Quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng

Tài liệu Quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng: MỤC LỤC Trang DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT NHTM : Ngân hàng thương mại NHCP : Ngân hàng cổ phần NHNN : Ngân hàng Nhà nước NHCT : Ngân hàng Công thương NHCTVN : Ngân hàng Công thương Việt Nam VNĐ : Việt Nam đồng USD : Đô la Mỹ WTO : Tổ chức Thương mại thế giới TCKT : Tổ chức kinh tế CBNV : Cán bộ nhân viên KTKSNB : Kiểm tra kiểm soát nội bộ HĐQT : Hội đồng Quản trị TCCB : Tổ chức cán bộ DANH MỤC SƠ ĐỒ BẢNG BIỂU Sơ đồ 1.1: Tổng quan về ... Ebook Quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng

doc80 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1667 | Lượt tải: 2download
Tóm tắt tài liệu Quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp vụ hoạt động kinh doanh của NHTM 4 Sơ đồ 2.1. Cơ cấu tổ chức Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng 27 Bảng 2.1: Số liệu về tình hình huy động vốn 31 Bảng 2.2: Số liệu về hoạt động tín dụng 33 Bảng 2.3: Số liệu về công tác tài trợ thương mại 34 Bảng 2.4: Số liệu về kết quả hoạt động kinh doanh 35 Bảng 2.5: Tình hình thực hiện kế hoạch huy động tiền gửi và cho vay tại Chi nhánh 39 Bảng 2.7: Cơ cấu tiền gửi huy động theo thành phần kinh tế 41 Bảng 2.8: Cơ cấu tiền gửi huy động theo kỳ hạn 43 Bảng 2.9: Cơ cấu tiền gửi huy động theo loại tiền 45 Bảng 2.10: Tình hình huy động vốn và cho vay ngắn hạn 47 Bảng 2.11: Tình hình huy động vốn và cho vay trung dài hạn 48 Bảng 2.12: Tình hình huy động vốn và cho vay bằng VNĐ 49 Bảng 2.13: Tình hình huy động vốn và cho vay bằng ngoại tệ quy đổi 50 Bảng 2.14: Cơ cấu chi phí huy động vốn và chi trả lãi cho tiền gửi 51 Bảng 2.15: Lãi suất bình quân của chi nhánh các năm 2005 – 2007 53 LỜI MỞ ĐẦU Việt Nam trong bối cảnh hội nhập, kinh tế thị trường ngày càng phát triển, các ngành kinh tế đều đặt ra mục tiêu tăng trưởng mở rộng nhất là sau 1 năm ra nhập WTO. Điều này đã khiến vai trò của hệ thống ngân hàng và các tổ chức trung gian tài chính trở nên đặc biệt quan trọng. Ngân hàng là nơi tích tụ, tập trung, khơi dậy và động viên các nguồn lực cho phát triển kinh tế, hỗ trợ đắc lực về vốn cho đầu tư phát triển của nền kinh tế quốc dân, góp phần quan trọng vào thành tựu tăng trưởng chung của đất nước. Nền kinh tế của một quốc gia chỉ phát triển cao và ổn định khi có chính sách tài chính tiền tệ đúng đắn và một hệ thống ngân hàng lớn mạnh, hoạt động tích cực và hiệu quả. Do đó, nghiên cứu về ngân hàng và hoạt động quản trị ngân hàng cần phải được thực hiện một cách cặn kẽ và khoa học. Trong thời gian thực tập tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng, em nhận thấy công tác quản lý vốn, đặc biệt là quản lý tiền gửi có vai trò rất quan trọng đối với hoạt động ngân hàng. Làm sao để huy động được nguồn tiền gửi dồi dào với chi phí thấp nhất, đảm bảo nhu cầu sử dụng cho các hoạt động kinh doanh, đồng thời có kế hoạch phân bổ sử dụng lượng vốn này một cách hợp lý đem lại lợi nhuận tối đa cho ngân hàng chính là vấn đề đặt ra trong việc quản lý nguồn tiền gửi huy động. Sau quá trình nghiên cứu tìm hiểu, với mong muốn góp một phần nhỏ vào việc hoàn thiện hơn công tác quản lý vốn đặc biệt là quản lý tiền gửi tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng, em chọn đề tài: “Quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi tại Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình. Mục đích nghiên cứu: Phân tích thực trạng về việc quản lý tiền gửi tại chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng và đưa ra giải pháp đảm bảo cân đối đủ vốn để cho vay và tối thiểu chi phí huy động vốn từ tiền gửi. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu hoạt động huy động vốn từ các khoản tiền gửi và nhu cầu sử dụng các nguồn vốn đó. Tập trung vào phân tích các chỉ tiêu về chất lượng cơ cấu nguồn vốn, chi phí huy động và chênh lệch lãi suất, so sánh mức độ cân đối giữa lượng vốn huy động và nhu cầu sử dụng; không phân tích hoạt động tín dụng. Phương pháp nghiên cứu: Dựa trên cơ sở lý luận về hoạt động quản lý nói chung, về vốn và hoạt động quản lý vốn tại các NHTM; tổng hợp, phân tích số liệu thực tế để thu thập được tại đơn vị thực tập và kết quả của những công trình nghiên cứu trước đây. Kết cấu của chuyên đề: Gồm 3 phần Chương I: Một số vấn đề lý luận về quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi trong ngân hàng thương mại. Chương II: Thực trạng công tác quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng. Chương III: Một số giải pháp hoàn thiện hoạt động quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi tại Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng Đây là lĩnh vực phức tạp và khá mới đối với em, bản thân em trong quá trình nghiên cứu và tìm hiểu cả về lý luận và thực tiễn còn có những hạn chế nhất định nên chuyên đề không thể tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong được sự tham gia góp ý của cơ quan thực tập và các thầy cô giáo. Qua đây em xin gửi lời cảm ơn chân thành đến các cô chú cán bộ phòng khách hàng cá nhân – chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng đã tạo mọi điều kiện thuận lợi cho em trong quá trình thực tập, cung cấp tài liệu để em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp; đặc biệt là cảm ơn cô giáo – TS. Hồ Thị Bích Vân đã tận tình hướng dẫn em trong quá trình hoàn thiện đề tài. CHƯƠNG I: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG TỪ TIỀN GỬI TRONG NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. Khái quát chung về ngân hàng thương mại (NHTM) 1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại Phần này tóm tắt từ “Nghiệp vụ NHTM – TS. Nguyễn Minh Kiều – NXB Thống Kê 2004” Ngân hàng thương mại là một loại hình tổ chức tín dụng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động khác có liên quan. Trong đó: Tổ chức tín dụng là loại hình doanh nghiệp được thành lập theo quy định của luật pháp để hoạt động kinh doanh tiền tệ, làm dịch vụ ngân hàng với nội dung nhận tiền gửi và sử dụng tiền gửi để cấp tín dụng, cung ứng các dịch vụ thanh toán. Hoạt động ngân hàng là hoạt động kinh doanh tiền tệ và dịch vụ ngân hàng với nội dung thường xuyên là nhận tiền gửi và sử dụng số tiền này để cấp tín dụng, cung ứng dịch vụ thanh toán. 1.1.2. Hoạt động của NHTM. Phần này tóm tắt từ “Ngân hàng thương mại – GSTS. Lê Văn Tư – NXB Tài Chính 2008” Với ý nghĩa là một tổ chức “kinh doanh tài chính”, ba chức năng cơ bản của NHTM gồm: Chức năng trung gian tài chính (trung gian thanh toán giữa các doanh nghiệp trong nền kinh tế); Chức năng tạo tiền (sáng tạo ra bút tệ góp phần gia tăng khối tiền tệ cho nền kinh tế); Chức năng sản xuất (huy động và sử dụng các nguồn lực để tạo ra sản phẩm và dịch vụ Ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế). Ba chức năng trên được cụ thể hoá trong 3 nghiệp vụ chính của NHTM trong nền kinh tế như sau: Nghiệp vụ huy động vốn, Nghiệp vụ sử dụng vốn và các nghiệp vụ khác.