Quản lý Rủi ro tín dụng tại Sở Giao dịch 1 Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU Cùng với công cuộc cải cách, đổi mới và mở cửa nền kinh tế, là việc Việt Nam ra nhập WTO đã trở thành cơ hội giúp cho các ngân hàng có những bước phát triển vượt bậc như việc mở rộng quy mô hoạt động, nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ, tăng cường mạng lưới dịch vụ, tăng cường mạng lưới chi nhánh và hiện đại hóa công nghệ. Cả nước hiện có: 5 ngân hàng thương mại nhà nước, 48 ngân hàng thương mại cổ phần, 30 ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài, 1 ngân hàng chính s

doc68 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1322 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quản lý Rủi ro tín dụng tại Sở Giao dịch 1 Ngân hàng thương mại cổ phần Công Thương (VietinBank) Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ách, 1 ngân hàng phát triển, 22 công ty tài chính và công ty cho thuê tài chính, hệ thống quỹ tín dụng nhân dân với gần 1000 đơn vị. Một điều kiện khác cũng đã tác động một phần không nhỏ đến sự phát triển của hệ thống ngân hàng Việt Nam đó là sự đầu tư tài trợ nước ngoài. Có thể nói Việt Nam hiện nay đang là điểm nóng thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước. Hiện nay với xu thế toàn cầu hóa, vấn đề hội nhập quốc tế là tất yếu khách quan đối với các quốc gia trên thế giới. Hội nhập quốc tế bên cạnh những thách thức to lớn lại tạo ra những cơ hội phát triển và áp dụng những tiến bộ của nhân loại trên toàn thế giới. Trong xu thế ấy, hệ thống tài chính nói chung và hệ thống ngân hàng thương mại Việt Nam nói riêng không chỉ là huyết mạch của nền kinh tế quốc dân mà còn mang trong mình cơ hội vươn ra khu vực và thế giới. Đó cũng chính là yêu cầu đòi hỏi mỗi ngân hàng phải nâng cao năng lực tài chính, nâng cao sức cạnh tranh, nâng cao chuẩn hóa bằng các chuẩn mực quốc tế, chuẩn hóa các quy trình nghiệp vụ. Tận dụng triệt để các cơ hội, ngân hàng Công thương Việt Nam đã và đang ra sức phát triển các sản phẩm dịch vụ và ngày càng hoàn thiện mình để thu hút sự đầu tư trong nước cũng như đầu tư nước ngoài và có thể trụ vững trong những cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt giữa hệ thống ngân hàng thương mại trong nước, và sự xuất hiện ngày càng nhiều văn phòng đại diện cũng như chi nhánh của các ngân hàng nước ngoài. Hoạt động cơ bản của các ngân hàng thương mại nói chung và của ngân hàng Công thương Việt Nam nói riêng là huy động vốn và cho vay. Xã hội nước ta ngày càng phát triển, cuộc sống của nhân dân cải thiện rõ rệt, họ đã có của ăn của để cho nên việc họ có nhiều tài sản đặc biệt là tiền mặt và vàng là tất yếu. Nhưng không phải lúc nào họ cũng cần một lượng tài sản lớn để sử dụng, nên sẽ có một lượng tiền mặt nhàn rỗi. Tuy nhiên có những người có lượng tiền không sử dụng đến thì cũng có những người rất cần tiền để sử dụng, họ khan hiếm tiền mặt. Vì vậy cả hai loại người này sẽ cùng tìm đến chung gian tài chính là ngân hàng để thỏa mãn những nhu cầu của mình. Với vai trò là doanh nghiệp nhà nước trên địa bàn, chịu sự quản lý trực tiếp của ngân hàng Công thương và ngân hàng Nhà nước, do vậy Sở giao dịch I có trách nhiệm thực hiện chính sách phát triển kinh tế thông qua cấp tín dụng cho doanh nghiệp, dự án, hộ gia đình, tuy nhiên việc thực hiện như thế nào, cho ai vay, vay bao nhiêu… cần đảm bảo nguyên tắc tín dụng của ngân hàng Công thương. Tuy nhiên, khi hoạt động cho vay của Sở giao dịch I ngày càng tăng thì đồng nghĩa với việc đối mặt với những rủi ro ngày càng cao. Qua đó chúng ta có thể thấy tầm quan trọng của việc quản lý những rủi ro có thể xảy ra, và hạn chế chúng như thế nào để mang lại hiệu quả cho vay cao nhất. Vì những lí do đó cho nên em đã chọn đề tài: “Quản lý Rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I Ngân hàng công thương Việt NamGD I Ngân hàng Công Thương”. Kết cấu của chuyên đề thực tập bao gồm: Chương I: Những vấn đề về rủi ro tín dụng tại ngân hàng thương mại Chương II: Thực trạng quản lý rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam. Chương III: Giải pháp tăng cường quản lý rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam. Em xin chân thành cảm ơn thầy giáo PGS.TS Đàm Văn Huệ đã tận tình hướng dẫn em hoàn thành Báo cáo tổng hợp thực tập này. Đồng thời em xin gửi lời cảm ơn tới quý ngân hàng và các anh chị nhân viên của Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam đặc biệt là các cán bộ nhân viên ở phòng quản lý rủi ro đã tận tình chỉ bảo và tạo điều kiện tốt nhất trong suốt quá trình thực tập để em có thể hoàn thành bản chuyên đề tốt nghiệpbản báo cáo tổng hợp này. Em xin chân thành cảm ơn! CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ VỀ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNGNGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.1. NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI VÀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠIRRTD ngân hàng 1.1.1 Khái niệm Ngân hàng thương mạiHoạt động của NHTM NH là một trong các tổ chức tài chính quan trọng nhất của nền kinh tế, là người cho vay chủ yếu đối với hàng triệu hộ tiêu dùng (cá nhân và hộ gia đình) và với hầu hết cơ quan Chính quyền địa phương, và là tổ chức thu hút tiết kiệm lớn nhất trong hầu hết mọi nền kinh tế. Hàng triệu cá nhân, hộ gia đình và các doanh nghiệp, các tổ chức kinh tế - xã hội đều gửi tiền tại các NH. NH đóng vai trò người thủ quỹ cho toàn xã hội. Và có thể nói rằng trên toàn thế giới đây là loại hình tổ chức trung gian tài chính cung cấp các khoản tín dụng trả góp cho người tiêu dùng với quy mô lớn nhất. NH bao gồm nhiều loại tùy thuộc vào sự phát triển của nền kinh tế nói chung và hệ thống tài chính nói riêng, trong đó NHTM thường chiếm tỷ trọng lớn nhất về qui mô tài sản, thị phần và số lượng các NH. Tóm lại, NH là các tổ chức tài chính cung cấp một danh mục các dịch vụ tài chính đa dạng nhất – đặc biệt là tín dụng, tiết kiệm, dịch vụ thanh toán và thực hiện nhiều chức năng tài chính nhất so với bất kỳ một tổ chức kinh doanh nào trong nền kinh tế. Tùy theo yêu cầu của người quản lí có thể phân chia các NH theo nhiều hình thức khác nhau như phân chia theo hình thức sở hữu, hoặc theo tính chất hoạt động hoặc theo cơ cấu tổ chức. Tuy nhiên phổ biến nhất hiện nay là phân loại các NHTM theo hình thức sở hữu bao gồm có các loại như: NH sở hữu tư nhân, NH sở hữu của các cổ đông (NH cổ phần), NH sở hữu Nhà nước, NH liên doanh. 