Quản lý chất lượng - Thực trạng và một số giải pháp nhằm áp dụng một cách hợp lý và hiệu quả hệ thống quản trị chất lượng trong các DNCN Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Quá trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ kế hoạch hóa tập trung sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước trong những năm qua đã tạo ra được những động lực to lớn, thúc đẩy nền kinh tế phát triển một cách vượt bậc trong nhiều lĩnh vực. Đặc biệt ngành sản xuất vải đang sợi đóng vai trò hết sức quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế thành phố nói riêng và nền kinh tế cả nước nói chung. Ngành sản xuất vải sợi trong những năm qua được đánh giá là một trong những ngành

doc27 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1205 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quản lý chất lượng - Thực trạng và một số giải pháp nhằm áp dụng một cách hợp lý và hiệu quả hệ thống quản trị chất lượng trong các DNCN Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kinh tế mũi nhọn của nước. Với sự phát triển mạnh mẽ của mình ngành vải sợi đã làm thay đổi bộ mặt xã hội theo chiều hướng tích cực, góp phần vào công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước. Trong nền kinh tế hiện nay, mọi doanh nghiệp đều hướng đến mục tiêu đạt lợi nhuận tối đa cho mình và đem lại hiệu quả xã hội. Tuy nhiên để doanh nghiệp của mình kinh doanh đạt hiệu quả thì nhà quản trị luôn luôn phải dựa vào các thông tin từ các báo cáo tài chính để có thể đánh giá được khả năng tài chính của mình, khả năng sinh lãi, những rủi ro và những triển vọng để từ đó định hướng cho mình kế hoạch sản xuất kinh doanh. Báo cáo tài chính là tổng hợp về tình hình tài chính của doanh nghiệp trong một giai đoạn cụ thể, sau khi được phân tích báo cáo tài chính sẽ cho thấy các dự báo tài chính cũng như thực trạng của doanh nghiệp, khả năng thanh toán, khả năng sinh lợi của doanh nghiệp v.v.. Và đứng ở góc độ nhà quản lý hay nhà đầu tư sẽ có những quyết định cụ thể về chiến lược kinh doanh thông qua kết quả phân tích báo cáo tài chính. Ngoài ra phân tích báo cáo tài chính còn giúp cho các cơ quan quản lý nhà nước thực hiện tốt công tác quản lý kinh tế của mình trong việc giám sát việc thực hiện nghĩa vụ thuế… Với vai trò thật sự quan trọng đó, phân tích báo cáo tài chính đã trở thành một công việc không thể thiếu đối với mọi loại hình doanh nghiệp. Nhận thấy tầm quan trọng của việc phân tích báo cáo tài chính, kết hợp với quá trình học tập ở trường, và nghiên cứu tiếp cận thực thế ở công ty em nhận thấy đề tài “ Phân tích tình hình tài chính” phù hợp với tình hình thực tế và em đã chọn đề tài này làm chuyên đề tốt nghiệp của mình. Với đề này, em sẽ tiến hành phân tích về tình hình tài chính tại một đơn vị kinh tế thông qua báo cáo tài chính của đơn vị kinh tế gồm: bảng cân đối kế toán và bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh. Do kiến thức và kinh nghiệm có hạn nên chuyên đề tốt nghiệp của em không tránh khỏi những khuyết điểm nhất định. Kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của quý cơ quan và của quý thầy cô. PHẦN I : CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH I/ KHÁI NIỆM, Ý NGHĨA VÀ TÁC DỤNG CỦA VIỆC PHÂN TÍCH BÁO CÁO TÀI CHÍNH : 1/ Khái Niệm : Phân tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp là việc nghiên cứu mối quan hệ tương hỗ và phụ thuộc giữa các hiện tượng kinh tế, đánh giá và phân tích các hoạt động kinh tế góp phần đề xuất các giải pháp quản lý tối ưu.Và phân tích tài chính chính là một bộ phận không thể thiếu trong phân tích hoạt động kinh tế của doanh nghiệp. Tài chính là tất cả các mối quan hệ kinh tế biểu hiện dưới hình thức tiền tệ phát sinh trong quá trình hình thành và sử dụng các quỹ tiền tệ cho quá trình tái sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Chính vì thế mà phân tích tài chính là việc tiến hành phân tích các số liệu cụ thể của báo cáo tài