(Xem sơ đồ trang bên) NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI Sơ đồ 1.1: Tổng quan về nghiệp vụ hoạt động kinh doanh của NHTM CÁC NGHIỆP VỤ HĐKD NGHIỆP VỤ TRUNG GIAN NGHIỆP VỤ CÓ (SỬ DỤNG VỐN) NGHIỆP VỤ NỢ (HUY ĐỘNG VỐN) 1. N.vụ phát sinh 1. Cho vay 1. N.vụ trung gian 2. N.vụ quản lý và huy 2. Chiết khấu 2. DVKD vàng động bạc ngoại tệ 3. N.vụ đi vay 3. Đầu tư liên doanh 3. DV nhận uỷ thác Trả tiền gửi, tiền vay Thu lãi tiền vay Thu hoa hồng từ Chi phí HĐKD Tiền đầu tư, liên doanh các HĐ trung gian Tổng Chi phí (-) Tổng thu Lợi nhuận gộp của NHTM (-) Thuế lợi tức Lợi nhuận ròng Các quỹ của Ngân hàng Nguồn: Ngân hàng Thương mại – tr.531 – GS.TS. Lê Văn Tư – NXB Tài Chính 2004 Ø Nghiệp vụ huy động vốn: Huy động vốn là một trong những hoạt động chủ yếu và quan trọng nhất của Ngân hàng thương mại, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Đây là hoạt động tạo nguồn vốn để ngân hàng có thể thực hiện những nghiệp vụ khác như cấp tín dụng và cung cấp các dịch vụ ngân hàng khác cho khách hàng. Huy động các nguồn vốn khác nhau trong xã hội để hoạt động là lẽ sống quan trọng nhất của các ngân hàng thương mại. Sự ra đời và phát triển mạnh mẽ của hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng trong bối cảnh kinh tế đầy biến động đã khiến cho việc tìm kiếm vốn cho hoạt động của ngân hàng thương mại trở nên sự cạnh tranh khốc liệt. Trước mắt các ngân hàng đặc biệt là ở các nước phát triển luôn luôn xuất hiện vấn đề làm thế nào để có đủ vốn đầu tư giữa môi trường cạnh tranh đầy kịch tính. Về cơ bản các hình thức huy động vốn của ngân hàng gồm có: Nhận tiền gửi từ các tổ chức, cá nhân và các tổ chức tín dụng khác dưới các hình thức tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và các loại tiền gửi khác. Phát hành chứng chỉ tiền gửi, trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn của tổ chức, cá nhân trong nước và ngoài nước khi được thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp nhận. Đi vay, gồm có: Vay vốn của các tổ chức tín dụng khác hoạt động tại Việt Nam và của các tổ chức tín dụng nước ngoài; vay vốn ngắn hạn của Ngân hàng Nhà nước theo quy định của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. Ø Nghiệp vụ sử dụng vốn: Các nguồn vốn sau khi huy động sẽ được ngân hàng thương mại phân bổ sử dụng vào các mục tiêu khác nhau với nguyên tắc dự trữ một phần dưới dạng tiền, phần còn lại được sử dụng vào các nghiệp vụ sinh lời nhằm tạo ra thu nhập để bù đắp chi phí hoạt động và có lãi. Như vậy, nghiệp vụ sử dụng vốn là những nghiệp vụ thực hiện sử dụng những khoản vốn đã huy động nhằm mục đích sinh lời bao gồm hai hoạt động chủ yếu là cho vay và đầu tư; ngoài ra còn có hoạt động bảo lãnh, chiết khấu giấy tờ có giá, hoạt động cho thuê tài chính, góp vốn liên doanh… Cho vay là một chức năng nhiệm vụ cơ bản nhất của hệ thống ngân hàng thương mại. Bản chất của cho vay là ngân hàng chuyển giao quyền sử dụng đối với một lượng vốn nhất định trong khoảng thời gian xác định cho một bên thứ hai để thu lãi. Đây là nghiệp vụ mang lại nguồn thu chủ yếu cho ngân hàng. Nghiệp vụ cho vay được phân loại theo nhiều tiêu thức, chia theo kỳ hạn bao gồm cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn; chia theo đối tượng khách hàng bao gồm cho vay doanh nghiệp, cho vay nông nghiệp và cho vay tiêu dùng. Hiện nay các ngân hàng đang rất chú trọng phát triển nghiệp vụ cho vay tiêu dùng. Đầu tư là nghiệp vụ trong đó ngân hàng tiến hành mua lại các chứng khoán với mục đích thu lợi từ việc sở hữu các chứng khoán này. Lợi tức bao gồm lãi của chứng khoán do nhà phát hành đưa ra và lợi nhuận mà ngân hàng thu được khi bán lại chứng khoán với giá cao hơn giá mua vào. Ø Các nghiệp vụ khác: Ngoài hai nghiệp kinh doanh chính là huy động vốn và sử dụng vốn, ngân hàng thương mại còn thực hiện một số nghiệp vụ sinh lời khác như tham gia mua bán các công cụ của thị trường tiền tệ; kinh doanh vàng bạc, ngoại tệ; uỷ thác và nhận uỷ thác; cung ứng các dịch vụ bảo hiểm, tư vấn tài chính, bảo quản vật quý giá,… Những nghiệp vụ này có vai trò đa dạng hoá các loại hình sản phẩm dịch vụ mà ngân hàng cung cấp, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, tạo ra sự năng động trong hoạt động ngân hàng đồng thời đem lại nguồn thu đáng kể để ngân hàng duy trì và phát triển quy mô. 1.2. Nguồn vốn của ngân hàng thương mại (NHTM). Phần này tóm tắt từ “Quản trị NHTM – Peter Rose” Nguồn vốn của NHTM là toàn bộ các nguồn tiền tệ mà ngân hàng tạo lập, huy động được để cho vay, đầu tư và thực thi các dịch vụ ngân hàng. Nguồn vốn của NHTM bao gồm: vốn chủ sở hữu, vốn huy động, vốn đi vay và một số vốn khác. 1.2.1. Vốn chủ sở hữu Vốn chủ sở hữu là số vốn thuộc quyền sở hữu của NHTM, đó là nguồn tiền được đóng góp chủ yếu bởi những người chủ ngân hàng. Vốn chủ sở hữu của ngân hàng bao gồm nhiều loại khác nhau và được phân thành vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Trong đó: Vốn cấp 1 (vốn cơ bản) được xem là sức mạnh và tiềm lực thực sự của ngân hàng; vốn cấp 2 (vốn bổ sung) được giới hạn tối đa bằng 100% vốn cấp 1. Vốn chủ sở hữu của một NHTM đóng vai trò sống còn trong việc duy trì các hoạt động thường nhật và đảm bảo cho ngân hàng phát triển lâu dài. Thứ nhất, vốn đóng vai trò là một tấm đệm giúp chống lại rủi ro phá sản vì vốn giúp trang trải những thua lỗ về tài chính và nghiệp vụ cho tới khi ban quản lý có thể tập trung giải quyết các vấn đề và đưa ngân hàng trở lại trạng thái hoạt động sinh lời. Thứ hai, vốn là điều kiện bắt buộc để ngân hàng có được giấy phép tổ chức hoạt động trước khi nó có thể huy động được những khoản tiền gửi đầu tiên. Thứ ba, vốn tạo niềm tin cho công chúng và là sự đảm bảo đối với chủ nợ (gồm cả người gửi tiền) về sức mạnh tài chính của ngân hàng. Ngân hàng cần phải đủ mạnh để có thể đảm bảo với những người đi vay rằng ngân hàng có thể đáp ứng các nhu cầu tín dụng của họ ngay cả trong điều kiện nền kinh tế đang gặp khó khăn. Thứ tư, vốn cung cấp năng lực tài chính cho sự tăng trưởng và phát triển của các hình thức dịch vụ mới, cho những chương trình và trang thiết bị mới. Cuối cùng, vốn được xem như một phương tiện điều tiết sự tăng trưởng, giúp đảm bảo rằng sự tăng trưởng của một ngân hàng có thể được duy trì ổn định lâu dài. Cả các cơ quan quản lý ngân hàng và thị trường tài chính đều đòi hỏi rằng vốn ngân hàng cần phải được phát triển tương ứng với sự tăng trưởng của danh mục cho vay và những tài sản rủi ro khác. Do đó, “tấm đệm” dùng để chống đỡ những thua lỗ cần phải được củng cố, bổ sung tương xứng với quy mô rủi ro của ngân hàng. Một ngân hàng mở rộng quá nhanh hoạt động huy động vốn và cho vay sẽ nhận được những dấu hiệu của thị trường và của các cơ quan quản lý yêu cầu kiềm chế tốc độ tăng trưởng hoặc ngân hàng cần phải bổ sung thêm vốn. 1.2.2. Vốn huy động Vốn huy động là nguồn vốn chủ yếu có tỷ trọng lớn (trên 80%) trong toàn bộ vốn kinh doanh của NHTM. Đây là nguồn vốn có ảnh hưởng rất lớn đến chi phí và khả năng mở rộng kinh doanh của ngân hàng. Nguồn vốn này có xu hướng ngày càng gia tăng, phù hợp với xu thế phát triển của nền kinh tế, trong điều kiện tái cơ cấu và nâng cao chất lượng phục vụ của ngân hàng. NHTM huy động vốn dưới hình thức bằng tiền (nội tệ và ngoại tệ) và bằng vàng được hình thành từ hai bộ phận: vốn huy động từ tiền gửi và vốn huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá. Vốn huy động từ tiền gửi ngày nay cũng rất đa dạng để phục vụ cho lựa chọn của khách hàng với kỳ hạn và phương thức gửi tiền khác nhau. Mỗi công cụ huy động tiền gửi mà các ngân hàng đưa ra đều có những đặc điểm riêng nhằm làm cho chúng phù hợp hơn với mục tiêu riêng có của từng đối tượng khách hàng. Cụ thể sẽ được trình bày trong phần sau. Vốn huy động thông qua phát hành giấy tờ có giá là nguồn vốn mà NHTM có được bằng việc phát hành các giấy tờ có giá như kỳ phiếu ngân hàng, trái phiếu ngân hàng, các chứng chỉ tiền gửi,… Đối tượng mua kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng và chứng chỉ tiền gửi là các tổ chức, cá nhân. Ngoài việc dùng số vốn nhàn rỗi hay phần thu nhập tạm thời chưa sử dụng đến để mua, trên thực tế đây còn là một kênh đầu tư của người có vốn trong xã hội khi họ không có khả năng và cơ hội đầu tư trực tiếp. Các kỳ phiếu, trái phiếu này có khả năng chuyển đổi dễ dàng ra tiền khi cần thiết bằng cách bán, chuyển nhượng trên thị trường vốn hoặc chiết khấu tại ngân hàng. Với việc phát hành các giấy tờ có giá để huy động vốn, ngân hàng có khả năng tập trung một khối lượng vốn lớn trong thời gian ngắn và hoàn toàn chủ động trong sử dụng. Hình thức này thường được thực hiện khi ngân hàng đã tiếp nhận