Quản lí chi phí sản Xuất và giá thành sản phẩm trong Công ty May Đức Giang

Lời nói đầu Trong điều kiện nền kinh tế thị trường với nhiều thành phần kinh tế đang phát triển, sự ra đời của các doanh nghiệp sản xuất trẻ và đầy triển vọng góp phần cho sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp ngày càng trở nên gay gắt. Muốn tồn tại và đứng vững trong nền kinh tế thị trường, việc đầu tiên doanh nghiệp cần phải quản lý chặt chẽ chi phí sản xuất để với chi phí bỏ ra ít nhất thu được lợi nhuận cao nhất. Thông tin về chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm sẽ giúp cho các nhà quản lý

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1423 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quản lí chi phí sản Xuất và giá thành sản phẩm trong Công ty May Đức Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phân tích, đánh giá được tình hình sử dụng lao động, vật tư, tiền vốn... có hiệu quả hay không, tiết kiệm hay lãng phí. Từ đó đề ra các biện pháp hữu hiệu nhằm tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ thấp giá thành sản phẩm, tạo điều kiện cho sản phẩm sản xuất có tính cạnh tranh cao. Chính vì vậy, việc tổ chức tốt công tác quản lý nói chung và công tác tập hợp chi phí sản xuất nói riêng là một yêu cầu bức thiết đối với các doanh nghiệp hiện nay. Để tài chính kế toán phát huy được hết hiệu quả năng lực của mình đòi hỏi các doanh nghiệp phải vận dụng một cách đúng đắn và linh hoạt các chế độ thể lệ kế toán do nhà nước ban hành vào thực tế doanh nghiệp. Xuất phát từ tầm quan trọng của công tác quản lý chi phí và giá thành sản phẩm của công ty. Qua thời gian thực tập, được sự chỉ bảo và hướng dẫn tận tình của cô giáo: Th.s Nguyễn Thị Thu Hà và cán bộ tài chính - kế toán trong Công ty May Đức Giang, tôi đã mạnh dạn đi sâu vào nghiên cứu đề tài: “Quản lí chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm” trong Công ty May Đức Giang với 3 chương như sau: Chương 1: Những vấn đề lý luận chung về quản lí chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Chương 2: Thực trạng công tác quản lí chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Chương 3: Một số giải pháp giảm chi phí và hạ giá thành sản phẩm. Chương 1 Những vấn đề lý luận chung về Quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong công ty may đức giang. 1.1. Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Sự phát sinh và phát triển của xã hội loài người luôn gắn liền với quá trình sản xuất. Nền sản xuất xã hội của bất kỳ phương thức sản xuất nào cũng gắn liền với sự vận động và tiêu hao các yếu tố cơ bản tạo nên quá trình sản xuất. Vì vậy, để tiến hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thì các doanh nghiệp cần phải có ba yếu tố cơ bản, đó là: đối tượng lao động, tư liệu lao động và lao động. + Đối tượng lao động: là những vật mà con người tác động vào nó để biến đổi nó cho phù hợp với nhu cầu của con người như: nguyên, nhiên vật liệu. + Tư liệu lao động: là những vật hoặc hệ thống vật làm nhiệm vụ truyền dẫn sự hoạt động của con người để tác động vào đối tượng lao động nhằm biến đổi đối tượng lao động đó, ví dụ: máy móc, thiết bị. + Lao động: là hoạt động có ý thức, có mục đích của con người nhằm thay đổi những vật trong tự nhiên cho phù hợp với nhu cầu của bản thân con người. Đối với mỗi ngành, mỗi lĩnh vực các yếu tố này tham gia vào quá trình sản xuất theo những mức độ khác nhau và hình thành nên những khoản chi phí tương ứng. Các chi phí mà doanh nghiệp chi ra cấu thành nên giá trị sản phẩm bao gồm ba bộ phận: C + V + m Trong đó: C : Hao phí lao động vật hoá, tức là toàn bộ giá trị tư liệu sản xuất đã tiêu hao trong quá trình tạo ra sản phẩm như chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ, năng lượng, khấu hao tài sản cố định. V : Hao phí lao động sống tức là chi phí tiền lương, tiền công phải trả cho người lao động tham gia vào quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm. m : Là giá trị mới do lao động sống tạo ra trong quá trình hoạt động, tạo ra giá trị sản phẩm, lao vụ dịch vụ. Như vậy, chi phí sản xuất chỉ bao gồm hai bộ phận là C và V, các chi phí này phát sinh có tính thường xuyên gắn liền với quá trình sản xuất sản phẩm của doanh nghiệp trong từng thời kỳ nhất định có thể là tháng, quý, năm. Mặc dù những chi phí này bao gồm nhiều loại, nhiều yếu tố khác nhau nhưng trong điều kiện hàng hoá tiền tệ thì các chi phí lao động vật hoá và lao động sống trong các hoạt động sản xuất kinh doanh đều được biểu hiện dưới hình thái tiền tệ. Vậy, ta có thể hiểu: chi phí sản xuất kinh doanh của một doanh nghiệp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ các hao phí về lao động sống và lao động vật hoá mà doanh nghiệp phải chi ra để tiến hành sản xuất sản phẩm trong một thời gian nhất định. Tuy nhiên, đối với bất kỳ một loại doanh nghiệp nào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm hai giai đoạn đó là sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Trong khi tiến hành sản xuất, doanh nghiệp phải tiêu hao các loại vật tư như: nguyên liệu, nhiên liệu, vật liệu, hao mòn máy móc, thiết bị, các công cụ, dụng cụ…. Doanh nghiệp còn thực hiện trả lương (hay tiền công) cho công nhân viên. Để thực hiện việc tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp bỏ ra những chi phí nhất định gọi chung là chi phí tiêu thụ sản phẩm như: chi phí bao gói, vận chuyển, bảo quản sản phẩm. Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải bỏ ra các chi phí để điều tra, khảo sát thị trường như: chi phí tiếp thị, quảng cáo, giới thiệu, bảo hành sản phẩm, hướng dẫn tiêu dùng… Khi thực hiện các hoạt động sản xuất kinh doanh, ngoài chi phí sản xuất và chi phí tiêu thụ sản phẩm, doanh nghiệp còn thực hiện nghĩa vụ của mình với Nhà nước, đó là nộp các khoản thuế theo luật thuế đã quy định như: thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế xuất nhập khẩu, thuế thu nhập doanh nghiệp… Những chi phí về thuế này đều mang tính chất như chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Tóm lại, chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là toàn bộ chi phí sản xuất, chi phí tiêu thụ sản phẩm, các khoản thuế gián thu mà doanh nghiệp phải bỏ ra để thực hiện hoạt động sản xuất kinh doanh trong một thời kỳ nhất định. 1.2. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chi phí sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp sản xuất bao gồm nhiều loại có nội dung kinh tế khác nhau, mục đích và công dụng của chúng trong quá trình sản xuất cũng khác nhau. Do vậy, để quản lý chi phí sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần phải tiến hành phân loại chi phí sản xuất. Trong công tác quản lý tuỳ theo yêu cầu, mục đích khác nhau người ta có thể phân loại chi phí sản xuất kinh doanh cuả doanh nghiệp theo nhiều tiêu thức khác nhau. Việc phân loại chi phí này giúp cho người quản lý nhận thức và đánh giá được sự biến động của từng loại chi phí và đề ra những biện pháp phù hợp để làm giảm chi phí. Dưới đây là ba tiêu thức cơ bản để phân loại chi phí sản xuất. 1.2.1. Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo nội dung kinh tế. Theo cách phân loại này, người ta chỉ căn cứ vào tính chất kinh tế của các khoản chi phí sản xuất khác nhau để chia ra các yếu tố chi phí, mỗi yếu tố chi phí bao gồm những chi phí có cùng nội dung kinh tế. Người ta không quan tâm đến chi phí đó phát sinh ở lĩnh vực hoạt động sản xuất nào, ở đâu và mục đích, tác dụng của chi phí đó như thế nào. Theo nghị định 59 CP của Chính phủ, toàn bộ chi phí sản xuất trong kỳ được chia thành các khoản mục sau: * Chi phí nguyên liệu, vật liệu: bao gồm toàn bộ các chi phí về các đối tượng lao động như nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, phụ tùng thay thế mà doanh nghiệp đã sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh. * Chi phí nhiên liệu, động lực: là giá trị của toàn bộ nhiên liệu, động lực doanh nghiệp đã sử dụng vào hoạt động kinh doanh. * Chi phí tiền lương và các khoản phụ cấp có tính chất tiền lương: là toàn bộ tiền lương, tiền công, các khoản có tính chất tiền lương doanh nghiệp phải trả cho người lao động tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Các khoản trích nộp theo quy định của nhà nước: như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, kinh phí công đoàn. * Chi phí khấu hao tài sản cố định: là số tiền khấu hao tài sản cố định trích theo quy định đối với toàn bộ tài sản cố định đăng ký trích khấu hao của doanh nghiệp. * Chi phí dịch vụ mua ngoài: là các chi phí trả cho tổ chức cá nhân ngoài doanh nghiệp về các dịch vụ được thực hiện theo yêu cầu của doanh nghiệp, ví dụ như phí vận chuyển hàng hoá, vật tư, chi phí trả về tiền điện, tiền nước, điện thoại, chi phí về sửa chữa tài sản cố định, chi phí kiểm toán. * Chi phí bằng tiền khác: là toàn bộ chi phí bằng tiền, chi cho hoạt động của doanh nghiệp ngoài chi phí kể trên như thuế môn bài, thuế sử dụng đất, thuế tài nguyên, chi phí giao dịch đối ngoại, chi phí hội nghị, chi phí tuyển dụng, bồi dưỡng nâng cao kiến thức cho cán bộ công nhân viên. Ngoài ra, doanh nghiệp còn được tính vào chi phí hoạt động kinh doanh các chi phí sau: * Các khoản dự phòng giảm giá như: dự phòng giảm giá hàng tồn kho, dự phòng giảm giá các khoản phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá các loại chứng khoán trong hoạt động tài chính. * Các khoản trợ cấp thôi việc cho người lao động theo quy định của Chính phủ và những quy định về hợp đồng lao động. Việc phân loại chi phí sản xuất theo yếu tố có tác dụng rất lớn trong việc quản lý chi phí sản xuất. Nó cho biết tỷ trọng của từng yếu tố chi phí trong toàn bộ chi phí của doanh nghiệp trong kỳ. Từ đó, giúp cho nhà quản lý biết được trọng tâm quản lý chi phí sản xuất kinh doanh, biết được loại chi phí nào doanh nghiệp phải chi ra nhiều nhất trong kỳ vầ cần tập trung quản lý. Ngoài ra, doanh nghiệp còn kiểm tra được tình hình thực hiện dự toán chi phí sản xuất kinh doanh, kiểm tra được sự cân đối giữa các kế hoạch như kế hoạch quỹ lương, kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch khấu hao tài sản cố định. Mặt khác, phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo cách này giúp cho doanh nghiệp hạch toán đầy đủ các khoản chi phí và lập dự toán chi phí sản xuất, lập kế hoạch cung ứng vật tư, kế hoạch quỹ lương cũng như dự toán nhu cầu vốn lưu động cho năm tài chính tiếp theo. 1.2.2 . Phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo công dụng kinh tế và địa điểm phát sịnh chi phí. Theo cách phân loại này, căn cứ vào mục đích công dụng của chi phí trong sản xuất để sắp xếp thành những khoản mục nhất định, mỗi khoản mục chi phí chỉ bao gồm những chi phí có cùng mục đích và công dụng, không phân biệt chi phí đó có nội dung kinh tế như thế nào. Toàn bộ chi phí sản xuất phát sinh trong kỳ được chia thành các khoản mục chi phí sau: * Chi phí nguyên liệu, vật liệu trực tiếp: bao gồm chi phí về các loại nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, nhiên liệu sử dụng trực tiếp vào việc sản xuất, chế tạo sản phẩm hay thực hiện công việc lao vụ. * Chi phí nhân công trực tiếp: bao gồm chi phí tiền lương, phụ cấp phải trả và các khoản trích BHXH, BHYT và KPCĐ trên tiền lương của công nhân trực tiếp sản xuất theo quy định. * Chi phí sản xuất chung: là chi phí dùng vào việc quản lý và phục vụ sản xuất chung tại bộ phận sản xuất (phân xưởng, đội,trại) bao gồm: + Chi phí nhân viên phân xưởng: gồm chi phí về tiền lương, phụ cấp phải trả và các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ trên tiền lương của nhân viên quản lý, nhân viên thống kê, nhân viên tiếp liệu, nhân viên bảo vệ tại phân xưởng (đội, trại) sản xuất theo quy định. + Chi phí vật liệu: gồm vật liệu các loại sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung của phân xưởng (đội, trại) sản xuất, như dùng để sửa chữa TSCĐ, dùng cho công tác quản lý tại phân xưởng. + Chi phí dụng cụ sản xuất: là chi phí về các loại công cụ, dụng cụ dùng cho nhu cầu sản xuất chung ở phân xưởng (đội, trại) sản xuất như: dụng cụ bảo hộ lao động, khuôn mẫu, dụng cụ gá lắp. + Chi phí khấu hao TSCĐ: bao gồm số khấu hao của TSCĐ hữu hình, TSCĐ vô hình và tài sản thuê tài chính sử dụng ở phân xưởng (đội, trại) sản xuất, như khấu hao máy móc thiết bị, khấu hao nhà xưởng. + Chi phí dịch vụ mua ngoài: bao gồm các khoản chi về dịch về dịch vụ mua ngoài, thuê ngoài để sử dụng chung cho nhu cầu sản xuất của phân xưởng (đội, trại) sản xuất như chi phí điện nước, điện thoại, thuê sửa chữa TSCĐ. + Chi phí bằng tiền khác: là các khoản chi bằng tiền ngoài các khoản đã kể trên, sử dụng cho nhu cầu sản xuất chung của phân xưởng (đội, trại) sản xuất. * Chi phí bán hàng: là toàn bộ chi phí liên quan đến quá trình tiêu thụ sản phẩm, hàng hoá dịch vụ như: tiền lương, các khoản phụ cấp phải trả cho nhân viên bán hàng, hoa hồng đại lý, chi phí đóng gói, vận chuyển, bảo quản sản phẩm, chi phí khấu hao TSCĐ và các chi phí bằng tiền khác như: chi phí điều tra, nghiên cứu thị trường, chi phí quảng cáo, giới thiệu, bảo hành sản phẩm. * Chi phí quản lý doanh nghiệp: là các chi phí cho bộ máy quản lý và điều hành doanh nghiệp có liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của toàn doanh nghiệp như tiền lương và các khoản phụ cấp trả cho ban giám đốc, nhân viên quản lý, bảo hiểm, kinh phí công đoàn của bộ máy quản lý doanh nghiệp; chi phí vật liệu, đồ dùng cho văn phòng, chi phí khấu hao TSCĐ dùng chung cho doanh nghiệp, các khoản thuế, lệ phí, chi phí dịch vụ mua ngoài thuộc văn phòng doanh nghiệp và các chi phí khác bằng tiền chung cho toàn doanh nghiệp như : dự phòng nợ phải thu khó đòi, dự phòng giảm giá hàng tồn kho, phí kiểm toán, chi phí tiếp tân, trợ cấp thôi việc cho người lao động. Việc phân loại chi phí sản xuất kinh doanh theo khoản mục tính giá thành đã tập hợp được đầy đủ, chính xác các chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất từng loại sản phẩm cụ thể. Do đó, đã giúp doanh nghiệp tính được giá thành các loại sản phẩm. Đồng thời xác định được ảnh hưởng của sự biến động từng khoản mục đối với toàn bộ giá thành sản phẩm. Giữa các thời kỳ giúp doanh nghiệp có thể phân tích đánh giá những nguyên nhân dẫn đến tình trạng có những chi phí bất hợp lý. Từ đó đưa ra những biện pháp thích hợp nhằm để giảm bớt từng loại chi phí để hạ giá thành sản phẩm. Bên cạnh đó, việc phân chia chi phí sản xuất kinh doanh theo cách này còn giúp doanh nghiệp có được tài liệu tham khảo để lập định mức chi phí sản xuất và lập kế hoạch giá thành sản phẩm cho kỳ sau. 1.2.3. Phân loại chi phí sản xuất theo mối quan hệ giữa chi phí sản xuất và khối lượng hoạt động kinh doanh. Theo cách phân loại này, chi phí sản xuất kinh doanh được chia làm hai loại: * Chi phí cố định (chi phí bất biến): là chi phí không thay đổi về tổng số cho dù có sự thay đổi trong mức độ hoạt động của sản xuất hay khối lượng sản phẩm. Tuy nhiên, tính bất biến ở đây chỉ có ý nghĩa tương đối và giữ nguyên trong một khoảng thời gian tương ứng với quy mô khối lượng sản phẩm nhất định. Thuộc loại chi phí này gồm có: tiền lương cho nhân viên quản lý, chi phí khấu hao tài sản cố định, tiền thuê đất. * Chi phí biến đổi (chi phí khả biến): là những chi phí bị biến động một cách trực tiếp theo sự thay đổi của khối lượng sản xuất sản phẩm. Thuộc chi phí khả biến gồm: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí nhân công trực tiếp. Việc phân loại chi phí sản xuất kinh doanh thành chi phí cố định và chi phí biến đổi có ý nghĩa lớn trong công tác quản lý của doanh nghiệp, giúp cho các nhà quản lý tìm ra các biện pháp quản lý thích ứng với từng loại chi phí để hạ thấp giá thành sản phẩm. Đồng thời cũng giúp cho việc phân tích điều hoà vốn để xác định được khối lượng sản xuất nhằm đạt hiệu quả cao nhất. 1.3. Quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm của doanh nghiệp. 