1.1.2 Hoạt động tín dụng NHngân hàng 1.1.2.1 Khái niệm, đặc điểm và phân loại tín dụng ngân hàng Khái niệm Có thể định nghĩa tín dụng NH theo nhiều cách như: Tín dụng là quan hệ vay mượn, gồm cả cho vay và đi vay. Tuy nhiên khi gắn tín dụng với chủ thể nhất định như NH hoặc các trung gian tài chính khác thì chỉ bao hàm nghĩa NH cho vay. Hoặc theo Luật các tổ chức tín dụng của nước Cộng hòa Xã hội chủ nghĩa Việt Nam, điều 49 có ghi: “Tổ chức tín dụng được cấp tín dụng cho tổ chức, cá nhân dưới các hình thức cho vay, chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác, bảo lãnh, cho thuê tài chính và các hình thức khác theo qui định của NHNN”. Như vậy, tín dụng là hoạt động sinh lời nhất song rủi ro cao nhất cho NHTM. Rủi ro này, có rất nhiều nguyên nhân, đều có thể gây ra tổn thất có thể chiếm phần lớn vốn của chủ, đẩy NH đến phá sản. Do vậy, NH phải cân nhắc kỹ lưỡng, ước lượng khả năng rủi ro và sinh lời khi quyết định tài trợ. Đặc điểm tín dụng NH Hoạt động tín dụng NH dựa trên sự lựa chọn đối nghịch giữa người đi vay và người cho vay _ NH. Một bên là người đi vay chấp nhận mọi mạo hiểm để sử dụng vốn và bên còn lại thì mong muốn sự an toàn cao nhất cho phần vốn mà mình đã cho khách hàng vay. Thông tin không cân xứng giữa hai chủ thể này đã hàm chứa rủi ro rất cao cho NH vì thể có thể nói đặc điểm nổi bật nhất của tín dụng NH đó là luôn hàm chứa rủi ro. Phân loại tín dụng NH Có nhiều tiêu thức để phân loại tín dụng NH do đó có nhiều cách phân loại khác nhau như: Bảng 1: Hình thức phân loại tín dụng ngân hàngNH. Chỉ tiêu phân loại theo Hình thức tín dụng Thời gian Tín dụng ngắn hạn Tín dụng trung hạn Tín dụng dài hạn Hình thức tài trợ Cho vay Chiết khấu thương phiếu Bảo lãnh Cho thuê tài chính Tài sản đảm bảo Tín dụng có tài sản đảm bảo Tín dụng không có tài sản đảm bảo Ngành kinh tế Tín dụng công nghiệp Tín dụng thương mại dịch vụ Tín dụng nông, lâm nghiệp 1.1.2.2 Hoạt động tín dụng của ngâ hàng a NH thương mại ● Cho vay Cho vay trực tiếp từng lần Là hình thức cho vay tương đối phổ biến của NH đối với các khách hàng không có nhu cầu vay thường xuyên, không có điều kiện vay để được cấp hạn mức thấu chi. Một số khách hàng sử dụng vốn chủ sở hữu là chủ yếu, chỉ khi có nhu cầu thời vụ, hay mở rộng sản xuất đặc biệt mới vay NH, tức là vốn từ NH chỉ tham gia vào một số giai đoạn nhất định của chu kì sản xuất kinh doanh. Cho vay theo hạn mức Đây là nghiệp vụ tín dụng theo đó NH thỏa thuận cấp cho khách hàng hạn mức tín dụng. Hạn mức tín dụng có thể tính cho cả kì hoặc cuối kì. Đó là số dư tối đa tại thời điểm tính. Hạn mức tín dụng được cấp trên cơ sở kế hoạch sản xuất kinh doanh, nhu cầu vốn và vay vốn của khách hàng. Cho vay thấu chi Thấu chi là nghiệp vụ cho vay qua đó NH cho phép người vay chi trội trên số dư thanh toán của mình đến một giới hạn và trong khoảng thời gian nhất định. Giới hạn này được gọi là hạn mức thấu chi. Sơ đồ 1 : Cho vay thấu chi y x Trục y: số dư tiền gửi thanh toán (đồng) Trục x: thời gian : Hạn mức thấu chi : Vay NH (thực hiện thấu chi) : Số dư tiền thanh toán Để được thấu chi khách hàng phải làm đơn xin NH hạn mức thấu chi và thời gian thấu chi (có thể phải trả phí cam kết cho NH). Trong quá trình hoạt động, khách hàng có thể kí séc, lập ủy nhiệm chi, mua thẻ séc…vượt quá số dư tiền gửi để chi trả. Khi khách hàng có tiền nhập về tài khoản tiền gửi NH sẽ thu nợ gốc và lãi. Số lãi mà NH phải trả: Lãi suất thấu chi × Thời gian thấu chi × Số tiền thấu chi Các khoản chi quá hạn mức thấu chi sẽ chịu lãi suất phạt và bị đình chỉ sử dụng hình thức này. Thấu chi là hình thức tín dụng ngắn hạn, linh hoạt, thủ tục đơn giản, phần lớn là không có đảm bảo, có thể cấp cho cả doanh nghiệp lẫn cá nhân vài ngày trong tháng, vài tháng trong năm dùng để trả lương, chi các khoản phải nộp, mua hàng,… Hình thức này nhìn chung chỉ sử dụng đối các khách hàng có độ tin cậy cao, thu nhập đều đặn và kì thu nhập ngắn. Cho vay trả góp Cho vay trả góp là hình thức tín dụng, theo đó NH cho phép khách hàng trả gốc làm nhiều lần trong thời hạn tín dụng đã thỏa thuận. Cho vay trả góp thường được áp dụng đối với các khoản vay trung và dài hạn, tài trợ cho tài sản cố định hoặc hàng lâu bền. Số tiền trả mỗi lần được tính toán sao cho phù hợp với khả năng trả nợ (thường là từ khấu hao và thu nhập sau thuế của dự án, hoặc từ thu nhập hàng kỳ của người tiêu dùng). NH thường cho vay trả góp đối với người tiêu dùng thông qua hạn mức nhất định. NH sẽ thanh toán cho người bán lẻ về số hàng hóa mà khách hàng đã mua trả góp. Các cửa hàng bán lẻ nhận ngay tiền sau khi bán hàng từ phía NH và làm đại lí thu tiền cho NH, hoặc khách hàng trực tiếp cho NH. Đây là hình thức tín dụng tài trợ cho người mua nhằm khuyến khích tiêu thụ hàng hóa. Cho vay gián tiếp Phần lớn cho vay của NH là cho vay trực tiếp. Bên cạnh đó NH cũng phát triển các hình thức cho vay gián tiếp. Đây là hình thức cho vay thông qua các tổ chức trung gian. Phân tích tín dụng trước khi cho vay NH phát tiền vay trực tiếp cho khách hàng Các tổ chức trung gian thu nợ hộ NH Sơ đồ 2: Cho vay gián tiếp NH Khách hàng Trung gian (1) (2) (3) (3) NH có thể chuyển một vài khâu của hoạt động cho vay sang các tổ chức tín dụng trung gian như thu nợ, phát tiền vay… Tổ chức trung gian cũng có thể đứng ra tín chấp cho các thành viên vay, hoặc các thành viên trong nhóm bảo lãnh cho một thành viên vay. Điều này rất thuận tiện khi người vay không có hoặc không đủ tài sản thế chấp. Để bù đắp một phần chi phí trung gian, NH trích một phần thu nhập lại cho trung gian. NH cũng có thể cho vay thông qua người bán lẻ các sản phẩm đầu vào của quá trình sản xuất. Việc cho vay theo cách này sẽ hạn chế người vay sử dụng tiền sai mục đích. Cho vay luân chuyển Là nghiệp vụ cho vay dựa trên luân chuyển của hàng hóa. Doanh nghiệp khi mua hàng có thể thiếu vốn. NH có thể cho vay để mua hàng và sẽ thu nợ khi doanh nghiệp bán hàng. Đầu năm hoặc quí, người vay phải làm đơn xin vay luân chuyển. NH và khách hàng thỏa thuận với nhau về phương thức vay, hạn mức tín dụng, các nguồn cung cấp hàng hóa và khả năng tiêu thụ. Hạn mức tín dụng có thể được thỏa thuận trong một năm hoặc vài năm. Đây không phải là thời hạn hoàn trả mà là thời hạn để NH xem xét lại mối quan hệ với khách hàng và quyết định có cho vay nữa hay không tùy mối quan hệ giữa NH và khách hàng cũng như tình hình tài chính của khách