được những dự án vay vốn lớn với thời hạn giải ngân nhanh của khách hàng hay sau khi đã cân đối giữa nguồn vốn và sử dụng vốn trong toàn hệ thống mà vẫn còn thiếu và được sự đồng ý của Thống đốc ngân hàng Trung ương. 1.2.3. Vốn đi vay Trong quá trình kinh doanh của các NHTM luôn có tình trạng tạm thời thừa vốn hay thiếu vốn, đó là khi huy động vốn nhưng chưa sử dụng hết hay khi nhu cầu sử dụng vốn lớn hoặc khách hàng rút tiền trước hạn trong khi nguồn vốn cho vay chưa kịp thu hồi. Khi đó các NHTM có thể vay vốn để tận dụng cơ hội kinh doanh hưởng lãi và đảm bảo uy tín của mình. Trong bảng cân đối kế toán của ngân hàng, nguồn vốn vay nợ là khoản mục đứng thứ hai bên tài sản nợ sau nguồn vốn huy động. Nói chung đối với ngân hàng, việc tìm kiếm các khoản vốn vay thường không phức tạp. Tuy nhiên một trở ngại lớn đối với nguồn vốn này là chi phí vốn – lãi suất của các khoản vay này thường cao và thường dao động với biên độ lớn tuỳ thuộc vào tình trạng tài chính của ngân hàng xin vay. Chính vì vậy, ngân hàng chỉ dùng tới nguồn vốn này trong những trường hợp có nhu cầu thanh khoản đột xuất với quy mô lớn mà nguồn vốn huy động nhàn rỗi và nguồn tiền thu từ việc bán các dự trữ thứ cấp không thể đáp ứng được. Nguồn vay chính đối với các ngân hàng là từ NHTƯ hoặc từ các TCTD khác. 1.2.4. Các nguồn vốn khác Bên cạnh các nguồn vốn nêu trên, các NHTM còn có thể tạo lập vốn cho mình từ nhiều nguồn khác như vốn trong thanh toán, vốn tài trợ uỷ thác đầu tư của Chính phủ hoặc của các tổ chức trong và ngoài nước cho các chương trình, dự án phát triển kinh tế, văn hoá xã hội. Vốn trong thanh toán là số vốn có được do ngân hàng làm trung gian thanh toán trong nền kinh tế. Vốn tài trợ uỷ thác đầu tư là nguồn vốn mà ngân hàng có được do làm đại lý nhận uỷ thác của các tổ chức trong và ngoài nước để thực hiện đầu tư cho những chương trình, dự án. Trong thời gian vốn đã được ngân hàng tiếp nhận nhưng chưa giải ngân hết theo kế hoạch, hoặc vốn cho vay đã thu hồi về nhưng chưa đến hạn chuyển lại cho chủ đầu tư, ngân hàng có được một số vốn để kinh doanh. Mặt khác khi thực hiện nghiệp vụ này ngân hàng còn có được hưởng hoa hồng phí. Ngoài ra ngân hàng còn làm đại lý bán cổ phiếu, trái phiếu cho các doanh nghiệp cũng như thu hộ lợi tức từ đầu tư chứng khoán cho khách hàng… Những nguồn vốn này có thể không nhiều và thời gian sử dụng đôi khi rất ngắn nhưng điều quan trọng là nguồn vốn này ngân hàng không phải tốn kém chi phí huy động mà lại có điều kiện phát triển các nghiệp vụ và dịch vụ ngân hàng khác, phục vụ tốt nhất nhu cầu của khách hàng. 1.3. Quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi của NHTM. 1.3.1. Khái niệm về quản lý Phần này tóm tắt từ “Giáo trình Khoa học Quản lý – Khoa Khoa học Quản lý – NXB Khoa học và Kỹ thuật” Qua quá trình nghiên cứu lâu dài, đến nay có nhiều cách hiểu khác nhau về quản lý nhưng nhìn chung có thể hiểu “Quản lý là sự tác động của chủ thể quản lý lên đối tượng quản lý nhằm đạt được những mục tiêu nhất định trong điều kiện biến động của môi trường”. Như vậy, quản lý có phạm vi hoạt động vô cùng rộng lớn và mang những đặc điểm chung: Thứ nhất, chỉ tồn tại quản lý khi có một hệ quản lý bao gồm hai phân hệ: chủ thể quản lý và đối tượng quản lý. Chủ thể quản lý là tác nhân tạo ra các tác động quản lý nhằm dẫn dắt đối tượng quản lý đi đến mục tiêu. Đối tượng quản lý tiếp nhận các tác động của chủ thể quản lý để thực hiện những mục tiêu đó. Thứ hai, phải có một hoặc một tập hợp mục đích thống nhất cho cả chủ thể và đối tượng quản lý. Lý do tồn tại của quản lý là đạt mục đích theo cách tốt nhất trong hoàn cảnh môi trường luôn biến động và nguồn lực hạn chế. Thứ ba, quản lý bao giờ cũng phải liên quan đến việc trao đổi thông tin nhiều chiều. Hoạt động quản lý suy cho cùng là quá trình thu thập và xử lý thông tin. Thứ tư, quản lý bao giờ cũng có khả năng thích nghi. Đứng trước những thay đổi của đối tượng quản lý cũng như môi trường cả về quy mô và mức độ phức tạp, chủ thể quản lý phải có những điều chỉnh, đổi mới cơ cấu, phương pháp, công cụ và hoạt động của mình để đạt được hiệu quả hoạt động. Với những đặc điểm trên có thể khẳng định rằng quản lý là một quá trình năng động. Khi nghiên cứu về quản lý tổ chức, các nhà nghiên cứu thường xem xét trên hai phương diện cơ bản: tổ chức - kỹ thuật và kinh tế - xã hội. Trong đó, phương diện tổ chức - kỹ thuật của quản lý tổ chức giúp chúng ta trả lời các câu hỏi: Quản lý là làm gì? Đối tượng chủ yếu của quản lý là gì? Quản lý được tiến hành khi nào? Và mục đích của quản lý tổ chức là gì? Trả lời cho câu hỏi Quản lý là làm gì đem lại kết luận về quy trình quản lý thống nhất ở mọi tổ chức bao gồm: lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Lập kế hoạch là quá trình thiết lập các mục tiêu và những phương thức hành động thích hợp để đạt mục tiêu; tổ chức là quá trình xây dựng và bảo đảm những hình thái cơ cấu nhất định để đạt mục tiêu; lãnh đạo là quá trình chỉ đạo và thúc đẩy các thành viên làm việc một cách tốt nhất vì lợi ích của tổ chức; kiểm tra là quá trình giám sát và chấn chỉnh các hoạt động để đảm bảo việc thực hiện theo các kế hoạch. Đây cũng chính là những chức năng cơ bản chung nhất đối với mọi nhà quản lý không phân biệt cấp bậc, ngành nghề, quy mô lớn nhỏ của tổ chức và môi trường xã hội. Chúng ta áp dụng quy trình này vào công tác quản lý nguồn vốn tại ngân hàng thương mại. 1.3.2. Quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi 1.3.2.1. Tiền gửi của NHTM Phần này tóm tắt từ “Nghiệp vụ NHTM – TS. Nguyễn Minh Kiều – NXB Thống Kê 2008” Huy động vốn qua các tài khoản tiền gửi là hình thức huy động cổ điển và mang tính đặc thù riêng có của hoạt động ngân hàng. Đây là khoản mục duy nhất trên bảng cân đối kế toán giúp phân biệt ngân hàng với các loại hình doanh nghiệp khác. Do nhu cầu và động thái gửi tiền của khách hàng rất đa dạng nên để thu hút được nhiều khách hàng gửi tiền, các ngân hàng phải thiết kế và phát triển nhiều loại sản phẩm tiền gửi khác nhau. Ø Phân loại theo đối tượng khách hàng: gồm tiền gửi của cá nhân, tiền gửi của doanh nghiệp và tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác. Tiền gửi của cá nhân Khách hàng cá nhân chiếm đa số trong đối tượng hoạt động của ngân hàng. Chính vì vậy các hoạt động dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho nhóm khách hàng này rất đa dạng cả trong lĩnh vực huy động vốn và cho vay. Với mục đích gửi tiền chủ yếu là tiết kiệm, bảo quản và hưởng lãi, nhóm khách hàng cá nhân đã đem lại cho ngân hàng một lượng vốn đáng kể với số tiền nhàn rỗi của mình. Bên cạnh đó, vốn huy động từ tiền gửi tiết kiệm của khách hàng cá nhân thường khá ổn định giúp thuận lợi cho ngân hàng trong việc lập kế hoạch sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Tiền gửi của doanh nghiệp Các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế là khách hàng thường xuyên của các ngân hàng thương mại nhất là trong việc ký kết những hợp đồng kinh tế lớn, đối với hoạt động huy động vốn, đây cũng là nhóm khách hàng có vai trò quan trọng. Lượng vốn huy động từ đối tượng khách hàng này cũng đóng góp một phần không nhỏ vào nguồn vốn của ngân hàng. Tuy nhiên khoản vốn này thường chỉ lưu lại ngân hàng trong ngắn hạn để phục vụ cho hoạt động thanh toán cũng như tiến hành các giao dịch khác của doanh nghiệp mà ngân hàng có vai trò là trung gian thanh toán nên khó khăn hơn cho ngân hàng trong việc chủ động sử dụng thời gian nhàn rỗi của các khoản tiền gửi này cho các hoạt động đầu tư sinh lời. Tuy nhiên không phải các doanh nghiệp chỉ gửi tiền phục vụ cho mục đích thanh toán, các doanh nghiệp cũng có thể lựa chọn gửi tiền có kỳ hạn để hưởng lãi, khi đó đây sẽ là nguồn vốn không nhỏ mà lại tương đối ổn định. Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác Tiền gửi của các tổ chức tín dụng khác thực chất là vốn vay của ngân hàng thương mại đối với các tổ chức đó nhằm đáp ứng nhu cầu thanh khoản của ngân hàng. Đây cũng có thể là vốn góp đồng tài trợ cho vay hoặc chiết khấu mà ngân hàng nhận vốn góp đóng vai trò ngân hàng đầu mối. Nguồn tiền này giúp ngân hàng giảm bớt một phần chi phí huy động vốn để có cơ hội sử dụng vốn với mục đích đem lại lợi nhuận cao hơn. Ø Phân loại theo mục đích huy động: Đây là cách phân loại được sử dụng một cách truyền thống và rõ ràng hơn. Dựa vào mục đích của khách hàng gửi tiền có thể chia thành tiền gửi thanh toán và tiền gửi tiết kiệm. Tiền gửi thanh toán Một trong những dịch vụ nhận tiền gửi lâu đời nhất mà ngân hàng cung cấp là nhận tiền gửi để thực hiện thanh toán hộ cho khách hàng. Tiền gửi thanh toán là hình thức huy động vốn của ngân hàng thương mại bằng cách mở cho khách hàng tài khoản gọi là tài khoản tiền gửi thanh toán. Tài khoản này mở cho các đối tượng khách hàng, cá nhân hoặc tổ chức, có nhu cầu thực hiện thanh toán qua ngân hàng bằng các lệnh rút tiền đòi hỏi được thực hiện ngay lập tức trong đó có quy định rõ đối tượng thụ hưởng. Để thực hiện được nghiệp vụ thanh toán qua ngân hàng đòi hỏi khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán ở ngân hàng, số dư trên tài khoản này cho biết khả năng thanh toán và chi trả của khách hàng và có thể thực hiện ở bất kỳ thời điểm nào theo yêu cầu của khách hàng. Tuy nhiên không phải lúc nào khách hàng cũng sử dụng hết số dư trên tài khoản tiền gửi của mình để thực hiện các hoạt động giao dịch, đôi khi số dư này tạm thời nhàn rỗi cho đến khi khách hàng phát sinh nhu cầu thanh toán. Trong khoảng thời gian đó, số dư này trở thành nguồn vốn của ngân hàng, ngân hàng có thể sử dụng cho các hoạt động sinh lời của mình. Nhưng đây là loại tiền gửi không kỳ hạn và khách hàng có thể rút tiền bất cứ lúc nào gây khó khăn cho ngân hàng trong việc chủ động kế hoạch sử dụng vốn, ngân hàng thường mất chi phí quản lý lớn hơn so với các khoản tiền gửi có kỳ hạn. Chính vì vậy, đối với tiền gửi thanh toán, ngân hàng chỉ trả lãi suất rất thấp (khoảng 0,2%/tháng) hay thậm chí không trả lãi. Mặc dù số dư tài khoản tiền gửi của từng khách hàng thường không lớn nhưng do là trung tâm tiền tệ và cung cấp các dịch vụ thanh toán nên tại các ngân hàng thương mại, số lượng khách hàng rất đông khiến cho tổng số vốn huy động qua tiền gửi thanh toán trở nên lớn đáng kể. Tiền gửi tiết kiệm Tài khoản tiền gửi tiết kiệm được lập ra để thu hút vốn của những người muốn dành riêng một khoản tiền cho những mục tiêu hay cho một nhu cầu về tài chính được dự tính trong tương lai. Hai loại tài khoản tiền gửi tiết kiệm phổ biến nhất hiện nay là tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn. Tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn có những ưu nhược điểm tương tự như đối với tài khoản tiền gửi thanh toán. Đối tượng của sản phẩm tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn là cá nhân hoặc tổ chức có tiền tạm thời nhàn rỗi muốn gửi ngân hàng vì mục tiêu an toàn sinh lợi nhưng không thiết lập được kế hoạch sử dụng tiền gửi trong tương lai. Khác với tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn phù hợp với đối tượng khách hàng có thu nhập ổn định thường xuyên, họ muốn gửi khoản tiền nhàn rỗi của mình tại ngân hàng với mục tiêu an toàn sinh lợi và xác định được kế hoạch sử dụng tiền trong tương. Theo quy định chung, khách hàng chỉ được rút tiền khi đến hạn thanh toán, vì thế ngân hàng có thể sử dụng số dư tiền gửi trong kỳ hạn lưu lại ngân hàng để cho vay hoặc đầu tư mà hoàn toàn yên tâm về tính ổn định của nguồn vốn này. Do vậy lãi suất ngân hàng trả cho tài khoản tiền gửi có kỳ hạn cao hơn tiền gửi không kỳ hạn rất nhiều, kỳ hạn càng dài, lãi suất càng cao. Trước đây, ngân hàng từ chối cho khách hàng rút tiền trước hạn, nhưng để cạnh tranh trong việc thu hút khách hàng gửi tiền, ngân hàng vẫn thực hiện thanh toán trước hạn khi khách hàng có nhu cầu nhưng khách hàng phải chịu phạt hưởng mức lãi suất bằng với lãi suất không kỳ hạn. 1.3.2.2. Sự cần thiết và quy trình quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi Phần này tóm tắt từ : Quản trị NHTM – PGS.TS. Nguyễn Thi Mùi – NXB Tài Chính 2006 Ÿ Sự cần thiết quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi Tiền gửi là nền tảng cho sự thịnh vượng và phát triển của ngân hàng. Năng lực thu hút tiền gửi giao dịch và tiền gửi tiết kiệm từ các doanh nghiệp và cá nhân là một thước đo quan trọng về sự chấp nhận của công chúng với ngân hàng, khả năng huy động vốn với mức lãi suất hợp lý và đáp ứng các yêu cầu xin vay là chỉ số đánh giá tính hiệu quả của đội ngũ nhân sự và bộ máy quản lý ngân hàng. Tiền gửi là cơ sở chính của các khoản vay và do đó nó là nguồn gốc sâu xa của lợi nhuận và sự phát triển trong ngân hàng. Tiền gửi chiếm tỷ trọng lớn trong nguồn vốn huy động của ngân hàng thương mại và có vai trò vô cùng quan trọng đối với việc duy trì hoạt động lành mạnh và phát triển mở rộng các dịch vụ ngân hàng. Từ đó việc quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi trở nên hết sức cần thiết đối với bất kỳ một ngân hàng nào. Quản lý tiền gửi của NHTM cũng như quản lý nguồn vốn nói chung, là một khái niệm rất rộng, nó bao gồm toàn bộ những hoạt động từ xác định quy mô và chi phí của nguồn tiền gửi cần huy động đến việc điều chỉnh các hoạt động sao cho luồng tiền được sử dụng hiệu quả và an toàn. Chủ thể của hoạt động quản lý tiền gửi là các cán bộ quản lý từ ban lãnh đạo ngân hàng đến trưởng phòng, trưởng bộ phận nguồn vốn; đối tượng của quản lý tiền gửi là số dư trên các tài khoản tiền gửi của khách hàng. Những vấn đề nêu trên làm nổi bật hai vấn đề mang tính quyết định cần phải giải quyết trong công tác quản lý tiền gửi: (1) Ngân hàng có thể huy động vốn ở đâu với chi phí thấp nhất? (2) Nhà quản lý cần làm gì để đảm bảo rằng ngân hàng luôn luôn có đủ tiền gửi để đáp ứng những nhu cầu xin vay cũng như đáp ứng các dịch vụ tài chính khác mà xã hội yêu cầu và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng? Trong điều kiện cạnh tranh ngày càng gay gắt như hiện nay, thật không dễ dàng để trả lời bất kỳ câu hỏi nào. Nói chung không thể làm công tác quản lý tiền gửi chỉ bằng một hoạt động riêng lẻ nào, mà nó là một hệ thống các công việc bao trùm lên toàn bộ các giai đoạn hoạt động của ngân hàng. Ÿ Quy trình quản lý vốn huy động từ tiền gửi Giống như một quy trình quản lý nói chung, quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi gồm bốn giai đoạn : lập kế hoạch, tổ chức, lãnh đạo và kiểm tra. Bước 1: Xây dựng kế hoạch về tiền gửi (nằm trong kế hoạch nguồn vốn) * Căn cứ xây dựng kế hoạch: Chính sách nguồn vốn và chiến lược huy động vốn trong ngắn hạn của ngân hàng. Chính sách và chiến lược là cần thiết đối với hoạt động quản lý của bất kỳ một tổ chức nào. Với ngân hàng thương mại, chính sách nguồn vốn đòi hỏi phải đảm bảo yêu cầu: tăng trưởng, ổn định và kinh doanh có lãi. Chiến lược huy động vốn trong ngắn hạn do Hội sở chính hoạch định và phổ biến đến từng chi nhánh. Kế hoạch về huy động tiền gửi và cho vay tại các chi nhánh ngân hàng hầu hết được xây dựng ở Hội sở Chính sau đó được giao cụ thể cho từng Chi nhánh. Chi nhánh không trực tiếp thực hiện từng giai đoạn trong quy trình lập kế hoạch về con số tổng thể nhưng có thể cụ thể hoá cho từng chỉ tiêu về loại tiền gửi huy động và mức dư nợ cho từng loại hình hoạt động tín dụng; bản kế hoạch đó bắt buộc phải xuất phát từ những căn cứ cụ thể về chủ trương chính sách cũng như tình hình thực tế của từng chi nhánh. Chính sách phát triển kinh tế của cả nước, của địa phương và tình hình kinh tế tài chính trong giai đoạn đó, đặc biệt là các thông số về tăng trưởng, lạm phát, chỉ số giá tiêu dùng, mặt bằng lãi suất,… Từng biến động nhỏ trong tình hình kinh