1.3.1. Sự cần thiết phải quản lý chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm. Trong các doanh nghiệp sản xuất để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh của mình, doanh nghiệp cần phải bỏ ra những chi phí nhất định. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường, có nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất một loại mặt hàng giống nhau nên các doanh nghiệp chắc chắn có sự cạnh tranh về chất lượng và giá cả. Ngoài ra, doanh nghiệp còn phải cạnh tranh với sản phẩm hàng hoá ngoại nhập mà tâm lý người tiêu dùng luôn luôn có nhu cầu mua sản phẩm có chất lượng cao mà giá bán thấp. Do đó, vấn đề đặt ra là các doanh nghiệp phải giảm tối đa các khoản chi phí để hạ giá bán các sản phẩm, tăng lợi nhuận cho doanh nghiệp mà vẫn đảm bảo được chất lượng sản phẩm để có thể cạnh tranh, tồn tại và đứng vững trên thị trường. Với quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm về kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, buộc các doanh nghiệp phải tính toán đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, so sánh giữa chi phí bỏ ra với kết quả đạt được, phải tự bù đắp chi phí bằng những khoản thu nhập của mình, đảm bảo có lợi nhuận, tăng tích luỹ, mở rộng quy mô kinh doanh. Chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau, giá thành sản phẩm cao hay thấp phụ thuộc vào chi phí, do đó chi phí sản xuất cao dẫn đến giá thành sản phẩm cao và ngược lại. Trong hệ thống các chỉ tiêu kinh tế phục vụ công tác quản lý chi phí, chỉ tiêu giá thành đóng vai trò quan trọng vì: Giá thành là thước đo mức chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm của doanh nghiệp, là căn cứ để doanh nghiệp xác định hiệu quả sản xuất kinh doanh và ra các quyết định sản xuất kinh doanh. Giá thành là một công cụ quan trọng của doanh nghiệp để kiểm soát tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh, phát hiện và tìm ra nguyên nhân dẫn đến chi phí phát sinh không hợp lý và kịp thời có những biện pháp loại trừ. Giá thành là một công cụ quan trọng để doanh nghiệp xây dựng chính sách giá cả đối với từng loại sản phẩm của doanh nghiệp. Ngoài ra, ta còn có các loại giá thành sản phẩm sau đây: * Căn cứ vào cơ sở số liệu và thời điểm tính giá giá thành. + Giá thành kế hoạch: là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở chi phí sản xuất kế hoạch, số lượng kế hoạch. + Giá thành định mức: là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở các định mức chi phí hiện hành và chỉ tính cho đơn vị sản phẩm. + Giá thành thực tế: là giá thành sản phẩm được tính trên cơ sở các số liệu chi phí sản xuất thực tế đã phát sinh, tập hợp được trong kỳ cũng như số lượng sản phẩm thực tế đã sản xuất trong kỳ. * Căn cứ vào phạm vi các chi phí cấu thành. + Giá thành sản xuất: giá thành sản xuất sản phẩm bao gồm các chi phí sản xuất, chế tạo sản phẩm, chi phí nguyên vật liệu trực tiếp, chi phí sản xuất chung tính cho sản phẩm, công việc hay lao vụ đã hoàn thành. + Giá thành toàn bộ của sản phẩm tiêu thụ: bao gồm gía thành sản xuất và chi phí bán hàng, chi phí quản lý doanh nghiệp cho sản phẩm tiêu thụ. Như vậy, giá thành sản xuất và giá thành toàn bộ về bản chất có sự khác nhau, do đó đòi hỏi kế toán cần phải phân biệt để đảm bảo tính chính xác và hợp lý trong kỳ hạch toán. 1.3.2. Các nhân tố chủ yếu ảnh hưởng đến chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm. Để quản lý chi phí sản xuất kinh doanh, các nhà quản lý của doanh nghiệp không những cần nắm rõ nội dung, bản chất và kết cấu các khoản mục trong chi phí sản xuất kinh doanh mà còn thấy được các nhân tố tác động đến chi phí sản xuất kinh doanh. Có nhiều nhân tố tác động đến chi phí sản xuất kinh doanh, song có thể quy lại thành hai nhóm sau đây: 1.3.2.1. Nhóm nhân tố khách quan. Là những nhân tố bên ngoài tác động tới doanh nghiệp như là: * Các nhân tố về thị trường: Thị trường ở đây bao gồm thị trường các yếu tố đầu vào như thị trường lao động, thị trường nguyên vật liệu, thị trường máy thi công, thị trường vốn và thị trường đầu ra. Đối với những thị trường đầu vào ảnh hưởng tới doanh nghiệp xét trên khả năng cung cấp và giá cả của các yếu tố. Doanh nghiệp phải xem xét và lựa chọn nhà cung cấp, phương thức thanh toán để các chi phí bỏ ra cho các yếu tố đầu vào là thấp. Đối với thị trường đầu ra doanh nghiệp cũng phải xem xét tới giá cả bán ra, phương thức thanh toán, các cách thức giới thiệu và bán sản phẩm sao cho chi phí bỏ ra hợp lý và đem lại hiệu quả cao. * Các nhân tố khác như là điều kiện tự nhiên, chính sách, chế độ của Nhà nước. 1.3.2.2. Nhóm nhân tố chủ quan. Nhóm nhân tố chủ quan là những nhân tố bên trong doanh nghiệp như: * Nhân tố tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ. Thực chất, nhân tố tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ là một nhân tố khách quan. Nhưng xét theo góc độ của nhà quản lý thì nó lại mang tính chủ quan. Bởi lẽ, nhân tố này tác động tích cực tới xu hướng hạ giá thành sản phẩm hay không là hoàn toàn phụ thuộc vào sự nhanh nhạy của các nhà quản lý trong việc vận dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào quá trình sản xuất. Và việc vận dụng một cách nhanh chóng những thành tựu mới về khoa học và công nghệ vào sản xuất là một phương pháp vô cùng hiệu quả trong hạ thấp chi phí sản xuất và thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp. Những doanh nghiệp có trình độ trang bị kỹ thuật hiện đại sẽ tiết kiệm được nguyên, nhiên vật liệu, năng lượng, giảm chi phí sửa chữa, giảm chi phí tiền lương, tăng năng suất lao động tức là hạ thấp được chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm. Ngược lại, những doanh nghiệp có trình độ kỹ thuật lạc hậu, chi phí tiền lương lớn, chi phí sửa chữa và chi phí điện năng sẽ tăng, năng suất lao động thấp dẫn đến chi phí sản xuất tăng và giá thành cũng tăng theo. Vậy, việc đổi mới máy móc thiết bị, quy trình công nghệ trong sản xuất kinh doanh trở thành vấn đề sống còn đối với mỗi doanh nghiệp, là nhân tố quan trọng để hạ thấp chi phí. * Nhân tố tổ chức lao động và sử dụng con người. Để phù hợp với dây chuyền công nghệ sản xuất, để giảm thấp được chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm, người quản lý cũng phải chú ý tới sự tác động của nhân tố tổ chức lao động. Bởi tổ chức lao động khoa học sẽ tạo ra sự kết hợp các yếu tố sản xuất một cách hợp lý, loại trừ được tình trạng lãng phí lao động, lãng phí máy móc, thúc đẩy việc nâng cao năng suất lao động dẫn đến giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm. Đặc biệt, nếu bộ máy quản lý là những người có trình độ chuyên môn, năng lực quản lý, năng động sáng tạo sẽ giúp cho doanh nghiệp xác định được phương án sản xuất tối ưu làm cho lượng chi phí bỏ ra là hợp lý. Đồng thời, phân công bố trí những người lao động có năng lực, có trách nhiệm cao, có cấp bậc phù hợp với cấp bậc của công việc để nâng cao năng suất lao động. Như vậy, tổ chức lao động và sử dụng con người hợp lý cũng là một nhân tố quan trọng để hạ thấp chi phí sản xuất kinh doanh. * Nhân tố tổ chức quản lý sản xuất. Theo kinh tế chính trị học của chủ nghĩa Mác-Lênin, mỗi doanh nghiệp khi bắt đầu quá trình sản xuất kinh doanh đều phải trả lời ba câu hỏi là: Sản xuất cái gì? Sản xuất cho ai? Sản xuất như thế nào? Vì vậy, tổ chức sản xuất là một trong những khâu đầu tiên cần giải quyết khi một doanh