chính nhằm phát hiện nguyên nhân và đề ra biện pháp giải quyết giúp cho việc sản xuất kinh doanh đạt hiệu quả cao. Nói một cách khác, phân tích tình hình tài chính là một quá trình kiểm tra, đối chiếu,so sánh các số liệu tài chính của doanh nghiệp hiện hành và quá khứ, qua đó đánh giá một cách tổng quát tình hình tài chính thông qua việc xem xét chủ thể các loại vốn và nguồn vốn của doanh nghiệp, khả năng thanh toán và khả năng bảo toàn vốn,từ đó có thể thấy được thực trạng tài chính,các rủi ro,tiềm năng và phương hướng đầu tư phát triển của doanh nghiệp Tóm lại, phân tích tình hình tài chính là việc xem xét quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh để từ đó rút ra những ưu nhược điểm trong quá trình thực hiện xác định các nguyên nhân ảnh hưởng và đề ra biện pháp cải tiến tình hình ở kỳ sau được tốt hơn. 2/ Ý Nghĩa Của Việc Phân Tích : Phân tích báo cáo tài chính là quá trình xem xét, kiểm tra đối chiếu và so sánh số liệu về tình hình tài chính hiện hành và quá khứ. Thông qua đó việc phân tích báo cáo tài chính giúp cho người sử dụng thông tin có thể đánh giá sức mạnh tài chính, khả năng sinh lãi, hiệu quả kinh doanh, triển vọng cũng như những rủi ro trong tương lai của doanh nghiệp. Báo cáo tài chính rất hữu ích đối với các nhà quản trị doanh nghiệp, đồng thời là nguồn thông tin tài chính chủ yếu đối với những người ngoài doanh nghiệp như các nhà đầu tư, các cổ đông, các chủ nợ, khách hàng v.v.. giúp người sử dụng thông tin quyết định lựa chọn phương án kinh doanh tối ưu và đánh giá chính xác thực trạng, tiềm năng của doanh nghiệp. 3/ Tác Dụng Của Phân Tích Báo Cáo Tài Chính: Báo cáo về tình hình tài chính của doanh nghiệp được nhiều nhóm người quan tâm và các nhóm người này có nhu cầu thông tin khác nhau, do vậy mỗi một nhóm có xu hướng tập trung vào những khía cạnh riêng cần quan tâm về tình hình tài chính của một công ty. Đối với nhà quản lý: Là người điều hành quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh nên mối quan tâm chính luôn là tính hiệu quả trong sản xuất kinh doanh và lợi nhuận đạt được tối đa.Thông qua cơ sở phân tích báo cáo tài chính, nhà quản lý có thể định hướng hoạt động, lập kế hoạch, kiểm tra tình hình thực hiện và có các điều chỉnh phù hợp cho quá trình hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.. Đối với đơn vị chủ nợ, chủ sở hữu : Mối quan tâm của nhóm này là lợi nhuận và khả năng trả nợ. Vì vậy phân tích báo cáo tài chính có thể giúp đánh giá hiệu quả của quá trình sản xuất kinh doanh, khả năng thanh toán, lượng vốn của chủ sở hữu để đánh giá khả năng trả nợ của đơn vị trước khi quyết định tài trợ cho vay. Đối với nhà đầu tư: Phân tích tình hình tài chính giúp cho thấy sự an toàn về lượng vốn đầu tư, mức độ sinh lãi và thời gian hoàn vốn, đó chính là mối quan tâm của các nhà đầu tư. Họ tiến hành xem xét các thông tin về tài chính, tình hình hoạt động, kết quả kinh doanh tiềm năng tăng trưởng của doanh nghiệp thông qua báo cáo tài chính qua các thời kỳ để ra quyết định có nên đầu tư hay không, đầu tư dưới hình thức nào, lĩnh vực nào là tối ưu nhất. Đối với các cơ quan chức năng : Thông qua các thông tin của báo cáo tài chính sẽ xác định các nghĩa vụ mà doanh nghiệp phải thực hiện đối với nhà nước như : nộp thuế cho ngân sách… II/ PHƯƠNG PHÁP PHÂN TÍCH : Khi phân tích các chỉ tiêu về tình hình tài chính của doanh nghiệp, ta cần sử dụng một số phương pháp sau đây : 1) Phương Pháp So Sánh : Là so sánh kỳ này với kỳ trước để thấy rõ xu hướng thay đổi về tài chính của doanh nghiệp, qua đó thấy được tình hình tài chính của doanh nghiệp được cải thiện hoặc xấu đi như thế nào để có biện pháp điều chỉnh kịp thời. So sánh kỳ này với mức trung bình của ngành để thấy tình hình tài chính của doanh nghiệp đang ở hiện trạng tốt hay xấu, đã được hay chưa, so với doanh nghiệp cùng ngành. Đây là phương pháp chủ yếu được dùng để phân tích báo cáo tài chính. Khi tiến hành so sánh cần phải giải quyết