Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín SACOMBANK chi nhánh Đống Đa

Tài liệu Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín SACOMBANK chi nhánh Đống Đa: ... Ebook Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín SACOMBANK chi nhánh Đống Đa

doc74 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1312 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quản lý rủi ro tín dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín SACOMBANK chi nhánh Đống Đa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Tín dụng là một hoạt động cơ bản và chủ yếu của ngân hàng. Hoạt động tín dụng có vai trò rất quan trọng trong sự tồn tại và phát triển của một ngân hàng. Nói đến tín dụng có rất nhiều vấn đề như: cho vay, đầu tư...Có các quá trình thẩm định các dự án để đưa ra quyết định tài trợ. Hoạt động tín dụng đem lại lợi nhuận lớn cho ngân hàng nhưng rủi ro tín dụng cũng rất cao, rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi trong quá trình cấp tín dụng cho khách hàng của mỗi ngân hàng, rủi ro tín dụng có tác đọng đến không chỉ bản thân ngân hàng mà còn có tác động đến lĩnh vực tài chính tiền tệ từ đó tác động đến nền kinh tế vĩ mô. Chỉ có thể phòng ngừa và hạn chế rủi ro bằng việc làm tốt công tác quản lí rủi ro chứ chưa thể loại trừ rủi ro ra khỏi hoạt động tín dụng. Chính vì vậy mà em đã chọn đề tài: “Quản lí rủi ro tín dụng tại SACOMBANK chi nhánh Đống Đa ”. Bằng phương pháp so sánh trong phân tích hoạt động tín dụng, em muốn đưa ra để phân tích hoạt động tín dụng của ngân hàng với những rủi ro thường gặp, rút ra được những mặt hạn chế, những nguyên nhân, bài học kinh nghiệm. Để từ đó có biện pháp nhằm hạn chế rủi ro trong hiện tại và tương lai. Kết cấu của chuyên đề gồm 3 phần: Chương I: Khái quát về hoạt động ngân hàng và quản lí rủi ro tín dụng ngân hàng Chương II: Thực trạng quản lí rủi ro tín dụng tại Sacombank Đống Đa. Chương III: Giải pháp nhằm nâng cao quản lí rủi ro tín dụng tại Chi nhánh Sacombank Đống Đa CHƯƠNG I KHÁI QUÁT VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 1.1. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ NHTM. 1.1.1. Khái niệm. Trong quá trình sản xuất kinh doanh và tiêu dùng thì nhu cầu vốn của mỗi tổ chức, cá nhân là rất lớn. Để có lượng vốn phục vụ cho nhu cầu của mình thì họ phải đi vay. Nếu đi vay từ những cá nhân, công ty khác thì lãi suất cho vay rất cao hoặc không đảm bảo sự an toàn. Do đó các hệ thống ngân hàng ra đời và hoạt động cung ứng cho nền kinh tế một lượng vốn lớn, với mục tiêu đảm bảo cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ và cung ứng các dịch vụ ngân hàng. 1.1.2. Chức năng của NHTM. 1.1.2.1. Trung gian tài chính. Ngân hàng là một tổ chức trung gian tài chính với hoạt động chủ yếu là chuyển tiết kiệm thành đầu tư. Trong nền kinh tế tại một thời điểm có những chủ thể tạm thời thừa vốn, có những chủ thể thiếu vốn. Để cho quá trình sản xuất kinh doanh được liên tục, NHTM đã thực hiện chức năng của mình đó là huy động mọi nguồn vốn trong xã hội kết hợp với nguồn vốn của chính nó để cung cấp cho nền kinh tế. 1.1.2.2. Trung gian thanh toán. Tiền có một chức năng quan trọng là làm phương tiện thanh toán. Trong lịch sử hình thành và phát triển của ngân hàng, các ngân hàng đã không tạo được tiền kim loại, do đó khi giấy nhận nợ của ngân hàng được phát hành nó đã trở thành phương tiện thanh toán rộng rãi được nhiều người chấp nhận. Với nhiều ưu thế, dần dần giấy nợ của Ngân hàng đã thay thế tiền kim loại và là phương tiện lưu thông và phương tiện cất trữ, nó trở thành tiền giấy. Ngày nay cùng với sự phát triển của nền kinh tế thì hoạt động thanh toán của ngân hàng cũng có những bước phát triển phù hợp như: NHTM cung ứng cho nền kinh tế một số phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, uỷ nhiệm thu, uỷ nhiệm chi, thư tín dụng, thẻ thanh toán. 1.1.2.3. Chức năng tạo tiền. Giả sử ban đầu Tài sản có của ngân hàng A(dự trữ) là 100tr, với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10% ngân hàng sẽ cho vay 90tr. Một khách hàng đến vay 90tr để thanh toán cho khách hàng của mình bằng chuyển khoản đến ngân hàng Bơi cần thanh toán). Lúc này bên tài sản có (dự trữ) của ngân hàng B là 90tr. Ngân hàng B cũng cho vay với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%. Cứ như vậy với một lượng tiền ban đầu ứng với tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%, hệ thống NHTM sẽ có thể tạo thêm cho nền kinh tế một lượng tiền gấp 10 lần lượng tiền ban đầu. Tổng bút tệ tạo ra = 100+90+81+72,9+....=1000 tr 1.1.3. Vai trò của NHTM. NHTM là một trung gian tài chính do đó nó giữ vị trí quan trọng trong hệ thống tài chính. Nó thực sự đem lại lợi ích trọn vẹn và đầy đủ cho cả người có vốn, người cần vốn, cho cả nền kinh tế xã hội và bản thân các tổ chức tài chính trung gian. Do chuyên môn hoá và thành thạo trong nghề nghiệp, NHTM đáp ứng đầy đủ, chính xác và kịp thời yêu cầu của người cần vốn và người có vốn. Sự hoạt động ổn định và phát triển của hệ thống ngân hàng, với mức lãi suất huy động hấp dẫn khách hàng- thường xuyên thay đổi lãi suất một cách hợp lý và đa dạng hoá các dịch vụ đã thu hút được khối lượng vốn lớn trong nền kinh tế. Chính vì vậy ngân hàng là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Ngân hàng là một tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Do đó ngân hàng sử dụng nguồn vốn huy động được để làm phương tiện thanh toán, tài trợ và cho vay. Tất cả số tiền tạm thời nhàn rỗi của khách hàng nhờ ngân hàng mà dù chỉ trong chốc lát cũng sẽ đưa vào quá trình kinh doanh, làm tăng lượng vốn trong nền kinh tế. Ngân hàng là tổ chức cho vay chủ yếu đối với các doanh nghiệp, cá nhân, hộ gia đình và một phần đối với nhà nước. Ngân hàng thực hiện các chính sách kinh tế, đặc biệt là chính sách tiền tệ, vì vậy là công cụ quan trọng trong chính sách kinh tế của chính phủ nhằm phát triển kinh tế bền vững. Xuất phát từ vai trò của ngân hàng trên thị trường tài chính. Hoạt động của một ngân hàng có ảnh hưởng đến hệ thống tài chính, từ đó tác động đến mọi lĩnh vực: kinh tế, xã hội; mọi phạm vi: vĩ mô và vi mô. Có tác động trực tiếp và mạnh mẽ đối với sự phát triển của nền kinh tế quốc dân. Thông qua hệ thống ngân hàng mà Chính phủ có thể thực hiện các chính sách tài chính quốc gia như: Nếu tình hình trong nước lạm phát cao thì chúng ta phải dùng biện pháp thắt chặt cung ứng tiền tệ bằng cách tăng lãi suất huy động ở các NHTM; Ngân hàng mở rộng cho vay đến tất cả các thành phần kinh tế, góp phần khuyến khích phát triển kinh tế đồng đều giữa các vùng, các địa phương. Nguốn vốn được vận động từ nơi thừa vốn sang nơi thiếu vốn thoả mãn nhu cầu của nền kinh tế nhằm đạt tới mục tiêu của chính sách tài chính quốc gia đó là: điều hoà nguồn tài chính trong tổng thể nền kinh tế, nhằm thoả mãn nhu cầu tài chính cho nền kinh tế đi đôi với nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn tài chính. 