tế tài chính, từng ngày từng giờ đều tác động đến quyết định đầu tư của khách hàng. Vì vậy để đưa ra một bản kế hoạch với những thông số tin cậy nhất thiết phải căn cứ vào việc phân tích những biến động đó trong thời gian gần nhất. Mục tiêu tăng trưởng hoạt động kinh doanh của ngân hàng trong năm kế hoạch. Kết quả kinh doanh của kỳ trước, về thị phần huy động vốn, trong đó tỷ trọng của các loại tiền gửi như thế nào, dự đoán xu hướng tăng trưởng n._.guồn vốn trong năm kế hoạch. * Lập kế hoạch về nguồn tiền gửi huy động: Xây dựng kế hoạch huy động tiền gửi trên cơ sở kế hoạch của hội sở chính giao và tổng hợp số liệu của các đơn vị kinh doanh trực tiếp như các phòng giao dịch, phòng nguồn vốn, phòng tín dụng và các phòng chức năng. Đơn vị chuyên trách trong việc xây dựng kế hoạch nguồn vốn có trách nhiệm đưa ra các thông số chi tiết về cơ cấu nguồn tiền gửi cần huy động trong năm kế hoạch cụ thể là tính toán tổng nguồn vốn, cơ cấu kỳ hạn, cơ cấu loại tiền, đối tượng khách hàng cần tập trung khai thác, xác định nhóm khách hàng tiềm năng. Bên cạnh đó là việc xây dựng chính sách lãi suất phù hợp với quy định chung của chính sách tiền tệ quốc gia và mức lãi suất của các ngân hàng khác để đảm bảo cạnh tranh và kinh doanh có lãi. Bước 2: Tổ chức hình thức cơ cấu thực thi kế hoạch * Ban lãnh đạo: Ban lãnh đạo công tác quản lý tiền gửi gồm ban giám đốc và trưởng bộ phận nguồn vốn có trách nhiệm điều hành quy trình, thủ tục huy động và phân bổ sử dụng vốn, ra quyết định cần thiết trong từng giai đoạn tương ứng với tình hình hoạt động cụ thể. * Đội ngũ cán bộ nguồn vốn Là những người trực tiếp thực hiện kế hoạch của ban lãnh đạo, trực tiếp tiếp khảo sát thị trường, tiếp xúc với khách hàng trong các giao dịch gửi tiền, theo dõi quá trình huy động vốn. * Hệ thống thông tin Bao gồm các phương tiện thông tin liên lạc và các cán bộ chịu trách nhiệm thu thập xử lý thông tin, có nhiệm vụ thông tin liên tục và báo cáo về tình hình nguồn vốn. Bước 3: Chỉ đạo hoạt động nhận tiền gửi của khách hàng Ban lãnh đạo giao chỉ tiêu kế hoạch chi tiết về huy động và sử dụng vốn theo tháng hoặc theo quý cho các phòng, các quỹ và giám sát quá trình thực hiện. Triển khai các hoạt động theo kế hoạch. Đây là giai đoạn quan trọng quyết định kết quả kinh doanh của Ngân hàng; thể hiện trình độ điều hành của các nhà quản lý và trình độ chuyên môn của đội ngũ nhân viên ngân hàng. Các đơn vị lập báo cáo về nhu cầu chi trả hàng tuần, hàng tháng, hàng quý để từ đó bộ phận chuyên trách của chi nhánh xây dựng báo cáo lưu chuyển tiền tệ làm căn cứ điều hành vốn. Trong quá trình triển khai, dựa vào kết quả cụ thể của từng thời kỳ để có những điều chỉnh các chỉ tiêu cho phù hợp. Bước 4: Kiểm tra kiểm soát Định kỳ (tháng, quý, năm) chi nhánh thực hiện đánh giá hiệu quả quản lý tiền gửi, so sánh kết quả thực hiện với kế hoạch đặt ra, so sánh việc thực hiện kỳ này với kết quả thực hiện những kỳ trước để chỉ rõ những mặt đạt được, mặt hạn chế để rút kinh nghiệm, kiến nghị các điều kiện cần thiết cho việc xây dựng kế hoạch kỳ sau được tốt hơn. Trong quá trình đánh giá phải chỉ rõ những thành công, hạn chế gắn với trách nhiệm của từng cá nhân cụ thể và có hình thức khen thưởng, kỷ luật kịp thời. Đến đây hoàn thiện công đoạn cuối cùng trong quy trình quản lý. 1.3.2.3. Cơ sở đánh giá hoạt động quản lý tiền gửi tại NHTM Kết quả tích cực mà các quyết định quản lý đem lại thể hiện ở việc các kế hoạch đặt ra được thực thi một cách nghiêm túc và đạt được mục tiêu chung của ngân hàng là tối đa lợi nhuận ròng. Như vậy để đánh giá hoạt động quản lý tiền gửi tại NHTM cần thiết phải thực hiện phân tích ở những mặt cụ thể sau: So sánh kết quả thực tế với kế hoạch (gồm cả kế hoạch huy động và sử dụng tiền gửi). Kế hoạch đã được đưa ra là kết quả của quá trình phân tích lôgic chặt chẽ dựa trên những căn cứ như đã nói ở trên, là cơ sở đảm bảo cho những hoạt động tiếp theo được diễn ra suôn sẻ. Nhưng nếu trách nhiệm của Nhà quản lý chỉ dừng lại ở những bản kế hoạch trên giấy tờ thì hoàn toàn vô nghĩa. Nhà quản lý cần phải thể hiện vai trò của mình trong tất cả các công đoạn tiếp theo để đảm bảo rằng những con số lập ra sẽ được thực thi. Phân tích cơ cấu nguồn tiền gửi huy động, bao gồm phân tích về loại hình huy động, kỳ hạn, loại tiền, về thành phần kinh tế. Cơ cấu nguồn tiền huy động phản ánh chất lượng của các khoản tiền ở mức độ ổn định và khả năng sinh lời cũng là một thước đo về hoạt động quản lý. Phân tích sự phù hợp giữa quy mô tiền gửi huy động và cho vay. Như đã nói ở trên, một câu hỏi quan trọng đặt ra đối với công tác quản lý tiền gửi là làm sao để đảm bảo đủ vốn đáp ứng nhu cầu xin vay của khách hàng. Dù thừa vốn hay thiếu vốn cũng là biểu hiện của sự hoạt động chưa thực sự hiệu quả. Nếu thiếu vốn, Ngân hàng không thể thực hiện các khoản cho vay, đầu tư hoặc phải sử dụng vốn điều hoà với lãi suất nhất định và tất nhiên nhiều khả năng bỏ lỡ những cơ hội kinh doanh sinh lời lớn. Song nếu lượng vốn huy động dư thừa quá nhiều tức là lãng phí vốn, ngân hàng vẫn phải chi lãi cho các khoản tiền gửi mà không được bù đắp từ lãi suất của các hoạt động sử dụng vốn. Phân tích chi phí hoạt động của các tài khoản tiền gửi và đánh giá thu nhập thông qua chênh lệch lãi suất. Giả định rằng các yếu tố khác không đổi, ngân hàng sẽ huy động vốn bằng cách cung cấp các loại hình gửi tiền có chi phí thấp nhất, hay thu nhập ròng tạo ra từ việc sử dụng các nguồn vốn tiền gửi này là lớn nhất sau khi đã trừ đi mọi chi phí. Nếu một ngân hàng có thể huy động toàn bộ tiền gửi từ các nguồn có chi phí thấp nhất và đầu tư vào các tài sản có mức lãi suất cao nhất, ngân hàng sẽ tối đa hoá mức chênh lệch lãi suất, và có thể tối đa hoá thu nhập ròng. Để đánh giá một cách toàn diện về công tác quản lý tiền gửi tại ngân hàng thương mại thì còn phải phân tích chất lượng tín dụng. Nhưng đây là vấn đề phức tạp có tính chất bao quát không kém và cần thiết được phân tích sâu sắc riêng về quản lý tín dụng. Trong phạm vi đề tài này, chỉ xin được tập trung phân tích ở khâu huy động vốn. 1.4. Các nhân tố ảnh hưởng tới quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi của NHTM 1.4.1. Các nhân tố khách quan * Môi trường kinh tế xã hội Hoạt động của các ngân hàng thương mại chịu ảnh hưởng trực tiếp của các chỉ tiêu kinh tế như tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế, thu nhập quốc dân, tốc độ chu chuyển vốn, tỷ lệ lạm phát… Khi thị trường tiền tệ tài chính khu vực và thế giới ổn định, kinh tế trong nước tăng trưởng vững chắc, thu nhập quốc dân cao sẽ tạo nguồn tiền gửi dồi dào cho ngân hàng. Ngược lại, những biến động trên thị trường tài chính, tỷ lệ lạm phát tăng, mức sống của các tầng lớp dân cư suy giảm thì nguồn tiền gửi đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng thương mại cũng sẽ gặp khó khăn. Môi trường xã hội cũng là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới quản lý tiền gửi của ngân hàng thương mại. Phân bố dân cư, thu nhập của người dân là cơ sở để ngân hàng xây dựng chiến lược kinh doanh, xác định đối tượng người dân và khu vực cần tập trung khai thác. Tuy nước ta được đánh giá thị trường còn rất nhiều tiềm năng để khai thác phát triển kinh doanh ngân hàng nhưng hiện nay chỉ có một bộ phận người dân thành thị và các khu vực xung quanh với thu nhập tương đối ổn định ở mức cao tham gia sử dụng các dịch vụ ngân hàng. Thói quen sinh hoạt, tập quán tiêu dùng và tiết kiệm cũng tác động không nhỏ tới nguồn tiền gửi huy động. Nhà quản lý phải quan tâm tới tất cả những yếu tố trên nếu muốn nguồn tiền gửi của ngân hàng được quản lý một cách hiệu quả. * Khách hàng Đối với bất kỳ một loại hình sản xuất kinh doanh nào, mục đích cuối cùng cũng là tối đa hoá lợi nhuận, làm tăng giá trị doanh nghiệp; mục đích đó đạt được chính là trên cơ sở sự hài lòng của