vấn đề các điều kiện so sánh, các tiêu chuẩn so sánh, và hình thức so sánh. a) Điều kiện so sánh : Các chỉ tiêu kinh tế phải được hình thành trong cùng một khoảng thời gian như nhau Các chỉ tiêu kinh tế phải cùng đơn vị đo lường như : đồng, ký lô,mét… Các chỉ tiêu kinh tế phải thống nhất về nội dung và phương pháp thanh toán. Ngoài ra, khi so sánh các chỉ tiêu tương ứng phải quy đổi về cùng một quy mô hoạt động với các điều kiện kinh doanh tương tự như nhau. b) Tiêu chuẩn so sánh : Tiêu chuẩn so sánh là các chỉ tiêu được chọn lựa làm căn cứ so sánh (còn gọi là kỳ gốc) tùy theo mục đích, yêu cầu phân tích mà chọn kỳ gốc cho thích hợp : - Khi nghiên cứu xu hướng của sự thay đổi, kỳ gốc được chọn là số liệu của kỳ trước. Thông qua sự so sánh kỳ này và kỳ trước sẽ thấy được tình hình tài chính được cải thiện hay xấu đi như thế nào có biện pháp khắc phục trong kỳ tới. - Khi nghiên cứu biến động so với tiêu chuẩn đặt ra, kỳ gốc được chọn là tài liệu kế hoạch dự toán. Qua đó ta thấy được mức độ phấn đấu của doanh nghiệp như thế nào. - Khi nghiên cứu mức độ tiên tiến hay lạc hậu, kỳ gốc được chọn là mức độ trung bình ngành. Qua đó ta có thể đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp so với các đơn vị khác trong ngành. - Khi nghiên cứu một sự kiện nào đó trong tổng thể về một chỉ tiêu kinh tế nào đó gọi là quá trình phân tích theo chiều dọc. Thông qua sự so sánh này thấy được tỷ trọng của sự kiện kinh tế trong chỉ tiêu tổng thể. - Khi nghiên cứu mức độ biến động của một chỉ tiêu kinh tế nào đó qua các kỳ khác nhau gọi là phân tích theo chiều ngang. Thông qua sự so sánh này thấy được sự biến đổi cả về số tương đối và số tuyệt đối của một chỉ tiêu nào đó qua các kỳ liên tiếp c) Hình thức so sánh : * So sánh bằng số tuyệt đối : Được biểu hiện bằng một con số tuyệt đối cụ thể, phản ánh sự chênh lệch về quy mô hay khối lượng các chỉ tiêu so sánh. Các số tuyệt đối được so sánh phải có cùng một nội dung phản ánh, các tính toán xác định, phạm vi, kết cấu và đơn vị đo lường của hiện tượng vì thế ứng dụng số tuyệt đối trongphân tích so sánh phải nằm trong khuôn khổ nhất định. * So sánh bằng số tương đối : Là số biểu thị dưới dạng số phần trăm, số tỷ lệ hoặc hệ số, sử dụng số tương đối có thể đánh giá được sự thay đổi kết cấu của hiện tượng kinh tế, mối quan hệ, tốc độ và mức độ phát triển của các chỉ tiêu phân tích. Đặc biệt cho phép liên kết các chỉ tiêu không tương đương để phân tích so sánh. Tuy nhiên, số tương đối không phản ánh được thực chất bên trong cũng như qui mô của hiện tượng kinh tế. Vì vậy, trong nhiều trường hợp, khi so sánh cần kết hợp đồng thời cả số tuyệt đối và số tương đối. Có các loại số tương đối sau : Số tương đối kế hoạch : Phản ánh mức độ của các kỳ khác so với kỳ kế hoạch. Số tương đối động thái : Phản ánh nhịp độ biến động hay tốc độ tăng trưởng của chỉ tiêu so sánh. Số tương đối kết cấu : Phản ánh tỷ trọng của từng bộ phận chiếm trong tổng thể. * So sánh bằng số bình quân : Là số phản ánh mặt chung của hiện tượng, bỏ qua sự phát triển không đồng đều của các bộ phận cấu thành hiện tượng kinh tế của doanh nghiệp, xây dựng các định mức kinh tế, kỹ thuật… Sử dụng số bình quân cần tính tới các khoản dao động tối đa, tối thiểu. Số bình quân được tính bằng cách sang bằng sự chênh lệch về trị số của các chỉ tiêu để phản ánh đặc điểm điển hình của một tổ chức, một bộ phận hay một đơn vị… sau đó so sánh mức độ của doanh nghiệp với số bình quân chung của tổng thể ngành. Phương pháp phân tích so sánh này được áp dụng rộng rãi và là phương pháp đơn giản nhất nó vừa là cơ sở cho các phương pháp phân tích khác. Phương pháp này có thể theo dõi trong một năm hay trong nhiều năm liên tiếp và có thể sử dụng xen kẽ với nhiều phương pháp khác. Tuy nhiên có thể so sánh được cần giải quyết các vấn đề cơ bản sau : Tiêu chuẩn ở đây là chỉ tiêu được chọn làm căn cứ so sánh (Kỳ gốc để so sánh) tùy theo yêu cầu phân tích mà chọn kỳ gốc thích