hàng. Nếu doanh nghiệp gặp khó khăn trong tiêu thụ thì NH sẽ gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn do thời hạn của khoản vay không được qui định rõ ràng. ● Cho thuê tài sản Cho thuê của NH thường là hình thức tín dụng trung và dài hạn. NH mua tài sản cho khách hàng thuê với thời hạn sao cho NH phải thu gần đủ hoặc thu đủ giá trị của tài sản cho thuê cộng lãi. Hết hạn thuê, khách hàng có thể mua lại tài sản đó. Cho thuê (thuê – mua) giống một khoản cho vay thông thường ở chỗ NH phải xuất tiền với kì vọng thu về cả gốc và lãi sau thời hạn nhất định; khách hàng phải trả gốc và lãi dưới hình thức tiền thuê hàng kì. NH cũng phải đối đầu với rủi ro khi khách hàng kinh doanh không có hiệu quả không trả được tiền thuê đầy đủ và đúng hạn. Tuy nhiên, cho thuê có nhiều điểm khác biệt so với cho vay như tài sản đi thuê vẫn thuộc sở hữu NH vì thế không ghi vào bảng cân đối tài sản của người vay, không làm tăng cơ cấu nợ của người vay, NH có quyền thu hối nếu thấy người thuê không thực hiện đúng hợp đồng, đồng thời NH cũng phải có tránh nhiệm cung cấp đúng loại tài sản cần cho khách hàng và phải bảo đảm về chất lượng của loại tài sản đó. Cho thuê không có tài sản đảm bảo, nhiều tài sản thuê mang tính đặc chủng, khó bán, khi thu hồi chi phí tháo dỡ cao… nên cho thuê rủi ro rất cao đối với NH. ● Bảo lãnh Bảo lãnh của NH là cam kết của NH dưới hình thức bảo lãnh về việc thực hiện nghĩa vụ tài chính thay cho khách hàng của NH khi khách hàng không thực hiện đúng nghĩa vụ như cam kết. Bảo lãnh là hình thức tài trợ của NH cho khách hàng, qua đó khách hàng có thể tìm nguồn tài trợ mới, mua được hàng hóa hoặc thực hiện được các hoạt động sản xuất kinh doanh nhằm thu lợi. Bảo lãnh là hình thức tài trợ thông qua uy tín. NH không xuất tiền ngay khi bảo lãnh, do vậy bảo lãnh được coi là tài sản ngoại bảng. Tuy nhiên, khi khách hàng không thực hiện được cam kết, NH phải thực hiện nghĩa vụ chi trả cho bên thứ ba. Khoản chi này được xếp vào loại tài sản “xấu” trọng nội bảng, cấu thành nợ quá hạn. Chính vì vậy, bảo lãnh cũng chứa đựng các rủi ro như một khoản cho vay và đòi hỏi NH phân tích khách hàng như khi cho vay. Bảo lãnh của NH tạo mối liên hệ trách nhiệm tài chính và sản sẻ rủi ro. Trách nhiệm tài chính trước hết thuộc về khách hang, trách nhiệm của NH là thứ cấp khi khách hàng không thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba. Do mối liên hệ giữa NH với khách hàng có khả năng ràng buộc khách hàng phải thực hiện cam kết. Bảo lãnh cũng góp phần giảm bớt thiệt hại tài chính cho bên thứ ba khi tổn thất xảy ra. ● Chiết khấu thương phiếu Thương phiếu được hình thành chủ yếu từ quá trình mua bán chịu hàng hóa và dịch vụ giữa khách hàng với nhau. Người bán có thể giữ thương phiếu đến hạn để đòi tiền người mua hoặc mang đến NH để xin chiết khấu trước hạn. Số tiền NH ứng trước thụ thuộc vào lãi suất chiết khấu và thời hạn cũng như lệ phí chiết khấu. Bên cạnh việc áp dụng lãi suất chiết khấu, NH có thể yêu cầu khách hàng trả thêm lệ phí chiết khấu đối với những trường hợp cụ thể có liên quan đến rủi ro và chi phí đòi tiền. Nghiệp vụ chiết khấu được coi là đơn giản, dựa trên sự tín nhiệm giữa NH và người kí tên trên thương phiếu. Để thuận tiện cho khách, NH thường kí với khách hợp động chiết khấu. Khi cần chiết khấu, khách hàng chỉ cần gửi thương phiếu lên NH xin chiết khấu. NH sẽ kiểm tra chất lượng thương phiếu và thực hiện chiết khấu. Do tối thiểu có hai người cam kết trả tiền cho NH nên độ an toàn của thương phiếu tương đối cao trừ trường hợp NH kí miễn truy đòi đối với khách hàng. Hơn nữa, NHTM có thể tái chiết khấu thương phiếu tại NHNN để đáp ứng nhu cầu thanh khoản với chi phí thấp. 1.2 RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.2.1 Khái niệm về rủi ro tín dụngRRTD NHTM là loại doanh nghiệp kinh doanh hàng hóa đặc biệt – hàng hóa tiền tệ. Đa phần trong đoa các khoản tiền gửi phải trả khi có yêu cầu. Nguồn tiền của các NHTM đang có thay đổi mạnh mẽ do gia tăng cạnh tranh trong hệ thống NH, giữa các NH với các TCTC dưới dưới ảnh hưởng của công nghệ thông tin và quá trình toàn cầu hóa. Các nguồn tiền gửi của cá nhân và doanh nghiệp trở nên dễ dàng di chuyển hơn, nhạy cảm với lãi suất hơn. Điều này tạo thuận lợi hơn cho một NH trong việc tìm kiếm nguồn tiền song lại làm tăng tính mỏng manh, kém ổn định của cả hệ thống. Tài sản của NH chủ yếu là các động sản tài chính (các khoản cho vay, chứng khoán) với tính rủi ro thị trường, RRTD cao. Công nghệ NH cho phép NH có thể chuyển nguồn tiền của mình đầu tư tới các vùng, các thị trường khác nhau ngày càng xa trụ sở chính. Điều này, một mặt cho phép NH giảm bớt rủi ro thông qua đa dạng hóa khách hàng, đa dạng sản phẩm và thị trường, song mặt khác cũng làm tăng tín dụng rủi ro do tính biến động lớn trên thị trường thế giới và khu vực, do thông tin sai lệch… Phân chia rủi ro theo các loại tài sản gồm có: Rủi ro trong quản lí kinh doanh ngân quỹ, rủi ro tín dụng, rủi ro trong quản lý và kinh doanh chứng khoán, rủi ro trong cho thuê và rủi ro đối với các tài sản khác của NH. Phân chia rủi ro theo nguyên nhân – các nhân tố tác động – gồm có rủi ro do người vay không trả nợ cho NH, rủi ro do lãi suất thay đổi, rủi ro do tỷ giá thay đổi, rủi ro do các nguyên nhân khác như mất trộm, cháy, giấy tờ giả…Có các loại rủi ro phổ biến như: rủi ro tín dụng, rủi ro hối đoái, rủi ro lãi suất, rủi ro thanh toán,… Khi nghiên cứu về lĩnh vực NH ta thường được biết đến RRTD, vậy thế nó là gì? RRTD là khả năng xảy ra những tổn thất ngoài dự kiến cho NH do khách hàng vay không trả đúng hạn, không trả, hoặc không trả đầy đủ vốn và lãi. Khi thực hiện cho vay một khách hàng cụ thể, NH không dự kiến là khoản cho vay đó sẽ bị tổn thất. Tuy nhiên những khoản cho vay đó luôn hàm chứa rủi ro. Một số ý kiến cho rằng trên quan điểm quản lý toàn bộ NH, tỷ lệ tổn thất dự kiến đối với hoạt động tín dụng luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung. Do vậy, khi tổn thất dưới mức tỷ lệ tổn thất dự kiến, NH coi đó là một thành công trong quản lý. Theo quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý RRTD trong hoạt động của TCTD được ban hành theo Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của Thống đốc NHNN “RRTD trong hoạt động ngân hàngNH của tổ chức tín dụng”, được coi là khả năng xảy ra tổn thất trong hoạt động NH của TCTD do khách hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình theo cam kết. Theo quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 RRTD xuất phát từ nhiều yếu tố và có thể được chia làm 2 nhóm chính: Nhóm thuộc về cơ chế, chính sách và bản thân NH: Thiếu chính sách cho vay, thiếu các tiêu chuẩn rõ ràng, việc chấp nhận tín dụng quá tập trung, thiếu sự kiểm soát chặt chẽ, khoa học…; Nhóm thuộc về con người trong đó có cán bộ NHTM và người đi vay.Các yếu tố thuộc về hai nhóm trên vừa có tính độc lập tương đối, vừa quan hệ chặt chẽ và chi phối lẫn nhau, có thể làm cho hoạt động của NHTM giảm thiểu được rủi ro, nâng cao chất lượng, hiệu quả tín dụng NH. Nhưng chúng cũng có thể gây ra những tổn thất, thậm chí rất lớn, dẫn tới phá sản của một hoặc một số NHTM. Chẳng hạn sự yếu kém, thiếu đồng bộ, thiếu nhất quán trong cơ chế, chính sách cho vay, dẫn tới tình trạng cán bộ quản lý NHTM, hoặc người đi vay lợi dụng, đặc biệt nguy hại khi cán bộ nắm quyền lãnh đạo, chi phối hoạt động của NHTM bị sa sút phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. 1.2.2 Bản chất, nguyên nhân và dấu hiệu của rủi ro tín dụngRRTD 1.2.2.1 Bản chất rủi ro tín dụngRRTD RRTD gắn liền với hoạt động quan trọng nhất, có quy mô lớn nhất của NHTM – hoạt động tín dụng. Khi thực hiện một hoạt động tài trợ cụ thể, NH cố gắng phân tích các yếu tố của người vay sao cho độ an toàn cao nhất. Và nhìn chung NH chỉ quyết định cho vay khi thấy an toàn. Tuy nhiên, không một nhà kinh doanh NH tài ba nào có thể dự đoán chính xác các vấn đề sẽ xảy ra. Khả năng hoàn trả tiền vay của khách hàng có thể bị thay đổi do nhiều nguyên nhân. Hơn nữa, nhiều cán bộ NH không có khả năng thực hiện phân tích tín dụng thích đáng. Do vậy, trên quan điểm quản lý toàn bộ NH, RRTD là không thể tránh khỏi, là khách quan. Nhiều quan điểm nhất trí rằng, RRTD la bạn đường trong kinh doanh, có thể đề phòng, hạn chế, chứ không thể loại trừ. Do vậy, rủi ro dự kiến luôn được xác định trước trong chiến lược hoạt động chung của NH. 1.2.2.2 Nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụngRRTD ● Những nguyên nhân bất khả kháng Những nguyên nhân bất khả kháng tác động tới người vay, làm họ mất khả năng thanh toán cho NH. Ví dụ: Thiên tai, chiến tranh, hoặc những thay đổi tầm vĩ mô (thay đổi Chính phủ, chính sách kinh tế, hàng rào thuế quan…) vượt quá tầm kiểm soát của người vay lẫn người cho vay. Những thay đổi này thường xuyên xảy ra, tác động liên tục tới người vay, tạo thuận lợi hoặc khó khăn cho người vay. Nhiều người vay, với bản lĩnh của mình có khả năng dự báo, thích ứng, hoặc khắc phục những khó khăn. Trong những trường hợp khác, người vay có thể bị tổn thất song vẫn có khả năng trả nợ cho NH đúng hạn, đủ gốc và lãi. Tuy nhiên, khi tác động của những nguyên nhân bất khả kháng đối với người vay là nặng nề, khả năng trả nợ của họ bị suy giảm. ● Nguyên nhân thuộc về chủ quan người vay Trình độ yếu kém của người vay trong dự đoán các vấn đề kinh doanh, yếu kém trong quản lí, chủ định lừa đảo cán bộ NH, chây ì…là nguyên nhân gây RRTD. Rất nhiều người vay sẵn sàng mạo hiểm với kỳ vọng thu được lợi nhuận cao. Để đạt được mục đích của mình, họ sẵn sàng tìm mọi thủ đoạn ứng phó với NH như cung cấp thông tín sai, mua chuộc… Nhiều người vay đã không tính toán kỹ lưỡng hoặc không có khả năng tín toán kỹ lưỡng những bất trắc có thể xảy ra, không có khả năng thích ứng và khắc phục khó khăn trong kinh doanh. Trong trường hợp còn lại, người vay kinh doanh có lãi những vẫn không trả nợ cho NH đúng hạn. Họ chây ì với hy vọng có thể quỵt nợ, hoặc sử dụng vốn vay càng lâu càng tốt. ● Nguyên nhân thuộc về NH Chất lượng cán bộ kém, không đủ trình độ đánh giá khách hàng hoặc định giá không tốt, cố tình làm sai… là một trong những nguyên nhân của RRTD. Nhân viên NH phải tiếp cận với nhiều ngành nghề, nhiều vùng, thậm chí nhiều quốc gia. Để cho vay tốt, họ phải am hiểu khách hàng, lịnh vực mà khách hàng kinh doanh, môi trường mà khách hàng sống. Họ phải có khả năng dự báo các vấn đề liên quan đến người vay… Như vậy, họ cần phải được đào tạo và tự đào tạo kĩ lưỡng, liên tục toàn diện. Khi nhân viên tín dụng cho vay đối với khách hàng mà họ chưa đủ trình độ để hiểu kĩ lưỡng, RRTD luôn rình rập họ. Sống trong môi trường “tiền bạc”, nhiều nhân viên NH đã không tránh khỏi cám dỗ của đồng tiền. Họ tiếp tay cho khác hàng rút rột NH. Như vậy, chất lượng nhân viên NH bao gồm trình độ và đạo đức nghề nghiệp không đảm bảo là nguyên nhân RRTD. 1.2.3 Các chỉ tiêu phản ánh rủi ro tín dụngRR Tuy RRTD là khách quan, song NH phải quản lí RRTD nhằm hạn chế đến mức thấp nhất các tổn thất có thể xảy ra. Từ những nguyên nhân nảy sinh RRTD, NH cụ thể hóa thành những chỉ tiêu hoặc dấu hiệu chính phát sinh trong hoạt động tín dụng, phản ánh RRTD: Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tổng dư nợ; Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ; Nợ có vấn đề; Tính đa dạng giá của tài sản; Tình hình tài chính và phương án của người vay (các yếu tố của người vay) hoặc xếp hạng tín dụng người vay; Quan hệ tín dụng giữa NH và khách hàng; Đảm bảo tiền vay; Môi trường hoạt động của người vay. Nhiều NH phân loại nợ theo khách hàng để phân tích và đánh giá RRTD. Nợ của khách hàng nhóm A được coi có rủi ro thấp nhất, còn nợ khách hàng nhóm D, E được coi là có khả năng mất vốn cao nhất. Để cách phân loại này phản ảnh chính xác RRTD, phải có tiêu chuẩn xếp hạng tín nhiệm đúng. Theo Quyết định số 493, nợ của NHTM được chia thành 5 nhóm, với nợ từ loại 3 đến 5 là nợ xấu, còn nợ nhóm 1 là nợ thông thường thì tỷ lệ trích lập dự phòng là 0%, và nợ nhóm 2_nợ cần chú ý_trích lập dự phòng là 5%. 