1.1.4. Các dịch vụ Ngân hàng. Ngân hàng là một doanh nghiệp cung cấp các dịch vụ cho công chúng và doanh nghiệp. Hoạt động ngân hàng có phát triển hay không nó phụ thuộc vào kết quả dịch vụ mà ngân hàng cung cấp cho nền kinh tế. 1.1.4.1. Mua, bán ngoại tệ. Một trong những dịch vụ ngân hàng đầu tiên được thực hiện là trao đổi mua bán ngoại tệ: mua, bán một loại tiền này lấy một loại tiền khác và hưởng phí dịch vụ. 1.1.4.2. Nhận tiền gửi. Ngân hàng là tổ chức kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Ngoài nguồn vốn tự có của mình, ngân hàng còn phải huy động vốn từ nhiều tổ chức khác nhau trong nền kinh tế để cho vay, đầu tư sinh lời. 1.1.4.3. Cho vay. Cho vay được coi là hoạt động sinh lời cao. Ngay thời kỳ đầu các ngân hàng đã chiết khấu thương phiếu mà thực tế là cho vay đối với những người bán. Sau đó ngân hàng cho vay trực tiếp đối với khách hàng là người mua, giúp họ có vốn để mua hàng dự trữ nhằm mở rộng sản xuất kinh doanh. Với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu vốn của khách hàng ngày càng tăng thì nghiệp vụ cho vay của ngân hàng cũng trở nên đa dạng hơn như: cho vay tiêu dùng, cho vay ngắn hạn, tài trợ cho dự án trung và dài hạn... 1.1.4.4. Cung cấp tài khoản giao dịch và thực hiện thanh toán. Khi khách hàng gửi tiền vào ngân hàng, ngân hàng không chỉ bảo quản mà còn thực hiện các lệnh chi trả cho khách hàng. Thanh toán qua ngân hàng đã mở đầu cho thanh toán không dùng tiền mặt. Việc thanh toán không dùng tiền mặt đã góp phần rút ngắn thời gian kinh doanh và nâng cao thu nhập cho khách hàng. Chính vì vậy đã khuyến khích khách hàng gửi tiền vào ngân hàng để nhờ ngân hàng thanh toán hộ. 1.1.4.5. Bảo lãnh. Do khả năng thanh toán của ngân hàng cho một khách hàng rất lớn và do ngân hàng nắm giữ tiền gửi của khách hàng, nên ngân hàng có uy tín trong bảo lãnh cho khách hàng. Ngân hàng thường bảo lãnh cho khách hàng của mình mua chịu hàng hoá và trang thiết bị, phát hành chứng khoán, vay vốn của tổ chức tín dụng khác... 1.1.4.6. Các dịch vụ khác. Ngoài những dịch vụ mà ngân hàng cung cấp như trên còn có những dịch vụ như: bảo quản hộ tài sản, quản lý ngân quỹ, tài trợ các hoạt động của Chính phủ, cho thuê thiết bị trung và dài hạn, cung cấp dịch vụ uỷ thác và tư vấn, dịch vụ bảo hiểm, các dịch vụ địa lý. Với sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay. Để đáp ứng nhu cầu của khách hàng, các ngân hàng đã cung cấp dịch vụ môi giới đầu tư chứng khoán, cung cấp cho khách hàng cơ hội mua cổ phiếu, trái phiếu và các chứng khoán khác. Một số ngân hàng đã thành lập công ty chứng khoán hạch toán độc lập để cung cấp dịch vụ môi giới chứng khoán này. 1.2. KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG. Trong nền kinh tế thị trường cần thiết phải có sự tồn tại và phát triển của tín dụng. Bởi vì trong quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đều hoạt động tuần hoàn qua 3 giai đoạn: dự trữ - sản xuất - tiêu thụ. Để quá trình tái sản xuất được thực hiện bình thường và liên tục đòi hỏi vốn cùng một lúc phải tồn tại và vận động qua 3 hình thái: vốn tiền tệ – vốn sản xuất- vốn hàng hoá. Trong khi một bộ phận vốn tiền tệ biến thành vốn sản xuất thì bộ phận vốn sản xuất trước đó biến thành vốn hàng hoá và bộ phận vốn hàng hoá trước nữa biến thành tiền tệ. Quá trình vận động tuần hoàn này không được gián đoạn mới đảm bảo cho quá trình tái sản xuất được thực hiện bình thường. Như vậy, do đặc điểm chu chuyển tuần hoàn vốn có lúc đơn vị thiếu vốn, có lúc doanh nghiệp thừa vốn, nếu xét trong toàn xã hội thì trong khi đơn vị này thiếu vốn thì đơn vị khác thừa vốn. Do đó phải điều hoà vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất kinh doanh và sử dụng vốn có hiệu quả. Đó chính là nguyên nhân và cơ sở để tồn tại và phát triển của tín dụng. 1.2.1. Khái niệm về tín dụng ngân hàng. Tín dụng là một giao dịch giữa hai bên, trong đó một bên (trái chủ hoặc người cho vay) chu cấp tiền, hàng hoá, dịch vụ hoặc chứng khoán dựa vào lời hứa thanh toán lại trong tương lai của bên kia (thụ trái hoặc người đi vay). Thông thường những giao dịch này còn bao gồm cả việc thanh toán lợi tức cho người cho vay. Tín dụng ngân hàng là sự cho vay hay ứng trước tiền do ngân hàng thực hiện. Bản thân ngân hàng là người cho vay còn người đi vay là những khách hàng khác nhau. Giá mà ngân hàng ấn định cho khách hàng khi đi vay là tiền hoa hồng mà họ phải trả trong suốt thời gian tồn tại khoản ứng trước đó. 1.2.2. Ý nghĩa hoạt động tín dụng đối với ngân hàng. Trong nền kinh tế thị trường cung cấp tín dụng là chức năng kinh tế cơ bản của ngân hàng. Tín dụng là hoạt động sinh lời lớn nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM. Đối với hầu hết các ngân hàng, dư nợ tín dụng thường chiếm tới hơn 1/2 tổng tài sản có và thu nhập từ tín dụng chiếm khoảng từ 1/2 đến 2/3 tổng thu nhập của ngân hàng. Mặt khác, rủi ro trong kinh doanh ngân hàng có xu hướng tập trung chủ yếu vào danh mục tín dụng. Khi ngân hàng rơi vào trạng thái tài chính khó khăn nghiêm trọng, thì nguyên nhân thường phát sinh từ hoạt động tín dụng của ngân hàng. Rủi ro tín dụng sẽ dẫn đến rủi ro về lãi suất, rủi ro tỷ giá hối đoái, rủi ro nguồn vốn. Do đó các ngân hàng phải có những biện pháp quản lý hoạt động tín dụng một cách thích hợp để nâng cao chất lượng tín dụng. Nhằm mang lại hiệu quả kinh doanh cao cho ngân hàng. 1.2.3. Các loại tín dụng ngân hàng. Ngân hàng cung cấp rất nhiều loại tín dụng, cho nhiều đối tượng khách hàng với những mục đích sử dụng khác nhau. 1.2.3.1. Căn cứ vào thời hạn cho vay. Cho vay ngắn hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn đến 1 năm. Thường được dùng để cho vay bổ sung thiếu hụt tạm thời vốn lưu động của doanh nghiệp và cho vay phục vụ nhu cầu cá nhân. Cho vay trung hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn từ trên 1 năm đến 5 năm. Cho vay trung hạn dùng để cho vay vốn mua sắm TSCĐ, cải tiến và đổi mới thiết bị kỹ thuật và mở rộng, xây dựng các công trình nhỏ có thời gian thu hồi vốn nhanh Cho vay dài hạn: Là hình thức cho vay có thời hạn trên 5 năm. Được sử dụng để cấp vốn cho xây dựng cơ bản, cải tiến, đầu tư công nghệ mới và mở rộng sản xuất có quy mô lớn. 1.2.3.2. Căn cứ vào bảo đảm tín dụng. Tín dụng không có bảo đảm: Là tín dụng không có tài sản cầm cố thế chấp hay có bảo lãnh của người thứ 3. Tín dụng có bảo đảm: Là tín dụng có tài sản cầm cố, thế chấp hay có bảo lãnh của người thứ 3. 1.2.3.3. Căn cứ vào mục đích tín dụng. Tín dụng bất động sản: Đây là các khoản tín dụng được bảo đảm bằng bất động sản, bao gồm: tín dụng ngắn hạn cho xây dựng và mở rộng đất đai, tín dụng dài hạn để mua đất đai, nhà cửa... Tín dụng công thương nghiệp: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các doanh nghiệp để trang trải các chi phí như mua nguyên vật liệu, trả thuế, và chi trả lương. Tín dụng nông nghiệp: Đây là khoản tín dụng cấp cho các hoạt động nông nghiệp nhằm trợ giúp các hoạt động trồng trọt, thu hoạch mùa màng và chăn nuôi gia súc. Tín dụng cá nhân: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các cá nhân để mua sắm hàng hoá tiêu dùng đắt tiền như xe hơi, nhà, trang thiết bị trong nhà. Tín dụng cho các tổ chức tài chính: Đây là các khoản tín dụng cấp cho các ngân hàng, công ty bảo hiểm, công ty tài chính và các tổ chức tài chính khác. Cho thuê tài chính: Là việc ngân hàng mua các trang thiết bị, máy móc và cho thuê lại chúng. Tín dụng khác: bao gồm các khoản tín dụng như tín dụng kinh doanh chứng khoán... 1.2.4. Các nguyên tắc tín dụng ngân hàng. Hoạt động tín dụng của NHTM dựa trên một số nguyên tắc nhất định nhằm đảm bảo tính an toàn và khả năng sinh lời. 1.2.4.1. Khách hàng phải cam kết hoàn trả vốn (gốc) và lãi với thời gian xác định. Các khoản tín dụng ngân hàng chủ yếu có nguồn gốc từ các khoản tiền gửi của khách hàng và các khoản ngân hàng vay mượn. Ngân hàng phải có trách nhiệm hoàn trả cả lãi và gốc như đã cam kết. Do vậy ngân hàng luôn yêu cầu người nhận tín dụng phải thực hiện đúng cam kết này. Đây là điều kiện để ngân hàng tồn tại và phát triển. 