khách hàng với sản phẩm hàng hoá dịch vụ mà doanh nghiệp cung cấp. Hoạt động ngân hàng cũng vậy, khách hàng của ngân hàng thương mại là tất cả các tầng lớp dân cư, các loại hình doanh nghiệp với nhu cầu vô cùng đa dạng; bất kỳ một phản ứng không hài lòng nào từ phía khách hàng cũng có thể tạo ra làn sóng làm suy giảm nghiêm trọng uy tín của ngân hàng. Ngân hàng phải có các chính sách phù hợp để thu hút được tối đa khách hàng sử dụng dịch vụ của mình, có được kết quả kinh doanh tốt nhất. * Đối thủ cạnh tranh Trên thị trường có rất nhiều ngân hàng cũng như các tổ chức phi ngân hàng cung cấp các sản phẩm dịch vụ tương tự. Sự linh hoạt hơn trong chính sách quản lý của Nhà nước dẫn đến sự ra đời của hệ thống rất nhiều ngân hàng thương mại làm cho áp lực cạnh tranh trong ngành ngân hàng trở nên gay gắt hơn bao giờ hết. Muốn tồn tại và phát triển đòi hỏi ngân hàng phải có chính sách, chiến lược hợp lý, không chỉ đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ mà còn phải không ngừng nâng cao chất lượng của các sản phẩm dịch vụ đó để nâng cao sức cạnh tranh và uy tín với khách hàng. 1.4.2. Các nhân tố chủ quan về phía ngân hàng. * Nguồn nhân lực Khoa học công nghệ ngày càng phát triển và thay thế dần con người trong các công đoạn của hầu hết mọi quá trình sản xuất, nhưng con người vẫn luôn khẳng định vị trí trung tâm của mình, khoa học càng phát triển, càng đòi hỏi con người có trình độ kiến thức cao hơn. Đội ngũ nhân sự của ngân hàng đặc biệt là các cán bộ quản lý ngân hàng chính là nhân tố quyết định thành bại trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại nói chung và hoạt động quản lý tiền gửi nói riêng. Nhà quản lý chính là người lập kế hoạch và đưa ra quyết định về quy mô tiền gửi huy động, về chính sách lãi suất và các quyết định đầu tư cho vay. Các cán bộ nguồn vốn chính là người trực tiếp thực hiện quá trình huy động và kiểm soát luồng tiền gửi. Tất cả các quan hệ giao dịch, tiếp xúc với khách hàng cũng đều cần đến vai trò của con người. Vì vậy, nguồn nhân lực chính là nhân tố chủ quan có ảnh hưởng lớn nhất đến hoạt động quản lý tiền gửi tại ngân hàng thương mại. Một nguồn nhân lực chuyên nghiệp năng động tạo nên một phần vị thế của ngân hàng. Muốn đảm bảo thực hiện tốt công tác quản lý tiền gửi nhất thiết phải quan tâm đến đào tạo và phát triển nguồn nhân lực. * Chính sách lãi suất của ngân hàng Lãi suất được coi là giá cả của các khoản vốn tín dụng. Nguồn thu chủ yếu của ngân hàng thương mại chính là thu nhập lãi trên những khoản cho vay và đầu tư. Nguồn chi chủ yếu của ngân hàng thương mại là chi lãi cho các nguồn vốn huy động. Nhiệm vụ của quản lý tiền gửi là xác định chính sách lãi suất với mức lãi suất huy động và cho vay hợp lý để có thể thu hút tối đa nguồn tiền gửi mà vẫn đảm bảo kinh doanh có lãi trong môi trường cạnh tranh đầy biến động. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ NGUỒN VỐN HUY ĐỘNG TỪ TIỀN GỬI TẠI CHI NHÁNH NHCT HAI BÀ TRƯNG 2.1. Giới thiệu chung về chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng. 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng Tài liệu của Phòng Tổ chức Hành chính – NHCT Chi nhánh Hai Bà Trưng Ngân hàng công thương Hai Bà Trưng là một trong số chi nhánh của NHCT Việt Nam đặt tại quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Sau khi thực hiện nghị định số 53/HĐBT ngày 26/03/1988 của Hội đồng Bộ trưởng về tổ chức bộ máy NHNN Việt Nam chuyển sang cơ chế ngân hàng hai cấp, từ một chi nhánh NHNN cấp Quận và một chi nhánh ngân hàng kinh tế cấp Quận thuộc địa bàn quận Hai Bà Trưng, trực thuộc NHNN thành phố Hà Nội chuyển thành NHCT thành phố Hà Nội thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam. Tại quyết định số 93/NHCT-TCCB ngày 1/4/1993 của Tổng giám đốc Ngân hàng Công thương Việt Nam sắp xếp lại bộ máy tổ chức NHCT trên địa bàn Hà Nội theo mô hình quản lý hai cấp của NHCT Việt Nam, bỏ cấp thành phố, hai chi nhánh NHCT khu vực I và khu vực II Hai Bà Trưng là những Chi nhánh trực thuộc Ngân hàng Công thương Việt Nam được tổ chức hạch toán kinh tế và hoạt động như các Chi nhánh NHCT cấp Tỉnh, Thành phố. Kể từ ngày 1/09/1993, theo quyết định của Tổng giám đốc NHCT Việt Nam, sáp nhập chi nhánh NHCT khu vực I và Chi nhánh NHCT khu vực II quận Hai Bà Trưng. Như vậy kể từ ngày 01/09/1993 trên địa bàn Quận Hai Bà Trưng (Hà Nội) chỉ còn lại duy nhất một Chi nhánh NHCT. Tại QĐ số 107/QĐ- HĐQT- NHCT1 của Hội đồng quản trị NHCT1, Chi nhánh NHCT- khu vực II Hai Bà Trưng được đổi tên thành Chi nhánh Ngân hàng Công thương Hai Bà Trưng. Hiện nay, NHCT Hai Bà Trưng đã vượt qua những khó khăn ban đầu và khẳng định được vị trí vai trò của mình trong nền Kinh tế thị trường, đứng vững và phát triển trong cơ chế mới, chủ động mở rộng mang lưới giao dịch, đa dạng hoá các dịch vụ Kinh doanh tiền tệ. Mặt khác Ngân hàng còn thường xuyên tăng cường việc huy động vốn và sử dụng vốn, thay đổi cơ cấu đầu tư phục vụ phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần theo định hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá. Để thực hiện chiến lược đa dạng hoá các phương thức, hình thức, giải pháp huy động vốn trong và ngoài nước, đa dạng hoá các hình thức kinh doanh và đầu tư, từ năm 1993 trở lại đây NHCT Hai Bà Trưng đã thu được nhiều kết quả trong hoạt động kinh doanh, từng bước khẳng định mình trong môi trường kinh doanh mới mang đầy tính cạnh tranh. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức Mô hình tổ chức tại Chi nhánh NHCT- Hai Bà Trưng theo quyết định số 36/QĐ- TCHC ngày 15/05/2006 có hiệu lực kể từ ngày 01/06/2007 gồm các phòng ban sau: Ÿ Ban giám đốc Ÿ Các phòng chuyên môn nghiệp vụ - Phòng Khách hàng doanh nghiệp lớn - Phòng Khách hàng doanh nghiệp vừa và nhỏ - Phòng Khách hàng cá nhân - Phòng Quản lý rủi ro - Phòng Kế toán giao dịch - Phòng Tiền tệ kho quỹ - Phòng Thanh toán xuất nhập khẩu - Phòng Tổng hợp - Phòng Tổ chức hành chính - Phòng Thông tin điện toán - Các Phòng giao dịch Sơ đồ 2.1. Cơ cấu tổ chức Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng: BAN GIÁM ĐỐC Các phòng chức năng Phòng Khách hàng số 1 Phòng Khách hàng số 2 Phòng Khách hàng cá nhân Phòng Quản lý rủi ro P. Tiền tệ kho quỹ P. Thanh toán xuất nhập khẩu P. Tổng hợp P. Tổ chức hành chính P. Thông tin điện toán Các Phòng Giao dịch P. Kế toán giao dịch Các phòng ban nghiệp vụ được giám đốc chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng quy định chức năng, nhiệm vụ chi tiết phù hợp với mô hình tổ chức và phương thức quản lý. 2.1.3. Các hoạt động chính của chi nhánh Ø Huy động vốn: Chi nhánh thực hiện các nghiệp vụ huy động như nhận tiền gửi (gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán) cả VNĐ và ngoại tệ với các loại kỳ hạn khác nhau; phát hành giấy tờ có giá (kỳ phiếu, trái phiếu,…) Ø Cho vay, đầu tư: Cho vay ngắn, trung và dài hạn bằng VNĐ và ngoại tệ; tài trợ xuất nhập khẩu, chiết khấu hộ chứng từ hàng xuất; đồng tài trợ và cho vay hợp vốn đối với những dự án lớn và thời gian hoàn vốn dài; thấu chi, cho vay tiêu dùng; hùn vốn liên doanh, liên kết với các tổ chức tín dụng và các định chế trong nước và quốc tế; đầu tư trên thị trường vốn và thị trường tiền tệ trong nước và quốc tế,… Ø Bảo lãnh và tái bảo lãnh trong nước và quốc tế: bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán,… Ø Thanh toán và tài trợ thương mại: Phát hành, thanh toán thư tín dụng xuất nhập khẩu; nhờ thu xuất, nhập khẩu; chuyển tiền trong nước và quốc tế, chuyển tiền nhanh Western Union; thanh toán uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, sec; chi trả lương cho doanh nghiệp qua tài khoản, qua ATM; chi trả kiều hối,… Ø Thẻ và ngân hàng điện tử: Phát hành và thanh toán thẻ tín dụng nội địa, thẻ tín dụng quốc tế (VISA, MASTER CARD); dịch vụ thẻ ATM, thẻ tiền mặt (CASH CARD); Internet banking, phone banking, SMS banking,… Ø Hoạt động khác: Khai thác bảo hiểm nhân thọ, phi nhân thọ; tư vấn đầu tư và tài chính; cho thuê tài chính; môi giới, bảo lãnh phát hành, quản lý danh mục đầu tư, tư vấn, lưu ký chứng khoán,… 2.1.4. Kết quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh 2.1.3.1. Tình hình kinh tế xã hội ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của chi nhánh Hà Nội là trung tâm kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước và cũng là trung tâm tài chính hàng đầu khu vực phía Bắc. Tại đây tập trung đông đảo các tổ chức tín dụng và chi nhánh của tổ chức tín dụng: Ngân hàng Nhà nước, các NHTM quốc doanh, các NHTM cổ phần, liên doanh, các công ty Bảo hiểm, quỹ tín dụng, các công ty tài chính,… Sự phát triển mạng lưới hoạt động kinh doanh của các tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội tạo áp lực cạnh tranh ngày càng gay gắt đối với các ngân hàng nói chung và Chi nhánh nói riêng. Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta liên tục có những biến động với những thuận lợi và cả những khó khăn gây ảnh hưởng lớn đến hoạt động ngân hàng. Năm 2005 do ảnh hưởng của giá dầu mỏ tăng cao và liên tục cùng với những thảm họa thiên tai như bão lụt, dịch cúm gia cầm làm cho chỉ số giá cả tăng cao 8,4% (Hà Nội là 9,46%) chủ yếu tập trung vào những mặt hàng thiết yếu ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống người làm công ăn lương có thu nhập thấp. Năm 2006, ngành xây dựng đang trong thời kỳ khó khăn về thanh toán vốn, tình trạng nợ đọng vốn XDCB chưa có biện pháp tháo gỡ, tiến trình cổ phần hoá các DNNN diễn ra chậm. Năm 2007 là năm có chỉ số lạm phát cao nhất trong nhiều năm trở lại đây (12,63%), giá xăng dầu, sắt thép và lương thực thực phẩm đều tăng rất cao gây tác động tiêu cực đến hoạt động của các doanh nghiệp và đời sống của đại đa số người lao động. Những khó khăn trên của tổng thể nền kinh tế trực tiếp gây ra những tác động tiêu cực đến hoạt động ngân hàng tài chính. Mặc dù gặp nhiều khó khăn như vậy nhưng nền kinh tế nước ta trong giai đoạn 2005 – 2007 liên tục duy trì tốc độ tăng trưởng GDP cao: năm 2005 là 8,4%, năm 2006 là 8,2% và năm 2007 là 8,48% cao nhất trong 10 năm trở lại đây (riêng địa bàn Hà Nội có mức tăng trưởng đạt 12,07%). Sau 1 năm ra nhập WTO - sự kiện quốc tế quan trọng đã nâng cao vị thế của Việt Nam, tạo điều kiện thu hút vốn đầu tư nước ngoài thúc đẩy tăng trưởng cao các ngành sản xuất công nghiệp và dịch vụ, đặc biệt là tăng trưởng về xuất khẩu. Kinh tế tăng trưởng mạnh và những thay đổi trong đường lối chính sách cũng như sự ổn định chính trị xã hội đã tạo ra những thuận lợi cho hoạt động kinh doanh ngân hàng. - Thu nhập tăng, tích luỹ của nền kinh tế tăng, khối lượng sử dụng các dịch vụ thanh toán qua ngân hàng của tổ chức và cá nhân tăng tạo điều kiện cho NHTM nói chung và chi nhánh nói riêng thu hút các loại tiền gửi, mở rộng hoạt động kinh doanh. - Môi trường pháp lý được cải thiện, lãi suất được quản lý theo xu hướng tự do hoá. Sự thông thoáng này đã tạo điều kiện cho các ngân hàng linh hoạt và chủ động áp dụng các mức lãi suất khác nhau trong công tác huy động vốn. - Trong môi trường công nghệ phát triển, tập quán dân cư đã dần thay đổi, mọi người đã có xu hướng sử dụng các phương tiện thanh toán hiện đại qua ngân hàng và thay vì cất trữ tiền, vàng, ngoại tệ, đã mang tiền đến gửi ngân hàng và tham gia các hoạt động đầu tư sinh lời khác. - NHNN đã điều hành chính sách tiền tệ một cách linh hoạt trong thời gian vừa qua với việc điều chỉnh mức lãi suất cơ bản, lãi suất chiết khấu, lãi suất tái cấp vốn kịp thời phù hợp với sự biến động của thị trường trong nước và thế giới tạo điều kiện cho các NHTM có cơ sở để hoạch định các chính sách kinh doanh của mình trước tình hình mới. Những biến động trên đã ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng tuy nhiên với những biện pháp quyết liệt trong chỉ đạo điều hành cùng với sự nỗ lực phấn đấu của đội ngũ cán bộ nhân viên, chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng trong giai đoạn 2004 – 2007 đã đạt được những kết quả sau. 2.1.3.2. Kết quả hoạt động kinh doanh của ngân hàng công thương chi nhánh Hai Bà Trưng giai đoạn 2004 – 2007 Ø Về công tác huy động vốn: Bảng 2.1: Số liệu về tình hình huy động vốn: Đơn vị: Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Tổng nguồn vốn huy động 2.290.310 2.416.939 2.472.852 2.868.931 Cơ cấu nguồn vốn huy động - Tiền gửi tổ chức kinh tế 850.832 931.621 1.034.847 1.402.144 - Tiền gửi dân cư 1.439.478 1.485.318 1.438.005 1.466.787 - Tiền gửi bằng VNĐ 1.863.166 1.983.642 1.967.063 2.420.015 - Tiền gửi bằng ngoại tệ (quy VNĐ) 427.144 433.297 505.789 448.916 Nguồn: Báo cáo Kết quả kinh doanh – Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng Trong giai đoạn này, tổng nguồn vốn huy động của Chi nhánh nhìn chung có sự tăng trưởng khá ổn định với tốc độ tăng trưởng bình quân 5,47%, năm 2007 đạt tốc độ tăng trưởng cao nhất 13,8%. So với tốc độ tăng trưởng của các Chi nhánh NHCT trên địa bàn Hà Nội nói chung (8,4%) thì Chi nhánh có tốc độ tăng trưởng cao hơn, tuy nhiên so với các chi nhánh: Ba Đình, Đống Đa, Cầu Giấy, Cầu Diễn, Đông Anh, Yên Viên, Bắc Hà Nội, Hoàng Mai thì tỷ lệ tăng trưởng nguồn vốn của Chi nhánh còn rất thấp, nhất là tiền gửi dân cư có tỷ lệ tăng trưởng thấp hơn mức tăng bình quân và xếp thứ 10 trong 12 Đ/V. Năm 2007 công tác huy động vốn vẫn gặp rất nhiều khó khăn, ngoài sự cạnh tranh giữa các NHTM là các mốc đáng nhớ: Tháng 2/2007 thị trường chứng khoán sôi động đã thu hút tiền của khách hàng về đầu tư chứng khoán nên huy động tiền gửi dân cư đã đứng trước xu hướng giảm sút; tiếp đến là thị trường bất động sản cũng bắt đầu nóng và đặc biệt là giá vàng tăng cao, lãi suất tiết kiệm thấp hơn chỉ số tăng của giá cả nên đã ảnh hưởng đến tâm lý của khách hàng. Mặt khác tỷ giá USD được giữ ổn định và xu hướng giảm nên việc tích trữ và gửi ngoại tệ cũng giảm sút so với trước đây. Với nhiều yếu tố của thị trường đã tác động không nhỏ đến tổng nguồn vốn huy động của Chi nhánh, nhất là huy động từ khu vực dân cư có tốc độ tăng trưởng thấp. Tuy nhiên vẫn còn có những tồn tại mang tính chủ quan cần khắc phục như: Nhiều quỹ tiết kiệm của Chi nhánh còn chật hẹp chưa phù hợp, nơi giao dịch còn chưa thực sự văn minh, tác phong giao dịch và kỹ năng làm việc của cán bộ còn bất cập và chưa chuyên nghiệp, tính chủ động trong công tác tiếp thị thu hút khách hàng còn chưa cao. Ø Hoạt động tín dụng: Tổng dư nợ cho vay nền kinh tế của Chi nhánh trong giai đoạn này không ổn định. Năm 2007, tổng dư nợ cho vay tăng 2,4% và còn thấp so với các NHCT trên địa bàn Hà Nội (bình quân 14,8%), đặc biệt trong 3 năm từ 2005-2007, tổng dư nợ cho vay của Chi nhánh đều thấp hơn năm 2004. Tuy tốc độ tăng trưởng tín dụng của Chi nhánh còn thấp nhưng năm 2007, hoạt động tín dụng của Chi nhánh đã đạt được những kết quả khả quan đáng ghi nhận; đã quan tâm tới công tác tiếp thị và chăm sóc khách hàng, giải quyết những khó khăn vướng mắc để phát triển tín dụng, đặc biệt là chất lượng tín dụng được đảm bảo, nợ nhóm 2 và nợ xấu giảm thấp, thu nợ đã xử lý rủi ro vượt kế hoạch, dư nợ tăng trưởng an toàn. Tình hình dư nợ tín dụng của Chi nhánh được phản ánh trong bảng sau. Bảng 2.2: Số liệu về hoạt động tín dụng: Đơn vị: Triệu đồng Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Tổng dư nợ cho vay 943.788 740.111 686.481 703.643 Phân theo kỳ hạn nợ - Dư nợ cho vay ngắn hạn 599.168 512.635 474.570 478.034 - Dư nợ cho vay trung hạn 108.336 61.486 70.151 83.230 - Dư nợ cho vay dài hạn 217.677 147.222 122.738 142.379 - Dư nợ được khoanh 18.607 18.768 19.022 Phân theo loại tiền - Dư nợ bằng VNĐ 735.574 547.016 405.508 411.926 - Dư nợ ngoại tệ (quy VNĐ) 208.214 193.095 280.973 291.717 Nguồn: Báo cáo Kết quả kinh doanh – Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng Ø Về công tác tài trợ thương mại: Nhìn chung các chỉ tiêu đều có sự tăng trưởng qua các năm. Năm 2007 công tác thanh toán XNK của Chi nhánh có nhiều thuận lợi do hoạt động thanh toán XNK của các khách hàng truyền thống có mức tăng trưởng khá và Chi nhánh đã chủ động tích cực thực hiện các chính sách ưu đãi. Do vậy các chỉ tiêu đều tăng trưởng cao so với năm 2007, góp phần vào hiệu quả kinh doanh của Chi nhánh. Bảng 2.3: Số liệu về công tác tài trợ thương mại Đơn vị: Triệu USD Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Thanh toán L/C nhập 25,6 15,89 21,65 32,13 Thanh toán L/C xuất 7,5 12,29 16,84 26,17 Thông báo L/C xuất - 2,24 13,75 24,65 Doanh số mua ngoại tệ 23,8 21 26,97 42,34 Doanh số bán ngoại tệ 24 22 26,35 42,46 Nguồn: Báo cáo Kết quả kinh doanh – Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng Ø Hoạt động dịch vụ: Ä Hoạt động thanh toán: Với khối lượng vốn luân chuyển lớn trong giao dịch thanh toán của các doanh nghiệp, công tác thanh toán ngày càng phức tạp và đòi hỏi khẩn trương hơn. Tuy nhiên Chi nhánh chú trọng tổ chức tốt công tác thanh toán, nâng cao phong cách giao tiếp, thực hiện triển khai kịp thời các chương trình ứng dụng công nghệ Ngân hàng hiện đại, đảm bảo thanh toán kịp thời chính xác và an toàn, việc giao dịch một cửa ngày càng ổn định và thuận lợi hơn nên đã giữ vững được uy tín đối với khách hàng. Ä Dịch vụ thẻ: Số lượng thẻ ATM phát hành tăng mạnh từ 3842 thẻ năm 2004 lên 7442 thẻ năm 2007, góp phần đưa số lượng thẻ phát hành đến 31/12/2007 là 17781 thẻ tăng 71,9% so với năm 2006. Dịch vụ thẻ tín dụng quốc tế đã triển khai thực hiện tại Chi nhánh được 3 năm, các bộ phận liên quan cũng đã nhanh chóng nắm bắt quy trình nghiệp vụ để thực hiện nhanh chóng và tốt hơn. Tuy nhiên kết quả về phát hành thẻ tín dụng quốc tế và phát triển các cơ sở chấp nhận thẻ TD của Chi nhánh còn hạn chế (thẻ TDQT đạt 15,8% kế hoạch, không thực hiện được phát triển cơ sở chấp nhận thẻ) đòi hỏi cần được quan tâm hơn nữa. Ø Kết quả kinh doanh: Bảng 2.4: Số liệu về kết quả hoạt động kinh doanh Đơn vị: Tỷ đồng Năm Chỉ tiêu 2004 2005 2006 2007 Tổng thu nhập 163,7 184,4 243,9 366,2 Tổng chi phí 145,8 279,9 241,8 209,8 Lợi nhuận 17,9 - 95,6 2,1 156,4 Nguồn: Báo cáo kết quả kinh doanh – Chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng Tình hình kết quả kinh doanh của chi nhánh nhìn chung không ổn định. Lợi nhuận của Chi nhánh trong 4 năm trở lại đây nhìn chung rất thấp, thậm chí năm 2005 với Chi nhánh có số lỗ rất lớn dochi phí tăng 92% so với năm 2004 chủ yếu là trích dự phòng rủi ro theo quyết định 234/QĐ-NHCT37 lên tới 124,4 tỷ đồng, đã ảnh hưởng lớn đến kết quả tài chính của chi nhánh . Nhưng năm 2007, Chi nhánh có chênh lệch thu chi có lãi và đạt mức cao nhất từ trước tới nay. Chi nhánh đã thực hiện tốt quy chế quản lý tài chính và các chỉ tiêu kế hoạch NHCTVN giao, thực hành chi tiêu tiết kiệm, đúng chế độ, các khoản tăng chi phí (chi trả lãi, chi cho CBNV) là các khoản tăng tất yếu và đảm bảo đúng chế độ. Ø Các công tác khác: Ä Công tác TC lao động tiền lương hành chính - quản trị: Về cơ bản đã thực hiện đúng cơ chế công khai minh bạch đảm bảo quyền lợi chính đáng của người lao động. Công tác Hành chính đã đáp ứng kịp thời nhu cầu điều kiện vật chất và phương tiện làm việc hợp lý, đúng chế độ cho người lao động, tạo điều kiện để các phòng ban hoàn thành tốt nhiệm vụ. Công tác bảo vệ cơ quan đã được chú ý. Trong năm đã đảm bảo nội vụ an toàn tuyệt đối, không xảy ra cháy nổ và mất an toàn. Ä Công tác thi đua khen thưởng: Tiếp tục đổi mới và hoàn thiện theo hướng tích cực trên cơ sở vận hành quy chế thưởng tác nghiệp, cơ chế chi trả tiền lương kinh doanh phù hợp với đặc điểm của Chi nhánh và theo mục tiêu kinh doanh từng thời kỳ, nhằm từng bước gắn tiền lương, tiền thưởng với năng suất, chất lượng và hiệu quả lao động của từng phòng và từng người lao động. Thông qua cơ chế chi trả tiền lương, công tác thi đua khen thưởng đã có những kết quả rõ rệt, tác động tích cực động viên CBNV Chi nhánh thi đua lao động giỏi, nâng cao ý thức vươn lên hoàn thành tốt các chỉ tiêu nhiệm vụ được giao. Hàng quý thực hiện biểu dương khen thưởng kịp thời đối với các tập thể, cá nhân đã hoàn thành tốt các chỉ tiêu thi đua đề ra. Năm 2007 tổng tiền thưởng là 350 triệu đồng. Ä Công tác đoàn thể khác: Ban Giám đốc đã chủ động phối hợp với Đảng uỷ, Công đoàn trong việc quyết định các công việc quan trọng của hoạt động kinh doanh, công tác cán bộ, lao động, tiền lương,v.v… Tạo mọi điều kiện cho Đảng viên, Đoàn viên công đoàn và Thanh niên được học tập nâng cao nhận thức và thực hiện đầy đủ chức năng nhiệm vụ và quyền lợi của Đảng viên, Đoàn viên. Công tác xã hội: Luôn quan tâm và tham gia nhiệt tình có trách nhiệm, tiếp tục thực hiện phụng dưỡng 2 mẹ Việt Nam anh hùng đến suốt đời, xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa, ủng hộ quỹ từ thiện, tích cực tham gia các công tác xã hội. 2.2. Thực trạng công tác quản lý nguồn vốn huy động từ tiền gửi tại chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng 2.2.1. Phân tích tình hình thực hiện kế hoạch huy động tiền gửi và cho vay tại chi nhánh NHCT Hai Bà Trưng Trong 3 năm 2005- 2007, chi nhánh liên tục thực hiện đạt và vượt kế hoạch về huy động vốn do NHCT Việt Nam giao. Lượng tiền gửi huy động là cơ sở để Chi nhánh sử dụng vốn cho hoạt động đầu tư và cho vay. Việc Chi nhánh hoàn thành vượt kế hoạch huy động vốn chứng tỏ kế hoạch đặt ra đã sát với tình hình thực tế và hiệu quả hoạt động của bộ phận nguồn vốn cũng như hiệu quả điều hành của bộ máy quản lý. Tuy nhiên, ngược lại với công tác huy động vốn, dư nợ cho vay qua các năm vẫn tăng nhưng không năm nào đạt kế hoạch được giao (chỉ đạt trung bình 90% kế hoạch). Điều này có thể dẫn đến mất cân đối nguồn vốn giữa lượng huy động và nhu cầu sử dụng. Nguyên nhân của tình trạng này là do đâu? Kế hoạch đặt ra quá cao hay do bộ phận tín dụng hoạt động chưa thực sự hiệu quả, các cán bộ quản lý chưa bám sát điều hành hoạt động tín dụng? Có thể so sánh để thấy rằng kế hoạch huy động và cho vay mà NHCTVN giao cho chi nhánh là có sự phù hợp với nhau, chỉ tiêu về dư nợ cho vay thấp hơn rất nhiều so với huy động; vậy mà Chi nhánh luôn đạt vượt về chỉ tiêu huy động vốn nhưng không thể hoàn thành chỉ tiêu dư nợ cho vay. Điều này chứng tỏ Hội sở Chính lập kế hoạch đã bám sát tình hình thực tế của Chi nhánh nhưng dư nợ tín dụng cao hay thấp không hoàn toàn phụ thuộc một cách chủ quan vào bộ phận tín dụng của chi nhánh. Như trên đã phân tích, tình hình kinh tế xã hội thời gian gần đây rất nhiều biến động làm ảnh hưởng đến đời sống của dân cư và hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, do vậy cũng tác động trực tiếp đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy nhiên Chi nhánh cũng cần có sự kiểm tra sát sao hơn trong từng giai đoạn để kế hoạch được đảm bảo hoàn thành. (Xem bảng số liệu trang bên). 2.2.2. Phân tích cơ cấu tiền gửi huy động Nhiệm vụ của quản lý vốn huy động từ tiền gửi tại NHTM là làm sao đảm bảo đủ vốn với chi phí thấp nhất phục vụ cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Phân tích cơ cấu tiền gửi huy động theo từng chỉ tiêu mục đích huy động, kỳ hạn, đối tượng, loại tiền, giúp nhà quản lý đánh giá được chất lượng nguồn vốn và hiệu quả hoạt động của bộ phận nguồn vốn giúp phục vụ tốt nhất cho công tác quản lý vốn. 2.2.2.1. Phân tích cơ cấu tiền gửi huy động theo mục đích huy động Phân theo mục đích huy động, tiền gửi của khách hàng vào ngân hàng gồm hai loại: tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán. Sự thay đổi tăng hay giảm về lượng và tỷ trọng của hai nguồn tiền gửi này thể hiện chất lượng nguồn ti._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc12340.doc
Tài liệu liên quan