1.2.3.1 Nợ quá hạn - Nợ quá hạn và tỷ lệ nợ quá hạn trên tồng dư nợ. Nợ quá hạn là khoản nợ mà khách hàng không trả được khi đến hạn thỏa thuận ghi trên hợp đồng tín dụng. Khi một món nợ không trả được vào kỳ hạn nợ, toàn bộ nợ gốc còn lại của hợp đồng chuyển thành nợ quá hạn. - Nợ khó đòi và tỷ lệ nợ khó đòi trên tổng dư nợ. Nợ khó đòi là khỏan nợ quá hạn và kèm theo một số tiêu chí khác như quá một kì hạn gia hạn nợ, hoặc không có tài sản đảm bảo, hoặc tài sản không bán được, con nợ thua lỗ triền miên, phá sản… Các chỉ tiêu có liên quan chặt chẽ với nhau và phản ánh các mức độ RRTD khác nhau. Đối với NH, việc khách hàng không trả đúng hạn có liên quan đến thanh khoản và rủi ro thanh khoản: Chi phí gia tăng để tìm nguồn mới để chi trả tiền gửi và cho vay đúng hợp đồng. Nợ khó đòi là một lời cảnh báo cho NH: Hi vọng thu lại tiền trở nên mong manh, NH cần có biên pháp hữu hiệu để giải quyết. Các quan điểm khác nhau, các cánh tính toán khác nhau về kì hạn nợ và nợ quá hạn có thể làm các chỉ tiêu này bị biến dạng. Thứ nhất, do định kì hạn nợ không đúng. Nhiều cán bộ NH khi cho vay không quan tâm thích đáng đến chu kì kinh doanh của người vay, hoặc do nguồn ngắn hạn là chủ yếu, họ đặt kì hạn nợ ngắn để hạn chế rủi ro. Kì hạn nợ không phù hợp với thu nhập của người vay. Khi đến hạn, người vay dĩ nhiên sẽ không thể trả nợ được, gây nợ quá hạn. Khoản nợ này trở thành mối đe dọa tài chính đối với người vay, buộc họ phải trả thêm khoản “Phụ phí” để được gia hạn nợ, hoặc phải chịu lãi suất phạt. Thứ hai, do đảo nợ, hoặc giãn nợ. Nhiều khoản nợ người vay không có khả năng trả có thể được đảo nợ làm giảm nợ quá hạn so với thực tế. Để che dấu đối với NH cấp trên, hoặc để không phải chịu lãi phạt, khách hàng và nhân viên NH cũng có thể giãn nợ đối với khoản nợ mà chắc chắn người vay không thể trả được. Những hành vi này làm chỉ tiêu nợ quá hạn và nợ khó đòi không phản ánh đầy đủ RRTD. Thứ ba, do chính sách cho vay, Rất nhiều các khoản cho vay khó đòi không thể thu hồi phát mại tái sản (Doanh nghiệp Nhà nước, người nghèo, tài sản không rõ rang…). Những khoản cho vay này phần lớn là cho vay theo chỉ thị Chính phủ. Khi Chính phủ chưa có biện pháp giải quyết, chúng vẫn tồn tại trên bảng cân đối của NH, trở thành tài sản “ảo”. Xử lý khoản nợ này rất phức tạp. Nhiều NH loại chúng ra khỏi chỉ tiêu nợ quá hạn, nợ khó đòi, xếp vào nợ khoanh (khi được Chính phủ đồng ý). Tuy nhiên, chúng thực sự đe dọa thu nhập của NH nếu Chính phủ không tìm được nguồn bù đắp. 1.2.3.1 Các chỉ tiêu khác Bên cạnh nợ quá hạn và nợ khó đòi, nhà quản lí NH còn sử dụng các hình thức đo RRTD khác, gắn liền với chiến lược đa dạng hóa tài sản, lập hồ sơ khách hàng, trích lập quỹ dự phòng, đặt giá đối với các khoản cho vay… ● Điểm của khách hàng. Thông qua phân tích tình hình tài chính, năng lực sản xuất kinh doanh, hiệu quả dự án, mối quan hệ và tính sòng phẳng…NH lập hồ sơ về khách hàng, xếp loại và cho điểm. Khách hàng loại A hoặc điểm cao, RRTD thấp, khách hàng loại C, hoặc điểm thấp, rủi ro cao. Chỉ tiêu này được xây dựng dựa trên các dấu hiệu rủi ro mà NH xây dựng. Điểm của khách hàng cho thấy rủi ro “tiềm ẩn”. ● Các khoản cho vay có vấn đề Mặc dù chưa đến hạn và chưa được coi là nợ quá hạn, song trong quá trình theo dõi, nhân viên NH nhận tháy có nhiều khoản tài trợ đang có dấu hiệu kém lành mạnh, có nguy cơ trở thành nợ quá hạn. Khoản cho vay có vấn đề được xây dựng dựa trên qui định của NH. ● Tính kém đa dạng của tín dụng Đa dạng hóa là biện pháp hạn chế rủi ro. Những thay đổi trong chu kì của người vay là khó tránh khỏi. Nếu NH tập trung tài trợ cho nhóm khách hàng, của một ngành, hoặc một vùng hẹp thì rủi ro sẽ cao hơn so với đa dạng hóa. ● Mất ổn định vĩ mô Chính sách thường xuyên thay đổi, lạm phát cao, tình hình chính trị mất ổn định, vùng hay bị thiên tai… đều tạo nên mất ổn định vĩ mô, tác động xấu đến người vay. Do vậy, mất ổn định vĩ mô được NH xem là nội dung phản ánh RRTD. 1.2.4 Tác động của rủi ro tín dụng RRTD không phải là một vấn đề mới, mà trái lại nó là vấn đề mà mọi NHTM phải đối mặt. Có nhiều nguyên nhân có thể gây ra rủi ro khiến NH không thể thu hồi được nợ khi đến hạn. Và những tác động của nó đã và đang gây ra những tác động không tốt với NH nói riêng và cả nền kinh tế nói chung. Nhưng việc ảnh hưởng như thế nào nhiều hay ít còn phụ thuộc vào mức độ RRTD. 1.2.4.1 Tác động của rủi ro tín dụngRRTD đến NH ngân hàng Có thể nói hoạt động cơ bản nhất, thường xuyên nhất và mang lại nhiều nguồn lợi nhất cho NH là hoạt động tín dụng. Ảnh hưởng trực tiếp nhất là tới lợi nhuận, khi các khoản nợ đến hạn mà khách hàng không thanh toán được NH phải có các khoản chi phí để quản lý, giám sát và thu hồi nợ, nếu không thu được nợ sẽ phát sinh thêm chi phí phát mại tài sản. Và những khoản nợ này sẽ không mang lại thu nhập cho NH hoặc là có nhưng rất ít không đáng kể. Nhằm mục đích hạn chế RRTD các NH phải lập quỹ dự phòng rủi ro từ lợi nhuận đó cũng chính là nguyên nhân làm cho lợi nhuận của NH bị giảm. Khi RRTD xảy ra ở mức độ cao, lợi nhuận khồn đủ để bù đắp cho những tổn thất đã xảy ra, NH phải sử dụng vốn tự có. Tuy nhiên, so với tổng giá trị tài sản thì vốn chủ sở hữu của NH rất nhỏ nên khi sử dụng có thể đẩy NH tới nguy cơ mất khả năng thanh toán dẫn tới phá sản. Tuy nhiên không chỉ ảnh hưởng đến thu nhập của NH mà còn ảnh hưởng đến hoạt động khác của NH, bởi vì hoạt động tín dụng của NH cũng tác động nhiều đến các hoạt động khác. Vì nếu NH mở rộng được hoạt động tín dụng, nâng cao các chất lượng tín dụng thì cũng sẽ là động lực nâng cao hoạt động khác của NH, và ngược lại sẽ kìm hãm làm giảm lợi nhuận, ảnh hưởng xấu đến các hoạt động tài chính khác của NH. Như vậy một khi RRTD xảy ra sẽ ảnh hưởng đến toàn bộ NH, trước hết là họ sẽ không thu được vốn, và lãi theo đúng thời hạn ghi trong hợp đồng. Từ đó sẽ làm vòng quay vốn sẽ bị giảm tốc độ nên làm giảm hiệu quả sử dụng vốn, giảm khả năng thanh toán. Tuy nhiên tổn thất này chưa phải là lớn nhất mà NH bị thiệt hại về mặt uy tín và lòng tin trong xã hội. Một NH gặp phải những rủi ro về mặt hoạt động tín dụng mà không thể khắc phục được sẽ làm mất lòng tin của các đối tác kinh doanh cũng như người gửi tiền. Khi đó thị phần của NH sẽ bị giảm, nguồn huy động giảm, do đó NH lâm vào tình trạng khó khăn. Trường hợp tồi tệ nhất là khi người gửi tiền có xu hướng đến NH rút tiền ra điều đó dễ dàng đẩy NH đến mất khả năng thanh toán dẫn đến phá sản. Một NH xảy ra hiện tượng phá._. sản sẽ gây ra hiệu ứng lan truyền ảnh hưởng xấu đến toàn bộ hệ thống NH cũng như ảnh hưởng đến nền kinh tế chung của toàn xã hội. 1.2.4.2 Tác động của rủi ro tín dụngRRTD đến nền kinh tế Một vai trò quan trọng của tín dụng NH mà ta không thể không quan tâm đó là việc điều hòa vốn trong nền kinh tế. RRTD xảy ra làm cho NH không thu hồi được số nợ của khách hàng và cũng không có đủ vốn để cho vay tiếp tục, vì thế có thể ảnh hưởng đến vòng quay sử dụng vốn làm giảm khả năng cung cấp vốn cho nền kinh tế. Khi RRTD kéo dài, NH không thể đáp ứng được nhu cầu rút vốn của khách hàng, ảnh hưởng đến toàn bộ hệ thống NH, tác động xấu đến nền kinh tế trong nước. 1.2.5 Mối quan hệ giữa rủi ro và lợi nhuận trong hoạt động của các ngân hàng thương mại Có thể nói NH hoạt