hợp, các chỉ tiêu chọn lựa để so sánh đòi hỏi phải có mối quan hệ vốn có và khả năng biểu hiện về mặt lượng các hiện tượng kinh tế tài chính. Khi nghiên cứu nhịp độ biến động, tốc độ phát triển của các chỉ tiêu kinh tế, kỳ gốc được chọn là chỉ tiêu năm trước, hoặc kỳ trước. Còn khi nghiên cứu thực tế đạt được so với chỉ tiêu đề ra gốc so sánh là con số kê hoạch hoặc là con số của năm trước v..v.. 2) Phương Pháp Thay Thế Liên Hoàn : Vận dụng nguyên lý của phương pháp cân đối vào phương pháp thay thế liên hoàn để xác định mức độ ảnh hưởng của các nhân tố tới cùng một chỉ tiêu được phân tích. Thay thế liên hoàn là thay thế lần lược các số liệu gốc bằng số liệu muốn so sánh của các nhân tố có ảnh hưởng đến một chỉ tiêu kinh tế được phân tích. Theo một trình tự như sau: Thay đổi nhân tố lượng trước rồi đến thay đổi nhân tố chất. Thay đổi nhân tố khối lượng trước rồi đến thay đổi nhân tố trọng lượng. Bên cạnh các phương pháp đã nêu trên, công việc phân tích còn sử dụng các phương pháp khác như : phương pháp tỷ lệ, phương pháp chỉ số, phương pháp đồ thị, biểu đồ v.v.. Và tùy theo yêu cầu đòi hỏi mà lựa chọn, kết hợp các phương pháp thích hợp để đạt hiệu quả trong việc phân tích. III/ THÔNG TIN TÀI LIỆU SỬ DỤNG KHI PHÂN TÍCH TÀI CHÍNH : Khi phân tích tình hình tài chính, tài liệu quan trọng nhất được sử dụng là báo cáo tài chính mà chủ yếu là bảng cân đối kế toán và báo cáo kết quả kinh doanh. 1/ Bảng Cân Đối Kế Toán (mẫu số B 01 – DN) Khái niệm và ý nghĩa: - Bảng cân đối kế toán là báo cáo tài chính tổng hợp, phản ảnh tổng quát toàn bộ giá trị tài sản hiện có và nguồn hình thành tài sản của doanh nghiệp tại một thời điểm nhất định. - Bảng cân đối kế toán có ý nghĩa rất quan trọng trong công tác quản lý. Số liệu của bảng cân đối kế toán sẽ cho biết toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp theo cơ cấu của tài sản,nguồn vốn và cơ cấu nguồn vốn hình thành tài sản đó. Căn cứ vào bảng cân đối kế toán có thể nhận xét, đánh giá khái quát tình hình chính của doanh nghiệp. Kết cấu của bảng cân đối kế toán gồm có 2 phần : Phần tài sản : Phản ảnh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo theo cơ cấu tài sản và hình thức tồn tại trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó gồm có : + Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn + Tài sản cố định và đầu tư dài hạn: Phần nguồn vốn : Phản ảnh nguồn hình thành tài sản hiện có của doanh nghhiệp tại thời điểm báo cáo. Tỷ lệ và kết cấu của từng nguồn vốn trong tổng nguồn vốn hiện có, phản ảnh tính chất hoạt động, thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Phần nguồn vốn gồm có: + Nợ phải trả + Nguồn vốn chủ sở hữu Bảng cân đối kế toán gồm hai phần tài sản và nguồn vốn. Do vậy tổng số tài sản và tổng các nguồn vốn luôn luôn cân đối với nhau : Tổng số tài sản = Tổng số các nguồn vốn 2/ Báo Cáo Kết Quả Hoạt Động Sản Xuất Kinh Doanh : Khái niệm và ý nghĩa: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh là các báo cáo tài chính tổng hợp, phản ảnh tổng quát tình hình và kết quả kinh doanh trong một kỳ kế toán của doanh nghiệp, chi tiết theo hoạt động kinh doanh chính và các hoạt động khác, tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước và các khoản phải nộp khác. Kết cấu của bảng báo cáo gồm hai phần : + Phần 1 : Thu nhập và phân phối thu nhập. Phần này bao gồm các chỉ tiêu liên quan đến việc tính toán kết quả sản xuất kinh doanh. Số liệu trong phần này cung cấp các thông tin về tổng doanh thu bán hàng, thuế doanh thu, giá vốn hàng bán, lãi gộp, chi phí bán hàng, chi phí quản lý, lãi thuần từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính, các khoản thu thực, lãi thuần. Qua số liệu này góp phần kiểm tra và đánh giá các mặt hoạt động kinh doanh tốt hay xấu để các nhà đầu tư yên tâm với khoản vốn đã tham gia đầu tư, các cơ quan chức năng đánh giá đúng mức hoạt động sản xuất kinh doanh. + Phần 2 : Tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước. Phần