1.2.4.2. Việc sử dụng vốn vay. Khách hàng phải cam kết sử dụng tín dụng theo mục đích được thoả thuận với ngân hàng, không trái với các quy định của pháp luật và các quy định khác của ngân hàng cấp trên. 1.2.4.3. Ngân hàng tài trợ dựa trên phương án có hiệu quả. Thực hiện nguyên tắc này là điều kiện để thực hiện nguyên tắc thứ nhất. Phương án hoạt động có hiệu quả của người vay minh chứng cho khả năng thu hồi được vốn đầu tư và có lãi để trả nợ ngân hàng. Các khoản tài trợ của ngân hàng phải gắn liền với việc hình thành tài sản của người vay. Trong trường hợp xét thấy kém an toàn, ngân hàng đòi hỏi người vay phải có tài sản đảm bảo khi vay. 1.2.5.Rủi ro tín dụng ngân hàng 1.2.5.1. Bản chất của rủi ro tín dụng. Rủi ro tín dụng (rủi ro về sự tổn thất tài chính) là khả năng xảy ra những tổn thất mà ngân hàng phải chịu do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ cả gốc và lãi, mất khả năng thanh toán. Điều này có nghĩa là các khoản thanh toán bao gồm cả gốc và lãi như cam kết sẽ có thể bị trì hoãn hoặc thậm chí là không được trả, và hậu quả là sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng sự luân chuyển tiền tệ và sự bền vững của tính chất trung gian dễ bị tổn thương trong hoạt động của ngân hàng. Khi thực hiện hoạt động cho vay cụ thể, ngân hàng không dự kiến là khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Rủi ro tín dụng là không thể tránh khỏi trong hoạt động của ngân hàng. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng thì ngân hàng coi đó là một thành công trong quản lý. Rủi ro gắn liền với hoạt động của NHTM, phản ánh các tình huống bất ngờ xảy ra, có thể gây tổn thất cho ngân hàng. Rủi ro tín dụng thường chiếm tỷ trọng cao nhất trong hoạt động của NHTM và luôn phải đối mặt với rủi ro này. 1.2.5.2. Phân loại rủi ro tín dụng. Có rất nhiều cách phân loại rủi ro tín dụng. - Phân loại theo tính khách quan, chủ quan của nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng có: rủi ro khách quan và rủi ro chủ quan. - Phân loại theo cơ cấu các loại hình rủi ro: rủi ro theo khoản cho vay ngắn hạn, trung hạn, dài hạn hay vay khoản tín dụng hợp vốn. - Phân loại theo nguồn gốc hình thành có: + Rủi ro từ phía người cho vay (ngân hàng, các tổ chức tín dụng) gồm: Rủi ro ở khâu chính sách, rủi ro ở khâu nghiên cứu, theo dõi, quản lý và xử lý rủi ro, rủi ro ở khâu thông tin, rủi ro ở khâu cán bộ, rủi ro ở công tác kiểm tra, kiểm soát. + Rủi ro từ phía người vay gồm: Rủi ro về đạo đức (chủ quan); Rủi ro do khả năng tài chính yếu kém của người vay; Rủi ro do biến động khả năng kinh doanh của người vay; Rủi ro từ phía người điều hành doanh nghiệp, mối quan hệ của doanh nghiệp với các doanh nghiệp khác; Rủi ro bất khả kháng. - Phân loại khác: Rủi ro từ khâu quản lý, kiểm tra của NHNN; Rủi ro phát sinh từ chế độ chính sách của Nhà nước; Rủi ro quốc gia; Rủi ro môi trường; Rủi ro khác như do sự đánh giá không khách quan, chính xác của cơ quan công chứng đối với tài sản thế chấp, do việc cho vay bị áp đặt bởi cấp trên... 1.3. QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG NGÂN HÀNG. 1.3.1. Khái niệm Là phương pháp nghiên cứu, so sánh trong phân tích hoạt động tín dụng, từ đó đưa ra để phân tích hoạt động tín dụng của ngân hàng với những rủi ro thường gặp, rút ra được những mặt hạn chế, những nguyên nhân, bài học kinh nghiệm. Để từ đó có biện pháp nhằm quản lí rủi ro trong hiện tại và tương lai. 1.3.2. Mục đích 1.3.2.1.Đảm bảo tính thanh khoản Rủi ro tín dụng có ảnh hưởng đến thu nhập và uy tín của ngân hàng bởi vì: Nhiệm vụ đầu tiên của ngân hàng là nhằm bảo vệ tiền gửi của khách hàng. Nếu một khoản cho vay nào đó bị thất thoát (không thu hồi được) thì trước tiên làm cho ngân hàng không có khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Ngân hàng cũng phải có trách nhiệm với các cổ đông, phải đảm bảo mức chia lãi tức cổ phần hợp lý cũng như đảm bảo mức lương nhất định đối với nhân viên ngân hàng. Hoạt động tín dụng là hoạt động chủ yếu của ngân hàng, đem lại 85->90% thu nhập của ngân hàng. Nếu những doanh nghiệp vay vốn ngân hàng đỏ vỡ, nhất là những doanh nghiệp vay nhiều vốn của một ngân hàng và không có khả năng khắc phục được, thì sau đó sẽ dẫn đến sự đổ vỡ của chính bản thân ngân hàng. Bởi nếu ngân hàng bị rủi ro trong hoạt động tín dụng và phải dùng vốn để trang trải cho các khoản thất thoát này thì đến một chừng mực nào đó sẽ không thể thực hiện việc “xoá sổ” những khoản thất thoát này nữa và ngân hàng có thể bị lâm vào tình trạng mất khả năng thanh toán cho người gửi tiền. Giảm uy tín đối với khách hàng đến gửi tiền do đó làm giảm nguồn vốn mà ngân hàng có thể huy động được. Để đạt được lợi nhuận cao thu hút nhiều khách hàng, tăng sức cạnh tranh, các ngân hàng tìm cách mở rộng tín dụng, cung ứng nhiều dịch vụ cho khách hàng nhưng đồng thời cũng phải đối mặt với nhiều rủi ro hơn, các loại rủi ro này luôn tiềm ẩn làm tăng chi phí để bù đắp rủi ro làm giảm lợi nhuận, lỗ hoặc mất vốn; thiếu hụt nguồn vốn để chi trả tiền gửi cho khách hàng, các khoản vay của tổ chức tín dụng, tài chính khác do không thu hồi được các khoản nợ và lãi đến hạn, dẫn đến mất khả năng chi trả, khả năng thanh toán dễ rơi vào tình trạng phá sản; ảnh hưởng đến hoạt động ngân hàng cho vay, nếu nghiêm trọng và kéo dài dễ gây hiệu ứng phản ứng dây truyền đe doạ đến hàng loạt các ngân hàng khác do khách hàng đua nhau rút tiền gửi ở ngân hàng. Nền kinh tế lâm vào khủng hoảng tài chính tiền tệ. Hoạt động tín dụng là hoạt động tiêu biểu của hầu hết các ngân hàng, hoạt động này đòi hỏi ngân hàng phải tìm mọi cách để kiểm soát được khả năng hoàn trả nợ của khách hàng, ít nhất cũng là dự tính, phán đoán khả năng này. Rủi ro trong hoạt động tín dụng không chỉ xảy ra đối với các khoản tín dụng bình thường mà còn xảy ra đối với các khoản ngoại bảng như bảo lãnh L/C. 1.3.2.2. Đảm bảo tính sinh lời Khi có tổn thất xảy ra, trước hết thu nhập của ngân hàng giảm sút, dẫn đến tỷ suất lợi tức và thị giá cổ phiếu của ngân hàng giảm. Việc cổ phiếu giảm giá sẽ có thể kéo theo việc bán hàng loạt cổ phiếu trên thị trường, là điểm mở đầu của quá trình mua lại, sát nhập, thay thế ban quản lý ngân hàng. Rủi ro tín dụng có thể dẫn đến nhiều hậu quả, mọi người sẽ mất lòng tin ở ngân hàng và việc huy động vốn của ngân hàng cũng sẽ gặp khó khăn. Rủi ro tín dụng không chỉ có ảnh hưởng đến phạm vi của một ngân hàng nào đó mà nó ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống ngân hàng, đến thị trường tài chính, từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế. Do đó việc quản lý để hạn chế rủi ro tín dụng ngân hàng là điều rất cần thiết trong quá trình thực hiện hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 1.3.2.3.Hạn chế rủi ro Ngân hàng là một trung gian tài chính, hoạt động của mỗi ngân hàng có sự tác động mạnh mẽ đến toàn bộ hệ thống tài chính. Nếu có sự thất thoát trong hoạt động tín dụng nào đó, dù chỉ một ngân hàng và ở một mức nhất định nào đó cũng sẽ đe doạ đến tính an toàn và tính ổn định của toàn hệ thống ngân hàng. Từ đó sẽ dẫn đến các chính sách tài chính cũng không còn phù hợp và hệ thống tài chính tiền tệ không còn được vững mạnh. Giảm uy tín trên thị trường tài chính thế giới. Vì lẽ đó mà các ngân hàng Trung ương đều quy định mọi ngân hàng phải tuân thủ quy trình phân tích rủi ro trong cho vay. 1.3.3.Nội dung quản lí rủi ro tín dụng 1.3.3.1.Xác định và hạn chế các khoản tín dụng có vấn đề Những khoản tín dụng có vấn đề thường có các biểu hiện sau : - Trả nợ vay không đúng hạn - Thường xuyên sửa đổi thời hạn, xin gia hạn tín dụng - Lãi suất tín dụng cao bất thường ( để bù đắp rủi ro tín dụng ) - Tài khoản phải thu hay tồn kho tăng không bình thường - Tỷ lệ nợ / vốn chủ sở hữu tăng - Thất lạc hồ sơ tài chính,đặc biệt là báo cáo tài chính khách hàng - Chất lượng đảm bảo tín dụng thấp - Khách hàng dựa vào nguồn thu bất thường để trả nợ như bán nhà xưởng. máy móc thiết bị… Ngân hàng căn cứ vào những dấu hiệu của khoản tín dụng, từ đó xác định tính chất của khoản vay nhằm đưa ra những phương án để quản lí khoản tín dụng đó.Nếu khoản tín dụng có dấu hiệu bất thường ( thường là một trong các nguyên nhân trên ),ngân hàng có thể kịp thời đưa ra biện pháp để xử lí như ngừng cấp tín dụng hoặc hạn chế khoản tín dụng đó, đưa vào giám sát đăc biệt. 1.3.3.2.Phân loại,quản lí nợ Một trong những nội dung quan trọng của quản lí tín dụng ngân hàng chính là việc phân loại và quản lí nợ.Để đánh giá mức độ của rủi ro tín dụng, chúng ta phải phân tích được các chỉ tiêu dư nợ tín dụng. - Nợ quá hạn Là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đã đến hạn thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Nợ quá hạn nói chung được xem như một dấu hiệu của một vấn đề rủi ro tiềm ẩn. Để hiểu bản chất của khoản nợ quá hạn chúng ta phải tìm hiểu nguyên nhân của khoản nợ quá hạn đó bằng việc: cán bộ tín dụng kiểm tra các báo cáo tài chính, hồ sơ lưu trữ kho hàng, danh mục các khoản phải thu và các thông tin tài chính khác. Nếu nợ quá hạn là một biểu hiện của một doanh nghiệp không muốn hoặc không có khả năng hoàn trả thì có thể khoản vay đã có vấn đề nghiêm trọng và có thể không cứu vãn được. Nếu việc nợ qúa hạn hình thành do việc tiêu thụ hàng hoá hoặc thu hồi các khoản phải thu chậm hơn dự tính, hoặc do việc chậm trễ không lường trước được trong việc vận chuyển hàng từ nơi sản xuất đến thị trường tiêu thụ... thì vấn đề có thể là chưa đến mức trầm trọng. Nếu vào ngày đáo hạn người vay đưa ra yêu cầu giãn nợ hoặc xin vay tiếp mà không dự tính trước thì đây cũng có thể là một biểu hiện của việc phá vỡ thoả thuận hoàn trả và điều đó cũng nghiêm trọng giống như nợ quá hạn. Nếu Tỷ lệ nợ quá hạn cao sẽ dẫn đến chi phí tăng cao ngoài dự kiến, thậm chí là thua lỗ. Mặt khác nếu tỷ lệ nợ quá hạn,nợ xấu cao, gấp 2-4 lần giới hạn an toàn của quốc tế không thực hiện đúng như các cam kết mở L/C, uy tín của hệ thống NHTM trong nước và quốc tế sẽ giảm sút nghiêm trọng. Hậu quả chung là các NHTM quốc doanh phải củng cố, cơ cấu lại, phải thành lập các công ty khai thác tài sản thế chấp. - Nợ khó đòi và tỉ lệ nợ khó đòi trên tổng tài sản Nếu tỷ lệ nợ khó đòi chiểm tỷ trọng lớn trong các khoản nợ tín dụng thì rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng càng cao. Tuy nhiên một ngân hàng có thể có những cách định lượng các chỉ tiêu trên nhằm phản ánh sai lệch rủi ro, ví dụ như: giãn nợ, đảo nợ...Do đó một số ngân hàng phản ánh rủi ro tín dụng không chỉ bằng các chỉ tiêu trên mà quan trọng hơn bằng chỉ tiêu rủi ro tiềm năng: các khoản tín dụng có chất lượng trung bình và xấu trên tổng tín dụng. Các chỉ tiêu này có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ rủi ro tín dụng khác nhau. Đối với ngân hàng, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Theo quy định của Ngân hàng Nhà nước nếu tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ của ngân hàng nào mà lớn hơn 5% thì ngân hàng đó được xem là có chất lượng tín dụng kém. Tuy nhiên, có trường hợp tỷ lệ nợ quá hạn ở dưới mức cho phép song vẫn không được đánh giá là tốt nếu trong số nợ quá hạn đó, nợ quá hạn không có khả năng thu hồi chiếm tỷ trọng lớn hơn hoặc giá trị tài sản thế chấp không đủ để thu hồi nợ. Bên cạnh đó, ngân hàng cần phải thực hiện nghiêm túc các qui định về an toàn tín dụng ghi trong luật các tổ chức tín dụng,xác định các khoản tài trợ với các mức độ rủi ro khác nhau nhằm hạn chế tối đa rủi ro mà vẫn đảm bảo lợi nhuận.Các ngân hàng cũng có thể có các biện pháp,các chính sách hỗ trợ khách hàng tăng trả nợ,hoặc có các biện pháp xử lí tài sản đảm bảo,tài sản cầm cố nhằm thu hồi nợ. 1.3.3.3.Sử dụng các công cụ, các chỉ tiêu phân tích đánh giá nhằm đưa ra các dự báo Trước khi ngân hàng quyết định cho khách hàng vay vốn thì ngân hàng phải có phương pháp để thu thập và xử lý thông tin về khách hàng của mình. Sau đó xem xét và phân tích hồ sơ tín dụng có phù hợp hay không. Để biết được khách hàng có đủ năng lực để trả nợ trong tương lai thì ngân hàng cần phải phân tích tình hình tài chính của khách hàng và phương án sử dụng vốn có đúng như trong hồ sơ vay vốn hay không. Việc phân tích tình hình tài chính của khách hàng là yếu tố quan trọng bậc nhất quyết định đến chất lượng tín dụng của ngân hàng và yếu tố rủi ro trong hoạt động tín dụng. Ngân hàng đọc và phân tích bảng cân đối kế toán của doanh nghiệp cần vay vốn để có thể phản ánh một cách tổng quát tình hình tài sản, vốn, nguồn vốn, công nợ tại thời điểm lập báo cáo. Về mặt pháp lý, số liệu ở phần nguồn vốn thể hiện trách nhiệm pháp lý của doanh nghiệp đối với người cho vay về các khoản nợ phải trả. Tiếp đến là phân tích bảng báo cáo kết quả kinh doanh của doanh nghiệp, số liệu trong báo cáo này cung cấp những thông tin tổng hợp nhất về phương thức kinh doanh của doanh nghiệp trong kỳ và chỉ ra rằng, các hoạt động kinh doanh đó có đem lại lợi nhuận cho doanh nghiệp hay gây tình trạng lỗ vốn, đồng thời nó còn phản ánh tình hình sử dụng các tiềm năng về vốn, lao động, kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý kinh doanh của doanh nghiệp. Các chỉ tiêu về tài chính của doanh nghiệp có thoả mãn điều kiện nhất định thì hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó mới có thể đảm bảo rằng việc vay vốn là đúng mục đích kinh doanh và sử dụng vốn có hiệu quả. Nhằm đánh giá và dự báo mức độ rủi ro của khoản tín dụng,ngân hàng có thể dựa vào các chỉ tiêu như : - Nhóm chỉ tiêu thanh khoản : + Hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn. Hệ số thanh toán nợ ngắn hạn thể hiện mức độ đảm bảo của tài sản lưu động với nợ ngắn hạn. Nợ ngắn hạn là các khoản nợ phải thanh toán trong kỳ, do đó doanh nghiệp phải dùng tài sản thực có của mình để thanh toán bằng cách chuyển đổi một bộ phận tài sản thành tiền. Trong tổng số tài sản mà hiện doanh nghiệp đang quản lý, sử dụng và sở hữu, chỉ có tài sản lưu động (TSLĐ) trong kỳ là có khả năng chuyển đổi thành tiền. Do đó hệ số thanh toán tạm thời được xác định theo công thức: Khả năng thanh toán = TSLĐ và đầu tư ngắn hạn (1) Nợ ngắn hạn Tổng nợ ngắn hạn. Hệ số này phải lớn hơn 1, càng lớn thì càng tốt + Hệ số khả năng thanh toán nhanh: TSLĐ trước khi mang đi thanh toán cho chủ nợ đều phải chuyển đổi thành tiền. Trong TSLĐ hiện có thì vật tư, hàng hoá chưa thể chuyển đổi thành tiền ngay được, do đó nó có khả năng thanh toán kém nhất. Vì vậy hệ số khả năng thanh toán nhanh là thước đo về khả năng trả nợ ngay, không dựa vào việc phải bán các loại vật tư hàng hoá và được xác định theo công thức: Khả năng thanh = TSLĐ và đầu tư ngắn hạn - Hàng tồn kho (2) toán nhanh Tổng nợ ngắn hạn Hệ số này càng lớn thì khả năng trả nợ của doanh nghiệp càng cao. + Hệ số thanh toán nợ dài hạn: Khả năng thanh toán = Giá trị còn lại của TSCĐ được hình thành từ vốn vay nợ dài hạn Tổng nợ ngắn hạn (3) -. Nhóm chỉ tiêu hoạt động. Nhóm chỉ tiêu hoạt động đo lường mức độ hiệu quả trong việc sử dụng tài sản của doanh nghiệp. + Vòng quay hàng tồn kho: Vòng quay hàng tồn kho là số lần mà hàng hoá tồn kho bình quân luân chuyển trong kỳ, được xác định bằng công thức: Số vòng quay = Giá vốn hàng bán (4) hàng tồn kho Hàng tồn kho bình quân Số vòng quay hàng tồn kho càng cao thì việc kinh doanh được đánh giá càng tốt, bởi lẽ doanh nghiệp chỉ đầu tư cho hàng tồn kho thấp nhưng vẫn đạt được doanh số cao. + Kỳ thu nợ bình quân: Phản ánh thời hạn tín dụng thương mại bình quân (bán chịu) mà doanh nghiệp đã cấp cho khách hàng là bao nhiêu ngày. Được tính bằng công thức: Tài khoản phải thu bình quân (5) Doanh số bán chịu hàng ngày bình quân Kỳ thu nợ bình quân = + Vòng quay tổng tài sản: Chỉ tiêu này phản ánh năng lực của doanh nghiệp trong việc sử dụng tổng tài sản để tạo doanh thu là như thế nào. Chỉ tiêu này càng cao thì tình hình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đó được coi là tốt. Chỉ tiêu này được tính bằng công thức: Vòng quay tổng tài sản = Tổng tài sản (6) Doanh thu hàng năm - Nhóm chỉ tiêu đòn bẩy: Nhóm chỉ tiêu đòn bẩy phản ánh quy mô nợ so với vốn cổ phần của doanh nghiệp, đồng thời là bằng chứng về khả năng hoàn trả các khoản nợ của doanh nghiệp trong dài hạn. + Tỷ số nợ trên tổng tài sản: (Hệ số đòn bẩy) Tổng dư nợ (7) Tổng tài sản Tỷ số nợ = Tỷ số nợ càng cao phản ánh hoạt động của doanh nghiệp dựa vào nguồn vốn vay càng lớn. Chính vì vậy, khi cho vay ngân hàng cần phải xem xét thận trọng những doanh nghiệp có hệ số đòn bẩy quá cao so với mức bình quân ngành. + Khả năng trả lãi tiền vay: Ch._.