động trong một môi trường tiềm ẩn nhiều rủi ro. Các rủi ro luôn luôn tồn tại quanh NH, một khi tổn thất xảy ra mang đến rất nhiều bất lợi, trước hết là thu nhập sẽ giảm sút, tỷ suất lợi tức và thị giá cổ phiếu cũng sẽ có thể bị giảm. Kéo theo có thể NH phải tiến hành bán hàng loạt cổ phiếu trên thị trường, đây chính là điểm mấu chốt của quá trình buộc NH phải sát nhập, bán lại hoặc thay đổi ban quản lý của NH. RRTD và rủi ro lãi suất là nguyên nhân dẫn đến rủi ro thanh khoản bằng sự kiện khách hàng rút tiền hàng loạt ra khỏi NH, buộc NH không đủ lượng tiền dự trữ thanh toán phải đóng cửa và có khả năng tuyên bố phá sản. Đằng sau những sự việc này sẽ là việc NH phải cắt giảm lao động, giảm tiền lương… ảnh hưởng đến mọi mặt mọi hoạt động của NH. Theo như qui trình này, thì các chủ NH luôn chấp nhận một mức độ rủi ro cụ thể, hoặc điều chỉnh giảm thiểu rủi ro ở mức độ thấp nhất có thể sao cho hợp lý để đạt được những phần lợi nhuận kì vọng để bù đắp được những rủi ro có thể xảy ra. Ta có thể nói rủi ro và lợi nhuận có mối quan hệ tỷ lệ thuận với nhau, nhưng điều đó không đồng nghĩa với việc rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn, mà chính là nếu NH muốn kiếm được nhiều lợi nhuận thì phải chấp nhận rủi ro ở mức độ hợp lý nhưng bên cạnh đó còn nhiều yếu tố khác kết hợp. Tuy nhiên quan trọng nhất đó là người đứng đầu NH đó là người như thế nào? Đó phải là một người có đầu óc kinh doanh, quản lý tốt mọi hoạt động của NH, biết nắm bắt những thời cơ và biến chúng thành hiện thực. Điều này cũng không phải chỉ tồn tại ở mỗi môi trường NH mà trong tất cả các lĩnh vực khác cũng vậy chấp nhận cơ cầu rủi ro hợp lý để kỳ vọng thu được lợi nhuận để phát triển. 1.3 QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1.3.1 Quản lý rủi ro tín dụng Nước ta trong giai đoạn gần đây đã hết sức cố gắng cải cách nền kinh tế toàn diện ở mọi lĩnh vực, và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Các tổ chức tài chính kinh tế quốc tế như IMF, WB, ADB đã có những đánh giá tích cực đối với tình hình phát triển của nước ta. Thời gian 2005 – 2007, nhiều công ty đánh giá hệ số tín nhiệm đã nâng cấp tín nhiệm cho Việt Nam. Cuối năm 2006, tổ chức xếp hạng tín dụng hàng đầu là Standard & Poor’s đã nâng cấp nước ta từ BB– lên BB với tín dụng ngoại tệ, và từ BB lên BB+ đối với tín dụng nội tệ, đây là những mức xếp hạng cao hơn một bậc so với Philippines và Indonesia. Lần gần đây nhất là ngày 15 – 03 – 2007, Moody’s vừa nâng mức tín nhiệm đối với trái phiếu Chính phủ Việt Nam bằng ngoại tệ từ “Ba ổn định” lên “Ba tích cực”. Ông Tom Byrne cho biết sự điều chỉnh này là do “thành công liên tục trong chính sách phát triển hướng ra bên ngoài của Việt Nam và sự ổn định chung của tình hình tài chính Chính phủ”. Tuy hiện nay nước ta chỉ được Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế OECD xếp hạng RRTD trong nhóm năm nhưng nếu so sánh với hầu hết các nền kinh tế được xếp cùng hạng, thì phần lớn các chỉ số đều tốt hơn hoặc không thua kém. Ngày 2–4–2007, OECD đã bỏ phiếu xếp hạng lại, qua bảng biểu dưới đây ta có thể nhận thấy được sự tín nhiệm của nước ta ngày càng được nâng cao. Bảng 2: Việt Nam trong bảng xếp hạng rủi ro tín dụngRRTD của OECD Năm Hạng Năm 1999 đến tháng 4 – 2002 6 Tháng 4 – năm 2002 5 Tháng 4 – năm 2007 4 (Nguồn Bảng xếp hạng rủi ro tín dụng của OECD ) Vậy qua đó ta có thể thấy quản lý RRTD đã trở thành vấn đề rất quan trọng. Yêu cầu đặt ra là quản lý như thế nào để có thể giảm thiểu chúng và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của NH?? Có thể nói 1.3.2 Nguyên tắc trong quản lý rủi ro tín dụng Hoạt động tín dụng là một trong những hoạt động quan trọng nhất trong hệ thống NH. Nó gồm cả hai mặt sinh lời – rủi ro. Có thể nói đa phần thua lỗ mà NH mắc phải là bắt nguồn từ hoạt động tín dụng. Song không có cách nào mà để loại trừ hoàn toàn các rủi ro mà chỉ có các biện pháp quản lý để hạn chế các rủi ro đó. Quản lý RRTD là nội dung quản lý quan trọng của NHTM, vì khi đứng trước một hồ sơ xin vay, người quản lý tín dụng phải đứng trước mâu thuẫn giữa rủi ro và sinh lời. Theo như hiệp ước Basel I yêu cầu các NH hoạt động quốc tế phải nắm giữ một mức vốn tối thiểu để có thể đối phó với những rủi ro có thể xảy ra. Mức vốn tối thiểu này là một tỷ lệ phần trăm nhất định trong tổng vốn của NH, do đó mức vốn này cũng được hiểu là mức vốn tối thiểu tính theo trọng số rủi ro của NH đó. Mục đích của Basel I nhằm: Củng cố sự ổn định của toàn bộ hệ thống NH quốc tế; Thiết lập một hệ thống NH thống nhất, bình đẳng nhằm giảm cạnh tranh không lành mạnh. Thành tựu cơ bản của Basel I là đã đưa ra được định nghĩa mang tính quốc tế chung nhất về vốn của NH và một cái gọi là tỷ lệ vốn an toàn của NH. Theo đó, vốn của NH được chia làm 2 loại: ● Vốn loại 1 (vốn cơ bản): bao gồm lượng vốn dự trữ sẵn có và các nguồn dự phòng được công bố, như là khoản dự phòng cho các khoản vay. ● Vốn cấp 2 (vốn bổ sung): bao gồm vốn khác như các khoản lợi nhuận trên tài sản đầu tư, nợ dài hạn với kỳ hạn lớn hơn 5 năm và các khoản dự phòng ẩn. Tổng vốn sẽ bằng tổng của vốn cấp 1 và vốn cấp 2. Theo quy định của Basel I, các NH cần xác định được tỷ lệ vốn tối thiểu cần có để bù đắp cho rủi ro. Mức RRTD mà NH đối mặt được xác định là tài sản điều chỉnh theo rủi ro của NH. Tỷ lệ vốn tối thiếu = (Tổng vốn / tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro) > 8% Theo đó, các trọng số rủi ro khác nhau với các loại tài sản khác nhau sẽ cho ra những yêu cầu về vốn khác nhau như: Bảng 3 …: Yêu cầu về vốn tối thiểu đối với mỗi loại tài sản có trọng số rủi ro khác nhau Loại tài sản Trọng Số rủi ro Tỷ lệ Vốn Số tiền Tài sản điều chỉnh theo trọng số rủi ro Yêu cầu về vốn tối thiểu Trái phiếu Chính phủ 0% 8% 1.000 USD 0 USD 0 USD Trái phiếu đô thị 20% 8% 1.000 USD 200 USD 16 USD Thế chấp nhà ở 50% 8% 1.000 USD 500 USD 40 USD Vay không bảo đảm 100% 8% 1.000 USD 1.000 USD 80 USD (Nguồn phân loại rủi ro theo quy tắc Basel) Uỷ ban Basel đã nỗ lực đưa ra một Hiệp ước mới thay thế cho Basel I, và cho đến năm 2004, bản Hiệp ước quốc tế về vốn của Basel (Basel II) đã chính thức được ban hành. Với cách tiếp cận mới dựa trên 3 trụ cột chính: yêu cầu vốn tối thiểu; cơ quan thanh tra trực tiếp đánh giá mức độ tuân thủ yêu cầu vốn tối thiểu của NH; công khai thông tin. Basel II đã buộc các NH quốc tế phải tuân thủ theo 3 nguyên tắc cơ bản: Nguyên tắc thứ nhất: Các NH cần phải