đều, Hiệp hội các nước này cần khoảng 1000 tỉ USD vốn đầu tư, chủ yếu từ các nguồn vốn bên ngoài. Trong quá trình toàn cầu hoá kinh tế, tốc độ tăng trưởng của mậu dịch thế giới cũng vượt ra xa tốc độ tăng trưởng kinh tế. Theo các số liệu thống kê, trong nhiều năm nay, tốc độ tăng trưởng mậu dịch thế giới thường cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế 1 đến 1,5 lần Đây là kết quả của sự phân công lao động quốc tế không ngừng sâu sắc và cũng là một trong những tiêu chí quan trọng của toàn cầu hoá. Toàn cầu hoá cũng thúc đẩy quá trình hợp tác trong lĩnh vực kinh tế không ngừng phát triển. Sự hợp tác này được mở rộng từ lĩnh vực mậu dịch hàng hoá hữu hình và lĩnh vực mậu dịch dịch vụ vô hình. Đầu tư quốc tế và thị trường tiền tệ quốc tế cũng phát triển với tốc độ ngày càng cao đòi hỏi phải có các văn bản quy định, giám sát và điều hoà. Việc chuyển nhượng và bảo vệ bản quyền tri thức tiếp tục phát triển, việc di chuyển sức lao động trên phạm vi thế giới đã được đưa vào nghị trình hợp tác toàn cầu. Có thể nói rằng các khâu trong hoạt động kinh tế đối ngoại của các nước, thậm chí việc định ra chính sách kinh tế trong nước của mỗi nước như bảo vệ môi trường, dân số, chính sách tiền tệ... đều đã trở thành những chủ đề hợp tác kinh tế toàn cầu đòi hỏi phải có các văn bản quy định và điều phối. Chính vì thế, quá trình toàn cầu hoá kinh tế đã lan đến mọi quốc gia trên thế giới, từ các nước phát triển đến các nước đang phát triển. Và chỉ có thể đi theo xu hướng lịch sử này, các nước mới có thể giành chiến thắng trong cuộc cạnh tranh quốc tế gay gắt hiện nay. Đối với nước ta, quá trình toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế cũng có tác động hai mặt, cả tích cực lẫn tiêu cực. Về khía cạnh tích cực, với thế mạnh về con người, vị trí địa lý chiến lược, tài nguyên đa dạng, nếu chúng ta thực hiện thành công quá trình hội nhập quốc tế thì chắc chắn chúng ta sẽ phát huy được các lợi thế so sánh của đất nước, thu hút được vốn đầu tư của nước ngoài, tiếp cận được với khoa học và công nghệ tiên tiến để có thể đối mới công nghệ, nâng cao được năng lực cạnh tranh trên trường quốc tế, góp phần mở rộng thị trường trong nước, tạo điều kiện cho sự khai thông giao lưu các nguồn lực trong nước với các nước trên thế giới và trong khu vực. Về khía cạnh tiêu cực, có thể nhiều hay ít phụ thuộc vào các chính sách, đặc biệt là các chính sách kinh tế đối ngoại của nước ta có phù hợp hay không phù hợp. Một số khía cạnh tiêu cực của hội nhập kinh tế quốc tế mà một số người Việt Nam lo ngại có thể kể ra như: thứ nhất, do tham gia vào các tổ chức quốc tế, nước ta phải giảm dần các thuế quan và bỏ các hàng rào phi thuế quan. Điều này sẽ làm cho hàng hoá và dịch vụ nước ngoài ồ ạt đổ vào, bóp chết các hoạt động sản xuất kinh doanh trong nước. Thứ hai, do hội nhập kinh tế quốc tế mà chấn động tiêu cực trong hệ thống kinh tế toàn cầu (ví dụ như tiền tệ, tài chính, giá cả nguyên vật liệu...) cũng sẽ ảnh hưởng đến nước ta. Thứ ba, tham gia vào các qúa trình toàn cầu hoá không chỉ có các lực lượng kinh tế tiến bộ mà còn có cả các thế lực phản động.... Tuy nhiên những tác động tiêu cực này có thể từ nhỏ đến lớn đến đâu, điều đó cũng còn phụ thuộc vào các chính sách hội nhập của chúng ta. Nếu chúng ta có các chính sách hội nhập kinh tế đúng đắn và thích hợp, thì tác hại của những mặt tiêu cực sẽ bị hạn chế và ngược lại. Hiện nay, với một xuất phát điểm của nền kinh tế nước ta còn thấp, còn một bộ phận kinh tế chưa thật sự thoát khỏi sản xuất hàng hoá nhỏ, các yếu tố đồng bộ của một nền kinh tế thị trường chưa phát triển đầy đủ, thị trường bất động sản, thị trường tài chính, thị trường lao động... chưa hoàn thiện. Để chuẩn bị đầy đủ hành trang cho cuộc hội nhập kinh tế quốc tế có hiệu quả, chúng ta cần đẩy mạnh hơn nữa công cuộc cải cách hành chính tương đối toàn diện để đáp ứng các yêu cầu toàn cầu hoá và hội nhập, đặc biệt là nâng cao hiệu quả sức cạnh tranh của hàng hoá sản xuất trong nước... Trong đó, có một số lĩnh vực đặc biệt cần được chú trọng trong quá trình cải cách như: cải cách hệ thống thuế, chính sách thương mại, đầu tư, các thủ tục thuế quan, tự do hoá lĩnh vực dịch vụ, tài chính, bảo hiểm, hàng không, viễn thông, sở hữu trí tuệ... Nếu không kịp thời cải cách và nâng cao năng lực cạnh tranh trên quy mô nền kinh tế nói chung, cũng như sản phẩm của từng doanh nghiệp nói riêng, của từng ngành, hàng, dịch vụ... thì nước ta không những không mở rộng được thị trường mà còn có thể dẫn đến nguy cơ bị thu hẹp thị trường (kể cả trong nước và nước ngoài). Trong bối cảnh năng động của tình hình kinh tế quốc tế hiện nay, dưới sự chi phối của môi trường tự do buôn bán, tự do đầu tư, nước ta có thể sẽ biến thành thị trường tiêu thụ hàng hoá cho các hãng, các công ty và quốc gia bên ngoài. Hơn thế nữa, nếu hàng sản xuất ra vừa đắt, vừa chất lượng thấp, không tiêu thụ được, đầu tư không đem lại hiệu quả mong muốn, lao động không có việc làm... thì hậu quả xã hội sẽ rất nặng nề, thậm chí khó tránh khỏi khủng hoảng. *Xu hướng khu vực hoá được đẩy mạnh Một xu hướng kinh tế lớn trong nền kinh tế thế giới từ sau chiến tranh thế giới thứ hai, đó là sự trỗi dậy và phát triển mạnh mẽ sự hợp tác và liên kết kinh tế khu vực. Khái niệm khu vực hoá về mặt kinh tế đại thể được hiểu là một nhóm nước liên hợp với nhau trên cơ sở bình đẳng cùng có lợi, các bên tự nguyện hạn chế một phần quyền lợi kinh tế của mình, thậm chí nhượng bộ một phần chủ quyền theo nguyên tắc đối đẳng; xây dựng cơ cấu chấp hành tương ứng theo quy định nghiêm ngặt, cùng nhau quy định điều kiện lưu thông tự do của các yếu tố sản xuất hoặc toàn bộ các yếu tố sản xuất như hàng hoá, vốn, lao động, dịch vụ giữa các nước thành viên, từ đó làm cho nguồn vốn của các nhóm nước này không chịu sự hạn chế của các nước thành viên và được sự ưu tiên, sắp xếp lại trong không gian kinh tế chung của một nhóm nước, khiến cho các nước thành viên có thể thực hiện được sự bổ sung kinh tế cho nhau, để đạt được mục đích cùng phồn vinh. Khu vực hoá về kinh tế có thể được thực hiện qua các tổ chức có tính khu vực. Căn cứ vào các mức độ liên kết khác nhau, người ta có thể chia các tổ chức kinh tế khu vực thành 6 loại bao gồm: khu thuế quan ưu đãi, khu mậu dịch tự do, đồng minh thuế quan, thị trường chung, liên minh kinh tế, khu vực hoá toàn bộ. Cùng với quá trình toàn cầu hoá, quá trình khu vực hoá diễn ra đặc biệt mạnh mẽ trong thời đại ngày nay. Hiện nay, trên thế giới, có rất nhiều tổ chức kinh tế khu vực, điển hình có thể kể ra như: Khu mậu dịch tự do Bắc Mỹ (NAFTA); Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC); Liên minh châu Âu (EU); Hiệp hội các nước Đông Nam Á (ASEAN)... Mục tiêu của toàn cầu hoá kinh tế là lưu thông tự do hàng và yếu tố sản xuất trên phạm vi toàn cầu. Nhưng trong tương lai gần, mục tiêu này chưa thể thực hiện được. Chính vì vậy, việc từng nhóm nước liên kết với nhau, cùng nhau đưa ra những ưu huệ cao hơn những ưu huệ quốc tế hiện hành, loại bỏ các hàng cao ngăn cách lưu thông hàng hoá và các yếu tố sản xuất giữa các nước, tạo điều kiện cho việc lưu thông tự do một vài loại hoặc toàn bộ các yếu tố sản xuất giữa các nước là