ỉ tiêu này phản ánh khả năng của doanh nghiệp trong việc thanh toán lãi tiền vay là như thế nào, và được tính theo công thức: Lợi nhuận trước thuế và lãi vay (8) Chi phí lãi tiền vay Khả năng trả lãi tiền vay = - Nhóm chỉ tiêu khả năng sinh lời: Mục đích phân tích các chỉ tiêu sinh lời để đánh giá tính hiệu quả trong việc sử dụng các nguồn lực của doanh nghiệp để tạo ra lợi nhuận cho các cổ đông. + Tỷ lệ sinh lời trên doanh thu: Lợi nhuận sau thuế (9) Doanh thu Tỷ lệ sinh lời trên doanh thu = Với cùng một mức doanh thu, nếu doanh nghiệp nào càng giảm được chi phí đầu vào thì tỷ lệ sinh lời trên doanh thu càng lớn, điều này nói lên doanh nghiệp này hoạt động tốt. + Tỷ lệ sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE): Lợi nhuận sau thuế (10) Vốn chủ sở hữu ROE = Chỉ tiêu này phản ánh tính hiệu quả trong việc sử dụng đồng vốn chủ sở hữu. + Tỷ lệ sinh lời trên tổng tài sản (ROA): Lợi nhuận sau thuế (11) Tổng tài sản ROA= Chỉ tiêu này phản ánh tính hiệu quả trong việc sử dụng tổng tài sản của doanh nghiệp. -. Bảo đảm tiền vay. Để đảm bảo an toàn trong cho vay, ngân hàng xem xét 3 yếu tố chính của khách hàng: Uy tín của khách hàng, hiệu quả dự án và tài sản đảm bảo. Trong hoạt động của ngân hàng, tài trợ hoàn toàn dựa trên uy tín của khách hàng được gọi là tài trợ không có đảm bảo bằng tài sản. mặc dù uy tín được coi là tài sản rất lớn của khách hàng song nếu người vay mất khả năng chi trả thì uy tín cũng bị giảm sút và ngân hàng thì cũng không thể bán uy tín đó để thu nợ. Hiệu quả dự án được các nhà ngân hàng đặc biệt quan tâm. Thông qua thẩm định dự án, ngân hàng dự tính các yếu tố tác động tới quá trình kinh doanh của khách hàng trong tương lai, mối liên hệ giữa sức mạnh tài chính của khách hàng hiện tại và kết quả dự án trong tương lai. Tài trợ dựa trên tài sản đảm bảo tức là ngân hàng yêu cầu khách hàng phải có nguồn trả nợ thứ hai bên cạnh nguồn trả nợ thứ nhất là thu nhập từ hoạt động của khách hàng. Khi cần thiết ngân hàng có thể bán tài sản đảm bảo để thu nợ. Tài sản đảm bảo, về bản chất tạo nguồn thu thứ hai, khi nguồn thu thứ nhất không đủ, không kịp thời bù đắp thiệt hại cho ngân hàng. Do vậy, giá trị tài sản đảm bảo mà ngân hàng yêu cầu không phải phụ thuộc hoàn toàn vào quy mô tài trợ mà chủ yếu phụ thuộc vào rủi ro dự kiến. Với các khách hàng mức độ rủi ro là khác nhau, ngân hàng có thể yêu cầu giá trị đảm bảo khác nhau so với số tiền cho vay. Đảm bảo có thể lớn hơn giá trị khoản cho vay, hoặc chỉ chiếm một phần như đảm bảo bằng số dư phần bù, bằng sổ lương, kết hợp đảm bảo loại 1 và loại 2...Do đó định giá tài sản đảm bảo, thế chấp là một yếu tố quan trọng trong việc đưa ra quyết định cho vay. Việc dự tính rủi ro để xác định giá trị tài sản đảm bảo, loại đảm bảo, hình thức đảm bảo là giải pháp mở rộng tài trợ của ngân hàng, tăng sinh lợi và an toàn trong hoạt động của ngân hàng hiện nay. - Các chỉ tiêu khác. Thông thường một doanh nghiệp phải có vốn sở hữu để tài trợ một phần cho tài sản lưu động và tài sản cố định. Vốn sở hữu (12) Tổng tài sản Tỷ lệ tài trợ bằng vốn sở hữu= Tỷ lệ này cho thấy sức mạnh tài chính của người vay. Nhiều doanh nghiệp Việt Nam hiện nay tỷ lệ này vào khoảng 0,3->0,4; hoặc thấp hơn buộc ngân hàng phải thận trọng và kiểm soát chặt chẽ các khoản cho vay. Rủi ro của người vay rất đa dạng. Chúng ta cần có nhiều trường hợp điều chỉnh rủi ro trong mọi trường hợp. Cách tiếp cận rủi ro của người vay như phân tích các yếu tố liên quan đến quá trình sản xuất, tiếp thị, nhân sự, tài chính, chính sách của chính phủ tác động tới khách hàng như thế nào. Ngoài ra, ngân hàng lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại và cho điểm thông qua việc phân tích tình hình tài chính của khách hàng như trên. Một sự thiếu hụt luồng tiền là biểu hiện không lành mạnh trong kinh doanh của con nợ, khiến cho quan hệ tín dụng trở nên có vấn đề. Luồng tiền = Lợi nhuận ròng + Chi phí phi tiền tệ + Phần tăng thêm của tài khoản phải trả - Phần tăng thêm của hàng tồn kho và tài khoản phải thu. Những biểu hiện về chất lượng tín dụng và chính sách tín dụng mà ngân hàng thực hiện không tốt đều dẫn đến rủi ro về tín dụng trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Do đó làm thế nào để hạn chế tối đa mức độ rủi ro tín dụng tại các NHTM hiện nay đang là vấn đề cấp thiết được các nhà quản trị ngân hàng cũng như các cán bộ ngân hàng quan tâm và tìm ra giải pháp thực hiện thành công trong tương lai. 1.3.3.4.Nâng cao chất lượng tín dụng Các ngân hàng luôn luôn phải đặt vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng ở một vị trí quan trọng. Tăng trưởng tín dụng phải phù hợp với khả năng huy động vốn và kiểm soát rủi ro,bảo đảm an toàn hệ thống. Bên cạnh đó các ngân hàng phải thường xuyên làm lành mạnh hóa tình hình tín dụng,Hoàn thiện hóa qui trình cho vay, qui chế hóa các hoạt động trong ngân hàng,đảm bảo quản lí rủi ro trong mọi khâu của hoạt động tín dụng. Thường xuyên xem xét các qui trình tín dụng một cách định kì,đảm bảo mọi công việc và phát sinh được xử lí kịp thời, chính xác và đúng thẩm quyền. Thực hiện minh bạch và công khai hóa các thông tin tín dụng ( ngoài các thông tin tuyệt mất có thể ảnh hưởng đến ngân hàng ). Việc minh bạch và công khai này phải được thực hiệ giữa NHTM và NHNN, giữa NHTM và NHTM, giữa NHTM và các nhà đầu tư và với công luận. 1.3.4. Những nhân tố ảnh hưởng đến quản lí rủi ro tín dụng - Nhân tố khách quan Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm họ mất khả năng thanh toán với ngân hàng như: thiên tai, chiến tranh, thị trường bị thu hẹp, bị nước ngoài áp đặt hạn chế thương mại không tiêu thụ được sản phẩm, cơ chế chính sách và quy hoạch của nhà nước, các cấp chính quyền thay đổi... Khi tác động của những nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy giảm gây tổn thất cho ngân hàng. - Nhân tố chủ quan Việc thẩm định dự án đầu tư, phương án sản xuất kinh doanh chưa toàn diện, trình độ cán bộ thẩm định chưa đáp ứng yêu cầu; quản lý việc phát tiền vay cho khách hàng và sử dụng vốn vay, theo dõi tình hình hoạt động của khách hàng thiếu chặt chẽ; thiếu khả năng quản trị rủi ro; ngoài ra, rủi ro đạo đức của một số cán bộ liên quan đến việc cho vay vốn, cố ý làm trái quy định về tín dụng, thiếu tinh thần trách nhiệm. Vẫn còn cán bộ tín dụng và lãnh đạo phòng kinh doanh ở một số chi nhánh không chấp hành đúng quy trình tín dụng (không kiểm tra, đối chiếu thực tê tại cơ sở của khách hàng, không trực tiếp thẩm định giá trị tài sản bảo đảm, không kiểm tra trong quá trình giải ngân,không thường xuyên kiểm tra giám sát vốn vay...), tạo kẽ hở cho khách hàng lợi dụng, lừa đảo làm thất thoát vốn tín dụng. Một số chi nhánh của hệ thống NHTM do chạy theo thành tích, muốn tăng nhanh dư nợ đã hạ thấp lãi suất cho vay, hạ thấp điều kiện tín dụng để thu hút khách hàng, tạo ra việc cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các chi nhánh, làm giảm lợi nhuận của toàn hệ thống. Thông tin kinh tế, thông tin rủi ro, phân tích tín dụng, phân tích hoạt động kinh doanh của ngân hàng chưa được tổ chức thực hiện có hiệu quả. Việc quản lý thông tin tín dụng vẫn được thực hiện chrủ yếu bằng thủ công, thiếu chính xác và không đầy đủ, kịp thời. Vì vậy, việc phân tích đánh giá tín dụng theo ngành, theo khách hàng chưa được thực hiện thường xuyên để có được những định hướng tín dụng chính xác và kịp thời. CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUẢN LÍ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI SACOMBANK ĐỐNG ĐA 2.1. GIỚI THIỆU CHUNG VỀ SACOMBANK 2.1.1. Quá trình hình thành và phát triển của Sacombank Sacombank là một ngân hàng TMCP nằm trong hệ thống các ngân hàng thương mại Việt Nam, chịu sự kiểm tra và giám sát của Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín, tên giao dịch là Sacombank, được thành lập và hoạt động theo giấy phép số 0006/NH-CP ngày 05/12/1991 do Ngân hàng Nhà nước cấp trên cơ sở sát nhập 4 tổ chức tín dụng là : Ngân hàng phát triển kinh tế Gò Vấp, HTX Tín dụng Lữ Gia, Tân Bình và Thành Công, với nhiệm vụ chính là huy động vốn, cấp tín dụng và thực hiện các dịch vụ Ngân hàng. Được chính thức hoạt động từ ngày 21/12/1991, ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín là một trong những ngân hàng TMCP đầu tiên ở Việt Nam. Sau 16 năm hình thành và phát triển (1991 – 2008), đến nay Sacombank đã đạt được những thành tựu khả quan và nổi bật không phải bất cứ ngân hàng nào cũng có thể đạt được: mức vốn điều lệ tăng trên 2089 tỷ đồng, trở thành ngân hàng có vốn điều lệ lớn nhất Việt Nam hiện nay. Mạng lưới hoạt động của Sacombank có mặt từ Bắc tới Nam với 169 chi nhánh và phòng giao dịch với gần 4000 nhân viên trên toàn quốc. Hệ thống đại lý quốc tế rộng khắp với 8900 đại lý tại 222 ngân hàng của 88 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hiện nay Sacombank đã có tham gia góp vốn của 3 cổ đông nước ngoài. Công ty tài chính Quốc tế (IFC) trực thuộc ngân hàng thế giới (World Bank), Quỹ đầu tư Dragon Financial Holding (Anh quốc), ngân hàng ANZ. Ngoài 3 cổ đông nước ngoài nói trên và các cổ đông là các nhà kinh doanh trong nước, Sacombank là Ngân Hàng Thương Mại Cổ Phần có số lượng cổ đông đại chúng lớn nhất Việt Nam với hơn 9.000 cổ đông. Sacombank là một trong những ngân hàng rất thành công trong lĩnh vực tài trợ doanh nghiệp vừa và nhỏ, đồng thời luôn chú trọng tới dòng sản phẩm, dịch vụ phục vụ khách hàng là cá nhân. Sacombank luôn nỗ lực không ngừng để mang lại cho quý khách hàng các dịch vụ ngân hàng với chất lượng tốt nhất và phong cách phục vụ chuyên nghiệp nhất với mong muốn trở thành một trong những Ngân hàng Thương Mại Cổ Phần hàng đầu và là Ngân Hàng bán lẻ hiện đại đa năng nhất tại Việt Nam.Sacombank cam kết sẽ phục vụ khách hàng một cách tận tâm, tất cả vì khách hàng, các cổ đông và các đối tác của mình với uy tín và chất lượng cao. Bên cạnh việc việc phát triển mở rộng mạng lưới hoạt động Sacombank còn thành lập các công ty trực thuộc và tham gia góp vốn đầu tư vào nhiều công ty khác như: - Công ty Quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng Sacombank (Sacombank Assets Managemant Company- AMC) - Công ty Kiều hối Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín - Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín - Công ty chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Thương Tín - Công ty liên doanh quản lý Quỹ đầu tư chứng khoán Việt Nam (Vietfun Management). Mô hình quản lý theo khu vực Tổ kinh doanh tiền tệ Tổ kiểm tra, kiểm toán Tổ thẩm định Tổ công nghệ thông tin Tổ hành chính Phó Tổng giám đốc phụ trách khu vực Trợ lý PTGĐ 2.1.2. Sacombank chi nhánh Đống Đa Chi nhánh Đống Đa được thành lập từ tháng 7/2006 trên cơ sở kế thừa các hoạt động tín dụng của chi nhánh cấp II Đường Thành (trực thuộc chi nhánh Hà Nội). Chi nhánh Đống Đa là một chi nhánh cấp I trực thuộc Ngân hàng thương mại cổ phần Sài Gòn Thương Tín Sacombank Trụ sở chính của chi nhánh tại số 360 Tây Sơn – Đống Đa – Hà Nội, địa bàn hoạt động của chi nhánh chủ yếu tại các địa bàn: Đống Đa, Cầu Giấy, Từ Liêm và một phần địa phận Hà Tây (Hà Đông). Chi nhánh có 2 Phòng giao dịch trực thuộc là Phòng giao dịch số 3 nhận bàn giao lại từ Chi nhánh Hà Nội tại địa chỉ 65 Trần Đăng Ninh, Quận Cầu Giấy, Hà Nội và Phòng giao dịch Hà Tây tại địa chỉ 737 Quang Trung, Thị xã Hà Đông, Hà Tây Cơ cấu tổ chức Giám đốc Phó giám đốc Bộ phận Quỹ chính Bộ phận Kiểm soát tín dụng Bộ phận Quản lý nợ Bộ phận Dịch vụ và tiền gửi Bộ phận Thanh toán quốc tế Bộ phận tín dụng cá nhân Bộ phận Tín dụng doanh nghiệp Phòng Kế toán và quỹ Phòng Quản lý tín dụng Phòng Dịch vụ khách hàng Bộ phận Tổng hợp Phòng giao dịch Tổ hành chính quản trị 2.1.3 Các sản phẩm chủ yếu của Sacombank chi nhánh Đống Đa 2.1.3.1.Sản phẩm tiền gửi Sản phẩm tiền gửi của Sacombank bao gồm một số loại chính như sau: - Tiền gửi thanh toán - Tiết kiệm không kỳ hạn - Tiết kiệm định kỳ - Tiết kiệm tích luỹ - Tiết kiệm có kỳ hạn dự thưởng - Tiết kiệm vàng và VND đảm bảo theo giá trị vàng 2.1.3.2 Sản phẩm cho vay - Cho vay bất động sản - Cho vay sản xuất kinh doanh (khách hàng là cá nhân) - Cho vay sản xuất kinh doanh (khách hàng là doanh nghiệp) - Cho vay đi làm việc ở nước ngoài - Cho vay cán bộ công nhân viên - Cho vay cầm cố sổ tiết kiệm - Cho vay các hộ kinh doanh chợ - Cho vay du học - Cho vay nông thôn - Cho vay thấu chi tài khoản 2.1.3.3. Dịch vụ chuyển tiền - Chuyển tiền trong hệ thống - Chuyển tiền ngoài hệ thống - Chuyển tiền ngân hàng liên kết - Chuyển tiền bằng điện - Nhờ thu - Tín dụng chứng từ (L/C) 2.1.3.4. Các dịch vụ khác - Chuyển tiền kiều hối - Chi trả hộ lương cán bộ công nhân viên - Dịch vụ bao thanh toán quốc tế, bao thanh toán nội địa - Bảo lãnh (Bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh thực hiện hợp đồng, bảo lãnh thanh toán, bảo lãnh hoàn trả tiền hàng, bảo lãnh đảm bảo chất lượng sản phẩm theo hợp đồng...) - Dịch vụ cho thuê ngăn tủ sắt - Dịch vụ phone banking - Dịch vụ mua kỳ hạn cổ phiếu các công ty chưa niêm yết 2.2.Thực trang quản lí rủi ro tín dụng tại chi nhánh SACOMBANK ĐỐNG ĐA 2.2.1Quy trình tín dụng tại chi nhánh Sacombank Đống Đa + Tiếp thị khách hàng Khác với các Ngân hàng thương mại quốc doanh, Sacombank là một ngân hàng thương mại cổ phần ngoài quốc doanh kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, đối tác của Ngân hàng chủ yếu là do tiếp thị mà có được. Vì vậy, công tác tiếp thị được coi là mở đầu không thể thiếu trong một quy trình tác nghiệp của mỗi cán bộ tín dụng ngân hàng, qua công tác tiếp thị cán bộ tín dụng đã phần nào hiểu được lĩnh vực, ngành hàng kinh doanh và tìm hiểu được nhu cầu của doanh nghiệp, từ đó có hướng tài trợ, hợp tác với doanh nghiệp. + Hướng dẫn khách hàng hoàn thiện bộ hồ sơ vay vốn Sau khi tiếp thị và tìm được những khách hàng tiềm năng, cán bộ tín dụng sẽ hướng dẫn khách hàng cách để hoàn thiện một bộ hồ sơ đầy đủ theo yêu cầu của ngân hàng. Một bộ hồ sơ đầy đủ sẽ gồm 4 phần: * Hồ sơ pháp lý * Hồ sơ tài chính * Hồ sơ vay vốn * Hồ sơ bảo đảm tiền vay + Thẩm định các điều kiện tín dụng Để thẩm định một khoản vay, ta phải tiến hành các bước sau: a, Thẩm định năng lực pháp lý của khách hàng * Với khách hàng là doanh nghiệp - Kiểm tra tính hợp pháp, hợp lệ của: Quyết định thành lập, đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp nhà nước. Giấy phép đầu tư đối với doanh nghiệp hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài. Đăng ký kinh doanh đối với doanh nghiệp hoạt động theo luật doanh nghiệp. - Quyền hạn, trách nhiệm của các bên trong hợp đồng liên doanh đối với Công ty liên doanh - Các quy định về quyền hạn, trách nhiệm trong điều lệ doanh nghiệp - Tính pháp lý của các quyết định bổ nhiệm Giám đốc(TGĐ), kế toán trưởng - Người đại diện pháp nhân của doanh nghiệp là ai (chủ tịch HĐQT hay Giám đốc) * Đối với khách hàng là tư nhân, - Đủ 18 tuổi trở lên - Có đầy đủ năng lực dân sự theo quy định của Bộ luật dân sự - Có xác nhận về nhân thân thông qua các giấy tờ như: Hộ khẩu thường trú, chứng minh thư nhân dân, xác nhận của cơ quan đơn vị chính quyền địa phương. b, Thẩm định năng lực sản xuất kinh doanh của khách hàng * Ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh - Kiểm tra sự phù hợp về ngành nghề ghi trong đăng ký kinh doanh với ngành nghề kinh doanh hiện tại của khách hàng có phù hợp với dự án, phương án dự kiến đầu tư không - Ngành nghề kinh doanh có được phép hoạt động không, xu hướng phát triển của ngành * Mô hình tổ chức, bố trí lao động Chúng ta cần tìm hiểu về quy mô hoạt động, cơ cấu tổ chức bộ máy hoạt động sản xuất kinh doanh, số lượng lao động trực tiếp, gián tiếp và trình độ tương ứng của họ, bên cạnh đó mức lương cũng phản ánh phần nào tình hình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. * Quản trị, điều hành của ban lãnh đạo Một doanh nghiệp cũng được đánh giá qua ban lãnh đạo của chính doanh nghiệp đó: họ là ai, trình độ chuyên môn của họ như thế nào, kinh nghiệm và năng lực điều hành của họ và quan trọng là khả năng nắm bắt thị trường của các cấp lãnh đạo này. * Tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng Để nắm bắt được tình hình sản xuất kinh doanh của một khách hàng chúng ta cần biết về thương hiệu sản phẩm của doanh nghiệp, mạng lưới phân phối, lợi thế của doanh nghiệp, khả năng cạnh tranh, chiến lược kinh doanh và các mối quan hệ của doanh nghiệp có liên quan đến việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp đó. * Đánh giá các rủi ro có thể xảy ra đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng (Rủi ro về chính sách, chế độ của Nhà nước, rủi ro thị trường...) * Quan hệ của khách hàng đối với các tổ chức tín dụng (quan hệ với tổ chức tín dụng nào chưa, dư nợ bao nhiêu, đã có nợ quá hạn chưa, tình hình tăng trưởng dư nợ trong thời gian gần đây). c, Thẩm định tình hình tài chính của khách hàng. * Phân tích tình hình hoạt động kinh doanh. - Doanh thu từ hoạt động kinh doanh chính (phản ánh sản lượng, tình hình sản xuất và tình hình bán hàng...). - Lợi nhuận (của các loại sản phẩm và của các đơn vị thành viên). - Phân tích nguyên liệu đầu vào, giá vốn, chi phí quản lý và chi phí bán hàng, biến động tổng chi phí cũng như các yếu tố chi phí ảnh hưởng tới giá thành của sản phẩm. - Phân tích các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động, khả năng sinh lời, sự tăng trưởng doanh thu. - Đánh giá nguyên nhân của việc tăng trưởng doanh thu, chi phí và lợi nhuận. - Dự đoán xu hướng tăng giảm doanh thu, chi phí và lợi nhuận trong tương lai. * Phân tích tình hình tài chính - Phân tích cơ cấu nguồn vốn kinh doanh, vốn lưu động thường xuyên và sử dụng vốn, khả năng thanh toán, vòng quay của vốn. - Tình trạng các khoản phải thu, mức độ phân tán rủi ro của các khoản phải thu, tỷ trọng hàng bán chịu trong doanh thu, tính luân chuyển, số ngày phải thu. - Tình trạng hàng tồn kho, hàng tồn kho ứ đọng kém chất lượng, lượng hàng tồn kho so với doanh số xuất bán bình quân tháng, vòng quay hàng tồn kho, số ngày tồn kho. - Tình trạng các khoản phải trả cao hay thấp, áp lực thanh toán phải trả, tỷ trọng hàng mua chịu chiếm bao nhiêu % trong tổng lượng hàng nhập, số ngày phải trả bình quân? - Tình hình vay nợ tại các tổ chức tín dụng, tình trạng các khoản nợ? - Chúng ta đánh giá tình hình tài chính thông qua các nhóm chỉ số: Nhóm chỉ tiêu phản ánh khả năng thanh toán Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả hoạt động Nhóm chỉ tiêu phản ánh hiệu quả sinh lời Nhóm chỉ tiêu phản ánh cơ cấu vốn Nhóm chỉ tiêu phản ánh sự tăng trưởng của doanh nghiệp * Phân tích lưu chuyển tiền tệ - Đây là công cụ quan trọng trong hành trang của CBTD, nó không bị ảnh hưởng bởi các nguyên tắc kế toán. Ngân hàng trước hết quan tâm đến năng lực của khách hàng làm ra tiền bởi khoản vay chỉ có thể trả bằng tiền chứ không phải bằng doanh thu hay lợi nhuận. - Hai phương pháp tính lưu chuyển tiền tệ là phương pháp trực tiếp và gián tiếp. Nhân viên tín dụng cần phải nắm rõ phương pháp gián tiếp bởi nó được thiết lập từ báo cáo kết quả kinh doanh và bảng cân đối kế toán. d, Xác định số vốn khách hàng cần vay và phương thức cho vay ( cho vay món hay cho vay hạn mức...), thời hạn cho vay, hình thức thanh toán gốc và lãi... + Xét duyệt cho vay, ký hợp đồng tín dụng CBTD sau khi nghiên cứu, thẩm định các điều kiện vay vốn, lập tờ trình cho vay kèm hồ sơ vay vốn trình lãnh đạo phòng Dịch vụ khách hàng, phòng quản lý tín dụng. Trên cơ sở tờ trình của CBTD kèm hồ sơ vay vốn Lãnh đạo phòng DVKH, phòng QLTD kiểm tra tính hợp pháp của các giấy tờ sau đó sẽ trình lên Lãnh đạo lần lượt theo các cấp tuỳ thuộc vào quy mô vốn vay. CBTD căn cứ vào nội dung phê duyệt của lãnh đạo để tiến hành hoàn chỉnh các bước tiếp theo. Trước hết CBTD thông báo chấp thuận cho vay của Ngân hàng cho khách hàng bằng văn bản, sau đó sẽ tiến hành các thủ tục ký kết hợp đồng tín dụng, ký kết tại công chứng và đăng ký giao dịch đảm bảo tài sản cầm cố, thế chấp tại Ngân hàng. + Giải ngân, theo dõi, giám sát việc sử dụng vốn Sau khi hoàn tất các thủ tục ký kết tại công chứng, đăng ký giao dịch đảm bảo CBTD sẽ tiến hành các thủ tục giải ngân cho khách hàng theo hoá đơn, hợp đồng mà trong tờ trình giải ngân đã nêu. Chú ý, trước khi làm thủ tục giải ngân, CBTD phải hướng dẫn khách hàng nộp các khoản phí đã nêu trong hợp đồng tín dụng, sau đó chuyển toàn bộ hồ sơ cho phòng QLTD tiến hành giải ngân cho khách hàng nếu mọi thủ tục đã được CBTD hoàn thiện. Sau khi giải ngân, CBTD phải thường xuyên quản lý, theo dõi khoản vay: Kiểm tra mục đích sử dụng vốn, tình hình trả gốc, trả lãi, tình trạng của tài sản đảm bảo cũng như tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Những nội dung nói trên được phản ánh qua biên bản kiểm tra tình hình sử dụng vốn của khách hàng được CBTD lập nên hàng tháng. Trong trường hợp có phát sinh trong quá trình thu nợ, CBTD phải báo cáo kịp thời lên Ban lãnh đạo để tìm hướng giải quyết, hạn chế tối đa tình trạng nợ quá hạn hay sử dụng vốn sai mục đích. + Thanh lý hợp đồng tín dụng * Tất toán tài khoản vay: khi khách hàng trả hết nợ cả gốc và lãi, CBTD tiến hành phối hợp với bộ phận kế toán đối chiếu, kiểm tra về số tiền trả gốc, lãi và phí để tất toán hợp đồng. * Giải chấp tài sản đảm bảo: CBTD kiểm tra tình trạng giấy tờ, tài sản thế chấp, cầm cố rồi làm thủ tục xuất kho giấy tờ, tài sản cho khách hàng.Cùng với đó, CBTD phải soạn thảo biên bản thanh lý hợp đồng trình Ban lãnh đạo kiểm soát và ký duyệt. Cuối cùng, CBTD cùng bộ phận QLTD và kho quỹ tiến hành giải toả việc cầm cố, thế chấp, xuất kho theo quy định 2.2.2.Hoạt động tín dụng và quản lí rủi ro tín dụng tại chi nhánh Sacombank Đống Đa 2.2.2.1. Tình hình huy động vốn: Ngân hàng là tổ chức kinh doanh tiền tệ dưới hình thức huy động, cho vay, đầu tư và cung cấp các dịch vụ khác. Huy động vốn- hoạt động tạo nguồn vốn cho NHTM-đóng vai trò quan trọng, ảnh hưởng tới chất lượng hoạt động của ngân hàng. Với sự xuất hiện của nhiều ngân hàng đang hoạt động trên thị trường tài chính tiền tệ thì việc đưa ra những chính sách mang tính cạnh tranh lành mạnh và thu hút khách hàng gửi tiền là công việc rất quan trọng của mỗi ngân hàng. Trong những năm qua với sự nỗ lực và quyết tâm của toàn thể cán bộ công nhân viên của Sacombank Đống Đa. Với những chiến lược khách hàng, đưa ra những mức lãi suất hợp lý có tính cạnh tranh đã mang lại những kết quả cao về việc huy động vốn của Chi nhánh như: Sacombank Đống Đa đã thu hút nguồn tiền gửi của nhiều tổ chức kinh tế, cá nhân mở tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm, phát hành các công cụ nợ, thể hiện mức tăng trưởng nguồn vốn khá cao và ổn định, tạo điều kiện thuận lợi cho việc cho vay Cụ thể tình hình huy động vốn của Sacombank Đống Đa được thể hiện như sau: Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn của Sacombank Đống Đa Đơn vị: Triệu đồng Nguồn vốn 31/12/06 31/12/07 TIỀN GỬI TCKT VÀ CÁ NHÂN 119396,05 519936,95 1. Tiền gửi lãi suất thấp 18285,18 55685,1 Tỷ trọng lãi suất thấp 15(%) 10,94(%) 2. Tiền gửi lãi suất cao 101110,87 453451,85 - Dân cư 99110,87 260343,85 - Tổ chức kinh tế 2000 193108 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Sacombank Đống Đa) Dựa vào báo cáo huy động vốn trên ta thấy năm 2007 chi nhánh đã đạt được tốc độ huy động vốn rất tốt.Chỉ trong vòng 1 năm mà nguồn vốn huy động được năm 2007 so với năm 2006 đã tăng tới 435,47 %. Trong năm 2006,nguồn vốn huy động được của chi nhánh là 119396,05 ( triệu đồng ) đạt 80,3 % kế hoạch 2006, nhưng đến năm 2007, nguồn vốn huy động đã đạt tới 519936,95 ( triệu đông ) đạt 123,67 % kế hoạch 2007. Tỉ trọng tiền gửi lãi suất thấp năm 2007 là 10,94% giảm về qui mô lẫn số lượng so với tỉ trọng 15 % của năm 2006. Điều này tạo cho ngân hàng có được một nguồn vốn ổn định để thực hiện đầu tư thu lợi nhuận.Trong cơ cấu nguồn vốn của chi nhánh trong 2 năm liên tiếp,tiền gửi của dân cư lãi suất cao vẫn chiếm tỉ trọng lớn nhất, điều này là dễ hiểu vì Sacombank là 1 ngân hàng bán lẻ,chuyên tập trung vào thị trường khách hàng vừa và nhỏ.Việc tỉ trọng tiền gửi cá nhân lớn chứng tỏ rằng ngân hàng đã có những bước đi đúng hướng đem lại hiệu quả cho hoạt động kinh doanh của mình thu hút khách hàng gửi tiết kiệm.Để đạt được những thành tích nổi bật trên trong môi trường cạnh tranh gay gắt với các tổ chức tín dụng trên địa bàn thể hiện sự cố gắng rất lớn của ban lánh đạo và đội ngũ cán bộ của chi nhánh trong công tác huy động vốn.Chi nhánh đã thực hiện linh hoạt một số chính sách nhằm thu hút một cách tối đa lượng vốn huy động như: chính sách chăm sóc khách hàng, chính sách lãi suất linh hoạt đối với từng đối tượng khách hàng, chính sách tiếp thị khuyến mãi, sản phẩm mới lãi suất bậc thang... Công tác tiếp thị tiếp tục được tăng cường dưới nhiều hình thức khác nhau như phát tờ rơi, thông tin phát thanh tuyên truyền qua phường; thực hiện văn minh trong giao tiếp, nâng cao chất lượng phục vụ tại các điểm huy động vốn; đặc biệt trong năm qua bộ phận thực hiện công tác huy động vốn tại chi nhánh đã rất quan tâm chú trọng đến việc tìm kiếm các nguồn tiền gửi có lãi suất đầu vào và đầu ra, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của chi nhánh. 2.2.2.2. Tình hình sử dụng vốn và quản lí rủi ro tín dụng Ngân hàng huy động nguồn vốn từ các tổ chức trong nền kinh tế để phục vụ cho mục tiêu cuối cùng của mình là đầu tư và cho vay để thu lợi nhuận. Cùng với việc huy động vốn tăng thì kết quả sử dụng vốn của chi nhánh trong thời gian qua cũng tăng lên. Việc sử dụng vốn để đầu tư cho vay phải đảm bảo được mức độ an toàn và sinh lời. Trong những năm qua Sacombank Đống Đa đã thận trọng trong việc phân tích, đánh giá và lựa chọn khách hàng để cho vay và đầu tư, tuân thủ đúng các bước của quy trình cho vay. Bên cạnh việc đáp ứng kịp thời nhu cầu tín dụng của những khách hàng truyền thống, Chi nhánh đã tăng cường cải tiến chất lượng phục vụ, tăng cường ứng dụng các sản phẩm công nghệ mới vào phục vụ khách hàng. Chủ động cùng với khách hàng tháo gỡ những khó khăn để kịp thời giải ngân những dự án đã hội đủ điều kiện vay vốn. Cụ thể tình hình sử dụng vốn của Chi nhánh được thể hiện như sau: Bảng 2.2: Tình hình sử dụng vốn của Sacombank Đống Đa. Đơn vị: Triệu đồng Sử dụng vốn 31/12/06 31/12/07 1. HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG 57431,13 319403,24 Dư nợ cho vay TCKT và cá nhân 57176,63 319403,24 + Cho vay trong hạn 56791,73 318595,35 - Dư nợ ngắn hạn 27471,7 119663,95 Tỷ trọng trên tổng dư nợ 48 % 37,46 % - Dư nợ cho vay trung - dài hạn 29320,03 198931,4 Tỷ trọng trên tổng dư nợ 51 % 62,28 % + Cho vay quá hạn 384,9 807,89 Tỷ trọng NQH 1 % 0,25 % - Dư nợ ngắn hạn 0,00 598,49 - Dư nợ trung - dài hạn 384,9 209,4 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Sacombank Đống Đa) Hầu hết các NHTMCP trên địa bàn Hà Nội đều có đặc điểm chung là phần vốn cho vay nhỏ hơn phần vốn huy động được, do tính hấp thụ vốn của thị trường Hà Nội chưa cao.Qua bảng số liệu trên ta thấy: Tính đến 31/12/2007, tổng dư nợ đầu tư và cho vay của chi nhánh đạt 319,403 tỷ đồng, trong đó 100 % dư nợ cho vay tập trung vào cá nhân và các tổ chức kinh tế, đạt 126.26% kế hoạch năm 2007. So với tổng dư nợ đầu tư và cho vay của năm 2006 là 57,431 tỷ ( đạt 87,39% kế hoach 2006 ) thì năm 2007, tổng dư nợ đã tăng 556,15%. Trong tình hình sử dụng nguồn vốn của chi nhánh trong 2 năm liên tiếp, ta có thể thấy tỷ trọng dư nợ ngắn hạn trên tổng dư nợ của ngân hàng giảm, 48% năm 2006 so với 37,46 % năm 2007,và tỷ trọng dư nợ trung – dài hạn trên tổng dư nợ tăng, 51% năm 2006 so với 62,28 % năm 2007. để đạt được lợi nhuận cao, ngân hàng đã chấp nhận tăng mưc độ rủi ro của loại hình cho vay. Tuy vây, trong năm 2007, mặc dù các khoản vay có tính chất rủi ro tăng và tổng dư nợ tăng, nhưng ngân hành đã thực hiên khá tốt việc quản lí nợ quá hạn, tỷ trọng nợ quá hạn năm 2006 chiếm 1 % thì đến năm 2007 đã giảm xuống còn 0.25 % . Bên cạnh đó, trong năm 2007, dự trữ bắt buộc của ngân hàng đã tăng gấp đôi từ 5 % năm 2006 lên 10% năm 2007, chứng tỏ ngân hàng đã chuẩn bị rất tốt cho việc quản lí rủi ro khi chấp nhận tăng rủi ro ở các khoản vay nhằm tăng lợi nhuận. Tuy vậy, tính thanh khoản của ngân hàng trong năm 2007 lại giảm mạnh so với năm 2006. Mặc dù tiền gửi huy động của năm 2007 tăng cao so với 2006, nhưng lượng vốn dùng cho thanh khoản của năm 2007 lại chỉ chiếm có 3 % tổng vốn huy động tiền gửi, so với năm 2006 là 8 %. Điều này đặt ra cho ngân hàng một vấn đề liệu khi rủi ro xảy ra, mặc dù dự trữ bắt buộc tăng, nhưng với tính thanh khoản giảm như vậy, liệu ngân hàng có đảm bảo được trả nợ cho khách hàng và hạn chế tối đa thiệt hại hay ko? Vì vậy, ban lãnh dạo ngân hàng cần tính toán kĩ lưỡng, cân nhắc sao cho phù hợp, thực hiện tốt công tác quản lí rủi ro, nhất là năm 2008 sẽ là 1 năm đầy biến động của nền kinh tế Viêt Nam. 2.2.2.3. Kết quả hoạt động kinh doanh. Bảng 2.3: Kết quả hoạt động kinh doanh của Chi nhánh Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2006 Năm 2007 Số tiền Mức tăng(%) Số tiền Mức tăng(%) Thu nhập 6676,23 _ 32753,8 490,6 Chi phí 2892,70 _ 26194 905,73 Lợi nhuận 3783,53 _ 6559,8 173,37 (Nguồn: Báo cáo tổng kết hàng năm của Chi nhánh SACOMBANK ) Nhìn vào bảng ta thấy năm 2007 chi nhánh đã đạt được thu nhập vượt trội so với năm 2006 ,với mức tăng gần 5 lần. Tuy vậy, chi phí hoạt động của chi nhánh năm 2007 lại tăng gấp hơn 9 lần so với 2006 do vậy mặc dù thu nhập tăng cao nhưng lợi nhuận lại chỉ tăng 1,7 lần đạt mức 6.559,8 triệu đồng. Chi phí hoạt động củachi nhánh cao là do chi nhánh mới được đưa vào hoạt động,toàn bộ các chi phí mua sắm công cụ lao động, các chi phí khác đều dồn vào những năm đầu mà các nguồn thu từ tăng trưởng tín dụng và dịch vụ chưa thể bù đắp được. 2.3. Đánh giá hiệu quả quản lí rủi ro tín dụng của Sacombank chi nhánh Đống Đa 2.3.1. Những kết quả đã đạt được Tuy là một ngân hàng mới thành lập ( nâng lên chi nhánh cấp 1 và đi vào hoạt động giữa năm 2006 ) nhưng trong quá trình 2 năm hoạt động của mình, chi nhánh đã đạt được nhiều thành tích đáng trân trọng về nhiều mặt.Do đặc thù là 1 ngân hàng bán lẻ hiện đại nên Sacombank chủ yếu tập trung vào bộ phận khách hàng cá nhân và doanh nghiệp vừa và nhỏ, cơ cấu sử dụng vốn của ngân hàng thể hiện khá rõ điều này, tỉ trọng cho vay của bộ phận khách hàng cá nhân và các tổ chức kinh tế rất cao.Giai đoạn đi vào hoạt động của chi nhánh là giai đoạn Việt Nam vừa mới gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO nên nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành ngân hàng nói riêng đã có cơ hội phát triển rất mạnh mẽ,v._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33178.doc
Tài liệu liên quan