duy trì một lượng vốn đủ lớn để trang trải cho các hoạt động chịu rủi ro của mình, bao gồm RRTD, rủi ro thị trường và rủi ro tác nghiệp (Trụ cột 1). Theo đó, cách tính chi phí vốn đối với RRTD có sự sửa đổi lớn, thay đổi nhỏ với rủi ro thị trường nhưng hoàn toàn là phiên bản mới đối với rủi ro tác nghiệp. Basel 2 đề cập đến 3 loại rủi ro trong hoạt động NH. Riêng đối với RRTD bản hiệp ước đưa ra 3 phương pháp tính toán: phương pháp chuẩn hóa; phương pháp cơ sở dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ (IRB); phương pháp nâng cao dựa trên hệ thống xếp hạng nội bộ. Nguyên tắc thứ hai: Các NH cần phải đánh giá một cách đúng đắn về những loại rủi ro mà họ đang phải đối mặt và đảm bảo rằng những giám sát viên sẽ có thể đánh giá được tính đầy đủ của những biện pháp đánh giá này, Basel II nhấn mạnh 4 nguyên tắc của công tác rà soát: + Các NH cần phải có một quy trình đánh giá được mức độ đầy đủ vốn của họ theo danh mục rủi ro và phải có được một chiến lược đúng đắn nhằm duy trì mức vốn đó. + Các giám sát viên nên rà soát và đánh giá lại quy trình đánh giá về mức vốn nội bộ cũng nhu về các chiến lược của NH. Họ cũng phải có khả năng giám sát và đảm bảo tuân thủ tỷ lệ vốn tối thiểu. Theo đó, giám sát viên thực hiện một số hành động giám sát phù hợp nếu họ không hài lòng với kết quả của quy trình nay. + Giám sát viên kiến nghị các NH duy trì mức vốn cao hơn mức vốn tối thiểu theo qui định. + Giám sát viên nên can thiệp ở giai đoạn đầu để đảm bảo mức vốn của NH không giảm dưới mức tối thiểu theo quy định và có thể yêu cầu sửa đổi ngay lập tức nếu mức vốn không được duy trì trên mức tối thiểu. Nguyên tắc thứ ba: Các NH cần phải công khai thông tin một cách thích đáng theo nguyên tắc thị trường (trụ cột thứ 3). Với trụ cột này Basel 2 đưa ra một danh sách các yêu cầu buộc các NH phải công khai thông tin, từ những thông tin về cơ cấu vốn, mức độ đầy đủ vốn đến những thông tin liên quan đến mức độ nhạy cảm của NH đối với rủi ro tín dụng, rủi ro thị trường, rủi ro tác nghiệp và quy trình đánh giá của NH đối với từng loại rủi ro này. Như vậy, với quá trình phát triển của Basel và những Hiệp ước mà tổ chức này đưa ra, các NH thương mại càng ngày càng được yêu cầu hoạt động một cách minh bạch hơn, đảm bảo vốn phòng ngừa cho nhiều loại rủi ro hơn và do vậy, hy vọng sẽ giảm thiểu được rủi ro. Bảng 46: Trọng số rủi ro theo loại tài sản Trọng số rủi ro Phân loại tài sản 0% Tiền mặt và vàng nằm trong NH. Các nghĩa vụ trả nợ của Chính phủ và Bộ Tài chính. 20% Các khoản trả nợ của NH có quy mô lớn. Chứng khoán phát hành bởi các cơ quan Nhà nước. 50% Các khoản vay thế chấp nhà ở,… 100% Tất cả các khoản vay khác như trái phiếu của doanh nghiệp, các khoản nợ từ các nước kém phát triển, các khoản vay thế cấp cổ phiếu, bất động sản… (Nguồn phân loại rủi ro theo quy tắc Basel) 1.3.3 Hoạt động quản lý rủi ro tín dụngRRTD 1.3.3.1 Phân loại đánh giá rủi ro – Phân loại rủi ro theo chất lượng khoản vay Việc phân loại các khoản vay được thực hiện ngay sau khi xuất hiện khoản vay, và có thể được chia thành 7 nhóm với 2 yếu tố: định tính và định lượng. Bảng 57: Phân loại rủi ro theo chất lượng khoản vay Nhóm Yếu tố Định tính Định lượng Nhóm I (Chất lượng cao) Khách hàng có khả năng tài chính, hoạt động có hiệu quả, triển vọng phát triển cao, có năng lực quản trị, có khả năng quản trị tốt. Có đầy đủ tài sản đảm bảo cần cho khoản vay. Khách hàng được xếp nhóm A*, A Nhóm II (Chất lượng tốt) - Khách hàng có thể bị hạn chế về nguồn tài trợ nhưng có thể vẫn được coi là đối tượng hấp dẫn đối với NH. Thực hiện tốt nghĩa vụ trả nợ gốc và lãi đúng hạn. Có đủ tài sản đảm bảo cho các khoản vay. Khách hàng được xếp hạng A*, A, B Nhóm III (Chất lượng đạt yêu cầu) Chưa đáp ứng đủ yêu cầu về tài sản đảm bảo, tuy nhiên các khoản này có thể chuyển đổi được để có thể thanh toán đầy đủ nghĩa vụ tài chính thông qua việc thanh lý. Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh đủ đáp ứng nhu cầu hoàn trả các nghĩa vụ tài chính. Khách hàng được xếp hạng A, B Nhóm IV (Cần theo dõi) Xuất hiện một số khoản mục tín dụng quá hạn trả nợ gốc và lãi từ 10 đến 30 ngày. Có dấu hiệu gặp khó khăn trong sản xuất kinh doanh, tài chính không tốt, có thể bị thất thoát trong kinh doanh. Khả năng thực hiện nghĩa vụ tài chính đối với NH phụ thuộc vào tính thanh khoản của tài sản cố định. Thiếu thông tin tài chính. Phải gia hạn khoản vay do khách hàng chưa trả được nợ. Tài sản đảm bảo chưa đủ cho khoản vay. Khách hàng được xếp nhóm C, D Nhóm V (Kém chất lượng) Nhóm khách hàng này có các khoản vay quá hạn trả nợ gốc và lãi từ 1 đến 3 tháng. Xu hướng tài chính của khách hàng ngày càng có dấu hiệu xấu đi. Tài sản đảm bảo không đủ cho khoản vay Khách hàng được xếp nhóm C, D, E Nhóm VI (Khó đòi) Khách hàng quá hạn trả nợ gốc và lãi trên 3 tháng. Tài sản đảm bảo không đủ cho khoản vay Khoản tín dụng NH cho khách hàng vay có thể bị thất thoát hoặc mất một phần nợ gốc nhưng vẫn có thể hy vọng thu hồi nợ thông qua xử lý tài sản đảm bảo. Khách hàng được xếp nhóm D, E Nhóm VII (Mất vốn) Khách hàng không có khả năng hoàn trả được nợ. Việc thu hồi gốc và lãi chỉ có thể thực hiện bằng cách xử lý tài sản đảm bảo bằng các vụ kiện pháp lý nhưng khả năng thu hồi được là rất thấp Khách hàng được xếp nhóm E, F 1.3.3.2 Nhận diện rủi ro Sau khi khoản vay phát sinh và đã được phân loại, CBTD luôn cần phải theo dõi, giám sát các khoản vay để nhận diện rủi ro thông qua một số dấu hiệu cảnh báo như một số dấu hiệu phát sinh từ phía khách hàng hoặc từ chính sách tín dụng của NH. 1.3.3.3 Biện pháp phòng ngừa, khắc phục và xử lý đối với dấu hiệu rủi ro ● Biện pháp phòng ngừa Khi hoạt động kinh doanh của khách hàng xuất hiện những nguy cơ phát sinh rủi ro do một số nguyên nhân, để phòng ngừa rủi ro NH phải thực hiện một số biện pháp kiểm tra giám sát. Nếu khoản vay bị xuống hạng, NH nên lựa chọn motọ số biện pháp phòng ngừa như: quản lý giám sát khoản vay, xem xét lại tài sản đảm bảo nợ vay của khách hàng, hòan thiện hồ sơ pháp lý. ● Biện pháp khắc phục Khi các khoản nợ này bị xuống hạng NH có thể sử dụng một số biện pháp khắc phục như: yêu cầu bổ sung tài sản đảm bảo nợ vay, xác định phương án cơ cấu nợ, thu hồi nợ. ● Biện pháp xử lý NH có thể áp dụng một số biện pháp xử lý khi khoản vay được đánh giá kém chất lượng, khó đòi và có khả năng mất vốn như: phát mại tài sản, yêu cầu bên bảo lãnh trả nợ thay cho khách hàng vay vốn, khởi