một khâu quan trọng đặt nền móng cho quá trình toàn cầu hoá về kinh tế. Từ đó có thể khẳng định rằng, khu vực hoá và hợp tác kinh tế toàn cầu không mâu thuẫn với nhau, thúc đẩy lẫn nhau, bổ trợ cho nhau. Khu vực hoá chỉ nẩy sinh trong bối cảnh toàn cầu hoá kinh tế đã phát triển đến một mức độ nhất định nhưng trình độ hợp tác của khu vực lại cao hơn so với toàn cầu hoá kinh tế. Khu vực hoá phát triển rộng rãi trên toàn thế giới sẽ lại giúp cho hợp tác kinh tế toàn cầu phát triển ngày càng sâu sắc hơn. Vì thế nên, quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn khi hiện nay Việt Nam và Nhật Bản đều là thành viên chính thức của Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á - Thái Bình Dương (APEC). Tính đến thời điểm năm 1999, APEC là một tổ chức hợp tác kinh tế khu vực có quy mô lớn nhất thế giới với : dân số 2.165,5 triệu người (chiếm khoảng 42,5% dân số toàn thế giới ); tổng sản phẩm quốc dân (GDP) 15.526,23 tỷ USD (chiếm khoảng 55,8% GDP của toàn thế giới) và kim ngạch xuất khẩu 2.255,6 tỷ USD (chiếm khoảng 43,8% tổng kim ngạch xuất khẩu của thế giới ). Với mục tiêu là tự do hoá đầu tư và mậu dịch với nguyên tắc hiệp thương nhất trí tự nguyện, cân bằng lợi ích, không phân biệt đối xử và nhất trí cho rằng cần tăng cường hợp tác trong lĩnh vực tiền tệ quốc tế và khu vực để ngăn ngừa rủi ro và bảo vệ sự ổn định của thị trường. Chính vì thế, mô hình hợp tác kinh tế châu Á về kinh tế - kỹ thuật của APEC đã và đang cuốn hút sự chú ý của toàn thế giới. Thế kỷ 21 chắc chắn sẽ là thế kỷ phát triển đầy năng động của khu vực châu Á - Thái Bình Dương và APEC là tổ chức hạt nhân. Cùng với APEC, tổ chức kinh tế khu vực thứ hai có vai trò quan trọng và ảnh hưởng trực tiếp đến các quan hệ đối ngoại của Việt Nam và Nhật Bản là ASEAN. ASEAN được thành lập vào ngày 8 tháng 8 năm 1967 chỉ có 5 nước thành viên Đông Nam Á, hiện nay đã phát triển và mở rộng ra toàn bộ các nước Đông Nam Á bao gồm 10 nước, trong đó có Việt Nam. Ngay trong ngày đầu tiên thành lập, ASEAN đã long trọng tuyên bố mục tiêu hàng đầu của Hiệp hội là “ thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội và phát triển văn hoá trong khu vực thông qua các nỗ lực chung trên tinh thần bình đẳng, hợp tác nhằm tăng cường cơ sở vật chất cho một cộng đồng các nước Đông Nam Á hoà bình và thịnh vượng”. Kể từ ngày đó đến nay, các nước ASEAN luôn coi hợp tác kinh tế là một trong những nội dung chủ yếu trong hoạt động của mình. Hiện nay, sự hợp tác kinh tế trong ASEAN được đẩy mạnh trên những lĩnh vực chủ yếu như: thương mại, công nghiệp, vận tải, thông tin, du lịch, tài chính - ngân hàng, nông - lâm - ngư nghiệp, năng lượng và khai thác khoáng sản. Những sự hợp tác này được thực hiện trên nguyên tắc chung là bình đẳng và cùng có lợi. Thương mại là lĩnh vực hợp tác quan trọng của ASEAN được thực hiện theo hướng chủ yếu là khuyến khích và tăng cường buôn bán trong nội bộ các thành viên và phối hợp hành động trong các vấn đề thương mại quốc tế. Các nhóm chuyên gia của ASEAN đã được thành lập để nghiên cứu, đánh giá tác động của thương mại quốc tế như sự phá giá, việc áp dụng thuế quan... đối với các mặt hàng xuất khẩu của ASEAN, tránh cho các nước trong Hiệp hội những rủi ro, thiệt hại không đáng có trong quan hệ buôn bán với các nước và các khu vực khác trên thế giới. Là một nước thành viên của ASEAN, các quan hệ kinh tế của Việt Nam với Nhật Bản, do đó, vừa tuân theo những nguyên tắc chung trong hợp tác kinh tế của Hiệp hội với các nước và các khu vực khác, vừa nằm trong bối cảnh chung và chịu sự chi phối của các chính sách kinh tế đối ngoại của Nhật Bản và các nước trong khu vực này. 1.2.2. Những yếu tố tương đồng và khác biệt chi phối mối quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản * Xét về phía Nhật Bản Điều kiện tự nhiên : Người Nhật Bản thường gọi nước mình là “Nipơn hay Nippon” tức là “Xứ sở của mặt trời mọc”, “Đất nước mặt trời mọc” (Nhật=mặt trời, Bản=gốc). Tên nước bắt đầu từ một truyền thuyết đầy trữ tình về anh em - vợ chồng Izanagi và Izanami. Tên Nhật Bản được Marco Polo (nhà du lịch người Italia thế kỷ XIII) phiên âm là Cipango (xipango). Do người Nhật Bản đọc chệch âm Quảng Đông “Nhật Bản quốc” thành “Cipenquốc” nên chuyển sang tiếng Anh và Đức là Japan và tiếng Pháp là Japon. Song truyền thuyết vẫn là truyền thuyết, một thực tế là trước đây nhiều triệu năm, những vụ nổ núi lửa cực kỳ ghê gớm đã nâng khỏi mặt biển một dãy quần đảo hình cánh cung hẹp ôm lấy lục địa châu Á. Phần quần đảo Nhật Bản nằm trên biển Thái Bình Dương, phía đông lục địa châu Á. Tôkyô là một thủ đô với dân số gần 8 triệu người (1997), là một trong những thành phố đông dân nhất thế giới. Tổng diện tích của nước Nhật Bản là 377.800 km2, gấp 1,5 lần diện tích Anh Quốc, bằng 1/9 diện tích ấn Độ, 1/25 diện tích nước Mỹ, chiếm chưa đầy 0,3% diện tích toàn thế giới và lớn hơn diện tích Việt Nam (329.465 km2) chừng 15%. Dân số Nhật Bản theo thống kê năm 1996 là 125,9 triệu dân, chiếm gần 3% dân số toàn thế giới, đứng vào hàng thứ 6 trên thế giới (gần gấp 2 lần dân số Việt Nam và dân số ở các nước lớn ở Tây Âu như Anh, Pháp, Tây Đức, Italia...) Phần lớn đại đa số dân cư (khoảng 90%) đều sống ở đồng bằng, chiếm 1/4 diện tích cả nước, nên mật độ dân số còn cao hơn bất cứ nơi nào trên thế giới. Trong đó, 49% dân số sống tập trung ở ba thành phố Tôkyô, Osaka, Nagoya và các thành phố xung quanh đó. Đương nhiên diện tích đất trồng hạn hẹp tức tỉ lệ lao động so với đất đai cao, đã buộc người dân Nhật Bản, ngay từ thời tiền sử, đã phải dốc sức vào việc cải tạo đất đai. Nhờ đó, tính cần cù của người dân Nhật Bản ngày càng được hình thành và củng cố. Mặt khác, đất chật, nên sự tiếp xúc giữa người với người càng thường xuyên hơn, khiến cho việc phát triển mạng lưới giao lưu có hiệu quả là điều đương nhiên. Điều đó đã góp phần đáng kể vào khả năng đạt đến sự nhất trí ý kiến của nhân dân, cũng như việc phổ biến công nghệ nhanh chóng trong nông nghiệp. Về căn bản, khí hậu của Nhật Bản mang tính chất khí hậu Đại Tây Dương, song do quần đảo của Nhật Bản chạy dài từ Bắc xuống Nam nên khí hậu rất khác nhau giữa hai miền Bắc, Nam và chia làm 4 mùa rõ rệt (tương tự như đặc điểm khí hậu ở Việt Nam) , đã và đang tạo điều kiện thuận lợi cho cá và thực vật phát triển phong phú, đa dạng. Rừng núi chiếm tới 2/3 diện tích nước Nhật, các thềm núi thường có độ dốc cao và được bao bọc bởi cây cối um tùm. Các đảo Nhật Bản là một phần của dãy núi chạy dài từ Đông Nam Á đến Alaska. Điều này đã tạo cho một nước Nhật có bờ biển dài (gồm 30000 km) nhiều đá và nhiều bến cảng nhỏ thuận lợi cho giao thông trên mặt biển. Nó cũng tạo ra rất nhiều vùng núi có thung lũng, các con sông chảy xiết và hồ nước trong. Sông ngòi của Nhật Bản có ý nghĩa rất quan trọng về thuỷ điện và thuỷ lợi Đặc điểm về kinh tế, chính trị, xã hội: Nhật Bản là nước công nghiệp hàng đầu thế giới, kết quả của quá trình công nghiệp hoá; sau cải cách Minh Trị từ năm 1868, ở Nhật Bản đã diễn ra cuộc cách mạng công nghiệp với nội dung chủ yếu là chuyển nền sản xuất công nghiệp từ lao động thủ công lên máy móc đại cơ khí. Khi bắt đầu cách mạng công nghiệp ở Nhật Bản kinh tế nông nghiệp vẫn là chủ yếu, khoảng 75 - 80% dân cư nằm trong khu vực nông nghiệp và phần lớn thu nhập quốc dân là bắt nguồn từ khu vực này. Công trường thủ công đã xuất hiện, nhưng trình độ chuyên môn hoá vẫn còn thấp. Phần lớn công trường thủ công phân tán, thủ công nghiệp gia đình vẫn là phổ biến. Mặc dù cho đến đầu thế kỷ thứ XX, Nhật Bản còn kém nước Mỹ, Đức, Anh, Pháp về mặt chỉ tiêu tuyệt đối, nhưng cách mạng công nghiệp từ sau cải cách Minh Trị đã phát triển nhanh chóng, nhất là trong những năm cuối thế kỷ thứ XIX đầu thế kỷ thứ XX. Nhật Bản đã biết tiếp thu nhanh chóng kỹ thuật từ bên ngoài để đẩy nhanh nhịp độ phát triển của ngành công nghiệp. Nhịp độ phát triển công nghiệp trung bình hàng năm từ 1878 đến 1931 tăng khoảng 6%. Trong thời kỳ chiến tranh thế giới thứ nhất tổng giá trị sản phẩm công nghiệp tăng hai lần, trong đó giá trị sản phẩm ngành luyện kim, cơ khí, chế tạo, hoá chất gấp 3 lần. Số lượng công nhân tăng 1,6 lần. Số xí nghiệp có trên 10 công nhân tăng từ 15800 lên 22400. Đến năm 1918, công nghiệp chiếm 80% tổng giá trị sản lượng kinh tế quốc dân. Đồng thời quá trình tích tụ và tập trung tư bản tiếp tục diễn ra nhanh chóng. Nhật Bản vươn lên bằng các cường quốc kinh tế trên thế giới. Mặc dù chịu hậu quả nặng nề bởi các cuộc khủng hoảng kinh tế 1920-1921, 1929-1933, song quá trình công nghiệp hoá vẫn được đẩy mạnh. Năm 1942 công nghiệp nặng chiếm 72% tổng giá trị sản lượng công nghiệp. Khoảng hơn 20 năm từ sau chiến tranh thế giới thứ hai (1951-1973), nền kinh tế Nhật Bản phát triển với một nhịp độ nhanh chóng. Nhiều nhà kinh tế thế giới coi đây là giai đoạn phát triển “thần kỳ” của nền kinh tế Nhật Bản. Từ một nước bị chiến tranh tàn phá nghiêm trọng, Nhật Bản đã trở thành cường quốc kinh tế thế giới, thứ hai (sau Mỹ). Từ năm 1950 đến 1960, tốc độ tăng tổng sản phẩm trong nước trung bình hàng năm của Nhật Bản là 8,5%, trong khi đó tốc độ tăng trưởng của Anh là 2,4%, Mỹ là 2,9%, Pháp 4,6%; từ 1960 - 1969 Nhật: 10,8% , Anh 2,7%, Mỹ 4,8%, CHLB Đức 5,2%. So với năm 1950, đến 1973 giá trị tổng sản phẩm trong nước hàng năm tăng 20 lần, từ 20 tỉ USD lên 402 tỉ USD, vượt Anh, Pháp, CHLB Đức. Tốc độ phát triển trung bình hàng năm thời kỳ 1950-1960 :15,9%; 1960 - 1969 :13,5%; giá trị tổng sản lượng công nghiệp tăng từ 4,1 tỉ USD năm 1950 lên 56,4 tỉ USD năm 1969. Mặc dù từ sau năm 1973, nền kinh tế Nhật đứng trước những vấn đề gay gắt đó là cuộc khủng hoảng kinh tế 1973-1975 chấm dứt thời kỳ phát triển nhanh và tương đối ổn định của nền kinh tế Nhật Bản, tôc độ tăng tổng sản phẩm kinh tế quốc dân hàng năm thời kỳ 1974-1985 chỉ còn 3,8%. Những khó khăn như vậy đối với nền kinh tế Nhật Bản từ những năm 70 buộc chính phủ và giới kinh doanh Nhật phải tìm ra và thực hiện sự thay đổi chiến lược kinh tế thích hợp trong đó có đổi mới chiến lược kinh tế đối ngoại. Sự thay đổi này đã khắc phục những hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế cao vào cuối thập kỷ 80 của thế kỷ 20, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân là 6,5%/năm. Nhưng từ năm 1991 đến những năm đầu của thế kỷ 21, nền kinh tế Nhật Bản đang ở trong cuộc khoảng kinh tế sâu sắc, tốc độ tăng trưởng kinh tế giảm sút, thâm hụt ngân sách tăng. Nhật Bản là một quốc gia có tiềm lực về vốn và khoa học kỹ thuật Vị trí của Nhật Bản trong nền kinh tế thế giới đã thay đổi do kết quả của sự tăng trưởng sản xuất và xuất khẩu trong những năm 60. Năm 1968, tổng sản phẩm quốc dân của Nhật tính bằng đô la Mỹ đứng vào hàng thứ ba trên thế giới, chỉ sau Mỹ và Liên Xô. Như vậy nước Nhật đã trở thành một cường quốc về mặt tổng sản phẩm quốc dân. Bảng 5 : Tổng sản phẩm quốc dân của một số nước trên thế giới (Đơn vị : tỉ đô la Mỹ) Năm Mỹ Tây Đức Pháp Anh Italia Nhật 1960 1965 1967 1968 1969 1970 1975 511 696 804 881 931 982 1516 74 113 121 132 163 188 398 60 99 116 127 131 146 321 72 100 91 102 110 123 211 34 57 67 75 82 93 166 43 85 115 142 166 198 477 Nguồn : cuốn thống kê hàng năm của Liên Hiệp Quốc. Từ năm 1965 trở đi, Nhật Bản không còn phải giải quyết số tiền thiếu hụt trong thanh toán quốc tế bằng những chính sách tiết kiệm chi tiêu, cắt giảm những yêu cầu trong nước và kìm hãm phát triển kinh doanh. Tình hình tốt đẹp này sở dĩ đã đạt được tất nhiên là do sự phát triển kinh tế trong nước, nhưng đồng thời cũng là kết quả của sức cạnh tranh của Nhật Bản trên trường quốc tế, do tỷ giá hối đoái đồng yên tiếp tục ở mức thấp 300 yên/đô la như quy định từ năm 1949. Vì những lý do này, Nhật Bản đã tích luỹ được khá nhiều vàng và ngoại tệ và từ địa vị một nước mắc nợ nước ngoài chuyển thành một nước có tiền cho vay kể từ năm 1967 trở đi. Địa vị của Nhật Bản đã thay đổi hoàn toàn từ cuối những năm 60. Sự biến đổi này khuyến khích Nhật Bản đầu tư vốn ra nước ngoài mà tổng giá trị đã lên tới gần 1 tỉ đô la cho đến năm 1965. Từ năm 1965 cho đến năm 1970, số tiền đầu tư ra nước ngoài đã tăng lên 3,6 tỉ đô la và còn tiếp tục tăng mạnh hơn nữa khi mở đầu thập kỷ 70: 40% số vốn đầu tư nhằm vào khai thác tài nguyên, nhất là ngành khai khoáng; 22% vào thị trường sức lao động để nắm những ngành dệt, thiết bị điện, kim khí và 38% vào thương mại và tài chính (số liệu năm 1970). Việc phân tích theo khu vực cho thấy 25% số vốn đầu tư được đưa vào Bắc Mỹ và 22% vào Đông Nam Á, 18% vào Châu Âu, 16% vào Trung và Nam Mỹ và 9% vào Trung Đông. Đặc biệt trong tổng số vốn đầu tư của các nước phát triển (thông qua uỷ ban viện trợ phát triển ) vào các nước đang phát triển chưa quá 1,3 tỉ đô la từ năm 1958 đến năm 1970, Nhật Bản đã chiếm tới 870 triệu đô la. Tuy nhiên, đầu tư trực tiếp của Nhật ra nước ngoài trong suốt cả thập kỷ 90 tăng giảm không ổn định. Năm 1991, đầu tư ra nước ngoài đạt 5.086,2 tỉ yên, năm 1995:4.956,58 tỉ yên, năm 2000 đầu tư ra nước ngoài giảm mạnh, chỉ đạt 5.369,0 tỉ yên, bước sang năm 2001 đầu tư ra nước ngoài tiếp tục giảm 27%. Sự suy giảm của nguồn vốn đầu tư ra nước ngoài của các doanh nghiệp Nhật Bản gắn liền với sự yếu kém của nền kinh tế nội địa cùng với xu hướng giảm sút kinh doanh trong nền kinh tế thế giới nói chung. Tuy đầu tư trực tiếp ra nước ngoài của Nhật giảm sút song mức đầu tư vào một số quốc gia vẫn tăng, điều này cũng cho thấy những xu hướng trái ngược nhau. Đầu tư vào Bắc Mỹ của Nhật Bản vào năm 1999 đạt 2762,9 tỉ yên, chiếm 33,4% tổng đầu tư của Nhật ra nước ngoài trong năm. Trong nguồn vốn đầu tư đổ vào thị trường Bắc Mỹ, chủ yếu dành cho cho lĩnh vực điện tử và chế biến thực phẩm. Năm 2000 và 2001 mức đầu tư vào Bắc Mỹ giảm mạnh. Năm 2000 tổng mức đầu tư vào Bắc Mỹ chỉ đạt 1356,2 tỉ yên, tức giảm 50% và chiếm khoảng 25,3% tổng đầu tư của Nhật ra nước ngoài. Riêng mức đầu tư vào Mỹ cũng chỉ đạt gần 2/3 đổ vào lĩnh vực phi chế tạo và ngân hàng bảo hiểm. Đầu tư vào châu Âu của Nhật Bản sau khi gia tăng mạnh vào năm 1999, đạt 2878,2 tỷ yên, chiếm khoảng 38,7% và đã có mức giảm nhẹ vào năm sau với mức 2697,4 tỷ yên, chiếm khoảng 80,2%. Qua đây ta thấy, mặc dù năm 2000 đầu tư của Nhật ra nước ngoài giảm mạnh, nhưng đầu tư vào EU chỉ giảm đôi chút đã làm cho phần đầu tư vào EU trong tổng vốn đầu tư của Nhật ra nước ngoài tăng lên cao. Đầu tư của Nhật vào châu Á sau cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 vẫn chưa vượt ra khỏi chiều hướng giảm sút. Bảng 6: Tổng FDI của Nhật vào châu Á Năm Khối lượng (tỷ yên) % 1997 1998 1999 2000 1494,8 835,7 798,8 655,5 22,2 16,0 10,7 12,2 Nguồn: Janpan in Figuces 2002. Mức giảm của FDI vào Châu Á năm 1999 là do giảm phần đầu tư vào lĩnh vực phi sản xuất. Còn đầu tư vào lĩnh vực sản xuất có phần tăng lên tuy không nhiều từ 473,2 tỷ yên năm 1998 lên 498,2 tỷ yên năm 1999. Năm 2000 tuy tổng mức đầu tư vào Châu Á giảm, song do sự giảm sút mạnh của FDI Nhật ra nước ngoài, đặc biệt là giảm vốn vào Mỹ và Bắc Mỹ, do vậy tỉ lệ % FDI Nhật vào châu Á vẫn tăng. Năm 2001, đầu tư của Nhật vào Trung Quốc, Thái Lan, Việt Nam lại tăng lên. Đối với Trung Quốc trong tài khoá 2001-2002 tăng 32% so với năm trước và đạt hơn 995 triệu đô la chủ yếu xuất phát từ việc lợi dụng chi phí thấp ở thị trường Trung Quốc để sản xuất hàng hoá rồi bán sang nước thứ ba, cũng như nhập trở lại Nhật Bản. Đối với Thái Lan vốn đầu tư lại tăng lên 14% trong năm 2001. Nhiều nhà đầu tư hàng đầu của Nhật Bản cam kết mở các dự án hoạt động đầu tư của mình ở nước này. Lĩnh vực xây dựng, năng lượng và phát triển cơ sở hạ tầng được tập trung chú ý hơn cả. Lý do cơ bản khiến các nhà đầu tư của Nhật quan tâm và gia tăng vốn vào Thái Lan là lý do lao động rẻ, do có khả năng đáp ứng nhu cầu của việc lắp ráp thành phẩm cũng như sản xuất các sản phẩm hoặc cấu thành sản phẩm để xuất khẩu sang thị trường hay sang khu vực nước thứ ba khác. Đối với Việt Nam, năm 2001 FDI Nhật vào Việt Nam tăng 39 dự án với tổng vốn đang ký 158,5 triệu USD, trong đó vốn đã thực hiện đạt trên 78,42 triệu USD. Với mức này, Nhật Bản đã trở thành quốc gia có vốn thực hiện nhiều nhất trong các đối tác đầu tư vào Việt Nam. Như vậy, sau hơn một thập kỷ đầu tư tại Việt Nam, Nhật Bản đã có 332 dự án còn hiệu lực với tổng số vốn đăng ký trên 4,06 tỉ USD, trong đó đã thực hiện được 3,03 tỷ USD đứng vị trí số 1 trong các nước đầu tư tại Việt Nam. Cùng với các lĩnh vực như dệt, may, sản phẩm kim loại, đồ điện tử, gần đây, các nhà doanh nghiệp Nhật Bản bắt đầu tập trung mở rộng đầu tư sang lĩnh vực công nghệ thông tin (có tới 55% số công ty). Cũng theo báo cáo của JETRO các công ty của Nhật tại Việt Nam có hoạt động xuất khẩu khá sôi nổi., tính ra có tới 76% công ty có sản phẩm xuất khẩu, trong đó có công ty xuất khẩu 100% sản phẩm chiếm tới 50%. Tuy nhiên mức nội địa hoá Việt Nam chưa cao, số công ty có tỷ lệ nội địa hoá trên 51% chỉ chiếm 21% trong khi tỷ lệ này ở ASEAN là 68%. Sự gia tăng nguồn vốn đầu tư của Nhật vào Việt Nam không chỉ góp phần vào nâng cao trình độ công nghệ, tạo việc làm và thu nhập mà còn tạo ra động lực thúc đẩy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản. Trong tương lai, việc gia tăng vốn đầu tư vào khu vực Đông Nam Á, nhất là Trung Quốc và ASEAN là một trong những hướng ưu tiên của các doanh nghiệp Nhật Bản. Về nguồn vốn viện trợ phát triển chính thức (ODA): trong khu vực các nước đang phát triển, thì châu Á trước hết là Đông và Đông Nam Á vẫn được Nhật Bản chú ý hơn cả (chiếm hơn 50% đầu tư của Nhật vào các nước đang phát triển ). Hiện nay, Nhật Bản đang là một trong những quốc gia cung cấp hàng đầu lượng ODA cho thế giới những năm qua. Việc cung cấp ODA của Nhật được thực hiện theo những nguyên tắc cụ thể được ghi trong hiến chương ODA. Các nguyên tắc cơ bản là: 1- ODA được cấp nhằm vào việc phát triển và bảo vệ môi trường. 2- ODA không được phục vụ mục đích quân sự, hay làm trầm trọng các xung đột quốc tế. 3- Nhằm giải trừ quân bị, cấm phát triển, sản xuất và buôn bán vũ khí. 4- Thúc đẩy dân chủ hoá và phát triển kinh tế thị trường, bảo vệ tự do và nhân quyền ở các quốc gia nhận ODA. Với nguyên tắc trên, trong những thập kỷ qua cùng với sự phát triển của kinh tế, khối lượng ODA của Nhật không ngừng gia tăng. Năm 1999, Nhật cung cấp ODA với tổng lượng 15,39 tỷ USD, trở thành quốc gia cung cấp ODA lớn nhất. Sự gia tăng này có ý nghĩa lớn đối với các nước nhận nguồn vốn ODA và đồng thời nó cũng góp phần nâng cao vị thế và làm thay đổi phần nào hình ảnh của Nhật Bản. Sự suy giảm của kinh tế, hỗ trợ các chương trình kinh tế đã ngày càng làm gia tăng số nợ của nhà nước. Đây cũng là áp lực lớn buộc nhà cầm quyền Nhật Bản phải thanh toán điều chỉnh lượng ODA để cải thiện tình hình tài chính của chính phủ. Tuy vậy, mức ODA cam kết cho Việt Nam trên cơ sở đồng yên vẫn còn tăng 8%, với mục đích nhằm hỗ trợ Việt Nam xây dựng các cơ sở hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội như: sân bay Tân Sơn Nhất, cầu Bãi Cháy, cầu Thanh Trì, nhà máy nhiệt điện OMôn ... tổng số ODA trong năm 2001 gần 700 triệu USD. Trong bài phát biểu của Thủ tướng Nhật Bản hồi giữa năm 2001, Nhật Bản đã cam kết thúc đẩy viện trợ cho Việt Nam, về cơ cấu viện trợ cho Việt Nam, nguồn vốn ODA đã có sự chú ý hơn đến phát triển cơ sở hạ tầng phần mềm như đào tạo con người và xây dựng các cơ chế thúc đẩy việc dịch chuyển sang n._.việc phê duyệt nhập khẩu máy móc thiết bị, rà soát lại danh mục ngành nghề khuyến khích đầu tư, đưa những ngành sản xuất thay thế nhập khẩu mà năng lực sản xuất đã tương đối đủ để đáp ứng nhu cầu trong nước ra khỏi danh mục này, kể cả đầu tư nước ngoài, công bố một kế hoạch nhằm giảm thiểu hàng rào phi thuế quan và lộ trình giảm thuế theo hiệp định CEPT/AFTA với các bước đi rõ ràng và cụ thể cho từng năm, tăng cường sử dụng các biện pháp như thuế chống phá giá, thuế chống trợ cấp để đáp ứng những đòi hỏi mang tính tình thế nếu không kịp thời điều chỉnh cán cân giữa “hướng về xuất khẩu” và “thay thế nhập khẩu” thì kim ngạch xuất khẩu sẽ khó có thể tăng mạnh trong tương lai. - Bên cạnh việc khẳng định vị trí của sản xuất hàng xuất khẩu, một nguyên tắc nữa cũng cần được khẳng định là chính sách ưu đãi cho doanh nghiệp trong nước phải bằng hoặc cao hơn doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Hiện nay, tuy vị trí đầu tư trong nước đã được nâng cao nhưng vẫn còn một số lĩnh vực mà doanh nghiệp trong nước chưa được đối xử bằng hoặc cao hơn đối với doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Thí dụ: doanh nghiệp trong nước phải chịu thuế thu nhập doanh nghiệp ở mức 32%, trong khi doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chỉ chịu tối đa 25%. Một doanh nghiệp may sản xuất 100% sản phẩm hiện nay phải nộp thuế thu nhập doanh nghiệp là 32% trong khi xí nghiệp liên doanh may, sản phẩm xuất khẩu chỉ đạt 80% lại phải nộp có 15%. - Chính sách khuyến khích đầu tư cần được xây dựng dựa trên các tiêu chí như: tính chất thủ tục, cấp độ chế biến v.v… để không lặp lại tình trạng khuyến khích dàn đều, không có định hướng xây dựng ngành hàng chủ lực và định hướng chuyển đổi cơ cấu hàng xuất khẩu theo hướng tăng nhanh tỷ trọng hàng đã qua chế biến. - Song song với việc đề cao vị trí đầu tư sản xuất hàng xuất khẩu, cần hết sức chú ý ổn định môi trường đầu tư. Trong các yếu tố của tổng cầu thì đầu tư là yếu tố tự thân, phụ thuộc rất nhiều vào nhận định chủ quan của nhà đầu tư, không biến thiên theo thu nhập Vì vậy, ngoài việc ban hành các chính sách khuyến khích, việc duy trì một môi trường đầu tư ổn định, nhằm tạo tâm lý tin tưởng cho nhà đầu tư mang ý nghĩa cực kỳ quan trọng như tăng cường kiểm soát dịch chuyển thuận lợi (biện pháp chống chuyển giá), giảm thiểu hàng rào bảo hộ, giảm thiểu ưu đãi cho sản xuất hàng thay thế nhập khẩu… để lành mạnh hoá môi trường kinh doanh và định hướng lại các luồng vốn đầu tư, không cần thiết phải sử dụng đến các biện pháp hành chính. Cần nhận thức rõ ràng, ổn định môi trường đầu tư và giảm thiểu hàng rào phi thuế quan không hề tồn tại mâu thuẫn, khái niệm “ổn định” đề cập ở đây là ổn định tích cực theo hướng minh bạch hoá, nhất quán và đồng bộ hoá các chính sách vĩ mô trong việc chuyển dịch cơ cấu đầu tư, không phải là “giữ nguyên hiện trạng”. - Phát triển hợp lý các khu công nghiệp và khu chế xuất để qua đó giảm thiểu các khó khăn (mang tính đặc thù Việt Nam) cho lĩnh vực đầu tư. * Về cơ chế xuất nhập khẩu. Nhằm tạo sự ổn định lâu dài về chính sách và cơ chế quản lý nhập khẩu. Chính phủ nên ban hành cơ chế điều hành xuất nhập khẩu thời kỳ 2006-2010 theo các hướng sau: - Về thể chế thương mại: cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp, chính sách, quy định về quản lý thương mại, chủ động phê chuẩn các công ước quốc tế về thương mại quốc tế và ký kết các hiệp định thương mại với các nước để tạo cơ sở pháp lý thuận lợi cho hoạt động thương mại của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó cần tăng cường hiệu lực thực hiện các quy định pháp luật thương mại, bảo đảm thực hiện nghiêm minh, hạn chế đến mức cao nhất những vi phạm pháp luật thương mại. - Tiếp tục mở rộng hơn nữa quyền kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp theo nghị định 57/1998 thì thương nhân chỉ được phép xuất nhập khẩu hàng hoá theo ngành nghề đã đăng ký trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh. Quy định này đã làm cho cách hiểu ngành nghề khác nhau và trong từng trường hợp đã gây nên sự chậm trễ, phiền hà không đáng có cho doanh nghiệp. Để khắc phục tình trạng đó, theo cơ chế mới thì tất cả các thương nhân đã đăng ký hoạt động mua bán hàng hoá trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh sẽ được phép xuất nhập khẩu mọi hàng hoá, trừ những mặt hàng mà nhà nước cấm xuất khẩu, nhập khẩu và cấm kinh doanh. Đối với một số mặt hàng xuất khẩu hoặc nhập khẩu được thực hiện từ trước đến nay theo đầu mối chỉ nhằm mục đích quản lý trật tự kinh doanh thì sắp tới sẽ phải bãi bỏ quy định đó, vừa để phát huy thế mạnh của các doanh nghiệp với các cam kết quốc tế mà nước ta đã và sẽ ký kết trong thời gian tới. - Xây dựng lộ trình giảm thiểu các biện pháp hạn chế định lượng trong thời kỳ 5 năm (1996-2010) như các công cụ phi thuế chủ yếu như cấm, tạm ngưng, hạn ngạch, chỉ tiêu, giấy phép không tự động, phụ thu và giá tính thuế tối thiểu, các công cụ này đều là đối tượng cắt giảm và tiến tới xoá bỏ trong đàm phán thương mại quốc tế, áp dụng những công cụ bảo hộ mới, phù hợp với thông lệ quốc tế. Danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu thuộc diện quản lý chuyên ngành sẽ được sửa đổi theo hướng sau: + Xóa bỏ các biện pháp quản lý chuyên ngành, nếu xét thấy không cần thiết. + Quản lý theo hình thức quy định tiêu chuẩn, điều kiện (chỉ quy định tiêu chuẩn kỹ thuật, tính năng sử dụng, điều kiện xuất khẩu, nhập khẩu để doanh nghiệp có cơ sở làm thủ tục xuất nhập khẩu tại Hải quan cửa khẩu, không cấp giấy phép hoặc duyệt mặt hàng, số lượng, trị giá). + Trong nhóm trường hợp đặc biệt có thể duy trì giấy phép, nhưng phải đảm bảo không sử dụng giấy phép chuyên ngành để hạn chế số lượng nhập khẩu và phải được Thủ tướng Chính phủ cho phép. * Chính sách vốn - tài chính - tiền tệ - tín dụng. - Mọi chính sách huy động vốn, hoàn thiện thị trường vốn và thị trường tiền tệ chỉ có tác dụng thực sự và tích cực đến lĩnh vực xuất nhập khẩu khi chủ trương hướng về xuất khẩu được quán triệt đầy đủ và thi hành nhất quán. Hiện nay, chính sách khuyến khích đầu tư một cách chung chung cộng thêm với hàng rào bảo hộ tồn tại trong nhiều năm đã làm cho đồng vốn đổ dồn về lĩnh vực sản xuất hàng thay thế nhập khẩu “hiệu quả” trong lĩnh vực sản xuất hàng thay thế nhập khẩu chẳng qua chỉ là sự hy sinh quyền lợi của người tiêu dùng, thậm chí là thu nhập của ngân sách nhà nước. Để đồng vốn đến được với hoạt động xuất khẩu, cần triệt để tuân thủ các nguyên tắc đã được trình bày tại phần khuyến khích đầu tư. Chỉ khi nào chủ trương hướng về xuất khẩu được khẳng định, sản xuất hàng xuất khẩu được đặt lên vị trí ưu tiên số một thì đồng vốn mới dồn về xuất khẩu mà thôi. Cơ cấu nguồn thu ngân sách cần được thay đổi theo hướng giảm dần tỷ trọng số thu từ thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu, từ đó góp phần nâng cao lợi nhuận tái đầu tư cho lĩnh vực xuất khẩu. Hiện nay, số thu từ thuế xuất khẩu, nhập khẩu đang chiếm trên dưới 30% tổng thu từ thuế các loại. Thuế xuất nhập khẩu do dễ thu và dễ cưỡng chế, đã được huy động một cách tối đa. Thực tiễn này góp phần làm giảm động lực phát triển ngoại thương, vừa không phù hợp với xu thế tự do hoá thương mại trên toàn thế giới, vừa đưa ngân sách vào thế cực kỳ khó khăn khi những cam kết giảm thuế có hiệu lực và làm nguồn thu từ thuế nhập khẩu giảm mạnh. Để giải quyết tình trạng này, cần gấp rút thay đổi cơ cấu nguồn thu, tăng tỷ trọng của các sắc thuế như các loại thuế thực thu, thuế hàng hoá, tháo bỏ những cản trở đối với việc thu một số loại thuế như thuế chuyển quyền sử dụng đất để giảm dần tỷ trọng của số thu từ hoạt động xuất nhập khẩu. - Tiếp tục thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đi đôi với việc tạo tiền đề cho đa dạng hoá nguồn vốn, khuyến khích mạnh vốn đầu tư cho khu vực sản xuất hàng xuất khẩu. Do vậy, đối với đầu tư nước ngoài cần dành ưu đãi đặc biệt cho các ngành sản xuất sản phẩm xuất khẩu hoặc có khả năng xuất khẩu những sản phẩm trong tương lai gần cũng như các ngành sản xuất nguyên liệu đầu vào cho sản xuất hàng xuất khẩu. Trong những năm đầu tiên của thời kỳ 2001-2010, Chính phủ cần có ngay các biện pháp để xác lập tiền đề thu hút các hình thức đầu tư quốc tế khác. Giải pháp quan trọng nhất là làm lành mạnh hoá hoạt động của hệ thống trung gian tài chính và nâng cao năng lực cho hệ thống này trong việc phân tích và thẩm định rủi ro. Kế hoạch của Chính phủ trong lĩnh vực này phải hết sức minh bạch rõ ràng, với những mốc thời gian cụ thể để vừa thúc đẩy quá trình tái cơ cấu, vừa tạo niềm tin cho giới đầu tư quốc tế. - Thúc đẩy hoạt động của Quỹ hỗ trợ xuất khẩu và khuyến khích các hiệp hội ngành hàng tự thành lập các quỹ phòng ngừa rủi ro. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu phải hoạt động theo nguyên tắc bảo toàn và phát triển vốn như các tổ chức tín dụng khác, cùng chia sẻ thành công với doanh nghiệp và rủi ro với ngân hàng. - Trong thời gian tới, cần tăng cường sử dụng các công cụ của chính sách tiền tệ để hỗ trợ cho hoạt động xuất khẩu. Các công cụ như tỷ giá hối đoái, bảo lãnh bán hàng trả chậm, cho vay theo thành tích xuất khẩu, tăng tỷ trọng cho vay trung và dài hạn… đều có thể có tác động nhanh và mạnh đến xuất khẩu. Cần khẩn trương tiến hành cải cách hệ thống trung gian tài chính, đặc biệt là các ngân hàng thương mại để tránh hiện tượng co cụm, giảm dư nợ như đã xảy ra tại Thái Lan khi số lượng các khoản khó đòi tăng nhanh. * Chính sách công nghệ Công nghệ là một yếu tố hết sức quan trọng trong hoạt động xuất khẩu bởi vì nó quyết định đến chất lượng sản phẩm, giá thành và khả năng cạnh tranh của hàng hoá của chúng ta. Vì vậy cũng như bất kỳ một nước nào khác, muốn đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá, chúng ta phải có các chính sách đầu tư cho khoa học, công nghệ một cách thoả đáng. Chính sách về công nghệ của nước ta hiện nay cần tập trung vào việc nhập khẩu và đầu tư nghiên cứu phát triển các công nghệ có khả năng khai thác các lợi thế của đất nước, đặc biệt là các máy móc thiết bị phục vụ cho các lĩnh vực như sản xuất nông lâm sản xuất khẩu, may mặc, sản xuất giày da… chính sách về khoa học công nghệ cần được tính toán một cách kỹ lưỡng trên cơ sở cân nhắc giữa khả năng kinh tế với chi phí sản xuất và nhập khẩu máy móc đồng thời cần phải tính xa hơn khả năng đi tắt đón đầu của công nghệ và yếu tố an ninh, môi trường sinh thái. Thực tế trong thời gian qua, chúng ta có không ít những bài học kinh nghiệm về lĩnh vực này. Hàng loạt các máy móc, thiết bị được nhập khẩu về một cách ồ ạt nhưng không sử dụng được, hoặc là đã quá lạc hậu, gây những tổn thất không nhỏ đối với nền kinh tế. 3.2.2. Về sự định hướng phát triển một cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu hợp lý và có hiệu quả cao phù hợp với mục tiêu phát triển một nền kinh tế bền vững Cơ cấu hàng hoá trao đổi của nước ta trong buôn bán với Nhật Bản hiện nay còn nhiều hạn chế, bất cập, mặc dù nó phản ánh giai đoạn phát triển hiện tại của nền kinh tế Việt Nam với những lợi thế so sánh về tài nguyên và lao động. Hàng xuất khẩu của Việt Nam chủ yếu là sản phẩm thô như nguyên liệu, đặc biệt là dầu thô chiếm 35% KNXK Việt - Nhật, ngoài ra là hàng có mức độ gia công chế biến thấp là sản phẩm của các ngành công nghiệp nhẹ, sử dụng nhiều lao động (như hàng thuỷ, hải sản trên 19%, may mặc 21%, còn lại 25% là than, cà phê, gỗ…). Cho đến nay, Việt Nam vẫn chưa có những mặt hàng chế biến sâu và tinh để xuất khẩu sang Nhật Bản. Về cơ cấu hàng nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản chủ yếu là các mặt hàng chế tạo có hàm lượng công nghệ cao, sản phẩm của công nghiệp nặng. Mặc dù tỷ trọng hàng tiêu dùng giảm mạnh và tỷ trọng máy móc thiết bị lẻ, nguyên, nhiên, vật liệu cơ bản tăng nhanh, nhưng điều lưu ý là cho đến nay Việt Nam vẫn chưa nhập đựơc những dây chuyền công nghệ hiện đại. Với cơ cấu xuất, nhập khẩu Việt - Nhật trên đây cũng phản ánh thực trạng chung của cơ cấu xuất, nhập khẩu của Việt Nam với thị trường, bạn hàng thế giới hiện nay. Cơ cấu này, trước mắt có thể trong thời gian ngắn trong vòng vài năm tới còn có thể chấp nhận được, song nếu kéo dài hơn sẽ gây bất lợi cho phía Việt Nam. Những thặng dư thương mại Việt Nam đã giữ được ở mức tương đối thấp như hiện nay xét thực chất không phải là phản ánh sự phồn vinh của nền kinh tế, cũng như thế mạnh trong buôn bán với Nhật Bản nói riêng và thế giới nói chung mà nó bộc lộ tính chất kém phát triển của một nền kinh tế sống dựa vào bán rẻ tài nguyên và lao động và như thế Việt Nam sẽ luôn luôn thiệt thòi về giá trị xuất khẩu thu được trong khi phải trả giá cao cho việc nhập khẩu các sản phẩm cao cấp bên ngoài. Vấn đề đặt ra là hiện tại, để hạn chế sự thua thiệt do một cơ cấu xuất, nhập khẩu như vậy, ngay từ bây giờ ta phải tận dụng các nguồn thu ngoại tệ từ hoạt động xuất khẩu, kêu gọi vốn đầu tư nước ngoài… để nhập khẩu các máy móc thiết bị, kỹ thuật mới, dây chuyền công nghệ hiện đại để phát triển nhanh các ngành công nghệ chế tạo, chế biến phục vụ kịp thời cho việc sản xuất, chế biến sâu các sản phẩm xuất khẩu. Chẳng hạn các mặt hàng thô nông lâm sản như gạo, ngũ cốc khác, thuỷ hải sản… cũng vậy, phải tiến tới sản xuất để xuất khẩu các sản phẩm đó sau khi đã qua công nghệ chế biến thực phẩm, và do đó sẽ thu được giá trị xuất khẩu cao hơn… Ngoài ra, ta có thể tận dụng lợi thế so sánh của đất nước về nguồn lực phát triển các loại hình xuất khẩu vô hình trong quan hệ thương mại với Nhật Bản như là: dịch vụ sản xuất gia công tái chế, lắp ráp hàng hoá, dịch vụ xuất nhập khẩu hàng hoá, chuyển khẩu và các dịch vụ thu ngoại tệ khác như: du lịch, vận tải bảo hiểm, ngân hàng, xuất khẩu lao động, thông tin, quảng cáo… Về cơ cấu nhập khẩu các hàng hoá từ Nhật Bản trong những năm tới, trước hết cần xác định là cơ cấu các sản phẩm đã nhập khẩu trong thời gian qua là hợp lý (đương nhiên chúng ta loại trừ không tính đến những hàng hoá nhập phi mậu dịch, đặc biệt là với những hàng nhập lậu, trốn thuế mà ta không kiểm soát hết được). Cụ thể những năm qua nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản chủ yếu máy móc, thiết bị, nguyên vật liệu (chiếm gần 4/5 KNNK của Việt Nam), sợi tổng hợp và hoá chất cũng chiếm một tỷ lệ đáng kể, khoảng 9,3%. Tuy nhiên, cũng cần xác định rằng, cùng với tiến trình phát triển công nghiệp hoá ngày càng mạnh mẽ hơn, trong đó chắc chắn sẽ có sự phát triển của các xí nghiệp thay thế nhập khẩu, đòi hỏi ta phải tăng nhập khẩu các máy móc, thiết bị kỹ thuật và dây chuyền công nghệ hiện đại của Nhật Bản, khiến cho KNNK từ Nhật Bản sẽ tăng lên và làm cho cán cân thương mại Việt - Nhật nhập siêu nghiêng về phía Việt Nam. Cần xác định đây là một xu thế phát triển bình thường, hợp quy luật đối với những nước đang trong giai đoạn đầu của quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đương nhiên, cần phải tính toán chỉ cho phép nhập siêu đến giới hạn nào là phù hợp, là cân đối trong sự phát triển chung của nền kinh tế quốc dân. Như cách tính toán của các chuyên gia Bộ Thương mại Việt Nam, ít nhất từ nay đến năm 2005, trọng tâm đẩy mạnh xuất khẩu vào Nhật Bản trong những năm tới đây vẫn sẽ là các mặt hàng mà Việt Nam vốn có thế mạnh như hàng dệt may, hải sản, giày dép và sản phẩm da, than đá, cao su, rau quả, thực phẩm chế biến, chè, đồ gốm sứ và sản phẩm gỗ. 3.2.3. Sự định hướng về thị trường - thông tin và xúc tiến thương mại - Chính sách công nghiệp, định hướng thị trường của Việt Nam cần căn cứ vào sự biến đổi cơ cấu nền kinh tế Nhật Bản và vai trò của nó trong khu vực Đông Nam Á, châu Á - Thái Bình Dương. Nói cụ thể hơn cần có một chính sách công nghiệp và thương mại coi thị trường Nhật Bản như một trong những hướng xuất khẩu quan trọng nhất. - Thảo luận ở cấp Chính phủ về mở cửa thị trường trước hết là đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Hiện nay thị trường Nhật Bản vẫn được coi là thị trường có mức độ bảo hộ cao. Sự bảo hộ này có thể là dưới các hình thức phi quan thuế. Vì vậy những quyết định về mở cửa thị trường có một ảnh hưởng rất lớn đến các nước khác trong khu vực. - Hiểu thị trường, phong tục tập quán, văn hoá tiêu dùng của người Nhật. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp phải được tạo điều kiện nắm bắt thông tin, tìm hiểu, khảo sát thị trường Nhật Bản. Việc tổ chức các cuộc tiếp xúc giữa các doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản thông qua các cuộc tiếp xúc giữa các doanh nghiệp Việt Nam và Nhật Bản thông qua các cuộc triển lãm, gặp gỡ trực tiếp là hết sức quan trọng. Cũng cần có các cơ quan đảm trách hoặc phối hợp với các cơ quan chức năng của Nhật Bản trong việc hướng dẫn các tiêu chuẩn kỹ thuật, phẩm chất hàng hoá xuất khẩu sang Nhật Bản. Chẳng hạn, hiện có công ty OMIC, một trong những công ty lớn về kiểm tra chất lượng hàng nông sản của Nhật đang có mặt tại Việt Nam kiểm tra tiêu chuẩn, phẩm chất gạo xuất khẩu sang Nhật. - Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn, tạo cho họ nhanh chóng nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường Nhật Bản. Kinh nghiệm của chính Nhật Bản và các nền kinh tế xuất khẩu thành công như Hàn Quốc về phương diện này là rất đáng chú ý. - Lựa chọn các chiến lược thâm nhập thị trường. + Xuất khẩu + Liên doanh + Đầu tư trực tiếp. Mỗi cách thâm nhập thị trường trên đây có ưu thế và những hạn chế riêng. Xuất khẩu là con đường thâm nhập thị trường chính hiện nay của các doanh nghiệp Việt Nam. Hình thức này thích hợp với thời kỳ đầu, khi quy mô buôn bán còn nhỏ bé và các mặt hàng còn phân tán nhưng dễ tạo ra thế bị động đối với các nhà xuất khẩu do khó nắm bắt kịp thời những thông tin về thị trường Nhật Bản. Vì thế cần áp dụng các hình thức đầu tư trực tiếp và liên doanh. Đầu tư trực tiếp chưa phải là hướng chính trong thời gian trước mắt, nhưng cũng cần thiết trong một số lĩnh vực như các cơ sở tiếp thị và dịch vụ. Liên doanh có thể dưới nhiều hình thức, chẳng hạn như sử dụng giấy phép sử dụng mác nhãn hàng hoá. Kinh nghiệm Đài loan trong lĩnh vực này là rất đáng chú ý. Các nhà xuất khẩu Đài Loan đã đưa hàng hoá của mình ra thị trường thế giới dưới danh hiệu của nhiều công ty nổi tiếng của nước ngoài. Cần tính đến một xu hướng đang là vấn đề thời sự, đó là sự gia tăng buôn bán nội bộ công ty và tái xuất của các doanh nghiệp Nhật Bản để triển khai các hình thức liên doanh cũng như tham gia trực tiếp vào mạng lưới phân công lao động quốc tế của các công ty Nhật Bản. Nếu không liên doanh rất khó thâm nhập vào thị trường. Hình thức này không chỉ giúp cho sự gia tăng xuất khẩu sang Nhật mà còn sang các thị trường khác, nơi các công ty Nhật Bản đang có mặt - Tham gia các thể chế thương mại toàn cầu và các khu vực (WTO, AFTA...) để được hưởng các quy chế tối huệ quốc và những ưu đãi dành cho các nước phát triển trong buôn bán quốc tế. - Chính phủ Việt Nam nên có những chính sách và biện pháp thích hợp kết hợp lợi thế so sánh của thương mại và đầu tư. Việc kết hợp giữa hai lĩnh vực kinh tế là cực kỳ quan trọng, đòi hỏi phải có sự thận trọng, nếu gắn đồng bộ sẽ thu được kết quả như mong muốn, ngược lại là gắn không đồng bộ thì không những không thu được kết quả mà còn phải giải quyết hậu quả. Hiện nay, Việt Nam vừa là thị trường tiêu thụ hàng hoá, vừa là đối tượng cần sự viện trợ kinh tế của Nhật Bản. Nhật Bản có thể đầu tư vốn vào Việt Nam trong các lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng, kỹ thuật và công nghệ. Đồng thời bằng việc khai thác nguồn tài nguyên phong phú của mình, Việt Nam có thể cung cấp cho Nhật Bản những nguyên liệu và sản phẩm cần thiết. Quan hệ thương mại Việt - Nhật đang chuyển sang một thời kỳ mới gắn liền với những chuyển biến kinh tế của hai nước. Triển vọng của các quan hệ này phụ thuộc vào đường lối, chính sách tạo sự lôi cuốn các doanh nghiệp Nhật Bản vào thị trường Việt Nam và những định hướng dài hạn trong chính sách thị trường, những phương sách cụ thể nhằm tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam thâm nhập thị trường Nhật Bản. 3.2.4. Các biện pháp cần triển khai về cả hai phía Việt Nam và Nhật Bản - Việt Nam và Nhật Bản cần có trao đổi, bàn bạc cụ thể trong khuôn khổ song phương để đi đến ký kết hiệp định thương mại giữa hai nước, trong đó Nhật Bản dành cho Việt Nam quy chế MFN đầy đủ. Hiệp định này được kí kết sẽ tạo ra hành lang pháp lý cho quan hệ thương mại hai nước phát triển hơn nữa. - Đề nghị phía Nhật Bản hợp tác sớm cử chuyên gia động thực vật sang Việt Nam để cùng phía Việt Nam kiểm tra các sản phẩm nông sản Việt Nam đang bị phía Nhật Bản cấm đưa vào Nhật, xác định và công bố những mặt hàng đã đủ tiêu chuẩn đưa vào Nhật để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp hai nước mua bán các mặt hàng này. Ngoài ra, đề nghị phía Nhật xem xét, cho áp dụng vào Nhật Bản nhận trước về chất lượng của thực phẩm nhập khẩu vào Nhật Bản đối với một số nhà sản xuất hàng xuất khẩu Việt Nam đáp ứng được tiêu chuẩn của Nhật, tạo điều kiện cho việc thông quan, giảm chi phí lưu kho tại Nhật Bản và tiêu thụ các mặt hàng này dễ dàng hơn. - Trong tiến trình cải thiện môi trường đầu tư và đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư nước ngoài, phía Nhà nước Việt Nam cần hết sức quan tâm đến việc thu hút vốn đầu tư của Nhật Bản vì các nhà đầu tư Nhật khi chuyển sang sản xuất tại Việt Nam sẽ xuất khẩu trở lại Nhật Bản một phần, hoặc có thể toàn bộ sản phẩm của nhà máy của họ tại Việt Nam xuất sang thị trường Nhật Bản. Đặc biệt các nhà đầu tư của Nhật Bản cũng rất quan tâm đến sự kiện vừa qua, ngày 13/7/2000, Việt Nam đã ký hiệp định thương mại song phương với Mỹ, vì đây sẽ là cơ hội cho các cơ sở đầu tư của họ tại Việt Nam có thể xuất khẩu hàng hoá không chỉ sang Nhật Bản mà còn sang Mỹ và một số nước khác, giúp cho việc tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam nói chung. Bên cạnh đó, Chính phủ Việt Nam nên có những biện pháp hữu hiệu làm giảm tệ nạn quan liêu giấy tờ, quan tâm và hỗ trợ nhiều hơn nữa cho các doanh nghiệp Nhật Bản đang kinh doanh tại Việt Nam đồng thời Chính phủ Việt Nam nên tổ chức những chương trình đào tạo chuyên sâu về thương mại cho các cán bộ lãnh đạo và chuyên viên thương mại của công ty Việt Nam có tham gia vào mậu dịch quốc tế. Mục đích của đào tạo là nâng cao trình độ chuyên môn cho các cán bộ thương mại Việt Nam để họ có thể đưa ra những quyết định sáng suốt, kịp thời và rút ngắn được thời gian quá dài không cần thiết của các cuộc thương lượng. Chính sự chậm trễ này làm cho nhiều cơ hội “làm ăn” bị bỏ lỡ. - Thành lập đại diện của các công ty dịch vụ và xuất nhập khẩu Việt Nam tại Tokyo do Bộ thương mại trực tiếp chỉ đạo thông qua nghiệp vụ kinh doanh ngay trên thị trường Nhật, cơ quan đại diện sẽ là đơn vị cùng với Thương vụ cung cấp các thông tin kinh tế thương mại, đặc biệt là những thông tin về nghiệp vụ kinh doanh cho Bộ cũng như các công ty và các tổ chức xuất nhập khẩu trong nước. Trong xu thế ổn định, hợp tác phát triển của khu vực châu Á-Thái Bình Dương cùng dấu hiệu tích cực trong cải cách phát triển kinh tế ở cả hai quốc gia, với việc phối hợp chạt chẽ triển khai những giải pháp cơ bản nêu trên, chúng ta có cơ sở hy vọng về sự gia tăng hơn nữa quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản trong thời gian tới. KẾT LUẬN Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản có cơ sở lý luận và thực tiễn. Khai thác lợi thế so sánh, bổ sung cho nhau là rất cần thiết cho quá trình phát triển của hai nước. Khai thác những lợi thế này đã và đang tạo ra cơ sở ngày càng vững chắc hơn cho quan hệ kinh tế Việt Nam và Nhật Bản trong đó có quan hệ thương mại Việt - Nhật và hoàn toàn phù hợp với xu thế phát triển của kinh tế và thương mại quốc tế ngày nay là toàn cầu hoá và khu vực hoá. Bên cạnh đó, sự điều chỉnh chính sách đối ngoại hướng về châu Á của Nhật Bản và công cuộc đổi mới của Việt Nam đang tạo ra những điều kiện để thúc đẩy quan hệ thương mại Việt - Nhật phát triển lên một tầm cao mới. Trong bối cảnh quốc tế và nhất là ở khu vực Đông Á đang có nhiều diễn biến phức tạp, khiến cho Nhật Bản nhận thức sâu sắc rằng cần phải ngày càng tích cực hơn trong các giải pháp nỗ lực nâng cao vai trò của mình tại châu Á bằng các hoạt động hợp tác kinh tế, đặc biệt chú trọng đến các nước Đông Nam Á nói riêng của Nhật Bản. Hiện nay có đến 82% hàng hoá nhập khẩu và 78% hàng hoá xuất khẩu của Nhật Bản là do quan hệ mậu dịch với khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Hầu hết hàng hoá xuất nhập khẩu, đặc biệt là dầu lửa của Nhật Bản đều đi qua khu vực biển Đông ở Thái Bình Dương nên an ninh kinh tế cũng như an ninh quốc phòng của Nhật Bản phụ thuộc rất lớn vào sự ổn định ở khu vực này. Trong tình hình như vậy, Việt Nam là nước giầu tài nguyên nhiệt đới, có nhiều khoáng sản quý hiếm, có nguồn lao động dồi dào giá rẻ lại nằm ở vị trí địa chính trị , kinh tế, quân sự chiến lược, cửa ngõ án ngữ các tuyến đường giao thông biển và đường bộ ở khu vực Đông Nam Á , Tây Thái Bình Dương... đương nhiên được Nhật Bản coi trọng trong chính sách đối ngoại châu Á. Không chỉ Nhật Bản coi trọng Việt Nam mà trong chính sách đối ngoại nói chung và chính sách kinh tế đối ngoại nói riêng của Việt Nam cũng xác định Nhật Bản là một trong những bạn hàng quan trọng nhất của Việt Nam không chỉ về xuất khẩu mà còn cả về nhập khẩu , phục vụ cho mục tiêu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phát triển kinh tế của Việt Nam. Nhưng hai nền kinh tế Việt Nam - Nhật Bản như đã biết là hai nền kinh tế có trình độ phát triển rất chênh lệch nhau. Do đó thực chất quan hệ thương mại Việt - Nhật vẫn chưa tương xứng với nhu cầu và tiềm năng thực có hai nuớc. Trong quan hệ buôn bán với Nhật Bản nhiều năm qua hầu như Việt Nam liên tục xuất siêu song xem xét kỹ, trong tổng kim ngạch ngạch nhập khẩu của Nhật Bản giá trị hàng hoá Việt Nam chiếm tỷ trọng rất nhỏ so với các đối thủ cạnh tranh khác như Trung Quốc, Malaixia, Thái Lan...điều này chưa phản ánh thế mạnh của Việt Nam . Nguyên nhân của tình trạng trên là do cơ cấu xuất nhập khẩu hàng hoá giữa Việt Nam và Nhật Bản còn nhiều hạn chế và bất cập. Hàng hoá xuất khẩu sang Nhật Bản chủ yếu là sản phẩm thô chưa qua công nghiệp chế biến nên giá trị thấp trong khi hàng hoá nhập từ Nhật Bản là những sản phẩm của công nghệ cao ... nên giá trị là rất cao. Thực trạng này hoàn toàn là do tương quan hai nước nhưng nếu để tình trạng này kéo dài thì thua thiệt sẽ nghiêng về phía Việt Nam. Một nguyên nhân khác, hàng hoá của chúng ta khi vào thị trường Nhật Bản lại phải chịu một sức ép cạnh tranh lớn từ các đối thủ cạnh tranh như Trung Quốc, Thái Lan, Indônêxia, Malaixia. Philippin...và cho đến nay quan hệ buôn bán song phương giữa hai nước vẫn chưa được chính thức hoá bằng một hiệp định thương mại. do đó chính phủ Nhật vẫn có thể đơn phưong đưa ra những hạn chế hàng xuất khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản vẫn liên tục phát triển trong những năm qua và hiện nay với tổng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu giữa hai nước liên tục tăng, góp phần tích cực đối với tăng trưởng và phát triển kinh tế của nước ta, phù hợp với lợi ích kinh tế của Nhật Bản. Mặc dù có sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa hai nước song các hoạt động buôn bán, trao đổi hàng hoá giữa hai bên vẫn có khả năng phát triển mạnh hơn nhiều so với hiện tại và thời gian đã qua. Những khó khăn đang cản trở sự phát triển của quan hệ thương mại Việt - Nhật sẽ được tháo gỡ khi có những giải pháp tích cực đặt ra như cần thay đổi hơn nữa về cơ chế chính sách của nhà nước như cơ chế xuất nhập khẩu, tài chính - tín dụng, thuế, hải quan, công nghệ...; thực hiện nghiêm chỉnh luật pháp của nhà nước vế đầu tư, đất đai...; tạo môi trường thuận lợi cho đầu tư, thu hút các nguồn vốn ODA, xuất - nhập khẩu. Nhưng về căn bản cần phải thay đổi cơ cấu xuất khẩu theo hướng giảm tỷ trọng sản phẩm thô, tăng tỷ trọng sản phẩm chế biến , sản phẩm công nghiệp cho hiệu quả cao và phù hợp với sự phát triển kinh tế bền vững đồng thời có sự định hướng về thị trường - thông tin và xúc tiến thương mại cũng như tăng cuờng hợp tác với Nhật Bản hơn nữa tiến tới ký kết hiệp định thương mại song phương giữa hai nước có như vậy quan hệ thương mại cùng với các hoạt động kinh tế khác như đầu tư, tài trợ ODA.. giữa Việt Nam và Nhật Bản phát triển ngày một tốt đẹp hơn. MỤC LỤC NỘI DUNG TRANG MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN MỘT SỐ LÝ THUYẾT CƠ BẢN VỀ THƯƠNG MẠI QUỐC TẾ Lý thuyết lợi thế tuyệt đối Lý thuyết lợi thế so sánh Lý thuyết về giá trị quốc tế, mối tương quan của cầu Quan điểm của Các Mác về ngoại thương NHỮNG YẾU TỐ CHI PHỐI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN Xu hướng chung của quan hệ thương mại quốc tế Những yếu tố tương đồng và khác biệt chi phối quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản Những yếu tố truyền thống văn hoá, chính trị 5 5 5 8 12 13 13 13 22 33 CHƯƠNG 2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN 2.1. TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH ĐỐI VỚI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN 2.1.1. Sự điều chỉnh chính sách kinh tế đối ngoại hướng về châu Á của Nhật Bản 2.1.2. Điều chỉnh chính sách đối ngoại của Việt Nam 2.1.3. Tác động của chính sách đối với sự phát triển hoạt động thương mại hai nước Việt Nam và Nhật Bản 2.2. THỰC TRẠNG QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN 2.2.1. Xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản 2.2.2. Nhập khẩu của Việt Nam từ Nhật Bản 2.3. ĐÁNH GIÁ CHUNG VỀ VỊ TRÍ, VAI TRÒ CỦA QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN 2.3.1. Quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản góp phần tích cực vào sự phát triển của nền kinh tế Việt Nam 2.3.2. Những hạn chế, bất cập còn đang tồn tại trong quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản 38 38 38 45 50 53 53 59 64 64 66 CHƯƠNG 3. NHỮNG GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN. 3.1. BỐI CẢNH CHÍNH TÁC ĐỘNG TỚI QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN 3.1.1. Nhu cầu và khả năng phát triển quan hệ thương mại của Việt Nam và Nhật Bản 3.1.2. Tác động khách quan của các yếu tố môi trường khu vực và toàn cầu đến quan hệ thương mại Việt Nam - Nhật Bản 3.1.3. Những hoạt động xúc tiến thương mại đã thúc đẩy quan hệ thương mại Việt - Nhật 3.2. NHÓM GIẢI PHÁP NHẰM TĂNG CƯỜNG VÀ NÂNG CAO HIỆU QUẢ QUAN HỆ THƯƠNG MẠI VIỆT NAM - NHẬT BẢN 3.2.1. Đổi mới căn bản nội dung cơ chế, chính sách 3.2.2. Về sự định hướng phát triển một cơ cấu các sản phẩm xuất nhập khẩu hợp lý và có hiệu quả cao phù hợp với mục tiêu phát triển một nền kinh tế bền vững 3.2.3. Sự định hướng về thị trường, thông tin và xúc tiến thương mại 3.2.4. Các biện pháp cần triển khai về cả hai phía Việt Nam - Nhật Bản 70 70 70 71 73 80 80 85 87 89 KẾT LUẬN 91 TÀI LIỆU THAM KHẢO 94 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37193.doc
Tài liệu liên quan