này phản ánh tình hình thực hiện nghĩa vụ với nhà nước như thuế thu nhập doanh nghiệp, BHXH, kinh phí công đoàn v.v.. IV/ NỘI DUNG PHÂN TÍCH TÌNH HÌNH TÀI CHÍNH : 1/ Đánh Giá Tình Hình Tài Chính Qua Bảng Cân Đối Kế Toán: a) Đánh giá khái quát sự biến động về vốn và nguồn vốn: Đánh giá khái quát tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ cung cấp một cách tổng quát tình hình tài chính trong kỳ kinh doanh của doanh nghiệp. Chủ yếu đánh giá 1 cách khái quát sự biến động giữa các năm về tài sản và nguồn vốn. Để đánh giá về quy mô của doanh nghiệp ta so sánh tài sản cố định và nguồn hình thành của các năm, giữa cuối năm và đầu năm. Đồng thời so sánh giá trị và tỷ trọng của các chỉ tiêu qua các năm, giữa cuối năm và đầu năm để thấy nguyên nhân ảnh hưởng tình hình trên. So sánh tổng số tài sản (vốn) và tổng số nguồn vốn giữa cuối kỳ với đầu năm để thấy được qui mô vốn mà đơn vị sử dụng trong kỳ cũng như khả năng huy động vốn từ các nguồn khác nhau của doanh nghiệp đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh So sánh giữa các khoản thu và các khoản trả ở đầu năm và ở cuối năm để đánh giá các khoản phải thu và phải trả đến thời điểm báo cáo. Điều này giúp thấy được hiệu quả của việc khai thác các nguồn vốn chiến dụng nhằm đem lại lợi nhuận chodoanh nghiệp. b) Đánh giá tình hình tài chính qua bảng cân đối kế toán : Kết quả kinh doanh là kết quả cuối cùng của hoạt động sản xuất và các hoạt động khác trong một kỳ hạch toán. Đánh giá tình hình tài chính qua bảng báo cáo kết quả kinh doanh là căn cứ vào số liệu đã phản ánh trên bảng báo cáo kết quả kinh doanh để so sánh các chỉ tiêu giữa năm này với năm trước để qua đó cho thấy được hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đang trên đà phát triển hay có chiều hướng suy thoái. Đồng thời ta còn phải so sánh giữa thực hiện với kế hoạch để thấy được doanh nghiệp có đạt được mức kế hoạch đề ra hay không. Trên cơ sở đó tìm ra nguyên nhân nào dẫn đến tình trạng tăng lên hay giảm xuống giữa năm nay so với năm trước, đạt hay không đạt mức kế hoạch của hoạt động sản xuất kinh doanh trong năm. Để đánh giá tình hình tài chính qua bảng cân đối có các phương pháp sau b.1 Phương pháp phân tích theo chiều ngang : Là quá trình so sánh, xác định tỷ lệ và chiều hướng tăng giảm của các khoản mục tài sản, nguồn vốn theo thời gian, nhằm tìm kiếm biến động giữa các khoản mục đó, qua đó thấy được mối quan hệ của các chỉ tiêu, khoản mục cần phân tích. Đánh giá các biến động tài sản : Phần tài sản phản ảnh toàn bộ giá trị tài sản hiện có của doanh nghiệp tại thời điểm báo cáo. Phần tài sản phản ánh các nội dung sau đây : Tài sản lưu động và đầu tư ngắn hạn: (đến thời điểm báo cáo) - Vốn bằng tiền : Xu hướng chung vốn bằng tiền giảm được đánh giá là tích cực, vì không nên dự trữ lượng tiền mặt và số dư tiền gởi ngân hàng quá lớn mà phải giải phóng nó đưa vào sản xuất kinh doanh, tăng vòng quay vốn và trả nợ. Tuy nhiên ở khía cạnh khác sự gia tăng vốn bằng tiền làm khả năng thanh toán nhanh của doanh nghiệp thuận lợi. - Đầu tư ngắn hạn: Là các khoản đầu tư có thời hạn thu hồi vốn hoặc một chu kỳ kinh doanh dưới một năm, như đầu tư chứng khoán ngắn hạn và đầu tư ngắn hạn khác. Nếu giá trị này tăng lên chứng tỏ doanh nghiệp mở rộng liên doanh và đầu tư, nhưng để đánh giá sự tăng này có tích cực không cần xem xét hiệu quả của việc đầu tư đem lại. - Các khoản phải thu : Là giá trị tài sản của doanh nghiệp bị các đơn vị khác chiếm dụng (các khoản phải thu phải thanh toán với nhau giữa các đơn vị trực thuộc,với khách hàng, các khoản ứng trước người bán, các khoản thế chấp, ký cược, ký quỹ...). Các khoản phải thu giảm được đánh giá là tích cực nhất. Tuy nhiên cần chú ý rằng không phải lúc nào các khoản phải thu tăng lên thì đánh giá là không tốt mà có trường hợp doanh nghiệp mở rộng các mối quan hệ kinh tế thì khoản này tăng lên là điều tất yếu. Vấn đề đặt ra là xem xét số vốn bị chiếm dụng có hợp lý không. - Hàng tồn kho : Là các loại hàng tồn kho dự trữ cho quá trình sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp sau khi đã trừ đi dự phòng và giảm giá. Hàng tồn kho tăng lên do qui mô sản xuất mở rộng nhiệm vụ sản xuất tăng lên trong trường hợp thực hiện tất các các định mức dự trữ đánh giá hợp lý. Hàng tồn kho giảm do giảm định mức dự trữ vật tư, thành phẩm, sản phẩm dở dang bằng các biện pháp như tiết kiệm chi phí, hạ giá thành, tìm nguồn cung cấp hợp lý… nhưng vẫn đảm bảo nhiệm vụ sản xuất kinh doanh thì đánh giá tích cực, hàng tồn kho giảm do thiếu vốn để dự trữ vật tư, hàng hóa.. thì đánh giá không tốt. Tài sản cố định: Là toàn bộ giá trị tài sản cố định, các khoản đầu tư dài hạn của doanh nghiệp có đến thời điểm báo cáo. Khoản mục tài sản phản ánh giá trị còn lại (sau khi lấy nguyên giá trừ đi giá trị hao mòn) đến thời điểm báo cáo. Đầu tư dài hạn : Là các khoản đầu tư có thể thu hồi vốn trên một năm. Bao gồm đầu tư chứng khoán dài hạn, góp vốn liên doanh, đầu tư dài hạn khác Khi đánh giá các biến động của tài sản ta cần phải xem xét mối quan hệ của các biến động : * Tài sản cố định hoặc tài sản lưu động tăng hay giảm là do được đầu tư từ nguồn nào thông qua đó sẽ đánh giá được lợi ích và hiệu quả của việc đầu tư. * Giá trị đầu tư tài chính dài hạn tăng lên chứng tỏ doanh nghiệp mở rộng đầu tư ra bên ngoài, mở rộng liên doanh liên kết. Để đánh giá tính hợp lý việc gia tăng này cần xem xét hiệu quả của đầu tư, nếu hiện quả đầu tư gia tăng, đây là biểu hiện tốt. Đánh giá các biến động của nguồn vốn: Là đánh giá sự biến động các loại nguồn vốn đáp ứng yêu cầu sản xuất kinh doanh, mặt khác thấy được thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Nguồn vốn của doanh nghiệp gồm có: Nợ phải trả : Phản ánh các khoản nợ dài hạn và ngắn hạn mà doanh nghiệp còn nợ đến thời điểm báo cáo. Nguồn vốn tín dụng và các khoản vốn đi chiếm dụng mà doanh nghiệp đã sử dụng cho mục đích sản xuất kinh doanh. Nợ phải trả gồm - Nợ dài hạn : Là các khoản nợ có thời hạn trên một năm và chưa đến hạn trong thời kỳ kinh doanh lập báo cáo. - Nợ ngắn hạn : Là khoản nợ dưới một năm hoặc một chu kỳ kinh doanh. - Nguồn vốn tín dụng : nguồn vốn tín dụng tăng khi doanh nghiệp mở rộng qui mô và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh gia tăng trong khi các nguồn vốn khác không đủ đáp ứng - Các khoản đi chiếm dụng : Là các khoản nộp cho ngân sách nhà nước chậm trễ, các khoản thanh toán với nhân viên..Cần chú ý nguyên nhân chậm trễ nộp cho ngân sách, các khoản thanh toán muộn có theo đúng quy định không. Nguồn vốn chủ sở hữu : Là nguồn vốn của các chủ doanh nghiệp, các nhà đầu tư góp vốn, các cổ đông góp vốn, hay nguồn vốn hình thành từ trong quá trình phân phối lợi nhuận để lại của doanh nghiệp trước đó. Vốn do nhà nước cấp nếu là doanh nghiệp nhà nước... b.2 Phương pháp phân tích theo chiều dọc : Là quá trình so sánh xác định các tỷ lệ, quan hệ tương quan giữa các chỉ tiêu trên báo cáo tài chính của kỳ hiện hành Thực chất của vấn đề này là so sánh các khoản mục trên bảng cân đối kế toán với tổng tài sản (Nguồn vốn) qua đó đánh giá được biến động của từng khoản mục so với quy mô chung. Đánh giá các biến động tài sản : bao gồm: - Biến động tăng giảm của tài sản lưu động và các khoản đầu tư ngắn hạn. - Biến động của tăng giảm tài sản cố định và đầu tư dài hạn. Để đánh giá sự biến động của tài sản cố định và đầu tư dài hạn trước hết phải tính chỉ tiêu tỷ suất đầu tư và xem xét sự biến động của nó. Chỉ tiêu tỷ suất đầu tư phản ánh tình hình đầu tư chiều sâu, tình hình trang bị, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, thể hiện năng lực sản xuất và xu hướng phát triển lâu dài của xí nghiệp. Tỷ suất đầu tư = Sau khi đánh giá chung thông qua chỉ tiêu tỷ suất đầu tư cần phải đi xem xét sự biến động của từng loại tài sản cụ thể : © Về tài sản cố định : Xu hướng chung của quá trình sản xuất kinh doanh là tài sản cố định phải tăng về tuyệt đối lẫn số tỷ trọng bởi vì điều này thể hiện qui mô sản xuất, cơ sở vật chất kỹ thuật gia tăng, trình độ tổ chức sản xuất cao… Tuy nhiên không phải lúc nào tài sản cố định tăng lên đều đánh giá tích cực, chẳng hạn có trường hợp đầu tư xây dựng nhà xưởng, máy móc thiết bị quá nhiều nhưng lại thiếu nguyên liệu sản xuất do sản phẩm không tiêu thụ được.. đây là biểu hiện không tốt. © Về đầu tư tài chính dài hạn : Là giá trị những khoản đầu tư dài hạn như giá trị các chứng khoán dài hạn, giá trị vốn góp liên doanh dài hạn. Giá trị đầu tư tài chính dài hạn tăng lên chứng tỏ doanh nghiệp mở rộng đầu tư ra bên ngoài, mở rộng liên doanh liên kết. Để đánh giá tính hợp lý việc gia tăng này cần xem xét hiệu quả của đầu tư, nếu hiện quả đầu tư gia tăng, đây là biểu hiện tốt. Đánh giá các biến động của nguồn vốn: bao gồm Biến động tăng giảm của nợ phải trả. Khoản nợ phải trả giảm về số tuyệt đối và số tỷ trọng trong tổng số nguồn vốn của doanh nghiệp, trường hợp này được đánh giá là tích cực nhất vì thể hiện khả năng tự chủ về tài chính của doanh nghiệp. Tuy nhiên cần chú ý rằng do qui mô sản xuất kinh doanh được mở rộng, nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên nhưng vẫn không đảm bảo cho nhu cầu. Trong trường hợp này khoản nợ phải trả tăng lên về sô tuyệt đối nhưng giảm về số tỷ trọng vẫn được đánh giá là hợp lý. Để đánh giá rõ hơn ta xét từng khoản mục trong nợ phải trả : ¯ Nguồn vốn tín dụng (gồm khoản vốn vay ngắn hạn và nợ dài hạn) ta sẽ phân tích tại sao nguồn vốn tín dụng tăng hoặc giảm. + Nguồn vốn tín dụng tăng : Do doanh nghiệp mở rộng qui mô và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh, gia tăng trong khi các nguồn vốn khác không đủ đáp ứng thì đánh giá hợp lý. Do nguồn vốn chủ sở hữu tăng và nguồn vốn đi chiếm dụng hợp lý tăng thì có thể đáng giá đây là biểu hiện tích cực, giảm được chi phí trả lãi tiền vay ngân hàng. Do doanh nghiệp dự trữ quá mức vật tư hàng hóa hoặc do thành phẩm không tiêu thụ được vì chất lượng kém thì đánh giá không tốt. Do doanh nghiệp bị chiếm dụng vốn quá nhiều, đây là biểu hiện không tốt, tình hình tài chính của doanh nghiệp đang gặp khó khăn. + Nguồn vốn tín dụng giảm : Do qui mô và nhiệm vụ sản xuất kinh doanh thu hẹp, đây là biểu hiện không tốt. Do nguồn vốn đi chiếm dụng không hợp lý, các đơn vị khác tăng lên thì đánh giá không tốt, bởi vì doanh nghiệp vi phạm kỷ luật tài chính tín dụng. Xu hướng chung nguồn vốn tín dụng giảm cả về số tuyệt đối lẫn tỷ trọng trong khi nguồn vốn chiếm dụng hợp lý tăng lên được đánh giá tích cực nhất. ¯ Các khoản vốn đi chiếm dụng (Gồm từ mục 3 đến mục 8 của nợ ngắn hạn và khoản nợ khác ). Các khoản này tăng lên về số tuyệt đối, giảm về số tỷ trọng nếu đi chiếm dụng hợp lý thí đánh giá là tích cực. Đối với nguồn vốn đi chiếm dụng các đơn vị khác cần chú ý rằng nếu tình hình sản xuất kinh doanh được mở rộng, số vốn này tăng lên là tất yếu. Vì vậy khi phân tích không chỉ nhìn vào số liệu cuối kỳ mà phải căn cứ vào từng trường hợp theo từng chủ nợ khi phát sinh đến khi thanh toán để xác định tình hình chiếm dụng có hợp lý không. Đối với các khoản nộp ngân sách cần phải phân tích nguyên nhân nộp ngân sách chậm trễ để đánh giá tình hình chấp hành, kỷ luật nộp ngân sách. Đối với các khoản thanh toán với cán bộ công nhân viên cần xem xét việc thanh toán đúng kỳ hạn không. Tốc độ tăng giảm của nguồn vốn chủ sở hữu: (Có thể so sánh với tốc độ tăng giảm của nợ phải trả để thấy được tỷ trọng của vốn chủ sở hữu biến động tốt xấu) Để đánh giá sự biến động của nguồn vốn chủ sở hữu trước hết phải tính ra chỉ tiêu tỷ suất tự tài trợ và xem xét sự biến động chi tiêu này. Chỉ tiêu tỷ suất tự tài trợ phản ánh khả năng tự chủ về tài chính, từ đó cho thấy khả năng chủ động của doanh nghiệp trong những hoạt động của mình : Tỷ suất tự tài trợ = Nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên về số tuyệt đối lẫn tỷ trọng được đánh giá tích cực vì tình hình tài chính của doanh nghiệp biến động theo xu hướng tốt, nó biểu hiện hiệu quả sản xuất kinh doanh tăng, tích lũy từ nội bộ tăng thông qua việc bổ sung vốn từ lợi nhuận và quỹ phát triển kinh doanh, biểu hiện doanh nghiệp mở rộng liên doanh liên kết. Nếu nguồn vốn chủ sở hữu tăng. Sự gia tăng này do vốn bổ sung từ lợi nhuận quỹ phát triển kinh doanh và vốn liên doanh tăng… Đây là biểu hiện tích cực cho thấy mức phấn đấu của doanh nghiệp trong việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, mở rộng liên doanh liên kết. Nếu nguồn vốn chủ sở tăng do nguồn vốn xây dựng cơ bản, quỹ xí nghiệp và thu nhập chưa phân phối tăng. Đây là biểu hiện tích cực, cho thấy các khoản tích lũy từ nội bộ doanh nghiệp gia tăng nhưng chưa sử dụng. Để đánh giá đúng đắn sự gia tăng này cần phải xem xét tình hình trích lập và sử dụng các quỹ doanh nghiệp. Cần chú ý rằng các nguồn vốn như quỹ doanh nghiệp, lãi chưa phân phối giảm không có nghĩa là doanh nghiệp không có tích lũy từ nội bộ mà do doanh nghiệp đã phân phối và sử dụng. Nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên về số tuyệt đối, giảm về số tỷ trọng, đều này có thể nguồn vốn tín dụng tăng lên với tốc độ lớn hơn hoặc nguồn vốn đi chiếm dụng các đơn vị khác tăng lên với tốc độ cao hơn. Để đánh giá chính xác cần kết hợp phân tích nguồn vốn tín dụng và nguồn vốn đi chiếm dụng. Nếu nguồn vốn chủ sở hữu tăng lên do nguồn vốn tự bổ sung giảm, vốn liên doanh giảm, vốn ngân sách cấp giảm… Đây là biểu hiện không tốt, chứng tỏ hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp giảm, tình hình tài chính giảm, tình hình tài chính của doanh nghiệp sẽ khó khăn. 2/ Đánh Giá Chung Tình Hình Tài Chính Qua Bảng Báo Cáo Kết Quả Hoạt Động Kinh Doanh: Nếu như bảng cân đối kế toán của một công ty phản ánh bức tranh về tất cả các nguồn ngân quỹ nội bộ (được gọi là nợ và vốn chủ sở hữu) và việc sử dụng các nguồn ngân quỹ đó tại một thời điểm nhất định. và phản ánh rất ít về hoạt động và công việc gần đây của công ty. Thì báo cáo thu nhập lại là một cuộn băng video nó sẽ chiếu lại các hoạt động của doanh nghiệp diễn ra như thế nào, thu lợi như thế nào, một cách chi tiết trong báo cáo thu nhập. Dựa vào báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh để so sánh lợi nhuận thực hiện với lợi nhuận kế hoạch và lợi nhuận các năm trước tăng giảm như thế nào để từ đó đánh giá tổng quát mức độ hoàn thành và xu hướng phát triển của doanh nghiệp trong tương lai. Để phân tích báo cáo thu nhập chúng ta cũng sẽ tiến hành theo hai phương pháp a) Phương pháp phân tích theo chiều ngang: So sánh các khoản mục trên bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh qua các năm để biết được mức độ biến động của từng khoản mục và tỷ lệ tăng giảm, nhằm đánh giá được tình sản xuất của công ty trong những năm qua. Nhân tố nào có biến động theo chiều hướng xấu thì doanh nghiệp phải tìm hiểu nguyên nhân để có biện pháp khắc phục thích hợp hạn chế những ảnh hưởng không tốt đến quá trình sản xuất kinh doanh, nhân tố nào có biến động theo chiều hướng tốt sẽ được phát huy. So sánh các chỉ tiêu,tỷ lệ đó theo chiều ngang trong bảng báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh b) Phương pháp phân tích theo chiều dọc : Mục đích của phương pháp nằy cũng nhằm cho thấy được hiệu quả sản xuất kinh doanh trong những năm qua, nhưng nó còn cho thấy rõ hơn về sự thay đổi mức chênh lệch giữa các năm một cách tổng quát hơn.Các chỉ tiêu sẽ được đánh giá theo quy mô chung (theo hàng dọc) b.1 Đánh giá biến động doanh thu thuần : Doanh thu thuần chính là doanh thu bán hàng, cung cấp lao vụ sau khi đã trừ đi các khoản giảm trừ. Do đó khi đánh giá biến động doanh thu thuần phải tập trung phân tích sự ảnh hưởng của hai nhân tố này đối với doanh thu thuần. b.2 Đánh giá biến động của lợi nhuận : Có nhiều loại lợi nhuận khác nhau mà ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5573.doc
  • doc5573 sodoDUPONT.doc