kiện khách hàng, hoặc có thể xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro… 1.3.4 Các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý rủi ro tín dụngRRTD ● Thông tin của khách hàng cung cấp Có thể nói đây là nhân tố quan trọng quyết định đến hiệu quả quản lý RRTD. NH cần có thông tin chính xác và đầy đủ của khách hàng như vậy sẽ có những quyết định kịp thời. ● Khả năng tiếp cận, xử lý và phân tích thông tin để đưa ra những quyết định chính xác về các khoản vay của cán bộ NH. Điều đó giúp NH có cơ sở để thực hiện các bước tiếp theo trong hoạt động quản lý RRTD. ● Chủ trương chính sách của NH cũng ảnh hưởng đến quản lý RRTD. ● Rủi ro đo đức cán bộ NH, và các yếu tố khác như môi trường chính trị pháp luật, hoặc môi trường kinh doanh… CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNGNGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM 2.1 GIỚI THIỆU VỀ SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAMGD I – NHCTVN 2.1.1 Quá trình xây dựng và phát triển của Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt NamSGD I- NHCTVN Thực hiện nghị định 53/HĐBT ngày 26/3/1988 của HĐBT về việc chuyển hoạt động NH sang hạch toán kinh doanh và hình thành hệ thống NH 2 cấp, ngày 1/7/1988 NHCTVN ra đời và đi vào hoạt động trên cơ sở Vụ tín dụng công nghiệp và Vụ tín dụng thương nghiệp của NHNN trung ương cùng với các Phòng Tín dụng công nghiệp, Tín dụng thương nghiệp của 17 chi nhánh NHNN địa phương. Cùng với sự phát triển của đất nước, của ngành NH, NHCT đã phát triển ngày càng lớn mạnh và là 1 trong 5 NH thương mại Nhà Nước lớn của Việt Nam. Trong quá trình đổi mới và phát triển, NHCT đã góp phần đắc lực vào sự phát triển kinh tế của đất nước, thực thi chính sách tiền tệ, kiềm chế và đẩy lùi lạm phát. Chi nhánh NHCT Thành phố Hà Nội được thành lập năm 1988 theo quyết định số 198/NH-TCCB của Tổng giám đốc NHNNVN. Ngày 24/4/1993,TGĐ NHCTVN ra quyết định số 93/NHCT-TCCB chuyển các hoạt động tại Hội sở chi nhánh NHCT thành phố Hà Nội thành Hội sở chính NHCTVN. Ngày 30/3/1995, Sở giao dịch NHCTVN được thành lập theo quyết định số 83/NHCT–QĐ CTHĐQT. Ngày 30/12/1998HĐQT NHCTVN được thành lập theo quyết định số 83/NHCT-QĐ CTHĐQT-NHCT1 sắp xếp tổ chức hoạt động SGDI-NHCTVN theo điều lệ tổ chức và hoạt động của NHCTVN. Ngày 20/10/2003, Chủ tịch HĐQT-NHCTVN ban hành quyết định số 153/QĐ-HĐQT về mô hình tổ chức mới của SGD I theo Dự án hiện đại hoá NH và công nghệ thanh toán do NH thế giới tài trợ. 2.1.2. Cơ cấu tổ chức hoạt động của Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt NamSGD I NHCTVN. Ban lãnh đạo SGD I NHCTVN gồm có 1 giám đốc và 4 phó giám đốc. Sở có 11 phòng nghiệp vụ. 8Sơ đồ 3: Cơ cấu tổ chức của SGD I Ngân hàng Công thương Việt NamSGD I NHCTVN Giám đốc Phó Giám đốc 3 Phó Giám đốc 4 Phó Giám đốc 2 Phó Giám đốc 1 P.Khách hàng cá nhân P.Tổng hợp tiếp thị P.Tổ chức – hành chính P.Khách hàng I (DN Lớn) P.Kế toán tài chính P.Khách hàng II (DN vừa và nhỏ) P.Thông tin điện toán P.Tài trợ thương mại P.Kiểm soát nội bộ P.Kế toán giao dịch P.Tiền tệ - Kho quĩ 2.1.3 Tình hình hoạt động gần đây của SGD I NHCTVN. Năm 2007, Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu trên nhiều lĩnh vực. Hoạt động kinh doanh của SGD I – NHCT VN trong năm 2007 đã đạt được nhiều thành tích, đóng góp vào sự phát triển của hệ thống NHCT VN. Bên cạnh đó là một số những hạn chế vướng mắc cần có biện pháp khắc phục. 2.1.3.1 Nguồn vốn huy động Bảng 96: Hoạt động huy động vốn Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 31/12/2007 Tăng so với năm 2006 Tổng nguồn vốn huy động 19.018,32 1.570,32 Nguồn vốn VND 16.298,7 3.112,229 Nguồn vốn ngoại tệ 2.719,62 189,052 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2006, 2007) Trong đó: Tiền gửi doanh nghiệp đạt 10.745,35 tỷ đồng, chiếm tỷ trọng 56,5% trên tổng nguồn vốn huy động, giảm 526,665 tỷ so với năm 2006. Tiền gửi tiết kiệm đạt 3.632,49 tỷ, chiếm tỷ trọng 19,1% tổng nguồn vốn huy động được, giảm 521,36 tỷ đồng so với năm 2006. Tổng nguồn huy động khác đạt 4.640,48 tỷ đồng, chiếm 24,4%, tăng 2.332,66 tỷ so với năm 2006. Nhìn chung, SGD I vẫn duy trì được sự phát triển về nguồn vốn, là đơn vị với nguồn vốn huy động lớn nhất trong toàn hệ thống NHCTVN, ngoài việc đáp ứng đủ nhu cầu vốn cho hoạt động đầu tư, cho vay, thanh toán, còn điều chuyển một khối lượng vốn lớn về quỹ điều hoà của NHCTVN. Năm 2007, hoạt động huy động vốn của SGD I có sự chuyển dịch cơ cấu, nguồn vốn huy động từ tiền gửi doanh nghiệp, nguồn tiết kiệm trong dân cư giảm trong khi nguồn khác tăng mạnh (hơn 100%). Có điều này là do trong năm qua một lượng lớn các công cụ nợ đã được phát hành, các hoạt động quảng cáo, tuyên truyền, kết hợp các hình thức khuyến mại nhằm vào mục tiêu huy động vốn, đặc biệt là trong các đợt phát hành kỳ phiếu, chứng chỉ tiền gửi, tiết kiệm dự thưởng … nên đã thu hút được khách hàng, kết quả luôn hoàn thành và vượt chỉ tiêu NHCTVN đề ra. Đồng thời, một nguồn lớn từ các tổ chức khác chuyển về là nhờ việc chủ động tiếp cận các đơn vị trực thuộc, các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức đoàn thể, các tổ chức tài chính phi NH có nguồn thu để huy động vốn. 2.1.3.2 Hoạt động tín dụng Hoạt động chủ yếu của SGD I NHCTVN là hoạt động tín dụng, nó mang lại thu nhập chủ yếu cho Sở. Bảng 70: Biến động của tổng dư nợ cho vay và đầu tư 2005 2006 2007 VNĐ 3.041 3.618 3.205 Ngoại tệ quy VNĐ 899 880 1.154 Tổng số 3.940 4.499 4.359 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2005, 2006, 2007) Qua bảng trên ta có thể thấy phần nào hoạt động tín dụng tại Sở, tuy là năm 2007 có giảm đi chút ít so với năm trước nhưng có thể nói hoạt động này khá ổn định. Ta có thể hiểu rõ hơn về hoạt động tín dụng tại SGD I NHCTVN qua một số bảng dưới đây: Bảng 81: Hiệu suất sử dụng vốn tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt NamGDI NHCT Chỉ tiêu 2005 2006 2007 VNĐ Ng.tệ quy VNĐ Tổng số VNĐ Ng.tệ quy VNĐ Tổng số VNĐ Ng.tệ quy VNĐ Tổng số Cho vay &đầu tư 3.041 899 3940 3.618 880 4.499 3.205 1.154 4.359 Cho vay 1.889 899 2.788 1.906 870 2.776 1.958 1.142 3.101 Hiệu suất(%) 62,1 100 70,8 52,7 98,9 61,7 61,1 99 71.1 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2005, 2006, 2007) Qua bảng trên ta có thể thấy được phần nào hoạt động tín dụng tại SGD I, hoạt động cho vay và đầu tư tương đối ổn định tuy nhiên hoạt động cho vay tại đây tăng lên đáng kể năm 2006 cho vay 2.776 tