Quản lý hoạt động nhập khẩu hàng hoá Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng của Cục Hải quan Cao Bằng: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện

MỤC LỤC 2.2.Tổ chức hoạt động thông quan cho hàng hóa 30 2.3.Các hoạt động nâng cao công tác quản lý hàng hóa 31 2.3.1. Đào tạo đội ngũ công chức ngành hải quan 31 2.3.2. Ứng dụng công nghệ thông tin 33 2.3.1. Xây dựng dữ liệu về các doanh nghiệp nhập khẩu 34 2.3.2. Phát triển mối quan hệ với các bộ phận liên quan 36 CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ HÀNG HÓA NHẬP KHẨU TRUNG QUỐC QUA CỬA KHẨU CAO BẰNG CỦA CỤC HẢI QUAN CAO BẰNG 37 1.Cơ sở đề xuất các giải pháp 37 1.1.Địn

doc64 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1410 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quản lý hoạt động nhập khẩu hàng hoá Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng của Cục Hải quan Cao Bằng: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h hướng của ngành hải quan Việt Nam, của Cục hải quan Cao Bằng trong quản lý hàng hóa nhập khẩu 37 1.1.1.Định hướng phát triển chung của ngành Hải quan Việt Nam 37 1.1.2.Định hướng phát triển của Cục Hải quan Cao Bằng 40 1.2.Những khó khăn và thuận lợi trong quản lý hàng hóa Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng 41 2.2. Nhóm giải pháp cụ thể 45 2.2.1.Quản lý mặt hàng nhập khẩu 45 2.2.2.Quản lý thuế nhập khẩu 45 2.2.3. Quản lý doanh nghiệp nhập khẩu 46 2.3.4.Quản lý các công chức trong thực hiện chức năng quản lý hàng hóa nhập khẩu 47 3.Một số kiến nghị thực hiện các giải pháp trên 49 3.1.Cải cách, nâng cao kĩ thuật nghiệp vụ Hải quan 49 3.3. Trang bị thiết bị hiện đại phục vụ kiểm tra thực tế hàng hóa 51 3.4. Kết nối cổng cơ sở sở dữ liệu với các cá nhân tổ chức có liên quan 52 KẾT LUẬN 53 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 55 LỜI MỞ ĐẦU Trong bối cảnh đất nước đang chuyển mình đi lên hội nhập với nền kinh tế thế giới. Xuất nhập khẩu là một hoạt động kinh tế quan trọng. Nhưng để hoạt động xuất nhập khẩu phát triển một cách ổn định và đi đúng hướng thì các cơ quan quản lý, nhất là Hải quan cần có một giải pháp quản lý đúng đắn và một lộ trình hợp lý để giữ cho nền thương mại đi đúng hướng. Tạo tiền đề cho nền kinh tề thị trường sớm phát triển. Cùng với sự phát triển chung của đất nước, Cục Hải quan Cao Bằng đã có những biện pháp thay đổi thích ứng và hướng nền thương mại đi đúng hướng. Trong thời gian qua, mặc dù Cục Hải quan Cao Bằng đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể trong việc quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu của tỉnh, đặc biệt là quan hệ hàng hóa với Trung Quốc. Tuy nhiên, do việc quản lý còn nhiều bất cập và có khó khăn từ những điều kiện khách quan nên còn một số hạn chế cần khắc phục. Tuy kim ngạch xuất nhập khẩu của tỉnh ngày càng tăng nhưng sự mất cân đối trong cán cân thương mại ngày càng nghiêm trọng. Sự nhập siêu ngày càng cao, tình thế ngày càng trở nên cấp bách. Để cán cân thương mại được cân bằng cũng như bảo hộ các doanh nghiệp trong tỉnh phát triển, việc đề ra một định hướng đúng đắn trong hoạt động xuất nhập khẩu trở nên vô cùng cấp thiết. Trong quá trình thực tập tại Cục Hải quan Cao Bằng em đã được tìm hiểu một số thực trạng của cơ quan cũng như hoạt động xuất nhập khẩu của tỉnh. Do đó em đã chọn đề tài “ Quản lý hoạt động nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng của Cục Hải quan Cao Bằng: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” để viết chuyên đề thực tập chuyên ngành. Kết cấu của chuyên đề gồm có 3 chương: Chương 1: Khái quát về hoạt động quản lý nhập khẩu hàng hoá Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng của Cục hải quan Cao Bằng Chương 2: Thực trạng hoạt động quản lý nhập khẩu hàng hóa qua cửa khẩu Cao Bằng của Cục hải quan Cao Bằng Chương 3: Giải pháp hoàn thiện hoạt động quản lý hàng hóa nhập khẩu Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng của Cục hải quan Cao Bằng CHƯƠNG 1 KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHẬP KHẨU HÀNG HOÁ TRUNG QUỐC QUA CỬA KHẨU CAO BẰNG CỦA CỤC HẢI QUAN CAO BẰNG Giới thiệu tổng quan về cục hải quan Cao Bằng Quá trình hình thành, phát triển Sau chiến thắng biên giới 1950, Cao Bằng được hoàn toàn giải phóng và trở thành một địa bàn quan trọng để Đảng và Nhà nước ta liên lạc và tiếp nhận sự hỗ trợ của các nước XHCN anh em và phong trào Cách mạng quốc tế. Đến năm 1952, Chính phủ Việt Nam và Trung Quốc đã thỏa thuận mở một số cặp cửa khẩu biên giới Việt – Trung để nhân dân vùng biên giới hai nước được đi lại thăm thân, trao đổi hàng hóa phục vụ nhu cầu đời sống hàng ngày cua nhân dân và cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta. Trước tình hình đó, tháng 6 năm 1952 Chi sở thuế xuất nhập khẩu Cao Bằng (Tổ chức tiền thân của Cục Hải quan Cao Bằng ngày nay) được thành lập với 7 đồn thuế với biên chế 44 người. Hiện nay Cục Hải quan Cao Bằng được giao nhiệm vụ quản lý Nhà nước về Hải quan trên địa bàn 3 tỉnh Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Cạn. Cơ cấu tổ chức bao gồm Ban lãnh đạo, bộ máy tham mưu giúp việc (5 phòng chức năng) và 9 đơn vị trực thuộc là Chi cục Hải quan cửa khẩu Tà Lùng, Trà Lĩnh, Sóc Giang, Pò Peo, Bí Hà, Chi cục Hải quan Thái Nguyên, Chi cục Hải quan Bắc Cạn, Chi cục kiểm tra sau thông quan, và đội kiểm soát Hải quan với tổng quân số là 165 người, trong đó biên chế là 138 người, hợp đồng lao động 68 là 27 người. Qua 56 năm xây dựng và phát triển và nhất là 5 năm qua, kim ngạch xuất nhập khẩu bình quân là 32,5% , thu ngân sách tăng, công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại được đẩy mạnh thu được kết quả đáng khích lệ, cơ sở vật chất, trang thệt bị ngày một hiện đại, ứng dụng công nghệ thông tin và từng bước áp dụng quản lý rủi ro vào quản lý nghiệp vụ chuyên môn được tốt hơn. Kết quả đó là do cục đẩy mạnh cải cách hành chính và thực hiện kế hoạch hiện đại hóa ngành Hải quan theo quyết định 810/QĐ – BTC của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, trước xu thế toàn cầu hóa thương mại thế giới, Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức WTO, việc thực hiện đầy đủ các cam kết quốc tế và hợp đồng xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh tăng mạnh, buôn lậu vận chuyển trái phép hàng hóa qua biên giới và gian lận thương mại cũng gia tăng, nhất là gian lận thương mại qua giá, xuất xứ hàng hóa, sở hữu trí tuệ và hàng cấm, hàng có thuế suất cao, trong khi nguồn nhân lực có hạn, đồng thời với sự phát triển nhanh chóng của khoa học kĩ thuật – công nghệ đã đặt ra cho ngành Hải quan những vấn đề mới, đòi hỏi tăng cường nâng cao năng lực để có thể hoàn thành những nhiệm vụ được giao. Mặt khác, trước yêu cầu phát triển của đất nước và của tỉnh Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Cạn thu hút hợp đồng xuất nhập khẩu, đầu tư và du lịch vào địa bàn, đòi hỏi Hải quan Cao Bằng phải đảm bảo theo đúng phương châm: thuận lợi, tận tụy, chính xác. Do đó, vấn đề tiếp tục thực hiện cải cách, phát triển, hiện đại hóa Hải quan là một yêu cầu tất yếu khách quan để thích ứng với tình hình mới. Việc tổ chức thực hiện kế hoạch cải cách phát triển và hiện đại hóa của đơn vị giai đoạn 2008 – 2010 và định hướng phát triển đến năm 2020 theo quyết định 456 của Bộ Tài chính có ý nghĩa hết sức quan trọng về mặt kinh tế - xã hội đánh dấu một bước phát triển của ngành, tạo ra sự thay đỏi sâu sắc về phương pháp quản lý, hiệu quả công tác trên nền tảng tri thức và ứng dụng mạnh mẽ những thành tựu khoa học kĩ thuật tiên tiến, công nghệ thông tin hiện đại, đáp ứng yêu cầu hội nhập, phát triển kinh tế đất nước, địa phương và giữ vững chủ quyền an ninh quốc gia. Bộ máy tổ chức, chức năng nhiệm vụ 1.2.1. Bộ máy tổ chức Cục Hải quan Cao Bằng đang triển khai mô hình chung của ngành là thực hiện trên hệ thống dữ liệu tập trung ở cấp Cục Hải quan tỉnh kết nối với trung tâm xử lý dữ liệu ở cấp Tổng cục Hải quan bao gồm: Từng bước tự động hóa quản lý thông tin hàng hóa bằng việc hoàn thiện hệ thống trao đổi dữ liệu điện tử với một số cơ quan chủ yếu có liên quan đến quản lý hàng hóa, xử lý thông tin, quyết định hình thức kiểm tra trên cơ sở áp dụng phương thức quản lý rủi ro…Áp dụng các tiến bộ của công nghệ thông tin vào quản lý hải quan đồng bộ giữa tin học hóa và tự động hóa thông qua các hệ thống quản lý thống nhất và hoàn chỉnh. Mô hình của Cục Hải quan Cao Bằng năm 2010, gồm có: 05 phòng chức năng là: Văn phòng, Phòng tổ chức cán bộ, Phòng thanh tra, Phòng nghiệp vụ, Phòng tham mưu XLVP & TTXLTTNVHQ; 09 Chi cục gồm có: + 06 Chi cục Hải quan cửa khẩu: Tà Lùng, Nà Lạn, Trà Lĩnh, Sóc Giang, Pò Peo và Bí Hà. + 02 Chi cục Hải quan ngoài cửa khẩu: Thái Nguyên và Bắc Cạn. + 01 Chi cục Kiểm tra sau thông quan. 01 Đội kiểm soát Hải quan. Sơ đồ 1: Sơ đồ bộ máy tổ chức của Cục Hải quan Cao Bằng: LÃNH ĐẠO CỤC Văn phòng P.Tổ chức cán bộ P.Thanh tra P.Nghiệp vụ P.Tham mưu XLVP & TTXLTTNVHQ Chi cục HQCK Tà Lùng Chi cục HQCK Trà Lĩnh Chi cục HQCK Pò Peo Chi cục HQCK Nà Lạn Chi cục HQCK Sóc Giang Chi cục HQCK Bí Hà Chi cục HQ Thái Nguyên Chi cục HQ Bắc Cạn Chi cục KTSTQ ĐỘI KIỂM SOÁT HẢI QUAN (Nguồn: Phòng Nghiệp vụ- Cục Hải quan Cao Bằng) Chức năng, nhiệm vụ Chức năng: Cục Hải quan Cao Bằng thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về Hải quan ở địa 3 tỉnh Cao bằng, Bắc Cạn, Thái Nguyên và thực hiện các nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật. Nhiệm vụ: Cục Hải quan Cao Bằng thực hiện các nhiệm vụ trong địa bàn quản lý của địa phương bao gồm: Tổ chức giám sát, quản lý về Hải quan. Tổ chức thu thuế xuất nhập khẩu và thu khác. Tổ chức đấu tranh chống buôn lậu, vận chuyển trái phép qua biên giới Việt Nam – Trung Quốc. Tổ chức thống kê nhà nước về Hải quan. Kiến nghị, đề xuất với Tổng cục hải quan những vấn đề sửa đổi, bổ sung về chính sách, chế độ, quy trình nghiệp vụ trong hoạt động của hải quan ở địa phương. Tổ chức công tác cán bộ và đào tạo. Tổ chức thanh tra và kiểm tra về Hải quan ở địa phương. Sự cần thiết của hoạt động quản lý hàng hoá nhập khẩu Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng Cao Bằng là một tỉnh biên giới giáp với Trung Quốc, “núi liền núi, sông liền sông” và có đường biên giới dài. Các hoạt động thương mại diễn ra thường xuyên. Từ lâu tỉnh Cao Bằng đã xác định Trung Quốc là nước chủ yếu và gần như duy nhất có quan hệ thông thương với tỉnh. Cùng chung với xu thế của đất nước, hoạt động kinh tế của tỉnh Cao Bằng với Trung Quốc ngày càng phát triển. Kim ngạch xuất nhập khẩu càng ngày càng tăng. Các hoạt động thương mại diễn ra sôi nổi trên tất cả các mặt hàng và trải dọc theo chiều dài đường biên giới. Sự phát triển về thương mại giữa 2 nước đã đem lại những lợi ích to lớn cho tỉnh cũng như nhân dân vùng biên giới. Các hoạt động thương mại phát triển đã giải quyết được rất nhiều lao động trong tỉnh. Các hoạt động kinh tế của nhân dân cũng vào quy củ hơn. Đặc biệt là nhân dân giáp biên 2 nước. Có thể nói sự phát triển thương mại 2 nước và lợi thế vùng kinh tế cửa khẩu đã đem lại một bộ mặt tươi mới hơn cho tỉnh Cao Bằng, cải thiện rõ rệt đời sống nhân dân, cũng như đóng góp không nhỏ vào ngân sách nhà nước. Tuy nhiên, sự phát triển về thương mại giữa 2 nước cũng đặt ra nhiều vấn đề cấp bách cho tỉnh Cao Bằng mà Hải quan là đơn vị đi đầu trong việc thực thi nhiệm vụ quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu. Trong những năm qua, với sự đầu tư của Nhà nước, sự ủng hộ của tỉnh, Hải quan Cao Bằng đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, do địa hình hiểm trở, đường biên giới dài, cơ sở hạ tầng lại chưa được đầu tư đúng mức nên việc quản lý các hoạt động xuất nhập khẩu của Cục Hải quan Cao Bằng còn gặp rất nhiều khó khăn. Những hoạt động buôn lậu, trốn thuế, gian lận thương mại vẫn thường xuyên xảy ra và ngày càng trở nên tinh vi và khó kiểm soát hơn. Điều đó đã gây cản trở không nhỏ trong công tác thực thi nhiệm vụ của Cục Hải quan Cao Bằng và làm giảm nguồn thu của nhà nước. Vì vậy, để hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của Cao Bằng phát triển một cách bền vững và lành mạnh, sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước trong việc kiểm soát hàng nhập khẩu của Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng là hết sức cần thiết. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động quản lý hàng hoá Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng Nhóm nhân tố thuộc về Cục hải quan Cao Bằng Có rất nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan của Cục Hải quan Cao Bằng có thể gây ảnh hưởng đến hoạt động quản lý hàng hóa Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng. Tuy nhiên, có thể rút ra những nguyên nhân chính sau: Về cải cách thủ tục hải quan Kết quả: Trong 5 năm vừa qua, Cục Hải quan Cao Bằng đã tập trung triển khai thực hiện những nhiệm vụ trung tâm của ngành. Trong đó tập trung vào các nhiệm vụ có tính đột phá; thực hiện chương trình hiện đại hóa theo quyết định 810 của Bộ trưởng Bộ Tài chính; thực hiện quy chế đối thoại với các doanh nghiệp; tập trung chỉ đạo thu hồi nợ đọng thuế; kịp thời triển khai các văn bản mới của Chính phủ, các Bộ, Ngành liên quan đến quy trình thủ tục hải quan, chế độ kiểm tra giám sát hải quan, thuế xuất nhập khẩu, trị giá hải quan, cụ thể đã tập trung triển khai các văn bản sau: Thông tư số 118/2003/TT-BTC về xác định trị giá Hải quan theo Hiệp định GATT; Thông tư số 69/2004/TT-BTC về thủ tục Hải quan đối với hàng gia công; Thông tư số 87/2004/TT-BTC thực hiện thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu; Thông tư số 05/2004/TTLB hướng dẫn thực hiện quyết định số 252/QĐ-TTg của Chính phủ về mua bán hàng hóa cư dân biên giới…Tập trung triển khai luật sửa đổi, bổ sung một số điều của luật Hải quan, luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu sửa đổi; Luật quản lý thuế và các nghị định, Thông tư hướng dẫn thực hiện luật và quy trình thủ tục Hải quan mới đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. Triển khai thực hiện tốt Nghị định 12/2006/NĐ-CP ngày 23/01/2006 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành luật Thương mại về hoạt động mua bán với nước ngoài và các văn bản hướng dẫn thực hiện Nghị định trên; tập trung chỉ đạo thu hồi nợ đọng thuế, tổng kết công tác phối hợp Hải quan – Bộ đội Biên phòng trong công tác quản lý cửa khẩu và biên giới. Tồn tại: Tổng cục đã ban hành quy trình thủ tục Hải quan cho loại hình hàng hóa xuất nhập khẩu chung nhưng chưa nghiên cứu và ban hành quy trình thủ tục hải quan đối với loại hình xuất nhập khẩu biên giới, văn bản pháp quy về cửa khẩu phụ, lối mòn chưa cụ thể làm ảnh hưởng chung đến công tác quản lý hải quan trên địa bàn. Sự phối hợp, quan hệ đối tác giữa hải quan và doanh nghiệp trong quan lý và kinh doanh xuất nhập khẩu chưa thực sự là đối tác hợp tác, do đó hiệu quả phối hợp chưa cao. Nhiều doanh nghiệp không nắm được các chương trình quản ly mới của Hải quan để ứng dụng, nâng cao hiệu quả sản xuât, kinh doanh và nộp ngân sách. Về công tác kiểm tra, giám sát hải quan Kết quả: Từ năm 2003 đến nay Cục Hải quan Cao Bằng cơ bản thực hiện rất tốt công tác giám sát, quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu. Các chi cục Hải quan cửa khẩu chấp hành tốt quy định thủ tục hải quan, thực hiện thông quan hàng hóa nhanh chóng và đúng với phương châm “ Thuận lợi, tận tụy, chính xác”. Từ năm 2006 thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan, ngành Hải quan có sự thay đổi về phương pháp quản lý, đó là chuyển từ phương pháp quản lý truyền thống sang quản lý hiện đại dựa trên kỹ thuật quản lý rủi ro. Để đáp ứng với yêu cầu mới, đơn vị đã kịp thời triển khai các giải pháp về con người, phương tiện máy móc, tăng cường công tác tuyên truyền đối thoại với các doanh nghiệp và không ngừng nghiên cứu đề xuất các biện pháp phù hợp với điều kiện thực tế tại các cửa khẩu tỉnh Cao Bằng. Các quy định của Luật Hải quan sửa đổi, Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu sửa đổi, Luật quản lý thuế, điều hành xuất nhập khẩu của Chính phủ và các văn bản của bộ, Tổng cục Hải quan đều được thực hiện nghiêm túc, đảm bảo quản lý chặt chẽ các mặt hàng xuất nhập khẩu. Đồng thời thường xuyên thực hiện đối thoại với doanh nghiệp để tháo gỡ khó khăn vướng mắc, khuyến khích các doanh nghiệp tăng cường kinh doanh, góp phần phát triển kinh tế. Yếu tố con người Chỉ tiêu biên chế Tổng cục hải quan phân bổ là 145, đơn vị đã tuyển dụng 138 biên chế, đến cuối năm 2008 tổng biên chế là 136 (thiếu 07 chỉ tiêu so với chỉ tiêu được phân bổ) và 27 chỉ tiêu hợp đồng lao động theo Nghị định 68/2000/NĐ-CP, trong đó 25 chỉ tiêu làm các công việc giản đơn, 02 chỉ tiêu làm công tác tin học. Trình độ chuyên môn: Trình độ đại học: 81 người, chiếm 59,55%; Trình độ Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp: 44 người, chiếm 32,35%; Số chưa có bằng cấp chuyên môn: 11 người, chiếm 8% (trong số này một số công chức đang theo học các lớp đại học tại chức); Trình độ lý luận chính trị: 24 người (Cử nhân: 04, Cao cấp: 04; Trung cấp: 16); Trình độ ngoại ngữ (Anh văn,Trung văn): 91 người (Trình độ A: 16; Trình độ B: 66; Trình độ C: 16); Trình độ tin học: 89 (Trình độ A: 34, Trình độ B: 54, Trình độ C: 01). Cục đã triển khai thực hiện xây dựng quy hoạch cán bộ lãnh đạo theo kế hoạch chỉ đạo của Tổng cục Hải quan, xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển cán bộ trong quy hoạch để nâng cao trình độ, năng lực thực tiễn của cán bộ. Cục cũng đã thực hiện luân chuyển thường xuyên nhằm hạn chế tiêu cực và luân chuyển cán bộ trong quy hoạch để nâng cao năng lực thực tiễn và theo yêu cầu nhiệm vụ. Công tác bổ nhiệm cán bộ: xuất phát từ nhu cầu thực tiễn công tác của đơn vị, những cán bộ được xem xét bổ nhiệm giữ các chức vụ lãnh đạo cơ bản đều đáp ứng tiêu chuẩn của chức danh được bổ nhiệm. Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ: thực hiện kế hoạch đào tạo bồi dưỡng cán bộ công chức củ Bộ Tài chính, Tổng cục Hải quan, Cục Hải quan tỉnh Cao Bằng đặc biệt quan tâm và xây dựng kế hoạch cụ thể theo từng năm. Phần lớn đội ngũ cán bộ công chức đã được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn nghiệp vụ, kiến thức về quản lý, đào tạo gắn với quy hoạch, năng lực thực tiễn được nâng cao, góp phần tích cực vào thực hiện nhiệm vụ của đơn vị và trong giai đoạn cải cách, hội nhập hiện nay. Yếu tố trang thiết bị cho hoạt động quản lý Với thực trạng hiên nay, đối với trụ sở các chi cục hải quan Cửa khẩu được xây dựng đã lâu mặc dù đã được cải tạo, mở rộng nâng cấp lần lượt từ năm 2001 đến năm 2005 bằng nguồn vốn tỉnh Cao Bằng cấp, cũng như trụ sở Cục tuy mới được xây dựng năm 2002, nhưng không còn đảm bảo cả về diện tích xây dựng và số lượng phòng làm việc. Ngoài ra còn 2 Chi cục Hải quan Thái Nguyên và Hải quan Bắc Cạn chưa có trụ sở còn phải đi thuê. Về trang thiết bị thông tin liên lạc được đầu tư lần lượt qua các năm, quá trình sử dụng đáp ứng được yêu cầu nghiệp vụ ngư phục vụ công tác chống buôn lậu và thông tin nội bộ. Trong các năm qua hầu hết các chi cục hải quan đều được trang thiết bị kiểm tra giám sát, dụng cụ lưu mẫu, lấy mẫu, quá trình sử dụng phục vụ được một số yêu cầu kiểm tra hàng hóa, tuy nhiên còn mang tính chất thủ công do đó về lâu dài sẽ không phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa. Đối với trang thiết bị công nghệ thông tin trong những năm qua đã được Tổng cục Hải quan cấp một số theo kế hoạch hiện đại hóa và đơn vị đã tự mua bằng nguồn kinh phí khoán mua sắm trang thiết bị tin học nhỏ lẻ cụ thể được cấp và tự mua sắm 2004 – 2007. Hạ tầng mạng phục vụ yêu cầu quản lý bước đầu có hiệu quả. Một số phần mềm về quản lý Thuế được triển khai, nhìn chung cơ sở hạ tầng cơ bản đáp yêu cầu công việc qua từng năm, tuy nhiên thực hiện lộ trình hiện đại hóa cần tiếp tục đầu tư, do còn có những tồn tại quy định. Những tồn tại: -Các trụ sở từ Cục hải quan đến các Chi cục (trừ trụ sở Chi cục hải quan Tà Lùng) được xây dựng trước năm 2002 nên chưa đáp ứng được yêu cầu hiện đại hóa của ngành. Chi cục hải quan Thái Nguyên, Bắc Cạn đến nay chưa có trụ sở làm việc. -Về máy móc, thiết bị công nghệ thông tin: + Thiết bị thông tin liên lạc đã đưa vào hoạt động, tuy nhiên với địa hình miến núi nên đài tần số vẫn chưa đáp ứng được công suất của máy, như mạng thông tin Visat, máy bộ đàm. + Thiết bị cân ô tô điện tử: Đã lắp đặt và đưa vào sử dụng 2 cái là trạm cân Tà Lùng và Trà Lĩnh, còn trạm cân cửa khẩu Sóc Giang chưa lắp đặt được thiết bị do thủ tục giải phóng mặt bằng chưa xong. + Công nghệ thông tin và hạ tầng mạng: Máy móc được trang bị chưa đầy đủ, không đồng bộ nên chưa phù hợp với yêu cầu hiện đại hóa. + Máy soi hành lý tại Chi cục hải quan cửa khẩu Tà Lùng được trang bị từ năm 2001, tuy nhiên trong 2 năm gần đây qua vận hành thường xuyên hỏng, do thế hệ máy đã lạc hậu khó tìm thiết bị để sửa chữa, thay thế. Nhóm nhân tố bên ngoài ảnh hưởng đến hoạt động nhập khẩu hàng hoá Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng Nhân tố thuộc về tỉnh Cao Bằng Cao Bằng đã xác định xuất nhập khẩu là một ngành kinh tế quan trọng để góp phần đưa tỉnh thoát khỏi tình trạng kém phát triển hiện nay. Trong những năm qua, toàn tỉnh đã có nhiều cố gắng và đạt được nhiều thành tựu đáng khích lệ. Tuy nhiên, vẫn còn những khó khăn, hạn chế cần khắc phục. Tình trạng đó là do những nguyên nhân chủ yếu sau: Địa hình hiểm trở: đây là yếu tố tự nhiên rất quan trọng. Diện tích tự nhiên của Cao Bằng rất rộng và khó quản lý. Khó phát triển các loại hình phương tiện giao thông, việc đi lại, thông thương hàng hóa còn gặp nhiều hạn chế. Cơ sở hạ tầng của tỉnh còn kém, hệ thống đường sá không đủ tiêu chuẩn, chưa đáp ứng được sự phát triển của nền kinh tế. Trình độ dân trí còn thấp, không kịp nắm bắt xu hướng của thời đại, việc phát triển kinh tế, thương mại còn mang tính tự phát, nhỏ lẻ. Sự đầu tư của nhà nước vẫn còn nhiều hạn chế, chưa tương xứng với tiềm năng và nguồn lực của tỉnh. Chính sách phát triển kinh tế còn nhiều hạn chế và bất cập, cần có sự điều chỉnh cho phù hợp với tình hình thực tế. Nhân tố chung Quan hệ kinh tế thương mại giữa 2 nước Việt Nam và Trung Quốc đã và đang trực tiếp ảnh hưởng tới tình hình nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng. Trong vài năm qua, tình hình thương mại 2 nước có những khó khăn và thuận lợi sau: Thuận lợi: Cả hai nước đều chọn con đường phát triển là chủ nghĩa xã hội, tư tưởng chính trị không có mâu thuẫn đối kháng. Từ đó mỗi nước đều xây dựng hệ thống nhà nước theo nguyên tắc kế hoạch hoá dưới sự lãnh đạo của một đảng thống nhất. Do vậy có sự thông hiểu lẫn nhau trong việc phát triển kinh tế thương mại. Ðây là thuận lợi quan trọng nhất. Việt Nam và Trung Quốc đều thực hiện chủ trương hội nhập với kinh tế thế giới và mở cửa thị trường, tích cực tham gia vào các tổ chức kinh tế quốc tế của mỗi nước tạo ra sự nhất quán cao hơn trong chính sách thương mại của hai nước, nhất là trong phạm vi điều ước của tổ chức kinh tế quốc tế mà hai nước cùng tham gia. Việt Nam gia nhập ASEAN là một bước quan trọng để thúc đẩy Trung Quốc đẩy mạnh quan hệ kinh tế với Việt nam. Một thành viên ASEAN là đối trọng đáng kể với Trung Quốc, là một cánh cửa để Trung Quốc có cơ hội thâm nhập vào thị trưòng của 10 nước thành viên. Do vậy quan hệ kinh tế với Việt Nam được Trung Quốc phải coi trọng hơn trước nhiều. Trung Quốc nhạn ra rằng Việt Nam có vị trí quan trọng hơn nhiều so với một Việt Nam cô lập trong khu vực. Sắp tới khi hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ được ký kết, Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ về việc Trung Quốc gia nhập WTO là những mốc đặc biệt quan trọng đưa quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Trung Quốc lên một giai đoạn phát triển mới. Việt Nam không bị tác động lớn của cuộc khủng hoảng kinh tế Châu Á, vẫn duy trì tốc độ phát triển kinh tế cao ở khu vực , đã và đang đẩy nhanh công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước là một thuận lợi lớn trong việc thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại 2 nước. Việc quan hệ trao đổi hàng hoá giữa hai nước đi vào giai đoạn phát triển theo chiều sâu. Ðã hình thành hệ thống nhóm hàng, nhu cầu xuất nhập khẩu tương đối rõ ràng, nên tạo ra sự thông hiểu nhu cầu của nhau. Ðó là cơ sở cần thiết cho sự phát triển tiếp theo và cũng là căn cứ để chúng ta điều chỉnh cơ cấu hàng hoá trong quan hệ với Trung Quốc một cách phù hợp. Những điều kiện thuận lợi đối với buôn bán qua biên giới Việt Nam và Trung Quốc trong thời gian tới: Thứ nhất: Việt nam và Trung Quốc, núi liền núi, sông liền sông,có đường biên giới chung trên đất liền dài chừng 1350 km chạy qua sáu tỉnh (31 huyện) của Việt Nam và 2 tỉnh gồm 6 thành phố, địa khu, châu (14 huyện) của Trung Quốc. Trên biên giới trung của cả hai nước có 15 cửa khẩu (5 cửa khẩu quốc gia và 10 cửa khẩu cấp tỉnh). Số km biên giới chung của cả hai nước, cũng như số cửa khẩu các cấp đều nhiều hơn so với các nước Ðông Nam Á khác (Myanmar và Lào). Gần đây nhiều cửa khẩu như Ðông Hưng- Móng Cái, Bang Tường- Ðồng Ðãng, Pò- Chài- Tân Khanh, Hà Khẩu- Lào Cai, đã có ý tưởng xây dựng thành những khu buôn bán tự do, đây là điều kiện hết sức thuận lợi cho điều kiện buôn bán giữa hai nước. Thứ hai: Phát triển buôn bán qua biên giới Việt Nam và Trung Quốc không thể tách rời trong bối cảnh chung về quan hệ của hai nước, tháng 2 năm 1999 Tổng Bí Thư hai nước, đã xác lập khuôn khổ mới cho hai nước Việt Nam và Trung Quốc theo phương châm 16 chữ "Láng giềng hữu nghị, hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tói tương lai, phương cham này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quan hệ hợp tác kinh tế hai nước trong tương lai, trong đó có buôn bán qua biên giới hai nước. Thứ ba: Trung Quốc và Việt Nam đều có trên 50 thành phần dân tộc khác nhau trong đó có hơn một chục dân tộc sống cả hai biên giới, đáng lưu ý là gần một triệu người Hoa đang sinh sống ở Việt Nam, sẽ là chiếc cầu nối tốt cho sự hợp tác kinh tế hai bên và sẽ góp phần không nhỏ vào việc thúc đẩy sự phát triển buôn bán qua biên giới hai nước trong thời gian tới. Thư tư: Trung Quốc (đất rộng thứ ba thế giới), người đông (chiếm 1/5 nhân loại) và Việt nam là một nước lớn ở Ðông Nam Á, đây là hai thị trường có tiềm năng mà chưa khai thác hết, nó sẽ góp phần thúc đẩy hơn nữa vào việc buôn bán qua biên giới hai nước. Thứ năm: Cả hai đều chú trọng xây dựng cơ sở hạ tầng ở vùng biên giới của hai bên, chú trọng xây dựng môi trường phần cứng (đường, điện , nước…) , rà phá mìn, xây dựng các thành phố cửa khẩu biên giới. Ðồng thời chú ý xây dựng môi trường phần mềm, hai nước đã ký kết 19 Hiệp định hợp tác kinh tế thương mại (trong tổng số 30 Hiệp định và thoả thuận đã được ký kết), đáng lưu ý là Hiệp định kinh tế buôn bán; Hiệp định tạm thời về việc xử lý những việc biên giới hai nước; Hiệp định hợp tác và bảo đảm và chứng nhận lẫn nhau về hàng hoá xuất nhập khẩu; Ghi nhận hội đàm chống buôn lậu, Hiệp định về mua bán hàng hoá ở vùng biên giới giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Trung Hoa (năm 1998); Hiệp ước biên giới trên đất liền giữa hai nước vừa ký kết (30/12/1999). Những Hiệp định trên đây là cơ sở hạ tầng được nâng cấp từ hai bên (năm 1998). Những hiệp định trên dây là cơ sở hạ tầng được nâng cấp của hai bên sẽ góp phần tích cực vào việc thúc đẩy buôn bán qua biên giới giữa hai nước. Thứ sáu: Theo một số ý kiến của nhà hoạch định chính sách, buôn bán hai chiều của Việt Nam- Trung Quốc dự kiến từ năm 2000 đến 2010 sẽ đạt mức tăng từ 8-15%. Nếu đạt được mức này thì mục tiêu năm 2000 đạt 2 tỷ USD là có khả năng đạt được và mức buôn bán đôi bên còn tiếp tục phát triển hơn nữa. Thứ bẩy: Xu thế toàn cầu hoá và khu vực hoá ngày càng phát triển, với Việt Nam trở thành thành viên của khu vực buôn bán tự do ASEAN , AFTA, việc Trung Quốc trở thành thành viên của tổ chức mậu dịch thế giới (WTO); Cả Việt Nam và Trung Quốc hiện là thành viên của tổ chức hợp tác kinh tế Châu Á, Thái Bình Dương (APEC). Trong đó các cảng của Việt Nam (đặc biệt là Hải Phòng) trở thành khu vực thông ra biển rất gần khu vực Ðại Tây Nam Trung Quốc và khu mậu dịch tự do, với việc khu mậu dịch tự do (Ðông Hưng – Móng Cái, Bằng Tường- Ðồng Ðăng...) thì mức buôn bán qua biên giới Việt- Trung có rất nhiều khả năng hơn nữa. Thứ tám: Việc phát triển buôn bán qua biên giới hai nước trong lịch sử 50 năm qua đặc biệt là 10 sau khi bình thường hoá quan hệ không ngừng tăng sẽ là cơ sở buôn bán hai bên còn có khả năng phát triển hơn nữa. Tóm lại, dù cho buôn bán hai nước còn có những khó khăn trở ngại, những điều kiện thuận lợi là cơ bản, với sự cố gắng của hai bên, tin rằng trong thế kỷ tới thế kỷ Châu Á - Thái Bình Dương, tiềm năng buôn bán qua biên giới Việt- Trung còn phát triển hơn nữa. Khó khăn: Hai nước có cùng tư tưởng chính trị, nhưng không thống nhất với nhau về quan điểm chính trị. Do vậy dẫn đến mục đích phát triển kinh tế của mỗi nước không giống nhau. Ðây là mâu thuẫn lớn nhất và quan trọng nhất, dẫn đến sự khác biệt trong việc đề ra chính sách của mỗi nước trong quan hệ kinh tế thương mại. Yêu cầu tiếp nhận đầu tư của Việt Nam là công nghệ cao, không phá hoại tài nguyên và môi trường. Trong khi Trung Quốc không có chủ trương chuyển giao công nghệ cao cho Việt Nam và họ cũng không quan tâm đến việc bảo vệ tài nguyên và môi trường của chúng ta. Việt Nam chủ trương thực hiện theo các hiệp định, nghị định ký kết chính thức giữa Chính phủ hai nước theo con đường chính ngạch, còn Trung Quốc lại muốn quan hệ kinh tế với Việt nam theo con đường biên mậu (tiểu ngạch) để dễ bề thâm nhập vào thị trường Việt Nam, tránh hàng rào thuế quan. Trung Quốc đã và sẽ tiếp tục áp đặt đồng tiền trong thanh toán thương mại giữa hai nước là Nhân dân tệ để dễ bề điều tiết quan hệ hàng hoá- tiền tệ giữa hai nước có lợi cho Trung quốc. Ðây là vấn đề mà từ trước đến nay chúng ta chưa quan tâm đúng mức và hầu như chưa có biện pháp hữu hiệu nào để lấy lại thế chủ động mà Trung quốc đang nắm giữ. Việt Nam sẽ gặp không ít khó khăn nếu không giải quyết được vấn đề này. Phương tiện phục vụ quan hệ thương mại giữa hai nước còn có sự chênh lệch gây không ít khó khăn cho mỗi nước khi sự không đồng bộ xảy ra. Trung Quốc luôn tìm cách phá thế bình đẳng trong quan hệ với Việt Nam. Ví dụ như thương nhân Trung Quốc không ngần ngại khi áp dụng những biện pháp có lợi cho họ và có hại cho ta, kể cả việc gian lận và lừa đảo có tổ chức như: nâng giá tạm thời để ta tập kết hàng hoá ở biên giới rồi dìm giá hoặc bỏ không mua gây thiệt hại cho nhiều doanh nghiệp Việt Nam hoặc Trung Quốc xuất khẩu hàng kém phẩm chất độc hại...việc này gây ra sự thiếu tin cậy trong quan hệ thương mại của ta đối với Trung Quốc. Buộc chúng ta phải có biện pháp đối phó thích đáng đôi khi làm căng thẳng quan hệ kinh tế thương mại hai nước. Khác với nhiều nước, Trung Quốc không có chủ trương đầu tư vào công nghiệp nặng và công nghiệp chế biến theo kêu gọi đầu tư của ta. Do vậy đã hạn chế đến tính ưu việt trong chính sách của Việt Nam đối với đầu tư trực tiếp của Trung Quốc và hạn chế hiệu quả của hợp tác thương mại hai nước. Trong tiến trình buôn bán qua biên giới Việt-Trung, trong 50 năm qua, đặc biệt là 10 năm lại đây bên cạnh những mặt thuận lợi cũng nảy sinh không ít khó khăn. Những yếu tố thuận lợi và khó khăn đó đã, đang và sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển quan hệ buôn bán qua biên giới giữa hai nước trong tương lai. Những khó khăn trong buôn bán qua biên giới giữa hai nước trong thời gian tới: Thứ nhất: Về các mặt tư tưởng, tâm lý và mức độ tín nhiệm trong buôn bán qua biên giới của cả hai nước chưa cao. Ðôi bên có sự chênh lệch lớn về chính sách buôn bán qua biên giới tạo nên những ảnh hưởng bất lợi cho cả hai nước. Thứ hai: Cho tới nay vẫn chưa ký được Hiệp định chính thức mà vẫn còn thi hành "Hiệp định tạm thời về xử lý những việc biên giới hai nước". Nên đã ảnh hưởng không nhỏ tới sự phát triển buôn bán qua._. bien giới giữa hai nước Việt-Trung. Thứ ba: Hiện nay hai bên tuy có "Ghi nhận hội đàm" chống buôn lậu, hay hiệp định hợp tác đảm bảo và chứng nhận lẫn nhau về hàng hoá xuất nhập khẩu, nhưng vẫn không ngăn chặn nổi làn sóng: Hàng giả, hàng rởm, hàng kém chất lượng vào Việt Nam, hoặc những mặt hàng quý hiếm, hàng cấm của Việt Nam vẫn xuất sang Trung Quốc. Thứ tư: Cả hai bên đều có các thiếu hợp đồng giữa các xí nghiệp trong nước, gây nên tình trạng tranh mua, tranh bán với đối phương, tạo nên sự thiệt thòi cho phía mình. Thứ năm: Mặc dù ngày 26-5-1993 Ngân hàng trung ương của Việt Nam và Trung Quốc đã ký Hiệp định hợp tác thanh toán, theo đó mọi khoản thanh toán phải thông qua Ngân hàng thương mại hai nước theo hệ thống quốc tế bằng ngoại tệ tự do chuyển đổi. Nhưng thực tế từ 10 năm nay buôn bán qua biên giới Việt–Trung, mặc dù thanh toán xuất nhập có sự chuyển biến, từ chỗ hoàn toàn tự phát qua phương thức "Hàng đổi hàng", buôn bán trao tay, tiến tới ký hợp đồng, thanh toán qua ngân hàng, nhưng cho đến nay lượng thanh toán qua Ngân hàng còn rất nhỏ, chỉ chiếm chưa đầy 5% tổng kim ngạch hàng hoá của cả hai bên. Ngân hàng chưa làm được chức năng kiểm soát và kinh doanh tiền tệ. Thị trường chợ đen buôn bán tiền công khai ở các cửa khẩu biên giới hai nước vẫn hoành hành, hiện tượng lừa đảo, chiếm dụng vốn, lưu hành tiền giả ở các tỉnh biên giới diễn ra thường xuyên. Ðiều này đã ảnh hưởng xấu tới quan hệ buôn bán qua biên giới Việt Nam-Trung Quốc. Thứ sáu: Quan hệ buôn bán Việt-Trung trong những năm gần đây tốc độ tăng trưởng giảm dần, và cứ đà giảm như vậy khó có thể thực hiện mục tiêu 2 tỷ USD buôn bán hai nước vào năm 2000 như các nhà lãnh đạo hai nước đề ra. Thứ bảy: Trong buôn bán với Trung Quốc, phía Việt Nam luôn bị nhập siêu ở mức lớn, như năm 1991 (10 triệu đô la), năm 1992 (40 triệu đô la) năm 1993 (160 triệu đô la) , năm 1994 (150 triệu đô la), năm 1995 (390 triệu đô la), năm 1996 (530 triệu đô la), năm 1997 (720 triệu đô la). Thứ tám: Trình độ phát triển khoa học và phát triển kinh tế của Trung Quốc cao hơn Việt Nam, khiến cho tính bổ xung giữa hai bên tăng lên, nhưng mặt khác cũng gây nên ảnh hưởng bất lợi đối với hàng hoá Việt Nam muốn thâm nhập vào thị trường Trung Quốc. Nhìn chung, quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam- Trung Quốc có triển vọng phát triển tốt. Thuận lợi cũng nhiều và khó khăn cũng không ít. Chúng ta chủ trương giữ vững đường lối phát triển kinh tế của đất nước là phát huy nội lực, đẩy mạnh công nghịêp hoá, hiện đại hoá đất nước vì chỉ có như vậy chúng ta mới tăng cường hợp tác kinh tế quốc tế nói chung và phát triển quan hệ kinh tế thương mại đối với Trung Quốc nói riêng. Những khó khăn, vướng mắc trong quan hệ kinh tế thương mại với Trung Quốc sẽ được Việt Nam giải quyết bằng hệ thống chính sách đổi mới, phù hợp với điều kiện Việt Nam và thiện chí hợp tác của phía bạn. Nhu cầu của thị trường Trung Quốc đối với các sản phẩm của Việt Nam: Nhu cầu của thị trường Trung Quốc đối với các sản phẩm của Việt Nam phụ thuộc vào sự phát triển kinh tế của mỗi nước, bên cạnh đó các chính sách kinh tế thương mại của hai nước cũng có sự tác động quan trọng tới nhu cầu thị trường của Trung Quốc với các sản phẩm của Việt Nam. Nhìn chung xu hướng chính sách kinh tế của Trung Quốc và khả năng phát triển kinh tế thương mại của Trung Quốc đến khoảng năm 2005 có hai điểm then chốt như sau: * Tăng cường đầu tư công cộng để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế: Trong tình hình bối cảnh kinh tế quốc tế không thuận lợi, Trung Quốc có kế hoạch trong thời gian 3 năm tới sẽ đầu tư 1000 tỷ USD để mở rộng xây dựng cơ sở hạ tầng bao gồm xây dựng hệ thống giao thông, bảo vệ môi trường, nhà ở, xây dựng đô thị, nhằm duy trì mức tăng trưởng kinh tế 8% hàng năm trở nên. Nếu duy trì mức tăng trưởng kinh tế tương đối cao, cũng có thể góp phần giải quyết công ăn việc làm cho số lượng công nhân viên chức mất việc làm do cải cách xí nghiệp và đặt cơ sở tốt cho công cuộc cải cách cơ cấu Chính phủ. Ngoài ra, hệ thống giao thông vận tải và đường xá của Trung Quốc không đủ, vấn đề ô nhiễm môi trường ngày càng nghiêm trọng. Về chính sách kích thích tiêu dùng: Khi đầu tư gia tăng, thông qua hiệu quả cấp số nhân, khiến cho thu nhập của dân chúng tăng lên, có thể kích thích tăng trưởng kinh tế, sức mua của dân chúng lên cao. Nói tóm lại mục đích của phát triển kinh tế là gia tăng phúc lợi xã hội, hơn nữa lấy phát triển sân nghiệp nội nhu làm chính lại thực hiện càng có hiệu quả. * Cải cách Xí nghiệp quốc hữu Hệ thống Xí nghiệp quốc hữu là trụ cột của nền kinh tế, vì vậy Trung Quốc không thể xoá bỏ hoàn toàn các Xí nghiệp quốc hữu hoặc chuyển thành Xí nghiệp tư hữu. Vì vậy làm thế nào để xây dựng chế độ vận hành Xí nghiệp hiện đại trở thành vấn đề cốt lõi của việc cải tạo hệ thống Xí nghiệp quốc hữu. Cải cách Xí nghiệp quốc hữu là trọng điểm trong phát triển kinh tế của Trung quốc. Tại Ðại hội 15 đảng cộng sản Trung Quốc năm 1997, Ông Giang Trạch Dân nêu ra chế độ cổ phần hoá Xí nghiệp, bao gồm chế độ cổ phần Xí nghiệp, chế độ hợp tác cổ phần, chế độ Công ty, chế độ hợp tác để cùng tồn tại đồng thời. Chính sách cải cách của chính phủ Trung Quốc không phải là đem bán Xí nghiệp quốc hữu mà là từ trên 3 tầng diện làm rõ sản quyền của Xí nghiệp quốc hữu: Thứ nhất, cần làm rõ mỗi Xí nghiệp quốc hữu có bao nhiêu tài sản, nợ bao nhiêu và tài sản riêng còn lại bao nhiêu tính theo giá thị trường. Nói cách khác, cần phải biết được nhà nước có bao nhiêu lợi ích trong đó. Thứ hai, xây dựng chế độ trách nhiệm quản lý sản quyền quốc hữu và vận hành kinh doanh chặt chẽ, rõ ràng. Khi tài sản quốc hữu thất thoát hoặc gia tăng cần xác định rõ người nào hoặc đơn vị nào chịu trách nhiệm, khiến cho tất cả lợi ích tài sản quốc hữu được đảm bảo. Thứ ba, xây dựng đồng bộ môt chế độ có lợi cho việc chuyển nhượng và tổ chức lại sản quyền để tối ưu hoá kết cấu và phân bố tài sản quốc hữu. Nếu làm rõ ràng được như vậy đối với sản quyền quốc hữu thì có thể thay đổi được tình trạng tồn tại lâu dài trước đây trong các Xí nghiệp không thể tách biệt giữa Ðảng và Chính quyền, quan hệ giữa Xí nghiệp với Chính quyền và không tách biệt rõ giữa quyền kinh doanh. Cho Xí nghiệp quốc hữu trỏ thành chủ thể kinh doanh độc lập tự chủ, tiến tới tự chủ phát triển, tự chịu lỗ lãi, tính toán rõ ràng và làm rõ tài sản quốc hữu còn có thể giảm thiểu tình trạng tham ô, có lợi trong quản lý ngân sách của Nhà nước. Mới đây, từ ngày 19 đến 22/9/1999 Hội nghị TW 4 khoá 15 của Ðảng cộng sản Trung Quốc đã họp và thông qua "Những quyết định của Trung ương Ðảng cộng sản Trung Quốc về nhiều vấn đề quan trọng của công cuộc cải cách và phát triể Xí nghiệp quốc hữu ". Hội nghị đã xác định lại trong vòng 3 năm cải cách phải đưa Xí nghiệp quốc hữu thoát khỏi khó khăn, tập trung nắm các nhàng nghề trọng điểm, Xí nghiệp trọng điểm và các cơ sở công nghiệp truyền thống. Hội nghị khẳng định Xí nghiệp quốc hữu phải chiếm vị trí chi phối trong các lĩnh vực quan trọng và ngành nghề quan trọng trong huyết mạch của nền kinh tế quốc dân. Thông qua việc sắp xếp lại vốn, tài sản và điều chỉnh cơ cấu để tập trung lực lượng thuộc các ngành kinh tế khác, tăng cường trọng điểm, nâng cao yếu tố chấn chỉnh thể chế của nền kinh tế quốc hữu, tích cực phát hiện hình thức thực hiện có hiệu quả của chế độ công hữu, đẩy mạnh phát triển nền kinh tế thuộc chế độ cổ phần và hình thức sở hữu hỗn hợp. Nhà nước sẽ khống chế cổ phần đối với các xí nghiệp quan trọng. Phương hướng cải cách xí nghiệp quốc hữu là xây dựng chế độ xí nghiệp hiện đại, kết hợp có hiệu quả giữa chế độ công hữu và kinh tế thị trường, thúc đẩy sự tách rời giữa Chính quyền và Xí nghiệp, dựa vào nguyên tắc sở hữu nhà nước, phân cấp quản lý, uỷ quyền kinh doanh, phân cấp giám sát, tích cực tiềm kiếm hình thức hữu hiệu để quản lý tài sản của Nhà nước. Cải thiện cơ cấu nợ của Xí nghiệp quốc hữu và giảm gánh nặng xã hội cho các Xí nghiệp kết hợp giữa đi sâu cải cách nội bộ xí nghiệp mvà xây dựng cơ chế mới đồng thời tăng cường công tác quản lý khoa học kỹ thuật. Ðể thích ứng với xu thế điều chỉnh cơ cấu ngành nghề trên phạm vi toàn cầu và những thay đổi của nhu cầu thị trường trong và ngoài nước cần đẩy mạnh tiến bộ kỹ thuật và nâng cấp ngành nghề, mạnh dạn áp dụng khoa học kỹ thuật tiến tiến để cải tạo các ngành nghề truyền thống theo hướng thị trường, đa dạng hoá chủng loại, nâng cao chất lượng và hiệu quả. Xí nghiệp quốc hữu cần chiếm những vị trí quan trọng, nắm vững những kỹ thuật then chốt để phát huy vai trò chủ đạo. Phương hướng chính sách nêu trên được tiến hành đồng bộ với việc cải cách trên 5 lĩnh vực chính: + Cải cách hệ thống tiền tệ + Cải cách thể chế hành chính + Cải cách thuế + Cải cách thể chế đầu tư + Cải cách hệ thống lưu thông lương thực. Chính phủ Trung Quốc đặt mục tiêu là mức tăng trưởng kinh tế khi dưới 8%/năm, mức lạm phát thấp hơn 3%, đồng Nhân dân tệ không mất giá. CHƯƠNG 2 THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG QUẢN LÝ NHẬP KHẨU HÀNG HÓA QUA CỬA KHẨU CAO BẰNG CỦA CỤC HẢI QUAN CAO BẰNG Thực trạng nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng Thực trạng nhập khẩu hàng Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng trong những năm gần đây Từ năm 2004 đến nay Cục Hải quan Cao Bằng cơ bản thực hiện rất tốt công tác giám sát, quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu tại các cửa khẩu. Các chi cục Hải quan cửa khẩu chấp hành tốt quy định thủ tục hải quan, thực hiện thông quan hàng hóa nhanh chóng và đúng với phương châm “Thuận lợi, tận tụy, chính xác”. Từ năm 2006 thực hiện Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Hải quan, ngành Hải quan có sự thay đổi về phương pháp quản lý, đó là chuyển từ phương pháp quản lý truyền thống sang quản lý hiện đại dựa trên kỹ thuật quản lý rủi ro. Để đáp ứng với yêu cầu mới, đơn vị đã kịp thời triển khai các giải pháp về con người, phương tiện máy móc, tăng cường công tác tuyên truyền đối thoại với các doanh nghiệp và không ngừng nghiên cứu đề xuất các biện pháp phù hợp với điều kiện thực tế tại các cửa khẩu tỉnh Cao Bằng. Vì vậy, công tác quản lý giám sát hàng hóa xuất nhập khẩu nhanh chóng cà thông suốt hơn. Kim ngạch xuất nhập khẩu không ngừng gia tăng theo từng năm. Các mặt hàng nhập khẩu vô cùng đa dạng, từ những mặt hàng như máy móc hiện đại đến những sản phẩm tiêu dùng hàng ngày như quần áo, đồ may mặc, hoa quả, thực phẩm, gia vị, đồ chơi trẻ em…Những mặt hàng xuất khẩu chủ yếu là các sản phẩm thô, sản phẩm sơ chế hay sản phẩm nông nghiệp như: quặng sắt, phôi thép, gang, các sản phẩm hoa quả, và một số gia vị, dược liệu… Bảng 1: Bảng thống kê kết quả kim ngạch xuất nhập khẩu của Cao Bằng từ năm 2004 – 2009: Đơn vị tính: USD Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng cộng 2004 31.039.002,60 26.799.172,35 57.818.174,95 2005 34.310.114,05 40.644.405,35 74.954.519,40 2006 29.007.265,92 80.393.318,76 109.900.584,68 2007 48.002.379,01 73.266.880,14 121.269.259,15 2008 68.576.050,99 105.819.951,72 174.396.002,71 2009 81.717.972,08 150.005.638,47 231.723.610,55 (Nguồn: Phòng Nghiệp vụ - Cục Hải quan Cao Bằng) Về xuất khẩu: Trong 5 năm, kim ngạch xuất khẩu đã có bước tăng trưởng nhảy vọt từ 31.039.002,6USD năm 2004 lên 81.717.972,08USD năm 2009. Tuy về kim ngạch chưa lớn nhưng với sự tăng trưởng trung bình 32,65%/năm thì thật đáng khích lệ. BIỂU ĐỒ 1: BIỂU ĐỒ BIỂU HIỆN TÌNH HÌNH KIM NGẠCH XUẤT KHẨU CỦA CAO BẰNG TỪ NĂM 2004 – 2009 Đơn vị tính: Triệu USD Như vậy, từ biểu đồ trên ta thấy trừ năm 2006, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng năm của Cao Bằng đều tăng. Sự gia tăng đó là do những nguyên nhân chính sau: + Các doanh nghiệp trong tỉnh phát triển cả về quy mô số lượng lẫn quy mô, đẩy mạnh hàng hóa được sản xuất sang Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng. + Hoạt động kinh tế của người dân đi vào quy củ, các hoạt động chuyên môn hóa được đẩy mạnh, đẩy mạnh sản xuất các mặt hàng xuất khẩu. + Cục Hải quan Cao Bằng đã có những chính sách phát triển xuất khẩu hợp lý. Về nhập khẩu: Nhập khẩu đã tăng từ 26.799.172,35USD năm 2004 lên 150.005.638,47USD năm 2009, lượng tăng bình quân là 24.641.239,21USD/năm. Tốc độ tăng trưởng lên tới 91,95%. Vì lượng nhập khẩu tăng quá nhanh so với xuất khẩu dẫn đến tình trạng nhập siêu ngày cang gia tăng. Cán cân thương mại bị mất cân đối nghiêm trọng. BIỂU ĐỒ 2: BIỂU ĐỒ BIỂU HIỆN TÌNH HÌNH KIM NGẠCH NHẬP KHẨU HÀNG HÓA TRUNG QUỐC QUA CỬA KHẨU CAO BẰNG TỪ NĂM 2004 - 2009 Đơn vị tính: Triệu USD Từ biểu đồ ta thấy lượng tăng nhập khẩu ngày càng lớn, tốc độ tăng bình quân hàng năm ngày càng cao. Sự gia tăng về lượng nhập khẩu đó là do các nguyên nhân chủ yếu sau: + Kinh tế 2 nước đang ở trong giai đoạn phát triển. Các mặt hàng nhập khẩu ngày càng đa dạng. + Thu nhập và mức sống người dân ngày càng cải thiện khiến cho việc tiêu thụ hàng hóa có giá trị cao thường xuyên hơn tạo điều kiện cho việc nhập khẩu hàng hóa có giá trị cao khiến kim ngạch ngày càng tăng. + Quy mô nền kinh tế 2 nước ngày càng mở rộng, khiến cho hoạt động xuất nhập khẩu có quy mô ngày càng mở rộng. + Sự quản lý lỏng lẻo của các cơ quan chức năng trong việc quản lý mặt hàng nhập khẩu khiến cho việc nhập khẩu tràn lan. Bảng 2: Bảng thống kê về cán cân thương mại và sự gia tăng tỉ lệ nhập siêu qua các năm: Năm Nhập siêu Tỉ lệ nhập khẩu so với xuất khẩu (%) 2004 -4.239.830,25 86,34 2005 6.334.291,3 118,46 2006 51.386.052,84 277,15 2007 25.264.501,13 152,63 2008 37.243.900,71 154,31 2009 68.287.666,32 183,57 (Nguồn: Phòng Nghiệp vụ- Cục Hải quan Cao Bằng) BIỂU ĐỒ 3: BIỂU ĐỒ BIỂU HIỆN SỰ THAY ĐỔI CƠ CẤU XUẤT NHẬP KHẨU CỦA TỈNH CAO BẰNG TỪ NĂM 2004 - 2009 Đơn vị tính: % Chú thích: -Series 1: nhập khẩu -Series 2: xuất khẩu Qua biểu đồ trên ta thấy một thực trạng thật đáng báo động là cán cân thương mại ngày càng mất cân đối, nhập khẩu ngày càng chiếm tỉ trọng cao trong kim ngạch xuất nhập khẩu. Mặc dù cả xuất và nhập khẩu ngày càng tăng nhưng lượng nhập khẩu tăng quá cao khiến cho tình trạng nhập siêu tăng theo từng ngày. Điều đó đã đặt ra cho các cơ quan chức năng, cho Cục hải quan Cao Bằng một thực tế cần phải giải quyết là đề ra các chính sách hợp lý nhằm đẩy mạnh xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu những mặt hàng không cần thiết hoặc sản xuất trong nước đã có khả năng đáp ứng để thay đổi tỉ trọng trong cán cân thương mại, đưa cán cân thương mại về trạng thái cân bằng và có biện pháp phát triển hoạt động xuất nhập khẩu một cách hợp lý và ổn định. 1.2.Công tác thu thuế xuất nhập khẩu Kết quả: Cục Hải quan Cao Bằng luôn xác định đây là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng năm và thường xuyên chỉ đạo các chi cục Hải quan cửa khẩu phải chủ động tìm nguồn thu, thực hiện đúng phương châm “Thu đúng, thu đủ, tận thu và nộp kịp thời vào ngân sách Nhà nước”. Để thực hiện nhiệm vụ thắng lợi này, hàng năm Cục đều phân bổ chỉ tiêu cụ thể cho các đơn vị ngay từ đầu năm, đồng thời chỉ đạo các đơn vị xây dựng kế hoạch thu ngân sách theo từng tháng, quí. Trong quá trình thực hiện, các đơn vị thực hiện tốt quy trình thu thuế xuất nhập khẩu, tăng cường công tác quản lý gúa tính thuế, xác định chính xác mã số hàng hóa để ngăn chặn gian lận và chống thất thu có hiệu quả. Bảng 3: Bảng thống kê tình hình thu thuế từ năm 2004 – 2009: Năm Số thu nộp NSNN (đồng) So với chỉ tiêu TCHQ giao đạt (%) So với cùng kỳ năm trước (%) 2004 95.659.605.549 106,21 119,96 2005 108.580.724.250 120,00 114,00 2006 142.505.546.001 118,29 131,24 2007 106.476.446.620 73,43 74,72 2008 111.387.037.009 101,72 104,6 2009 157.049.027.208 125,58 141,00 (Nguồn: Phòng Nghiệp vụ- Cục Hải quan Cao Bằng) Như vậy, số thuế thu hàng năm của Cục Hải quan Cao Bằng đang ngày càng gia tăng. Chỉ trong vòng 5 năm, số thuế thu được hàng năm của Cục Hải quan Cao Bằng đã tăng lên 64,17%, trung bình mỗi năm tăng 12,84%. Số tiền thuế thu tăng nhanh như vậy là do hoạt động xuất nhập khẩu ngày càng phát triển. Số tiền nộp vào ngân sách Nhà nước tăng hằng năm nhưng đây không hẳn là một điều đáng mừng. Nhập siêu ngày càng gia tăng khiến cho mối nguy cơ về hàng hóa trong nước ngày càng nghiêm trọng. Vì vậy, công tác thu thuế cần có biện pháp đẩy mạnh khuyến khích xuất khẩu và hạn chế nhập khẩu để cho cán cân thương mại trở lại cân bằng. Trong những năm qua, Cục Hải quan Cao Bằng đã tăng cường các biện pháp nhằm chống thất thu thuế cho ngân sách nhà nước. Đối với những trường hợp nợ thuế quá hạn, cố tình trây ý không nộp thuế trong năm 2005, cục đã cử tổ đôn đốc đòi nợ thuế trực tiếp đến trụ sở doanh nghiệp để xác minh, động viên doanh nghiệp thực hiện nộp các khoản thuế, nợ tiền phạt nộp chậm, đồng thời ra quyết định xử phạt hành vi nộp chậm tiền thuế, trong năm 2006 đã thu được khoản thuế quá hạn. Đối với số nợ thuế không có khả năng thu hồi ( Số tiền 1.792.758.890 đồng ) đơn vị đã làm hồ sơ đề nghị Tổng cục Hải quan, Bộ Tài chính xem xét xóa nợ. *Công tác quản lý giá tính thuế: Hàng hóa nhập khẩu qua các Chi cục Hải quan Cao Bằng với số lượng ít, mặt hàng đơn giản. Việc chấp hành pháp luật Hải quan của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu tương đối tốt. Vì vậy, tình hình gian lận thương mại qua giá không nhiều. Tuy nhiên, cũng có một số ít mặt hàng nhập khẩu, qua kiểm tra phát hiện nghi ngờ về khai báo trị giá thấp. Những hạn chế: -Về đội ngũ cán bộ, lực lượng làm công tác quản lý giá còn mỏng, chưa được đào tạo chuyên sâu về công tác xác định trị giá tính thuế, phần lớn còn kiêm nhiệm những công tác nghiệp vụ khác. -Cơ sở vật chất, trang thiết bị, đường truyền mạng chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. 1.3. Công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại Kết quả: Tình hình buôn lậu, vận chuyển trái phép hàng hóa tại địa bàn tỉnh Cao Bằng diễn ra với quy mô nhỏ, chưa phát hiện những đường dây, ổ nhóm buôn lậu với số lượng lớn, hàng cấm, chủ yếu là hàng do cư dân biên giới vận chuyển qua các đường mòn về tập kết, nhằm chủ yếu vào một số mặt hàng có thuế suất cao, hàng tiêu dùng, gia súc, gia cầm và sản phẩm của chúng, tuy nhiên diễn ra không thường xuyên, số lượng nhỏ bé. Tại địa bàn trong những năm qua chưa phát hiện trường hợp các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu qua địa bàn có biểu hiện gian lận thương mại trong khi làm thủ tục hải quan chủ yếu là vi phạm về thủ tục, hồ sơ, khai báo hải quan. Về hàng cấm và ma túy: Qua công tác phòng chống ma túy trên địa bàn nổi lên việc hoạt động của các đường dây vận chuyển mua bán trái phép các chất ma túy (Heroin) từ các tỉnh Tây Bắc như Sơn La, Lai Châu theo tuyến về Hà Nội, Thái Nguyên hoặc Lạng Sơn lên Cao Bằng và xuất lậu sang Trung Quốc. Các loại ma túy dạng lỏng, viên được các đối tượng vận chuyển nhập lậu từ Trung Quốc qua các đường mòn cánh gà vào địa bàn tiêu thụ và một số được vận chuyển về các tỉnh miền xuôi. Tội phạm về ma túy hoạt động tinh vi, xảo quyệt với nhiều thủ đoạn và chống đối quyết liệt các lực lượng chức năng khi bị phát hiện, bắt giữ. Kết quả cụ thể từ năm 2003 – 2007 toàn cục Hải quan Cao Bằng đã phát hiện, bắt giữ được 811 vujvi phạm với tổng giá trị: 5.511.242.000đ. Trong đó: + Buôn lậu, vận chuyển trái pháp hàng hóa qua biên giới 776 vụ. + Buôn bán, vận chuyển trái phép hàng cấm qua biên giới 18 vụ, trong đó: động vật hoang dã 8 vụ với tổng khối lượng 448kg. Thuốc nổ 1 vụ 12kg, kíp nổ 1 vụ 500 kíp, pháo các loại 8 vụ 183,7kg và 40.025 que pháo. + Buôn lậu, vận chuyển trái phép các chất ma túy qua biên giới 17 vụ. Tồn tại một số hạn chế như sau: Do điều kiện về địa hình, khí hậu có lúc khắc nghiệt, địa bàn hoạt động tại khu vực biên giới rộng, phức tạp, có nhiều đường mòn, lối tắt qua lại biên giới, thông tin liên lạc không được thông suốt. Đối tượng buôn lậu có nhiều phương thức, thủ đoạn hoạt động ngày càng tinh vi, chúng thường lợi dụng vào ngày nghỉ, giờ nghỉ dùng các loại phương tiện như xe gắn máy hoặc xe khách từ 7- 24 chỗ ngồi để kèm hàng nhập lậu với số lượng ít, giá trị thấp. Khi bị lực lượng hải quan truy đuổi, chúng có biểu hiện chống đối vì cơ quan hải quan chưa có quy định hiệu lệnh riêng để phương tiện khi đã ra khỏi địa bàn kiểm soát của hải quan, nên thường phải phối hợp với lực lượng chức năng để dừng phương tiện, trong một số trường hợp không đảm bảo kịp thời. Một số cán bộ làm công tác chống buôn lậu còn hạn chế về trình độ, năng lực, cụ thể là trong khâu nắm tình hình, thu thập thông tin, xây dựng cộng tác viên hải quan, lập hồ sơ xử lý vi phạm hành chính, trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, công tác tham mưu tổng hợp tình hình. Trình độ ngoại ngữ, tin học của một số cán bộ chưa đáp ứng được nhu cầu cải cách, hiện đại hóa hải quan. 1.4. Về công tác thu thập xử lý thông tin và quản lý rủi ro Kết quả: Trước những yêu cầu của phương pháp quản lý mới, Lãnh đạo của Cục Hải quan Cao Bằng đã tổ chức tập huấn cho cán bộ, công chức thực hiện quy trình thủ tục hải quan để nắm chắc quy định của pháp luật, thực hiện phương pháp quản lý rủi ro đã đạt được kết quả ban đầu. Tuyên truyền cho các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu qua địa bàn những quy định pháp luật hải quan, pháp luật về thuế xuất nhập khẩu, về quản lý thuế quá liên quan đến quyền và lợi ích của doanh nghiệp. Xác định việc thu thập, xử lý thông tin để áp dụng quản lý rủi ro là một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác quản lý nghiệp vụ hải quan. Cục đã phân công 33 cán bộ công chức làm công tác thu thập, xử lý thông tin vả quản lý rủi ro, tổ 3/7 Chi cục được triển khai áp dụng phương pháp quản lý rủi ro trong quy trình thủ tục hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu thương mại, đó là các Chi cục Hải quan Tà Lùng, Trà Lĩnh, Thái Nguyên và đến cuối năm 2007 có thêm Chi cục Hải quan Bắc Cạn. Kết quả, thông qua quản lý rủi ro đã phân luồng tờ khai như sau: Bảng 4: Kết quả phân luồng tờ khai trong 2 năm 2007 và 2008: TT Phân luồng Năm 2007 Năm 2008 Số tờ khai Tỷ lệ % Số tờ khai Tỷ lệ % 1 Luồng xanh 597 20,34 2.286 46,52 2 Luồng vàng 1.138 38,78 1.503 30,59 3 Luồng đỏ 1.199 40,86 1.124 22,87 4 Ngẫu nhiên 76 0,02 184 0,02 (Nguồn: Phòng Nghiệp vụ- Cục Hải quan Cao Bằng) Việc áp dụng phương pháp quản lý rủi ro vào phân luồng để phục vụ cho cơ quan hải quan quyết định kiểm tra hay miễn kiểm tra thực tế hàng hóa. Thông qua áp dụng quản lý rủi ro mà hàng hóa miễn kiểm tra tăng từ 59% năm 2006 lên 77% năm 2007 và kiểm tra thực tế hàng hóa giảm từ 40,56% xuống còn 22,87%, nên đã tạo thuận lợi cho doanh nghiệp, rút ngắn thời gian thông quan hàng hóa. Trong năm 2007 Tổng cục Hải quan giao cho Cục Hải quan Cao Bằng thu thập thông tin của 80 doanh nghiệp kinh doanh hoặc có trụ sở đóng trên địa bàn của Cục quản lý. Đến năm 2009 toàn cục đã thu thập thông tin được 100% doanh nghiệp và thu thập thêm 38 doanh nghiệp mới kinh doanh trên địa bàn theo các tiêu chí định hướng của Tổng cục Hải quan. Những hạn chế, vướng mắc: Hiện nay ngành chưa có đủ hành lang pháp lý thuận lợi cho công tác thu thập trao đổi cung cấp thông tin với các ngành hữu quan. Đồng thời cũng chưa có quy chế hợp tác trao đổi cung cấp thông tin giữa Hải quan Việt Nam với Hải quan Trung Quốc. Nhiều cán bộ, công chức chưa được tập huấn nghiệp vụ, chủ yếu làm công tác kiêm nghiệm nên chưa chuyên sâu, còn lúng túng, thiếu phương pháp và kỹ năng thu thập thông tin. Bộ phận làm công tác xử lý thông tin và quản lý rủi ro ở cấp cục, Chi cục chưa được trang bị máy tính nối mạng để khai thác truy cập thông tin. Cơ sở hạ tầng mạng, hệ thống đường truyền chưa đáp ứng yêu cầu công việc. Nguyên nhân: Đây là phương pháp quản lý hiện đại mới được trienr khai, Lãnh đạo các đơn vị đôi khi chưc quan tâm đúng mức trong việc kiểm tra, đôn đốc thực hiện công tác thu thập xử lý thông tin và quản lý thông tin ở đơn vị mình. Hệ thống quản lý rủi ro phân luồng tờ khai đôi khi chưa chính xác vì thiếu thông tin và chưa áp dụng được tiêu chí động tại cấp cục để phân luồng tờ khai. Thực trạng hoạt động quản lý hàng hóa Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng của Cục hải quan Cao Bằng Công tác phân loại hàng hóa, xác định xuất xứ hàng hóa 2.1.1.Công tác phân loại hàng hóa Hiện nay công tác phân loại hàng hóa là một trong những khâu nghiệp vụ quan trọng của ngành Hải quan, góp phần thiết thực việc thực hiện chính sách thuế, chính sách mặt hàng, thống kê và đàm phán thương mại. Chính vì vậy Cục Hải quan tỉnh Cao Bằng luôn trú trọng tới vấn đề này và có hệ thống tổ chức cán bộ chặt chẽ từ cấp cục đến cấp chi cục để phục vụ nhiệm vụ đó. Thời gian qua, nhờ áp dụng các chính sách pháp luật của nhà nước về phân tích phân loại hàng hóa, cán bộ công chức hải quan không ngừng trau dồi khả năng nghiệp vụ, công tác Phân loại hàng hóa của Cục đã bước đầu đi vào chiều sâu, mang tính khoa học, chuyên nghiệp, đồng bộ và đạt được một số thành tựu như: - Tại Cục Hải quan Cao Bằng đã xây dựng được lực lượng cán bộ, công chức chuyên trách công tác phân loại hàng hóa từ Cục đến các Chi cục. Cụ thể, cấp Cục: phòng Nghiệp vụ gồm có 4 cán bộ làm tham mưu cho Lãnh đạo Cục hướng dẫn, giải quyết các vướng mắc về phân loại hàng hoá; cấp Chi cục: mỗi Chi cục có 03 cán bộ, công chức để tham mưu cho Lãnh đạo Chi cục giải quyết phân loại hàng hóa xuất nhập khẩu đã mở nhiều lớp tập huấn và cử cán bộ làm công tác phân tích, phân loại đi học các lớp đào tạo chuyên ngành về phân loại hàng hóa do Tổng cục Hải quan tổ chức. - Việc phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu dựa trên cơ sở khoa học, theo các chuẩn mực quốc tế, nên khá chính xác, hạn chế sai sót, không thống nhất giữa các chi cục, tạo thuận lợi cho công tác áp mã tính thuế hàng hóa xuất nhập khẩu; - Có sự phối hợp nhịp nhàng giữa các Chi cục Hải quan và các đơn vị liên quan trong để xử lý vướng mắc, đồng thời được sự chỉ đạo, hướng dẫn kịp thời từ Tổng cục nên hoạt động phân loại hàng hóa xuất nhập khẩu tại Cục đạt hiệu quả cao. Bên cạnh những việc đã làm được, công tác phân loại hàng hóa tại Cục Hải quan Cao Bằng vẫn còn một số tồn tại: - Vẫn còn một số sai sót trong công tác phân loại hàng hoá dẫn tới xác định mã số thuế sai so với thực tế mô tả hàng hoá nhập khẩu. - Vẫn còn hiện tượng sai lệch về mã số của cùng một mặt hàng trong cả cấp Cục lẫn Chi cục. Ví dụ: cùng mặt hàng Bảng điều khiển dùng cho thang máy nhưng có Chi cục áp mã 8537101090 có Chi cục áp mã 8537103000… tạo điều kiện cho các doanh nghiệp lợi dụng để gian lận thương mại, cố ý phân loại vào mã số có thuế suất thấp. - Công tác phúc tập hồ sơ hải quan nhằm phát hiện sai sót, tính không thống nhất về mã số hàng hóa gần như chưa đáp ứng yêu cầu đề ra. - Chưa có quy định rõ các bước kiểm tra mã số hàng hóa và trách nhiệm của công chức hải quan. Do đó, khi có khiếu kiện về phân loại hàng hóa, công chức tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ, kiểm tra thực tế hàng hóa không phải chịu trách nhiệm gì. - Một số cán bộ chuyên trách phân loại đã bị điều chuyển làm công việc khác. - Báo cáo, trao đổi thông tin theo quy chế phối hợp giữa các đơn vị trong ngành Hải quan về những mặt hàng mới sau khi Chi cục thực hiện áp mã chưa thực hiện thường xuyên. Nguyên nhân: - Doanh nghiệp khai báo, mô tả hàng hoá không trung thực, không thống nhất theo từng lô hàng, áp mã số có thuế suất thấp nhằm gian lận thương mại - Phân loại hàng hoá, xác định mã số thuế là một công việc phức tạp, song phần lớn công chức thực hiện công việc này chưa được đào tạo chuyên sâu, làm việc dựa nhiều vào kinh nghiệm nên áp sai mã số thuế. Một phần cũng do áp lực về công việc và yêu cầu giải phóng hàng nhanh. - Các đơn vị hải quan chưa bố trí cán bộ có chuyên môn về phân loại hàng hóa để kiểm tra việc áp mã đúng và thống nhất. - Chưa trú trọng kiểm tra, đôn đốc công việc. Tại các Chi cục, các bộ phận nghiệp vụ làm việc khá biệt lập với nhau. Việc kiểm tra phúc tập hồ sơ trước khi đưa vào lưu trữ giao do bộ phận phúc tập thực hiện. - Việc điều động, luân chuyển đã không đảm bảo tính chuyên sâu về nghiệp vụ phân loại hàng hoá. Số cán bộ chuyên trách tại Phòng Nghiệp vụ hiện chỉ còn 01 nhưng lại đang làm công việc khác do đó công tác tham mưu về phân loại hàng hoá, áp mã số thuế gặp nhiều khó khăn. - Công cụ hồ trợ cho công tác phân loại hàng hoá còn thiếu. Cụ thể thiếu tài liệu tham khảo, phần mềm tra cứu, kiểm tra xác định về mã số hàng hoá để đảm bảo áp dụng thống nhất trong Cục. Phân loại mã số hàng hóa xuất nhập khẩu chính xác sẽ góp phần tích cực để Cục Hải quan Cao Bằng hoàn thành nhiệm vụ chỉ tiêu ngân sách nhà nước, chống buôn lậu và gian lận thương mại, góp phần tạo nên môi trường kinh doanh bình đẳng và môi trường đầu tư thuận lợi cho đất nước. Để khắc phục những tồn tại nêu trên, để công tác phân tích phân loại hàng hóa xuất nhập khẩu mang lại hiệu quả thiết thực cho hoạt động ngành Hải quan, Cục đã đưa ra các nhóm giải pháp sau: a) Nhóm giải pháp về nguồn nhân lực - Rà soát, củng cố lại lực lượng cán bộ, công chức chuyên trách về phân loại hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu từ Cục đến Chi cục (dự kiến số lượng: phòng Nghiệp vụ từ 1–2 người, tại Chi cục từ 2-3 người tùy theo quy mô của từng Chi cục). Đối với cán bộ, công chức này Cục trưởng Cục Hải quan tỉnh Cao Bằng sẽ ban hành Quyết định thành lập. Tại Cục, bố trí các cán bộ có chuyên môn, kinh nghiệm được đào tạo về phân loại hàng hóa làm nhiệm vụ tham mưu cho Lãnh đạo Cục về phân loại hàng hoá để có thể làm tốt công tác tham mưu cho Lãnh đạo Cục cũng như hướng dẫn các Chi cục trong công tác phân loại hàng hoá. - Thành lập Hội đồng tư vấn về phân loại hàng hóa tại Cục Hải quan Cao Bằng. Đây sẽ là lực lượng nòng cốt giúp cho Lãnh đạo khi có những khiếu nại về mã số hàng hóa thuộc thẩm quyền giải quyết của Cục cũng như khi doanh nghiệp khiếu kiện ra tòa hành chính liên quan đến việc áp mã hàng hóa. - Tăng cường công tác đào tạo nâng cao trình độ về phân loại hàng hóa cho công chức thừa hành và cán bộ công chức chuyên trách về phân loại hàng hoá của Cục. Việc đào tạo chuyên sâu có thể tập trung vào các ngành hàng phức tạp như vải, hóa chất, dược, mỹ phẩm, thiết bị máy móc, các mặt hàng thuộc quản lý chuyên ngành, các mặt hàng phức tạp… Việc đào tạo có thể tiến hành tại Cục để cùng lúc có nhiều cán bộ công chức được tham gia đào tạo hoặc cử đi học các lớp đào tạo tại Tổng Cục. b) Nhóm giải pháp tăng cường nghiệp vụ phân loại hàng hoá - Đối với những doanh nghiệp thường xuyên nhập khẩu số lượng hàng lớn, phức tạp, nhiều chủng loại (linh kiện lắp ráp ô tô, xe máy, liên ki._.c qua cửa khẩu Cao Bằng Thuận lợi: Cục Hải quan tỉnh Cao Bằng luôn nhận được sự quan tâm chỉ đạo của Lãnh đạo Tổng cục Hải quan; thường trực tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh Cao Bằng, Thái Nguyên, Bắc Cạn; sự giúp đỡ và phối hợp chặt chẽ của các cấp, ban ngành trong ba Tỉnh. Cục Hải quan Cao Bằng có truyền thống đoàn kết trong tập thể Ban lãnh đạo và các đơn vị, do đó đã hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Đội ngũ cán bộ có phẩm chất chính trị, trình độ, năng lực ngày càng được nâng cao, ứng dụng những tiến bộ khoa học kĩ thuật, công nghệ thông tin vào công tác quản lý nhà nước về Hải quan; Cục Hải quan Cao Bằng đã và đang từng bước thực hiện cải cách và hiện đại hóa từng bước đáp ứng yêu cầu hội nhập. Những khó khăn, hạn chế khi tiến hành cải cách hiện đại hóa: Tỉnh Cao Bằng giáp với tỉnh Quảng Tây ( Trung Quốc ) co đường biên giới dài trên 332km, địa hình hiểm trở, đường xá đi lại khó khăn, hệ thống thông tin chưa được phr khắp, đây cũng là một trở ngại cho công tác quản lý hải quan và hiện đại hóa. Hệ thống pháp luật liên quan đến công tác hải quan chưa được hoàn thiện, không ổn định, thiếu đồng bộ, chậm được hướng dẫn thực hiện, đặc biệt là hệ thống văn bản pháp luật về cư dân biên giới, cửa khẩu đường bộ…Ý thức tuân thủ pháp luật của một bộ phận không nhỏ doanh nghiệp và nhân dân tham gia xuất nhập khẩu, xuất nhập cảnh còn yếu. Cơ sở hạ tầng, đường giao thông xuống cấp, trang thiết bị kĩ thuật nghiệp vụ từng bước được hoàn thiện nhưng vẫn còn thiếu, chưa đáp ứng được yêu cầu của cải cách và hội nhập. Một bộ phận cán bộ, công chức chưa chủ động tham gia triển khai thực hiện hoặc ỷ lại cho cơ quan đơn vị; chưa tự nghiên cứu học tập nâng cao trình độ chuyên môn; chưa đáp ứng được những thay đổi khi chuyển từ phương pháp quản lý truyền thống sang phương pháp quản lý hải quan hiện đại. Ban cải cách, hiện đại hóa có lúc chưa dủ mạnh về cơ cấu tổ chức dẫn đến chưa cụ thể hóa được kế hoạch, công tác tổ chức thực hiện, kiểm tra, đôn đốc, điều chỉnh, điều phối chưa đạt hiệu quả. Giải pháp hoàn thiện quản lý hoạt động nhập khẩu Nhóm giải pháp chung Hiện đại hóa ngành Hải quan: Đến năm 2010 phải hoàn thành việc cải cách chuyển đổi các hoạt động nghiệp vụ hải quan theo chuẩn mực của một tổ chức Hải quan hiện đại. Phù hợp với khu vực và Quốc tế, thực hiện các cam kết Quốc tế liên quan đến lĩnh vực Hải quan như: Công ước KYOTO, Hiệp định trị giá GATT/WTO, Công ước HS, gồm: Chuyển đổi phương pháp quản lý nghiệp vụ, cải cách quy trình một cửa, tăng cường sự kiểm soát của cơ quan Hải quan đối với hàng hóa xuất nhập khẩu, giải quyết được thách thức về sự gia tăng nhanh chóng của công việc với năng lực của cơ quan Hải quan. Nâng cao khả năng thu thuế, góp phần tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước. Tự động hoá: Thực hiện tự động hóa thủ tục hải quan ở tất cả các địa bàn trọng điểm, các cửa khẩu quốc tế, quốc gia. Phấn đấu tự động hóa quy trình thủ tục hải quan đối với 95% lượng hàng hóa XNK trên địa bàn cả nước. Tự động hóa công tác kiểm tra giám sát Hải quan. Tăng nhanh khả năng thông quan hàng hóa. Về khai hải quan: khai hải quan được chủ yếu thực hiện qua mạng tin học. Người làm thủ tục hải quan chủ yếu là các đại lý làm thủ tục hải quan. Kiểm tra hàng hoá: Quy định hình thức kiểm tra, từ cơ sở dữ liệu tập trung tại Tổng cục chỉ đạo cho toàn quốc. Hải quan vùng quyết định hình thức kiểm tra, các điểm thông quan (Chi cục) chỉ thực hiện thông quan. Tỷ lệ kiểm tra thực tế đối với hàng hoá xuất khẩu < 5%, hàng nhập khẩu < 20%, thông quan qua mạng 80%, thông quan bằng hồ sơ 5%, kiểm tra hồ sơ sau đó kết hợp kiểm tra hàng hoá 15%, đối với trường hợp phải kiểm tra thực tế thì chủ yếu kiểm tra bằng máy, còn kiểm tra thủ công (Mở kiểm toàn bộ) 5%. - Xây dựng 3 Trung tâm phân tích phân loại hàng hoá hiện đại và đạt tiêu chuẩn quốc tế có đủ khả năng phân tích được trên 50% các mặt hàng xuất nhập khẩu cần phải giám định; thực hiện mục tiêu hoạt động phân tích, phân loại hàng hóa XNK phải là “cánh tay nối dài” của công tác kiểm hóa . Giám sát hải quan: chủ yếu thực hiện thông qua thiết bị kỹ thuất hiện đại như: camera; hệ thống định vị toàn cầu... b) Xây dựng lực lượng hải quan chính quy: - Về cơ cấu tổ chức: đến năm 2010 hoàn thiện mô hình tổ chức của ngành Hải quan theo nguyên tắc tập trung thống nhất, gồm 3 cấp :Tổng cục Hải quan; Hải quan Vùng; điểm thông quan. - Về con người: Phải xây dựng lực lượng hải quan là lực lượng hoạt động có tính kỷ luật cao; thành thạo về trình độ nghiệp vụ chuyên môn theo chức trách được phân công; hoạt động minh bạch, liêm chính; có trình độ hiểu biết đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ công tác; làm chủ được các trang thiết bị kỹ thuật hiện đại. c) Nội dung hiện đại hóa trang thiết bị nghiệp vụ, cơ sở vật chất của Hải quan: Nâng cao tính năng, tác dụng của trang thiết bị kỹ thuật trong giám sát, kiểm tra hải quan; Tăng cường trang thiết bị phục vụ cho việc kiểm tra hàng hoá xuất nhập khẩu, hành lý của khách xuất nhập cảnh phù hợp với điều kiện thực tiễn của từng địa bàn; Trang bị kỹ thuật đầy đủ cho cán bộ kiểm hoá; Trang bị đồng bộ máy soi hiện đại, quy trình nghiệp vụ hoàn chỉnh cho các điểm thông quan; Hiện đại hóa các trang thiết bị phục vụ hoạt động kiểm soát chống buôn lậu, buôn bán hàng cấm và các loại tội phạm mới. Quan hệ phối hợp thực hiện: Hoạt động thương mại phụ thuộc vào dịch vụ của nhiều cơ quan, nhiều nhà cung cấp dịch vụ. Tất cả họ đều là thành viên tham gia vào chuỗi hậu cần thương mại. Bởi vậy, một chương trình cải cách chỉ giới hạn trong phạm vi ngành hải quan ít hiệu quả hơn rất nhiều so với việc mở rộng cải cách sang cả các cơ quan và nhà cung cấp dịch vụ khác. Trong nhiều trường hợp cơ quan quản lý anh ninh biên giới có kiểm tra hồ sơ hải quan và kiểm tra thực tế hàng hóa tại cửa khẩu hoặc có thể tái kiểm những lô hàng mà hải quan đã kiểm tra, những quyết định kiểm tra này hoàn toàn có cơ sở pháp lý tuy nhiên nó sẽ gây cản trở các hoạt động thương mại của doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Vậy để tạo thuận lợi, về mặt lý thuyết không có lý do gì mà các cơ quan khác nhau này lại không thể hợp lực cùng ngành hải quan trong việc áp dụng các phương pháp lập hồ sơ rủi ro tiến tiến nhằm giảm thiểu kiểm tra thực tế hàng hóa, tập trung vào những lô hàng có nguy cơ cao đồng thời nhanh chóng giải phóng những lô hàng khác. Đã có nhiều nước trên thế giới áp dụng sự hợp tác này, tuy nhiên điều này không xảy ra ở các nước đang phát triển với việc thực thi pháp luật còn lỏng lỏe và còn có những mẫu thuẫn về lợi ích làm cho sự hợp tác này khó thành công hơn. Hoạt động hải quan hiệu quả cũng phụ thuộc vào môi trường pháp lý tốt cũng như cách thức ra quyết định và thực thi các quyết định đó. Các hạn chế về dịch vụ kho bãi, dịch vụ cảng biển cũng nhà những nguyên nhân giảm thời gian thông quan hàng hóa. Cách tốt nhất để lôi kéo các ban ngành khác tham gia vào chương trình cải cách hải quan là đặt cải cách hải quan trong bối cảnh rộng lớn hơn của cải cách thương mại và khả năng cạnh tranh. Tuy đây không thuộc trách nhiệm riêng của ngành hải quan mà của cả một chính phủ, khi đó hải quan trở thành nhân tố tích cực trong việc nhân rộng cải cách sang các ngành khác. Nhóm giải pháp cụ thể Quản lý mặt hàng nhập khẩu Hiện nay, hàng nhập khẩu của Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng chưa được quản lý một cách chặt chẽ trên phương diện các loại mặt hàng. Việc nhập khẩu xảy ra một cách tràn lan, chưa có cơ chế quản lý đúng đắn. Hàng ngày, trên tất cả các cửa khẩu, hoạt động nhập khẩu vẫn diễn ra thường xuyên và sôi nổi. Có những mặt hàng thật sự cần thiết cho tỉnh, cũng như cho cả nước. Tuy nhiên có những mặt hàng mà sự quản lý nhập khẩu không chặt chẽ có thể gây ảnh hưởng rất lớn đến nền sản xuất trong nước. Hàng Trung Quốc nhập qua cửa khẩu thường có giá rất rẻ so với hàng Việt Nam. Nếu không tính đến yếu tố chất lượng thì đó là sự lựa chọn hoàn hảo cho người dân. Dân ta vẫn thường có xu hướng mua hàng rẻ. Vì vậy, mua hàng Trung Quốc là một sự lựa chọn không tồi. Vì vậy, hàng nhập khẩu Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng vẫn được thường xuyên tiêu thụ và kim ngạch không ngừng tăng lên theo từng năm. Sự gia tăng đó là sự đe dọa nghiêm trọng đối với một số doanh nghiệp trong tỉnh. Nếu tỉnh và ngành Hải quan không có các biện pháp quản lý đúng đắn và thiết thực thì có thể tình hình sẽ ngày càng nghiêm trọng và đẩy một số doanh nghiệp đến bên bờ vực của sự phá sản. Mặc dù Cục Hải quan Cao Bằng đã ý thức được tầm quan trọng cũng như lưu ý đến vấn đề này, tuy nhiên, do nhiều yếu tố khác nhau như vướng mắc trong cơ chế, trình độ cán bộ công chức còn yếu, cơ sở vật chất yếu kém, ý thức tiêu dùng của người dân chưa cao…nên việc quản lý các mặt hàng nhập khẩu vẫn vô cùng khó khăn và kết quả thu được còn rất khiêm tốn. Qua phân tích tình hình thực tế và dự báo tình hình phát triển trong vài năm tới, Cục Hải quan Cao Bằng đã có những giải pháp cụ thể để quản lý mặt hàng nhập khẩu Trung Quốc như sau: + Thực hiện các biện pháp cắt giảm số lượng nhập khẩu của các mặt hàng, áp dụng các chính sách về thuế quan, hạn ngạch hợp lý để điều chỉnh hạn chế khối lượng hàng hóa theo chiều hướng có lợi. + Khuyến khích các doanh nghiệp trong tỉnh phát triển các mặt hàng mũi nhọn, cải tiến chất lượng, giá thành hạ để cạnh tranh với hàng ngoại nhập. + Tuyên truyền, phổ biến, nâng cao ý thức tiêu dùng của người dân. Nếu hàng hai nước có chất lượng và giá cả tương đương thì sẽ tiêu dùng hàng trong nước, thực hiện đúng phương châm “người Việt dùng hàng Việt”. Quản lý thuế nhập khẩu Rà soát lại tất cả các văn bản pháp quy liên quan đến hoạt động quản lý thuế để giải quyết những chống chéo, mâu thuẫn từ đó có kiến nghị cơ quan có thẩm quyền sửa đổi cho phù hợp. Hải quan là cơ quan hành chính chịu điều chỉnh của rất nhiều văn bản quy phạm pháp luật. Theo thống kê, hiện nay ngành hải quan phải thực hiện việc quản lý theo quy định của khoảng 80 loại văn bản khác nhau. Trong lĩnh vực quản lý thuế xuất nhập khẩu cũng chịu sự điều chỉnh của rất nhiều văn bản khác nhau. Ngoài một số văn bản cơ bản như Luật thuế xuất khẩu, Luật thuế nhập khẩu, Luật hải quan và các văn bản hướng dẫn thì quản lý thuế còn chịu sự điều chỉnh của các luật khác như Bộ luật hình sự, Luật đầu tư, Luật ngân hàng, Pháp lệnh cán bộ, công chức, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính…cùng rất nhiều các văn bản hướng dẫn thi hành các lĩnh vực này. Khi thực hiện nghiệp vụ quản lý thuế nhất là việc xử lý vi phạm và cưỡng chế thu đòi cơ quan hải quan đều phải chịu sự điều chỉnh của các văn bản này. Hiện nay có rất nhiều các quy định mẫu thuẫn như đã trình bày ở Chương 2. Từ thực tế đó, việc rà soát lại tất cả các văn bản liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước về hải quan đối với thuế xuất nhập khẩu để tiến hành sửa đổi bổ sung cho phù hợp là việc cần phải giải quyết. Việc rà soát lại tất cả các văn bản liên quan đến hoạt động quản lý nhà nước về hải quan đối với thuế xuất nhập khẩu là một việc làm không đơn giản vì nó liên quan đến nhiều đối tượng, nhiều cơ quan quản lý nhà nước chuyên ngành khác nhau do vậy cần thiết phải có sự nỗ lực của toàn bộ hệ thống chính trị mà không riêng gì ngành hải quan. - Cần tập hợp các quy định về quản lý thuế xuất nhập khẩu trong một văn bản hướng dẫn thống nhất tạo thuận lợi cho việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật về quản lý thế xuất nhập khẩu đồng thời tạo thuận lợi cho công chức hải quan thực hiện nhiệm vụ quản lý thuế xuất nhập khẩu. Ngành Hải quan có trách nhiệm nhan chóng hoàn thiện dự thảo Thông tư về tủ tục hải quan, kiểm tra, giám sát hải quan; quản lý thuế đối với hàng hoá xuất nhập khẩu để thay thế cho các thông tư 112/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 hướng dẫn về thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan và 114/2005/TT-BTC ngày 15/12/2005 về hướng dẫn kiểm tra sau thông quan. Thông tư này ra đời sẽ thu gọi đầu mối các văn bản đề thực hiện quản lý một cách thống nhất, xuyên suốt trong toàn bộ trình từ trước, trong và sau thông quan. Thông tư mới cũng sẽ hướng dẫn một số nội dung về thủ tục quản lý thuế thực hiện đồng thời trong quá trình làm thủ tục hải quan, kiểm tra giám sát hải quan và kiểm tra sau thông quan. Theo đó thủ tục hải quan, kiểm tra hải quan, giám sát hải quan, quản lý thuế được thực hiện dựa trên kết quả thu thập, tổng hợp, phân tích, xử lý thông tin, đánh giá quá trình chấp hành pháp luật của người khai hải quan, người nộp thuế để áp dụng phương pháp quản lý rủi ro; có ưu tiên và tạo thuận lợi đối vơi chủ hàng chấp hành tốt pháp luật về hải quan, pháp luật thuế. Hàng hoá của chủ hàng đã vi phạm nhiều lần về luật thuế, luật hải quan sẽ không được ưu tiên khi làm thủ tục. - Cần sớm xây dựng và ban hành hệ thống chuẩn mực về kiểm tra thuế: Trong điều kiểm tra thuế được thực hiện dựa trên cơ sở phân tích thông tin, đánh giá việc tuân thủ pháp luật của người nộp thuế, của người khai hải quan, mức độ rủi ro vi phạm pháp luật về thuế. Căn cứ nào để đảm bảo rằng kết quản kiểm tra thuế là chính xác, trung thực, khách quan và đáng tin cậy; việc giảm trừ trách nhiệm cho cán bộ, công chức hải quan làm nhiệm vụ kiểm tra thuế qua từng khâu nghiệp vụ cần được định rõ ràng; kết quả kiểm tra 2.2.3. Quản lý doanh nghiệp nhập khẩu Doanh nghiệp vừa là đối tác vừa là đối tượng quản lý của cơ quan hải quan. Cải cách suy cho cùng là phục vụ cho lợi ích chính đáng của các doanh nghiệp. Do vậy hợp tác công tư sẽ tạo nên sự thành công trọn vẹn cho cải cách hải quan. Trao đổi thông tin thường xuyên với các doanh nghiệp xuất nhập khẩu sẽ giúp cho những nhà quản lý cải cách có được những phản hồi để từ đó điều chỉnh việc cải cách cho phù hợp với tình hình thực tế trong từng quốc gia trên cơ sở các chuẩn mực quốc tế. Hợp tác hải quan – doanh nghiệp đóng vai trò vô cùng quan trọng trong kiểm soát tham nhũng. Nhìn chung, có nhiều hình thức tham nhũng đòi hỏi sự tham giá tích cực của các đối tác bên ngoài như các doanh nghiệp xuất nhập khẩu, các hãng giao nhận và đại lý khai thuê hải quan. Bởi vậy, một chiến lược chống tham nhũng hiệu quả cần đảm bảo sự hỗ trợ chủ động và toàn tâm, toàn ý của khu vực doanh nghiệp. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy chừng nào các doanh nghiệp vẫn muốn chi tiền hối lộ để có được lợi thế thương mại hơn các đối tác thì chứng đó còn khó có thể có thái độ hợp tác trong đấu tranh chống tham nhũng từ phía doanh nghiệp và lại càng khó hơn khi duy trì lâu các mối quan hệ đó. Để đẩy mạnh sự hợp tác cần phải xây dựng được một chính sách hợp tác một cách toàn diện trong đó phải thực hiện được các mục tiêu sau: - Phải xây dựng được một cơ chế trao đổi thông tin qua đó thúc đẩy các mối quan hệ cởi mở, minh bạch và hiệu quả với khu vực tư nhân; - Phải xây dựng một kênh thông tin thường xuyên tiếp nhận những ý kiến phải hồi từ phía cộng đồng doanh nghiệp. - Phải xây dựng một chiến lược truyền thông hiệu quả nhằm thông tin đến cộng đồng doanh nghiệp những thành tựu cải cách đạt được của ngành hải quan để từ đó nhận được sự ủng hộ từ phía doanh nghiệp. - Phải có cơ chế khuyến khích các tố cáo về tham nhũng và bảo vệ những cá nhân tổ chức thực việc tố cáo. Việc đẩy mạnh quan hệ với khu vực doanh nghiệp phải được thực hiện một cách thực chất. Thông thường các doanh nghiệp vẫn thường ngại khi trao đổi thông tin với cơ quan hải quan do vậy cơ quan hải quan cần thiết phải chủ động trong mối quan hệ này, phải phải xây dựng một chế độ trao đổi thông tin một cách minh bạch và duy trì thường xuyên. Quản lý các công chức trong thực hiện chức năng quản lý hàng hóa nhập khẩu Cải cách chế độ đãi ngộ dành cho cán bộ công chức, nhất là đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ có trình độ chuyên môn Đãi ngộ cán bộ là một tác nhân quan trọng trong quản lý nguồn nhân lực. Cần có một chế độ đãi ngộ đủ cao để thu hút và giữ chân cán bộ có trình độ làm việc cho ngành hải quan. Chế độ đãi ngộ phải được quan tâm một cách quan diện bao chế độ lương thưởng, chế độ đề bạt, chế độ đãi ngộ khác. Tuy lương thưởng không phải là động lực duy nhất thúc đẩy các cán bộ hải quan hoàn thành tốt công việc được giao song chắc chắn chế độ đãi ngộ là một động lực rất quan trọng. Thông thường, tổng gói lương chi trả cho cán bộ hải quan thường không thỏa đáng. Mức chênh lệch giữa lương thưởng cho cán bộ quản lý và cán bộ cấp dưới không có cách biệt lớn giống như trong lĩnh vực tư nhân.. do vậy cần phải xây dựng một chế độ lương thưởng linh hoạt. Lương thưởng cao phải phù hợp với mức độ công hiện mới tạo ra được động lực làm việc cho cán bộ. Trước mắt cần phải tăng mức độ lương thưởng cho đội ngũ công chức hải quan lên ngang bằng với khu vực tư nhân trong đó có tính đến việc khấu trừ do tính ổn định khi làm việc trong khu vực nhà nước. Phải xây dựng được hệ thống tiêu chí đánh giá hiệu quả công việc từ đó xếp các chế độ lương thưởng cho phù hợp. Chế độ đề bạt cũng là vốn vấn đề nhạy cảm ảnh hưởng đến động lực làm việc của công chức hải quan. Chế độ đề bạt phải được thực hiện một cách công tâm, minh bạch tránh trường hợp đề bạt do các mối quan hệ cá nhân. Cách tốt chất để đề bạt là thông quan thi tuyển. Việc thi tuyển phải được tổ chức công khai và được thực hiện thông qua Ban giám khảo có sự kết hợp của những cán bộ lãnh đạo cao cấp và các chuyên gia thuê ngoài. Ngoài đãi ngộ về lương thưởng, về đề bạt còn phải xây dựng các chế độ khen thưởng khác nhằm tạo các động lực bổ sung như xây đựng tinh thần đồng đội và lòng từ hào nghề nghiệp. Bố trí cán bộ làm việc phù hợp với chuyên môn đào tạo và năng lực sở trường Bất kỳ một tổ chức nào đều có thể vận hành tốt và vượt qua vô vàn các trở ngại nếu có đội ngũ cán bộ năng động và có năng lực. Song lực lượng cán bộ cũng cần được bổ trợ bởi một cơ cấu tổ chức phù hợp. Nhưng ngay cả khi có một mô hình tổ chức hoàn hảo mà thiếu vắng các nhân viên có năng lực, có trình độ, năng động và được đào tạo thì tổ chức đó vẫn không thể tồn tại được. Các bộ công chức chỉ có thể pháp huy hết được khả năng của mình khi được làm việc đúng với chuyên môn đào tạo và năng lực sở trưởng của mình. Tăng cường liêm chính hải quan Thông quan hải quan hiện đại với việc áp dụng cao độ công nghệ thông tin và cung cấp chế độ đãi ngộ thỏa đáng cho cán bộ sẽ đóng vai trò quyết định trong cuộc đấu tranh chống lại các vấn đề về liêm chính. Tuy nhiên, kinh nghiệm cho thấy như thế vẫn chưa đủ để triệt tiêu hoàn toàn nạn tham nhũng. Cần phải đổi mới cách giáo dục để các bộ hải quan nhận thức đầy đủ rằng không có chỗ cho các hành vi tham nhũng và tắc trách. Cần phải có những hình thức kỷ luật nghiêm minh cho các hành vi tham nhũng thậm chí phải truy cứu trách nhiệm hình sự cho những hành vi nghiêm trọng. Cần phản hồi chính thức một cách nhanh chóng đối với các cáo buộc tham nhũng hoặc phải nhanh chóng xóa bỏ những cáo buộc thiếu căn cứ. Phải rút ngắn thời gian xử lý tránh tình trạng trì hoãn kéo dài giữa thời gian vi phạm và thời điểm xử phạt. Các hình thức kỷ luật trong đó có sa thải sẽ trở thành một công cụ mạnh mẽ giúp thực thi pháp luật trong bối cảnh chế độ đãi ngộ cán bộ tố và tỷ lệ thất nghiệp cao. Một số kiến nghị thực hiện các giải pháp trên Cải cách, nâng cao kĩ thuật nghiệp vụ Hải quan 3.1.1.Về công tác phân loại hàng hóa: + Tham gia xây dựng, khai thác sử dụng và cập nhật cơ sở dữ liệu mã số hàng hóa xuất nhập khẩu; cơ sở dữ liệu về xuất xứ hàng hóa; cơ sở dữ liệu giá tính thuế trên cơ sở các nhóm hàng quản lý trọng điểm. + Thực hiện phân loại hàng hóa trước khi nhập khẩu, chủ động xác định mã số trước của những mặt hàng mới, phức tạp, nhạy cảm về thuế và chính sách xuất nhập khẩu để hỗ trợ người khai hải quan. + Công khai thông tin về giá một số mặt hàng thường xảy ra gian lận thương mại (giá chào bán, giá thị trường, các thông tin giá tham khảo…) trên Website của Cục Hải quan tỉnh, trên báo Hải quan, Báo Cao Bằng. Về trị giá hải quan: + Quán triệt, thực hiện các văn bản pháp luật về công tác quản lý giá tính thuế. + Hoàn thiện mô hình tổ chức, chức năng, nhiệm vụ, luân chuyển, đào tạo cán bộ làm công tác quản lý giá tính thuế. + Hoàn thiện phương pháp kiểm tra trị giá khai báo, tham vấn và xác định trị giá tính thuế. + Hoàn thiện cơ sở dữ liệu giá. + Xây dựng bộ tiêu chí phân loại, đánh giá mức độ rủi ro về giá tính thuế và tổ chức tham vấn đối với các lô hàng nghi ngờ trị giá khai báo. + Xem xét, quyết định phân cấp tham vấn xác định trị giá tính thuế cho các chi cục trực thuộc. Về xuất xứ hàng hóa: + Tăng cường công tác thu thập và xử lý thông tin đối với những lô hàng theo đánh giá có mức độ rủi ro cao về khả năng gian lận xuất xứ. + Tham gia xây dựng cơ sở dữ liệu về xuất xứ hàng hóa. + Rà soát lại đội ngũ cán bộ công chức liên quan đến công tác xác định xuất xứ hàng hóa để bố trí theo hướng chuyên sâu, chuyên nghiệp và cử tham gia các lớp đào tạo, tập huấn các kỹ năng kiểm tra, xác định xuất xứ hàng hóa. Về sở hữu trí tuệ: + Tiến hành khảo sát công tác thực thi quyền sở hữu trí tuệ, chống hàng giả tại các đơn vị trực thuộc để đánh giá thực trạng và đề ra kế hoạch thực hiện. + Tổ chức tập huấn, đào tạo, bồi dưỡng chuyên sâu nghiệp vụ sở hữu trí tuệ, chống hàng giả cho cộng đồng doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân liên quan. + Tăng cường phối kết hợp với các lực lượng chuyên trách có liên quan đến công tác thực thi quyền sở hữu trí tuệ, chống hàng giả trên địa bàn như: lực lượng biên phòng, quản lý thị trường, công an kinh tế… + Triển khai thực hiện quy trình, quy chế của lực lượng làm nhiệm vụ thực thi nhiệm vụ bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ đối với hàng hóa xuất nhập khẩu. + Kiện toàn tổ chức đảm bảo thực thi quyền sở hữu trí tuệ tại biên giới. Thực hiện ứng dụng công nghệ thông tin Chủ động đề xuất ứng dụng và tiếp nhận chương trình xử lý thông tin hiện đại của Tổng cục Hải quan; Ứng dụng cồn nghệ thông tin trong các khâu nghiệp vụ trên cơ sở chương trình cung cấp của ngành. Đảm bảo cho hệ thống thông tin quản lý phục vụ chỉ đạo, điều hành, trao đổi thông tin thông suốt, kịp thời từ Cục Hải quan tỉnh đến các đơn vị thuộc và trực thuộc. Hiện đại hóa hải quan gắn liên với việc hiện đại hóa các quy trình nghiệp vụ và hiện đại hóa cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin. Tin học hóa hải quan phải được thực hiện có kế hoạch rõ ràng và phải được thực hiện theo một lộ trình có thể kiểm soát. Công nghệ thông tin cần được ứng dụng trên các lĩnh vực: - Kiểm kê lưu kho đối với hàng hóa quốc tế - Xử lý tờ khai để thông quan hàng - Kiểm soát chứng từ và thuế - Xác định trị giá hải quan - Kiểm soát hàng hóa quá cảnh, chuyển khẩu, tạm nhập tái xuất - Quản lý và thực thi các chế độ gia công xuất khẩu hay hoàn thuế - Quản lý rủi ro (hồ sơ rủi ro, phấn tích rủi ro và phân tích thông tin tình báo) - Các ứng dụng khai thuê hải quan - Các hệ thống thông tin quản lý - Thực thi pháp luật hải quan - Kế toán thuế - Tổng hợp và duy trì số liệu thống kê thương mại và phân tích thống kế để nhận diện các phương thức thương mại bất thường để tiến hành phân tích sâu hơn. 3.3. Trang bị thiết bị hiện đại phục vụ kiểm tra thực tế hàng hóa Có rất nhiều công nghệ đã được xác định dùng cho kiểm tra hàng hóa. Các kỹ thuật này này có mức độ xâm phạm và phức tạp về kỹ thuật khác nhau. Có thể phân thành thể phân loại thành thiết bị thủ công, thiết bị công nghệ thấp, công nghệ có tính xâm phạm (niêm phong) và thiết bị công nghệ cao (máy nhắn tin dò tìm phóng xạ, máy soi tia X và tia Ga-ma). Mỗi công nghệ có những tiện ích riêng cũng những những nhược điểm tiềm ẩn. Trang thiết bị cho phương pháp kiểm tra thủ công bao gồm những công những trang bị như gậy kiểm hóa, đèn pin, đèn chiếu, cưa xích, máy hút chân không, ông nghe điện từ và những thiết bị thông thường khác. Các thiết bị này chỉ có thể phát huy tốt khi được sử dụng bởi những kiểm hóa viên có năng lực và hầu như không mấy khác biệ giữa các nước trên thế giới. Trang thiết bị phát hiện – xâm phạm, bao gồm niêm phong điện tử và băng từ chống làm giả để xác định xem hàng hóa có bị gắn niêm phong giả trong chuổi kiểm soát từ lúc kiện hàng được niêm phong bởi một hãng vận tải danh tiếng cho đến khi xếp hàng lên tàu hoặc máy bay. Ví dụ như có thể sử dụng niêm phong điện từ (còn gọi là niêm phong radio), một thiết bị tần số radio có thể truyền thông tin về chuyến hàng khi qua một thiết bị đọc và sẽ bị phát hiện các trường hợp một container bị xâm phạm. Công nghệ hiện đại phục vụ kiểm tra bao gồm máy nhắn tin dò tìm phóng xạ, thiết bị tìm dấu vết chất nổ, máy soi tia X và máy soi tia Ga - ma. Thiết bị soi container có thể giúp tăng số lượng các lô hàng hải quan lưu tâm mà không gây ra chậm trễ hay bất hợp lý cũng như có thể phát hiện ra hàng hóa vi phạm. Tác dụng của máy móc hiện đại trong công tác kiểm tra hàng hóa thì rõ ràng và cũng đòi hỏi các khoản đầu tư lớn do vậy phải cân nhắc đến hiệu quả việc đầu tư. Kinh nghiệm của hải quan các nước đang sử dụng thiết bị này cho thấy cần lập kế hoạch đưa vào áp dụng thiết bị này trước khi mua thiết bị. Việc đưa các trang thiết bị này vào hoạt động cũng phải dựa vào hoạt động phân tích rủi ro. Các máy soi container cần được đặt ở những đơn vị có lưu lượng hàng xuất nhập khẩu bằng container lớn. Các máy soi hành lý khác cần được triển khai ở những cửa khẩu hay sân bay có lưu lượng hành khách xuất nhập cảnh lớn. Nhất thiết không được đầu tư tràn lan gây lãng phí các nguồn lực. Hiện tại các bước thủ tục được thực hiện trên các phần mềm riêng rẽ rất mất thời gian trong tra cứu, các phần mềm hoạt động chưa thật sự ổn định, thường xuyên phát sinh lỗi do vậy cần phải tích hợp các phần mềm quản lý thành một phần mềm thống nhất tạo thuận lợi cho việc ứng dụng. 3.4. Kết nối cổng cơ sở sở dữ liệu với các cá nhân tổ chức có liên quan Hệ thống kiểm tra dựa trên phân tích rủi do dựa trên các thông tin có được do sự thu thập. Các nguồn thông tin liên quan đến doanh nghiệp xuất nhập khẩu và hàng hóa xuất nhập khẩu quan phân tích sẽ trở thành cơ sở cho việc ra các quyết định quản lý hành chính trong nhiều lĩnh vực trong đó có lĩnh vực thuế xuất nhập khẩu. Sẽ là vô cùng thuận lợi nêu công chức hải quan có thể tiếp cận được các thông tin đó một cách dễ dàng làm giảm bớt thời gian làm thủ tục nhằm rút ngắn thời gian thông quan. Một số kết nối cần thực hiện trong thời gian tới bao gồm: - Kết nối với Cơ quan thuế nội địa sẽ giúp có được thông tin về tình trạng hoạt động của doanh nghiệp, xác minh được tính trung các chứng từ nội địa như các hóa đơn bán hàng trong kiểm tra sau thông quan, xác minh được các khoản thu ngân sách được hoàn để thực hiện việc thu đòi… - Kết nối với Kho bạc Nhà nước để nắm tình hình thu nộp ngân sách hay tình tình thực hiện việc hoàn thuế của đối tượng nộp thuế mà không cần phải thực hiện các thủ tục hành chính mất thời gian khác… - Kết nối với các Ngân hàng thương mại sẽ giúp xác minh tính trung thực trong khai báo về thanh toán hay sẽ có biện pháp trích nộp ngân sách đối với những đối tượng. - Kết nối với doanh nghiệp cảng để nắm bắt tình hình bốc dỡ lưu kho, lưu bãi của hàng hóa xuất nhập khẩu. KẾT LUẬN Việt Nam đã gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Để phát triển trong môi trường cạnh tranh khốc liệt này, các doanh nghiệp trong nước phải nâng cao năng lực cạnh tranh, bộ máy quản lý nhà nước phải đổi mới, nâng cao năng lực quản lý. Vì vậy, Hải quan – là người bạn đồng hành của doanh nghiệp cũng đồng thời là người gác cổng biên giới trong lĩnh vực kinh tế cần phải liên tục cập nhật thông tin, kịp thời nắm bắt tình hình, đưa ra những biện pháp cụ thể và thiết thực để thúc đẩy nền thương mại phát triển, tạo điều kiện cho sự phát triển kinh tế của đất nước, đồng thời bảo hộ nền sản xuất trong nước phát triển một cách ổn định và lâu dài trong môi trường cạnh tranh khốc liệt nhưng cũng rất sôi nổi này. Trong bối cảnh đó, Cục Hải quan Cao Bằng có những bước thay đổi, kịp thời thích ứng với xu thế chung và đã đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Cục hải quan Cao Bằng với nhiều thành phần là Chi cục Hải quan cửa khẩu hàng ngày đã và đang tiếp xúc với các doanh nghiệp, các đối tác nước ngoài và đặc biệt là các đối tác Trung Quốc trong lĩnh vực xuất nhập khẩu hàng hóa qua biên giới. Với tình hình phát triển hiện nay, đặc biệt là tình trạng nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng ngày càng gia tăng đã đặt ra cho Cục Hải quan cao Bằng những nhiệm vụ vô cùng cấp bách. Tuy Cục đã có những thay đổi để thích ứng và đã đạt được những thành tựu đáng kể trong việc quản lý hàng nhập khẩu Trung Quốc. Tuy nhiên vẫn còn một số hạn chế vẫn cần phải khắc phục. Một số giải pháp đã được đưa ra nhưng đó chỉ là những giải pháp mang tính giải quyết tình thế chứ chưa thực sự là những liệu pháp bền vững, giải quyết được gốc rễ của vấn đề. Xuất phát từ những lý do đó, việc đi sâu nghiên cứu những vấn đề liên quan đến quản lý hoạt động nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng, đánh giá tình hình quản lý xuất nhập khẩu hiện nay qua từ đó đề ra giải pháp đồng bộ, mang tính chiến lược cho hoạt động quản lý hàng nhập khẩu đang là một đòi hỏi khách quan cần được các cấp và các ngành trong tỉnh quan tâm. Do đó qua việc đi sâu nghiên cứu đề tài “Quản lý hoạt động nhập khẩu hàng hóa Trung Quốc qua cửa khẩu Cao Bằng của Cục Hải quan Cao Bằng: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện” em đã mạnh dạn dưa ra một số ý kiến và giải pháp nhằm hoàn thiện. Do kiến thức có hạn vừ việc tham khảo còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những sai lầm và thiếu sót. Em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô giáo, các anh chị trong cơ quan để em có thể hoàn thiện đề tài của mình. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình “ Kinh tế hải quan (phần 1)“, GS.TS. Hoàng Đức Thân, PGS.TS. Nguyễn Thị Xuân Hương Quyết định “Quy trình kiểm tra, xác định trị giá tính thuế.Đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu”, Tổng cục trưởng Tổng cục Hải quan “Kế hoạch phát triển, hiện đại hóa Hải quan Cao Bằng giai đoạn 2008 – 2010, định hướng đến năm 2020”, Cục Hải quan Cao bằng Website: Caobang.gov.vn “Thực trạng công tác phân loại hàng hóa tại Cục Hải quan TP Hà Nội và các giải pháp thực hiện” Website: Caobang.gov.vn “Kỷ niệm 5 năm công tác phân tích, phân loại hàng hóa xuất khẩu nhập khẩu” Website: Hanoicustom.com “Quy tắc xuất xứ” Báo Cao Bằng “Kinh tế Cao Bằng trong thời kỳ mới” ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc31585.doc
Tài liệu liên quan