nghiệp đi vào hoạt động. Để đạt được hiệu quả kinh tế cao, giảm thiểu được chi phí đầu vào thì doanh nghiệp phải tổ chức sản xuất một cách khoa học và hợp lý. Việc bố trí các khâu sản xuất hợp lý, dây chuyền sản xuất khoa học sẽ giúp cho doanh nghiệp hạn chế được sự lãng phí nguyên vật liệu, nhiên liệu, động lực, giảm thấp được tỉ lệ phế phẩm, chi phí ngừng sản xuất. Dây chuyền sản xuất khoa học cũng sẽ giúp cho doanh nghiệp tận dụng tối đa công suất của máy móc thiết bị, nhờ đó mà giảm được chi phí sử dụng thiết bị trên một đơn vị sản phẩm. *Nhân tố tổ chức quản lý tài chính doanh nghiệp. Nhân tố này tác động rất mạnh mẽ tới chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm. Bởi suy đến cùng thì chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của hao phí lao động sống và lao động vật hoá. Để tiến hành sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp phải có một khối lượng vốn tiền tệ nhất định. Quá trình sản xuất cũng chính là quá trình tiêu hao lượng vốn tiền tệ này. Việc quản lý và sử dụng hiệu quả các loại vốn đó là một trong những hoạt động chủ yếu của doanh nghiệp. Hoạt động tài chính này ngày càng có tác động lớn tới việc hạ thấp chi phí sản xuất kinh doanh, giá thành sản phẩm và tăng lợi nhuận của doanh nghiệp. Tổ chức và sử dụng vốn hợp lý, đáp ứng kịp thời nhu cầu về vật tư sẽ tránh được các chi phí gián đoạn sản xuất do thiếu vật tư, do vật tư không kịp thời, không đúng chủng loại, quy cách, phẩm chất. Đồng thời, thông qua việc tổ chức sử dụng vốn kiểm tra được tình hình dự trữ vật tư, sản phẩm tồn kho để từ đó có biện pháp quản lý thích hợp, hạn chế tình trạng ứ đọng, hao hụt, mất mát vật tư. Nhờ đó góp phần giảm thấp chi phí sản xuất kinh doanh và giá thành sản phẩm. Hơn thế nữa, bằng việc thúc đẩy quá trình luân chuyển vốn, doanh nghiệp còn có thể giảm bớt chi phí về lãi tiền vay do giảm bớt nhu cầu vốn bên ngoài doanh nghiệp. chương 2 Thực trạng công tác quản lý chi phí sản xuất và giá thành sản phẩm trong công ty may đức giang. 2.1 . Một số nét chủ yếu về tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh trong Công ty May Đức Giang. 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Công ty May Đức Giang. Công ty May Đức Giang là một doanh nghiệp nhà nước thuộc tổng công ty Dệt May Việt Nam - Bộ Công nghiệp nhẹ, có nhiệm vụ chủ yếu là sản xuất các loại hàng may mặc xuất khẩu và hàng nội địa. Vào tháng 5 năm 1989, giữa thời kỳ nhà nước chuyển đổi cơ chế quản lý từ tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường theo định hướng XHCN, một phân xưởng may được thành lập trên cơ sở Tổng kho vận 1 thuộc Liên hiệp các xí nghiệp may - Bộ Công nghiệp nhẹ. Tài sản ban đầu gồm 5 nhà kho đã hết khấu hao, trên 100 máy may của Liên Xô và 1 đội xe vận tải với 7 đầu xe... tổng số vốn ban đầu chỉ vẻn vẹn 1,2 tỷ đồng, lực lượng lao động gồm 27 công nhân coi kho và trên 20 cán bộ nhân viên dôi ra qua sắp xếp lại biên chế của liên hiệp các xí nghiệp may. Ngày 12/12/1992, Bộ Công nghiệp nhẹ ra quyết định số 1274/CNn – TCLĐ thành lập Công ty May Đức Giang. Trải qua bao khó khăn thách thức, vừa tiến hành sản xuất, vừa xây dựng. Hiện nay, Công ty May Đức Giang có trên 2018 máy may công nghiệp và các loại máy chuyên dùng tiên tiến của Nhật Bản và CHLB Đức, có hệ thống giác sơ đồ trên máy vi tính, có xí nghiệp thêu địên tử với 4 máy thêu điện tử TAJLMA 12 đầu và 20 đầu của Nhật, có dây truyền giặt mài với công nghệ tiên tiến... Đến nay tổng số vốn tài sản của công ty trị giá trên 40 tỷ đồng, gồm 7 xí nghiệp thành viên với 3000 CBCNV. Năng lực sản xuất đạt trên 1,5 triệu áo Jacket ( tương đương trên 7 triệu sản phẩm áo sơ mi qui đổi / năm ). Công ty luôn bảo toàn và phát triển vốn, không ngừng nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm đạt trên 30%. Đến nay, Công ty May Đức Giang đã có quan hệ bạn hàng với 46 khách hàng thuộc 21 quốc gia trên thế giới, chủ yếu là : Nhật Bản, Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc, khối EEC và Trung Cận Đông... nhiều khách hàng lớn có uy tín trên thị trường may mặc quốc tế như hãng: HABITEX (Bỉ), SEIDENSTICKER (Đức), FLEXCON, LEIURE ... đã có quan hệ bạn hàng nhiều năm với những hợp đồng sản xuất gia công có khối lượng lớn, tạo đủ việc làm cho CBCNV của công ty và các liên doanh tại địa phương. Biểu1: Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong 3 năm (2000 – 2001 – 2002) STT Chỉ tiêu đvt 2000 2001 2002 1 Tổng doanh thu Triệu đồng 107120769 149187004 180528474 2 Lợi nhuận Triệu đồng 4010 5300 7000 Qua bảng báo cáo vừa nêu ta thấy doanh thu và lợi nhuận của công ty ngày càng tăng chứng tỏ sự đi lên của công ty, khẳng định được chỗ đứng của mình trên thị trường trong nước cũng như nước ngoài. Sau hơn 10 năm phấn đấu, với sự nỗ lực đi lên bằng chính mình, công ty May Đức Giang đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Với thành tích đó, công ty May Đức Giang đã vinh dự đón nhận nhiều phần thưởng cao quý của Đảng và nhà nước trao tặng. Và năm 2000 vừa qua, công ty được công nhận là một trong những đơn vị dẫn đầu ngành Dệt - May Việt Nam. Như vậy, qua các chỉ tiêu trên có thể thấy công ty May Đức Giang tuy là một doanh nghiệp trẻ mà đã cố gắng đứng vững và phát triển được trong nền kinh tế thị trường hiện nay. 2.1.2. Đặc điểm tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý kinh doanh của Công ty May Đức Giang. 2.1.2.1. Cơ cấu mặt hàng sản xuất. Mặt hàng sản xuất kinh doanh chủ yếu của Công ty là sản phẩm may mặc xuất khẩu trong đó hàng gia công chiếm khoảng 60%, còn lại là hàng FOB (hàng “mua đứt bán đoạn” - mua nguyên liệu bán thành phẩm) và hàng tiêu thụ nội địa. Số lượng, chủng loại, mẫu mã sản phẩm chủ yếu phụ thuộc vào các hợp đồng kinh tế, các đơn đặt hàng của khách. Tuy vậy có thể kể ra một số mặt hàng chủ yếu chính: - áo sơ mi - áo váy - Quần jean - áo jacket 2,3,5 lớp - Quần Âu - Hàng thêu - áo choàng - Quần áo trẻ em Cùng sự phát triển của toàn nghành Công ty đang phấn đấu nâng tỷ trọng hàng FOB và tiêu thụ nội địa, giảm dần tỷ trọng hàng sản xuất gia công xuất khẩu trong tổng doanh thu tiêu thụ. 2.1.2.2. Đặc điểm tổ chức sản xuất. Tính chất sản xuất của các loạt hàng trong công ty là sản xuất phức tạp kiểu liên tục, loại hình sản xuất hàng loạt, số lượng lớn, chu kỳ ngắn ngày. Điều này ảnh hưởng đến chu kỳ sản xuất và tổ chức quản lý của công ty. Là một doanh nghiệp chuyên sản xuất và gia công mặt hàng may mặc theo quy trình công nghệ kép kín từ cắt, may, là, đóng gói, đóng hòm, bằng các máy móc thiết bị tiên tiến hiện đại chuyên dùng với số lượng sản phẩm tương đối lớn, nguyên liệu chính để sản xuất sản phẩm là vải với một số nguyên liệu như: cúc, khuy, khoá. Công ty đã tổ chức 6 xí nghiệp may chính phù hợp với đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. Trong mỗi xí nghiệp may lại được chia thành 2 bộ phận: - Bộ phận cắt: có nhiệm vụ nhận nguyên vật liệu và cắt thành cắt bán thành phẩm (theo mẫu mã do phòng kỹ thuật gửi xuống) sau đó chuyển cho bộ phận may. - Bộ phận may: có nhiệm vụ ráp, may các bán thành phẩm do bộ phận cắt chuyển sang thành các thành phẩm. - Trong bộ phận may lại được chia thành 8 tổ may riêng biệt, mỗi công nhân trong tổ thực hiện một hoặc một số bước công nghệ nhất định. Và còn có một bộ phận là bộ phận KCS. Tất cả các thành phẩm ở bộ phận may sẽ được chuyển sang phân xưởng hoàn thành của công ty để gấp, đóng gói, đóng hòm. Ngoài các xí nghiệp sản xuất chính, Công ty còn tổ chức bộ phận sản xuất kinh doanh phụ, đó là: + Một xí nghiệp giặt mài + Một phân xưởng thêu + Đội xe + Ban điện + Ban cơ 2.1.2.3. Đặc điểm tổ chức quản lý của Công ty May Đức Giang. Để đảm bảo sản xuất có hiệu quả và quản lý tốt sản xuất, công ty May Đức Giang tổ chức quản lý theo 2 cấp: * Trên có công ty và ban giám đốc công ty: lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp từng xí nghiệp, giúp cho ban giám đốc, các phòng ban chức năng và nghiệp vụ được tổ chức theo yêu cầu của việc quản lý kinh doanh chịu sự chỉ đạo trực tiếp của ban giám đốc. Trong đó, tổng giám đốc công ty là người đứng đầu bộ máy lãnh đạo của công ty, chịu trách nhiệm toàn bộ bộ máy quản lý. Giúp việc cho tổng giám đốc gồm 3 phó giám đốc một kế toán trưởng và các trưởng phòng ban chức năng. Các phòng ban chức năng của công ty bao gồm : - Văn phòng tổng hợp: có nhiệm vụ tổ chức, điều hành mọi hoạt động của công ty như tuyển dụng lao động, giao dịch, tiếp khách, hội họp các hoạt động sản xuất của công ty. - Phòng kế hoạch đầu tư: có nhiệm vụ lập kế hoạch sản xuất, kế hoạch tiêu thụ sản phẩm, quản lý thành phẩm, viết phiếu nhập, xuất kho, đưa ra kế hoạch hoạt động đầu tư cho giám đốc. - Phòng XNK: có nhiệm vụ giao dịch các hoạt động X._.NK liên quan đến vật tư, hàng hoá, giao dịch ký kết hợp đồng XNK trong công ty với các đối tác nước ngoài . - Phòng kỹ thuật: có chức năng chỉ đạo kỹ thuật sản xuất dưới sự lãnh đạo của phó tổng giám đốc điều hành kỹ thuật, chọn lựa kỹ thuật hợp lý cho mỗi quy trình, kiểm tra áp dụng kỹ thuật vào sản xuất có hợp lý hay không, đề xuất ý kiến để tiết kiệm nguyên liệu mà vẫn đảm bảo yêu cầu sản xuất. - Phòng KCS: với chức năng kiểm tra tất cả các nguyên liệu đưa vào sản xuất, kiểm tra đánh giá chất lượng sản phẩm nhập kho. - Phòng tổ chức: có chức năng thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước đối với cán bộ công nhân viên như lương, bảo hiểm xã hội, quản lý toàn bộ hệ thống nhân lực của công ty, toàn bộ hệ thống tiền lương. Giúp giám đốc nhận xét, đào tạo, sử dụng cán bộ công nhân viên được chính xác, tham mưu cho giám đốc về tiền lương, tiền thưởng, tiền ca 3, tiền phụ cấp độc hại cho phù hợp với kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh. - Phòng hành chính: tổ chức quản lý hệ thống thông tin nội bộ, các loại công văn tài liệu một cách khoa học, lập các kế hoạch xe cho thủ trưởng và cán bộ đi công tác, lập kế hoạch khám sức khoẻ cho cán bộ công nhân viên, cũng như công tác phục vụ ăn, nước uống hàng ngày đảm bảo an toàn, vệ sinh. - Phòng tài chính kế toán: xây dựng kế hoạch thu chi, cân đối thu chi, giải quyết các nguồn vốn đáp ứng nhu cầu kinh doanh, tổng hợp kết quả sản xuất kinh doanh, phân tích và đề xuất các biện pháp nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh. - Phòng ISO: có nhiệm vụ quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn của hệ thống quản lý chất lượng ISO 9000 ( ISO 9002 ). - Phòng thời trang và kinh doanh nội địa: có nhiệm vụ nghiên cứu nhu cầu thị trường về thời trang, nghiên cứu thiết kế mẫu mã chào hàng FOB, xây dựng định mức tiêu hao nguyên liệu cho từng mẫu chào hàng, quản lý các cửa hàng đại lý và cửa hàng giới thiệu sản phẩm của công ty . * Dưới các xí nghiệp thành viên có ban giám đốc xí nghiệp gồm giám đốc và phó giám đốc xí nghiệp. Ngoài ra, để giúp việc cho ban giám đốc xí nghiệp còn có các tổ trưởng sản xuất, các nhân viên báo sổ... Dưới các trung tâm và cửa hàng có các cửa hàng trưởng và các nhân viên. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của công ty được thể hiện như sau : (Sơ đồ số 1 ) 2.12.4. Đặc điểm quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. Quy trình sản xuất sản phẩm của công ty là sản xuất phức tạp, kiểu liên tục, sản phẩm được trải qua nhiều giai đoạn sản xuất kế tiếp nhau. Các mặt hàng mà công ty sản xuất có vô số kiểu cách, chủng loại khác nhau. Song tất cả đều phải trải qua các giai đoạn như: cắt, may, là, đóng gói... Riêng đối với những mặt hàng có yêu cầu giặt mài hoặc thêu thì trước khi là và đóng gói phải trải qua nhiều giai đoạn giặt, mài hoặc thêu ở các phân xưởng sản xuất kinh doanh phụ. Ta có thể thấy được quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm ở Công ty May Đức Giang như sau: (Sơ đồ số 2) Biểu 3: Mô hình quy trình công nghệ sản xuất sản phẩm. Nguyên vật liệu (Vải) Nhà cắt Trải vải giáp mẫu đánh số cắt nhập kho nhà cắt Nhà may May cổ may tay Ghép thành sản phẩm Thêu Giặt mài Nhập kho KCS Phân xưởng hoàn thành đóng gói, đóng kiện Là 2.2. Thực trạng công tác quản lí chi phí sản xuất tại Công ty May Đức Giang. Xuất phát từ đặc điểm tổ chức sản xuất của Công ty là sản xuất theo đơn đặt hàng là chủ yếu. Do vậy, chủng loại sản phẩm hết sức phong phú và đa dạng, mỗi đơn đặt hàng đòi hỏi khác nhau về quy cách, mẫu mã sản phẩm. Ví dụ như đơn đặt hàng sản xuất áo Jacket nam, nữ; áo sơ mi, quần của các hãng nước ngoài khác nhau cụ thể như hãng Habitex của Bỉ, hãng Flexcon, hãng Seiden... Do nhiệm vụ sản xuất chính của Công ty là gia công hàng may mặc xuất khẩu ( chiếm hơn 90% tỉ trọng hoạt động sản xuất của công ty). Song thời gian thực tập tại công ty có hạn và cũng để tập trung nghiên cứu có chiều sâu, trong khuôn khổ bài luận văn này chỉ đề cập đến kế toán tập hợp chi phí đối với loại hình sản xuất gia công hàng may mặc của Công ty. Đây là một lĩnh vực phong phú và có nhiều vấn đề cần giải quyết. 2.2.1. Đặc điểm chi phí sản xuất tại công ty May Đức Giang Chí phí sản xuất của Công ty May Đức Giang hiện nay được xác định là toàn bộ chi phí phát sinh trong phạm vi các xí nghiệp, phân xưởng có liên quan đến chế tạo sản phẩm. Giá thành sản phẩm may mặc thuộc loại hình sản xuất gia công của Công ty bao gồm các khoản mục chi phí: - Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp gồm: + Chi phí về nguyên vật liệu chính: Có các loại vải chính, vải lót, lót lưới... Tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, cấu tạo nên thực thể sản phẩm. + Vật liệu phụ: Có khoá các loại, chỉ, cúc, nhãn, thẻ bài... ở mỗi giai đoạn công nghệ có vật liệu chính và vật liệu phụ khác nhau. - Chí phí nhân công trực tiếp gồm: Chi phí về tiền lương (lương, tiền ăn ca, tiền thưởng trong sản xuất) và các khoản trích theo lương (19%) BHXH, BHYT, KPCĐ. - Chi phí sản xuất chung gồm: Chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí tiền lương nhân viên quản lý xí nghiệp, chi phí vật liệu và công cụ dụng cụ, chi phí dịch vụ mua ngoài, chi phí khác bằng tiền. Chi phí sản xuất ở Công ty May Đức Giang có đặc điểm nổi bật là: Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp chiếm tỉ trọng rất nhỏ trong giá thành sản phẩm bởi đặc điểm của loại hình sản xuất gia công là nguyên vật liệu đều do các bên đặt hàng cung cấp cho Công ty. Nhưng trong quá trình tiến hành sản xuất chế tạo sản phẩm, nhiều khi vật liệu trong kho không đủ cho nhu cầu sản xuất để quá trình sản xuất diễn ra liên tục, doanh nghiệp phải mua nguyên vật liệu ở ngoài. Nguồn cung cấp vật liệu mua ngoài cho Công ty chủ yếu là do các đơn vị có quan hệ mua bán lâu dài với công ty như: Công ty vật liệu may Nha Trang, Công ty dệt Việt Thắng - Vicotex, Công ty dệt Nam Định... Ngoài ra có một số phụ tùng thay thế và vật liệu phụ do bộ phận cung tiêu mua ngoài và thanh toán ngay. 2.2.2. Thực trạng quản lý chi phí sản xuất trong Công ty May Đức Giang. 2.2.2.1. Tình hình thực hiện công tác quản lý chi phí sản xuất trong Công ty May Đức Giang. Để thấy rõ hơn tình hình quản lý chi phí sản xuất kinh doanh trong những năm qua của Công ty thì cần đi sâu nghiên cứu, so sánh, phân tích chi phí sản xuất kinh doanh theo khoản mục giá thành của sản phẩm May Đức Giang qua hai năm 2001 và 2002. Biểu 4: Chi phí sản xuất kinh doanh tính theo khoản mục giá thành sản phẩm của công ty may đức giang NĂM 2001 Hàng FOB HABITEX (Tính cho 1sản phẩm) Đơn vị tính: đồng Khoản mục Đvt Định mức Đơn giá Thành tiền 1. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 92.788 - Chi phí nguyên vật liệu chính 77.625 + Vải chính m 2,5 22.500 56.250 + Vải lót m 2,5 8.550 21.375 - Chi phí nguyên vật liệu phụ 15.163 + Chỉ may Cuộn 0,125 5.300 663 + Nhãn mác Chiếc 1 3000 3.000 + Khóa Chiếc 3 3000 9.000 + Cúc dập Bộ 1 2.500 2.500 2. Chi phí nhân công trực tiếp 3.213 - Lương và các khoản phụ cấp 513 - Các khoản trích theo lương 15.550 3. Chi phí sản xuất chung 3.500 - Chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ 2.500 - Chi phí nhân viên phân xưởng 2.850 - Chi phí khấu hao TSCĐ 2.200 - Chi phí dịch vụ mua ngoài 2.000 - Chi phí bằng tiền khác 2.500 4. Chi phí bán hàng 12.950 - Chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ 3.050 - Chi phí nhân viên phân xưởng 2.800 - Chi phí khấu hao TSCĐ 3.9050 - Chi phí dịch vụ mua ngoài 1.600 - Chi phí bằng tiền khác 1.550 5. Chi phí quản lý doanh nghiệp 20.300 - Chi phí vật liệu quản lý 3.000 - Chi phí nhân viên quản lý 3.850 - Chi phí khấu hao TSCĐ 3.950 - Thuế, phí, lệ phí 3.000 - Chi phí dịch vụ mua ngoài 4.500 - Chi phí bằng tiền khác 2.000 Cộng 147.663 Biểu 5: Chi phí sản xuất kinh doanh tính theo khoản mục giá thành sản phẩm của công ty May đức giang NĂM 2002 Hàng FOB HABITEX (Tính cho 1 sản pẩm) Đơn vị tính: đồng Khoản mục Đvt Định mức Đơn giá Thành tiền 1. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 90.650 - Chi phí nguyên vật liệu chính 75.000 + Vải chính m 2,5 21.500 53.750 + Vải lót m 2,5 8.500 21.250 - Chi phí nguyên vật liệu phụ 15.650 + Chỉ may Cuộn 0,125 5.200 650 + Nhãn mác Chiếc 1 3.000 3.000 + Khóa Chiếc 3 3.000 9.000 + Cúc dập Bộ 1 3.000 3.000 2. Chi phí nhân công trực tiếp 2.975 - Lương và các khoản phụ cấp 2.500 - Các khoản trích theo lương 475 3. Chi phí sản xuất chung 13.000 - Chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ 4.200 - Chi phí nhân viên phân xưởng 2.000 - Chi phí khấu hao TSCĐ 2.160 - Chi phí dịch vụ mua ngoài 1.540 - Chi phí bằng tiền khác 3.100 4. Chi phí bán hàng 14.300 - Chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ 3.120 - Chi phí nhân viên phân xưởng 3.200 - Chi phí khấu hao TSCĐ 5.260 - Chi phí dịch vụ mua ngoài 1.200 - Chi phí bằng tiền khác 1.500 5. Chi phí quản lý doanh nghiệp 18.800 - Chi phí vật liệu quản lý 2.750 - Chi phí nhân viên quản lý 3.500 - Chi phí khấu hao TSCĐ 3.750 - Thuế, phí, lệ phí 2.800 - Chi phí dịch vụ mua ngoài 4.200 - Chi phí bằng tiền khác 1.800 Cộng 140.320 Để thấy được tình hình quản lý kinh doanh của Công ty cũng như để đưa ra được những đánh giá chính xác và tìm ra được những nhân tố ảnh hưởng, ta sẽ so sánh chi phí đơn vị sản phẩm giữa hai năm 2001và 2002. Biểu 6: So sánh tình hình thực hiện chi phí sản xuất kinh doanh năm 2001 và năm 2002. Đơn vị tính: đồng Khoản mục chi phí Năm 2001 Năm 2002 So sánh Tuyệt đối Tương đối (%) Chi phí NVL trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp Chi phí sản xuất chung Chi phí bán hàng 5. Chi phí quản lý DN Cộng 92.788 3.213 15.550 12.950 20.300 147.663 90.650 2.975 13.000 14.300 18.800 140.20 -2.138 -238 -2.550 +1.350 -1.500 -5.076 -2,3 -7,4 -16,3 +10,4 -7,4 -1,3 Qua bảng trên ta thấy, chi phí cho một đơn vị sản phẩm năm 2002 so với năm 2001 giảm 5076 đồng, tương ứng giảm với tỷ lệ là 1,3%. Với việc giảm chi phí sản xuất như vậy sẽ tạo điều kiện cho Công ty hạ được giá thành sản phẩm, đẩy mạnh công tác tiêu thụ hàng hoá và tăng lợi nhuận cho Công ty. Nhưng để đưa ra được những đánh giá chính xác và tìm ra được các nhân tố ảnh hưởng ta sẽ phân tích chi tiết từng khoản mục chi phí. 2.2.2.2. Tình hình thực hiện kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh của Công ty May Đức Giang. Lập dự toán chi phí sản xuất kinh doanh là việc tính toán trước mọi chi phí mà công ty dự chi trong kỳ kế hoạch để sản xuất và tiêu thụ sản phẩm. Lập kế hoạch sản xuất kinh doanh sẽ giúp cho Công ty có mục tiêu phấn đấu, có cơ sở để tìm tòi và khai thác mọi khả năng tiềm tàng trong sản xuất kinh doanh nhằm tiết kiệm chi phí và tăng doanh lợi doanh thu. ở Công ty, công tác lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh đã được chú trọng. Để lập kế hoạch chi phí sản xuất kinh doanh, Công ty căn cứ vào định mức nguyên vật liệu do phòng kỹ thuật lập ra để dự toán chi phí nguyên vật liệu. Căn cứ vào đơn giá tiền lương do bộ phận lao động tiền lương lập trên cơ sở định mức sản xuất của phòng kỹ thuật để lập kế hoạch chi phí nhân công trực tiếp. Căn cứ vào quy định của Nhà nước để lập kế hoạch các khoản trích theo lương và kế hoạch khấu hao tài sản cố định. Để phát huy được tác động tích cực tới các mặt hoạt động nhằm mục đích tiết kiệm chi phí sản xuất kinh doanh, Công ty lập kế hoạch giá thành đơn vị sản phẩm. Việc lập kế hoạch giá thành đơn vị sản phẩm, Công ty căn cứ vào định mức kinh tế kỹ thuật của sản phẩm, vào số lượng sản phẩm dự kiến hoàn thành, vào giá thành đơn vị sản phẩm năm trước, vào tình hình thị trường cung cấp đầu vào cho sản xuất của Công ty… Sau khi phân tích tình hình thực hiện và quản lý giá thành năm trước, kết hợp với căn cứ trên, Công ty dự kiến mức độ hoàn thành kế hoạch giá thành, phát hiện các khả năng tiềm tàng hạ giá thành kế hoạch để xác định giá thành đơn vị và giá thành toàn bộ sản phẩm kỳ kế hoạch. Biểu 7: kế hoạch chi phí sản xuất sản phẩm may đức giang Năm 2002 hàng fob habitex (Tính cho 1 sản phẩm) Đơn vị tính :đồng Khoản mục Đvt Định mức Đơn giá Thành tiền 1. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp 90.087,5 - Chi phí nguyên vật liệu chính 74.000 + Vải chính m 2,5 21.200 53.000 + Vải lót m 2,5 8.400 21.000 - Chi phí nguyên vật liệu phụ 16.087,5 + Chỉ may Cuộn 0,25 5.150 1.287,5 + Nhãn mác Chiếc 1 2.900 2.900 + Khóa Chiếc 3 2.900 8.700 + Cúc dập Bộ 1 3.200 3.200 2. Chi phí nhân công trực tiếp 3.100 - Lương và các khoản phụ cấp 2.600 - Các khoản trích theo lương 500 3. Chi phí sản xuất chung 13.800 - Chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ 4.200 - Chi phí nhân viên phân xưởng 2.400 - Chi phí khấu hao TSCĐ 2.200 - Chi phí dịch vụ mua ngoài 2.000 - Chi phí bằng tiền khác 3.000 4. Chi phí bán hàng 13.600 - Chi phí nguyên vật liệu, công cụ dụng cụ 3.050 - Chi phí nhân viên phân xưởng 2.950 - Chi phí khấu hao TSCĐ 5.100 - Chi phí dịch vụ mua ngoài 1.350 - Chi phí bằng tiền khác 1.150 5. Chi phí quản lý doanh nghiệp 20.000 - Chi phí vật liệu quản lý 3.000 - Chi phí nhân viên quản lý 3.600 - Chi phí khấu hao TSCĐ 3.700 - Thuế, phí, lệ phí 2.700 - Chi phí dịch vụ mua ngoài 4.200 - Chi phí bằng tiền khác 2.800 Cộng 140.587,5 Biểu 8: So sánh chi phí sản xuất thực tế với chi phí sản xuất kế hoạch sản phẩm may đức giang Năm 2002 Hàng fob habitex ( tính cho 1 sản phẩm ) Đơn vị tính : đồng Khoản mục chi phí Chi phí đơn vị kH Chi phí đơn vị tT So sánh Tuyệt đối Tương đối (%) Chi phí NVL trực tiếp Chi phí nhân công trực tiếp Chi phí sản xuất chung Chi phí bán hàng Chi phí quản lý DN Cộng 90.087,5 3.100 13.800 13.600 20.000 140.587,5 90.650 2.975 13.000 14.300 18.800 140.320 +562,5 - 125 - 800 +700 -1.200 - 862,5 +0,62 - 4,03 - 5,8 +5,1 - 6 - 10,11 Nhìn vào bảng trên ta thấy năm 2002, Công ty đã thực hiện được nhiệm vụ giảm chi phí sản xuất kinh doanh và hạ giá thành sản phẩm. Cụ thể, chi phí sản xuất đơn vị kế hoạch là 142.157,5 đồng/sản phẩm, nhưng chi phí đơn vị thực tế lại là 140.320 đồng/sản phẩm. Như vậy, chi phí thực tế đã giảm so với kế hoạch là 862,5 đồng/sản phẩm, giảm tương đối là 10,11%. 2.2.3. Quy trình quản lý chi phí sản xuất trong Công ty May Đức Giang. 2.2.3.1. Phương pháp tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp. 2.2.3.1.1. Đối với chi phí nguyên vật liệu chính trực tiếp. Tại Công ty May Đức Giang, nguyên vật liệu chính trực tiếp sản xuất là vải vì đặc điểm sản xuất của Công ty chủ yếu là sản xuất hàng giá công nên toàn bộ nguyên vật liệu chính đều do bên đặt hàng cung cấp cho Công ty theo điều kiện CIF Hải Phòng. (Chi phí vận chuyển từ nước đặt hàng đến cảng Hải Phòng là do bên đặt hàng chịu) hoặc theo điều kiện hợp đồng gia công. Số lượng nguyên vật liệu chính chuyển cho công ty được tính trên cơ sở số lượng sản phẩm đặt hàng và định mức nguyên vật liệu chính cho từng sản phẩm. Định mức này được khách hàng và công ty nghiên cứu xây dựng trên điều kiện mỗi bên. Ngoài phần nguyên vật liệu chính theo định mức trên, khách hàng còn có trách nhiệm chuyển cho Công ty 2- 3% số nguyên vật liệu chính để bù đắp vào số hao hụt trong qúa trình sản xuất. Vì nguyên vật liệu chính do bên đặt hàng cung cấp, Công ty chỉ có trách nhiệm nhận nguyên vật liệu ở cảng bốc xếp vận chuyển về đến kho của Công ty và toàn bộ chi phí được tính vào giá thành nguyên vật liệu chỉ bao gồm: Chi phí làm thủ tục hải quan, chi phí chuyên chở, chi phí thuê kho, thuê bãi...gọi chung là chi phí vận chuyển bốc dỡ. Do lượng vải nhập về không đo được và do yêu cầu của bên đặt hàng không cho đo vải (vì sợ nhàu vải) cho nên đòi hỏi phải theo dõi từ khâu cắt đến việc ghi chép lượng vải thiếu hụt hoặc dư thừa. Mặt khác, do sản phẩm sản xuất phần lớn là áo Jacket, có nhiều lớp và được sản xuất từ nhiều loại vải chính khác nhau, để theo dõi được từng loại, chi tiết cho từng mã hàng thì phải tổ chức kế toán hạch toán bàn cắt, ngoài ra còn theo dõi lượng vải thiếu hụt, dư thừa trong quá trình sản xuất để có chế độ thưởng, phạt nhằm khuyến khích, động viên tiết kiệm nguyên vật liệu. Quá trình theo dõi, quản lý và hạch toán nguyên vật liệu có thể được khái quát qua 2 nghiệp vụ: Nhập - Xuất cụ thể trên 2 mặt hiện vật và giá trị. - Nhập kho. * Với nguyên vật liệu nhận gia công nhập kho. Về mặt hiện vật: Căn cứ vào hợp đồng gia công giữa Công ty May Đức Giang và Công ty nước ngoài đã ký kết. Khi nguyên vật liệu đã được bên nước ngoài chuyển sang. Phòng kế hoạch cùng thủ kho tiến hành nhập kho vật liệu gia công vào kho vật liệu của công ty. Phòng kế hoạch lập 2 liên “phiếu nhập kho”: 1 liên giao thủ kho giữ, 1 liên lưu tại bộ phận kế hoạch. Về mặt giá trị: đến cuối quý phòng tài chính – kế toán tổng hợp số liệu trên sổ kế toán tổng hợp để xác định giá trị vật liệu nhận gia công (đó là tổng chi phí vận chuyển, bốc dỡ). * Nhập kho nguyên vật liệu do tiết kiệm được trong sản xuất. Phòng kế hoạch cùng thủ kho tiến hành nhập kho vật liệu, Phòng kế hoạch lập 2 liên “phiếu nhập kho” và cùng thủ kho kí vào. Số lượng vật liệu tiết kiệm này được các nhân viên hạch toán ở bàn cắt tiến hành theo dõi số lượng của toàn bộ các vật liệu đó trên Bảng nguyên liệu thu hồi. Cuối tháng các nhân viên này gửi toàn bộ các bảng nguyên liệu thu hồi lên cho phòng kế toán để kế toán nguyên vật liệu theo dõi. * Phế liệu thu hồi nhập kho: Trong quá trình sản xuất vào cuối mỗi kỳ sản xuất phế liệu không được tiến hành nhập kho mà tập trung tại 1 chỗ nhất định được thủ kho phụ liệu cân và ghi lại số phế liệu đã thải loại và thu hồi. Mặc dù thủ kho ghi lại nhưng không phản ánh trên sổ sách kế toán của Công ty. Biểu 8: Phiếu nhập kho nguyên vật liệu. Phiếu nhập kho Ngày 4 tháng 11 năm 2002 Mẫu số 02-VT QĐsố 141TC/QĐ/CĐKT Ngày 1/11/1995 BTC Số 1 Họ tên người nhận hàng: XN cắt may số 6 Lý do xuất kho : để sản xuất sản phẩm áo sơ mi mã 279320/106 của hãng Foowang Xuất tại kho: Nguyên liệu Stt Tên nhãn hiệu, qui cách, phẩm chất vật tư (sản phẩm, hàng hoá) mã số Đơn vị tính Số lượng Yêu cầu Thực nhập Đơn giá Thành tiền A B C D 1 2 3 4 1 Vải chính 279320/106 m 637,83 2 Vải lót ... m 447,8 ... Cộng ... - Xuất kho Để quản lý một cách chặt chẽ tình hình sử dụng vật liệu. Giám đốc Công ty đã kí duyệt bảng quy định định mức vật tư dùng cho sản xuất. Đồng thời, định mức tiêu hao các loại vải là căn cứ phân bổ chi phí vận chuyển các loại vải cho các đối tượng liên quan. * Theo dõi về mặt hiện vật: Khi xuất kho nguyên vật liệu, lượng xuất căn cứ vào lệnh sản xuất và định mức tiêu hao của từng mặt hàng. Tại kho: Thủ kho kết hợp với nhân viên kinh tế các xí nghiệp tiến hành theo dõi, quản lý số lượng vật liệu chính xuất dùng trong kì. Cụ thể: khi xuất kho vật liệu chính, số lượng xuất được thủ kho và nhân viên kinh tế xí nghiệp theo dõi trên “sổ giao vật tư - do thủ kho và nhân viên kinh tế xí nghiệp lập, có kí nhận chéo nhau. Cuối tháng, sau khi tổng hợp đối chiếu số lượng vật liệu chính xuất dùng trong tháng giữa thủ kho và nhân viên kinh tế xí nghiệp thì gửi về phòng kế hoạch để làm “phiếu xuất kho”. Phiếu xuất kho làm 3 liên: 1 liên thủ kho giữ, 1 liên gửi phòng kế hoạch và 1 liên cho nhân viên kinh tế phân xưởng giữ. + Cuối tháng, Kế toán vật liệu xuống kho để nhận tổng số chứng từ nhập, chứng từ xuất trong tháng từ thủ kho, sau khi đối chiếu chứng từ với thẻ kho và công nhận việc ghi chép của thủ kho là chính xác thì kế toán vật liệu sẽ kí xác nhận vào 1 cột của thẻ kho, rồi đem toàn bộ lượng chứng từ đó về phòng kế toán để ghi sổ. Tại xí nghiệp cắt may: Theo kế hoạch sản xuất ở từng phân xưởng, giám đốc phân xưởng căn cứ vào định mức vật tư của từng mã hàng trong từng đơn đặt hàng để tiến hành xin lĩnh vật tư. khi vật liệu được chuyển xuống xí nghiệp. ở phòng kế toán: đến cuối tháng kế toán vật liệu xuống kho nhận các chứng từ nhập, xuất (đã được thủ kho sắp xếp theo thứ tự thời gian) sau đó kế toán vật liệu tiếp tục phân loại từng loại chứng từ theo từng loại nguyên vật liệu để ghi vào các sổ chi tiết vật liệu nhập xuất tương ứng - “Sổ chi tiết vật liệu” được mở hàng quý khi có chứng từ, mỗi chứng từ nhập xuất được ghi một dòng trên sổ chi tiết nhập xuất vật liệu theo trình tự thời gian, kế toán chỉ theo dõi về mặt lượng. Biểu 9 Sổ chi tiết vật liệu Quý IV/2002 Hãng HABITEX – Mã hàng 2082 STT Tên vật tư ĐVT Dư đầu kỳ Nhập trong kỳ Xuất trong kỳ Dư cuối kỳ Lượng Tiền Lượng Tiền Lượng Tiền Lượng Tiền 1 Chi may Cuộn 0 984 984 0 2 Nhãn mác Chiếc 0 2.726 2.726 0 3 Khoá Chiếc 0 1.365 1.365 0 4 Cúc dập Bộ 0 6.820 6.820 0 5 Thẻ bài Cái 0 1.363 1.363 0 Cộng 0 13.285 13.285 0 Từ sổ chi tiết vật liệu kế toán sẽ lấy số liệu tổng hợp để ghi “sổ cân đối nhập - xuất - tồn” tài khoản tương ứng. Biểu 10 Sổ cân đối nhập – xuất – tồn Tên vật tư hàng hoá ĐVT Dư cuối kỳ Lượng Tiền I. Hàng tồn các loại Nhãn các loại Chiếc 313.458 0 Chỉ các loại Cuộn 0 0 ...................... II. Hàng mua ngoài Nhãn các loại Chiếc 403.593 123.373.859 Băng keo Cuộn 7.353 38.648.201 Khoá dài Chiếc 13.935 40.865.328 .......................... * Theo dõi về mặt giá trị: Chi phí vận chuyển bốc dỡ mỗi chuyến của nguyên vật liệu từ cảng Hải Phòng về kho của công ty được chia bình quân cho số vải ngoài của chuyến đó, mặc dù trong đó không chỉ có riêng vải ngoài mà còn cả vải lót, bông, nguyên phụ liệu... Sau đó, căn cứ vào lượng vải ngoài xuất kho cho các xí nghiệp trong quý để phân bổ chi phí vật chuyển bốc dỡ tính vào giá thành sản phẩm trong quý đó (không kể lượng vải ngoài xuất cho các xí nghiệp trong quý đó có sử dụng hết vào sản xuất sản phẩm hay không). Biểu 11: Phiếu xuất kho nguyên vật liệu phiếu xuất kho Ngày 04 tháng 11 năm 2002 Mẫu số 02-VT QĐ số 141TC/QĐ/CĐKT Ngày 1/11/1995 BTC Số 1 Họ tên người nhận hàng: XN cắt may số 6 Lý do xuất kho : để sản xuất sản phẩm áo sơ mi mã 279320/106 của hãng Foowang Xuất tại kho: Nguyên liệu Stt Tên nhãn hiệu, qui cách, phẩm chất vật tư (sản phẩm, hàng hoá) Mã số Đơn vị tính Số lượng Yêu cầu Thực xuất Đơn giá Thành tiền A B C D 1 2 3 4 1 Vải chính 279320/106 m 620,48 2 Vải lót ... m 438,5 ... Cộng ... Vật liệu trong Công ty chủ yếu xuất dùng cho sản xuất sản phẩm, ngoài ra còn có thể cho các nhu cầu khác như phục vụ và quản lý sản xuất trong phạm vi các xí nghiệp, bộ phận sản xuất khác như xuất mẫu, xuất bán, xuất trả . Việc xuất vật liệu cho các mục đích khác ngoài mục đích sản xuất sản phẩm kế toán đều không tiến hành xác định trị giá thực tế xuất kho cho các mục đích này mà chỉ theo dõi về mặt số lượng. Có nghĩa là không phân bổ chi phí vật liệu xuất kho cho các đối tượng sử dụng mà tính hết vào chí phí sản xuất sản phẩm. Trường hợp công ty phải mua vật liệu chính đưa vào sản xuất thì việc theo dõi về mặt hiện vật ở từng xí nghiệp vẫn được giữ nguyên. Nhưng giá thực tế của vật liệu được đưa vào giá thành sản xuất trong kì thay cho việc hạch toán chi phí vận chuyển, bốc dỡ vào giá thành sản phẩm. 2.2.3.1.2. Đối với chí phí nguyên vật liệu phụ trực tiếp Vật liệu phụ tuy không cấu thành nên thực thể chính của sản phẩm may, song nó lại là những vật liệu không thể thiếu được hoặc làm tăng thêm giá trị sản phẩm như: Chỉ, cúc, nhãn, khoá kéo... ở Công ty May Đức Giang, vật liệu phụ gồm 2 loại, đó là: một loại vật liệu phụ của khách hàng gửi đến theo một định mức thoả thuận tương ứng với số lượng sản phẩm mà công ty phải giao cho họ sau một thời gian nhất định và một loại vật liệu phụ do công ty mua.Vật liệu phụ của công ty được chi tiết là: vật liệu phụ, nhiên liệu, phụ tùng thay thế, thiết bị xây dựng cơ bản, bao bì. Vật liệu phụ được cung cấp cho các XN căn cứ vào định mức vật liệu phụ cho các đơn vị sản phẩm và số lượng bán thành phẩm đã cắt được ở từng XN may. Định mức vật liệu phụ thường phù hợp với tiêu hao thực tế như 1 cái áo cần 1 bộ khuy. Trường hợp vật liệu phụ kém phẩm chất hoặc mất mát, hao hụt trong sản xuất thường không vượt quá phạm vi cho phép là 3% hao hụt trong định mức. Đối với bộ phận vật liệu phụ mà khách hàng yêu cầu công ty mua: Công ty phải bỏ tiền ra mua những vật liệu cần thiết theo đơn đặt hàng, kế toán theo dõi việc nhập xuất kho vật liệu cả về số lượng và giá trị, đồng thời giá trị của những vật liệu phụ này được hạch toán vào khoản mục chi phí vật liệu phụ trực tiếp.Vật liệu phụ khi được mua về nhập kho rồi xuất cho các XN sản xuất theo đơn đặt hàng. Căn cứ vào các phiếu xuất kho vật liệu phụ, hàng quý kế toán NVL tiến hành tính giá thực tế của vật liệu phụ xuất dùng. Đơn giá vật liệu phụ xuất dùng được công ty sử dụng là đơn giá bình quân gia quyền: Giá thực tế VL phụ i Giá thực tế VL phụ i Đơn giá bình quân tồn đầu quý + nhập trong quý gia quyền vật liệu = phụ i Khối lượng VL phụ i Khối lượng VL phụ i tồn đầu quý + nhập trong quý Từ đó tính được: x Giá thực tế xuất kho Số lượng Đơn giá bình quân VL phụ i = VL phụ i gia quyền VL phụ i Thực tế ở công ty trong quý IV/2002, để sản xuất các mã hàng cho hãng HABITEX, Công ty Đức Giang xuất dùng 67.679 chiếc cúc dập hai phần. Đầu quý IV, lượng cúc loại này còn 14.540 chiếc, đơn giá mỗi chiếc là 1000 đ. Theo phiếu nhập kho trong quý, lượng cúc dập hai phần do Công ty mua hộ HABITEX nhập về là 55.252 chiếc với đơn giá 950 đ. Như vậy, giá trị xuất kho của loại phụ liệu này là: Đơn giá bình quân 14.540 x 1000 + 55.252 x 950 gia quyền của = = 960,41 đ/m vải lót 14.540 + 55.252 Giá thực tế xuất kho của vải lót = 960,41 x 67.679 = 65.000.040đ Các loại phụ liệu khác của HABITEX cũng được tính giá theo cách trên. Sau đó, Kế toán NVL sẽ tổng hợp lại cho tất cả các đơn đặt hàng trong quý. 2.3.Công tác quản lý sử dụng chi phí nguyên vật liệu . 2.3.1. Công tác quản lý sử dụng chi phí nguyên vật liệu trực tiếp Như ở phần trước ta đã đề cập, do hoạt động gia công xuất khẩu chiếm hơn 80 đến 90% toàn bộ hoạt động sản xuất của công ty. Chi phí về nguyên vật liệu trực tiếp chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong giá thành sản phẩm. Trong đó, nguyên vật liệu chính do khách hàng gửi đến theo định mức thoả thuận trong hợp đồng kí kế với công ty; nguyên vật liệu phụ có thể do khách hàng gửi đến hoặc do công ty mua hộ khách hàng. 2.3.1.1. Tình hình quản lý, sử dụng vật liệu chính trực tiếp. Bởi chi phí nguyên vật liệu chính không cấu thành giá thành sản phẩm nên công ty chỉ theo dõi về mặt lượng chứ không theo dõi về mặt giá trị. Song trên thực tế, Công ty May Đức Giang rất chú trọng đến việc tiết kiệm nguyên vật liệu chính trong sản xuất vì ngoài việc tận dụng được lượng nguyên vật liệu tiết kiệm (khi ký kế hợp đồng, phía khách hàng luôn giao thêm 2%- 3% định mức nguyên vật liệu chính để bù đắp vào số hao hụt trong quá trình sản xuất) nó còn đảm bảo cho Công ty có thể giao hàng cho khách hàng đúng tiến độ, đủ hợp đồng, tránh tình trạng thiếu nguyên liệu, giữ uy tín lâu dài cho công ty. Để theo dõi, đánh giá và đôn đốc việc tiết kiệm một cách sát sao, Công ty đã bố trí nhân viên kinh tế xí nghiệp làm công tác hạch toán bàn cắt. Nhân viên kinh tế XN có nhiệm vụ theo dõi từng chủng loại nguyên phụ liệu đưa vào sản xuất theo từng mặt hàng của XN, theo dõi từng sản lượng bán thành phẩm cắt ra, tình hình nhập kho thành phẩm. ở từng XN, căn cứ vào phiếu giao việc hàng ngày, công nhân trải vải phải trải lá vải theo mẫu giác đồ của phòng kỹ thuật. Cuối ngày, họ có trách nhiệm đo, gấp, phân loại nguyên vật liệu thu hồi dưới dạng đầu tấm theo mức lượng mét và báo lại cho nhân viên hạch toán bàn cắt. Việc nhập kho đầu tấm được thực hiện vào cuối mỗi mã hàng theo quy định: đầu tấm trên 2m nhập lại kho nguyên liệu, đầu tấm dưới 2m nhập lại kho thay thân đổi màu, phục vụ sửa hàng lỗi hoặc thay thế hàng hỏng. Việc nhập kho đầu tấm và việc báo cáo tiết kiệm có thể không trùng thời gian vì công tác hạch toán bàn cắt chỉ được thực hiện vào cuối tháng. Các loại vải của một mã hàng được theo dõi riêng trên một tờ phiếu, xếp từng tập riêng cho từng mã. Để xác định tình hình tiết kiệm, nhân viên hạch toán bàn cắt lập phiếu theo dõi bàn cắt và tình hình thu hồi đầu tấm theo công thức: Tổng số lá x Số bộ (mẫu loại) = Tổng số BTP Tổng số lá x Chiều dài một lá = Tổng nguyên liệu tiêu hao NVL nhập - (NVL tiêu hao + NVL thu hồi) = Chênh lệch thừa (thiếu) Việc xuất kho hoàn toàn dựa theo định mức kỹ thuật nên việc thừa vải được xác định là sự cố gắng của XN. Để khuyến khích tiết kiệm, công ty có quy định thưởng 50% thu nhập hàng nội địa từ số thành phẩm tiết kiệm cho XN. (vải tiết kiệm được thường dùng sản xuất hàng bán nội địa). Trường hợp vải trong cây thiếu hoặc bị lỗi không sử dụng được trước khi tiến hành cắt mẫu, nhân viên kinh tế phải báo cho thủ kho, lập biên bản và trình với lãnh đạo cấp trên xử lý thì việc thiếu sót này không nằm trong trách nhiệm của XN. Trường hợp thiếu vải do lỗi của công nhân, nhân viên hạch toán bàn cắt cũng phải lập biên bản, gửi về phòng TC-KT để giải quyết trừ lương của công nhân đó. Để đảm bảo tiến độ sản xuất, lượng vải thiếu sẽ được nhập thêm từ kho nguyên liệu từ những lô vải cùng loại ngoài định mức. 2.3.1.2. Tình hình quản lý, sử dụng vật liệu phụ trực tiếp. Bên cạnh việc chú trọng tiết kiệm nguyên vật liệu chính, Công ty May Đức Giang, cũng rất quan tâm đến việc sử dụng hợp lý chi phí nguyên vật liệu phụ. Như vật liệu chính, vật liệu phụ được đưa vào sản xuất theo định mức kỹ thuật trong hợp đồng nên việc quản lý sử dụng được tiến hành theo định mức đó. Thực tế, trong tháng 12/2002, tại xí nghiệp 9 với mã hàng 279320, bộ phận may nhận được 362 BTP cắt từ bàn cắt. Kết quả tổng kết của nhân viên kinh tế XN cho thấy, trong tháng bộ phận may đã tiết kiệm được 0,4m dựng. 2.3.2. Công tác quản lý chi phí nhân công trực tiếp Với hoạt động chính là gia công hàng xuất khẩu, chi phí tiền lương trong giá thành sản xuất là khoản chi phí rất lớn. Vì vậy, công tác quản lý quỹ tiền lương đang là mối quan tâm lớn của Công ty May Đức Giang. Công ty May Đức Giang trả lương cho công nhân theo hình thức lương sản phẩm. Trong từng XN, quỹ lương được xác định là : Trong đó: QLSi : Quỹ lương sản phẩm XN i SLJ : Sản lượng mã hàng j hoàn thành nhập kho XN i GJ : Đơn giá gia công mã hàng j theo hợp đồng PJ : Phí quata của mã hàng j T._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNH359.doc
Tài liệu liên quan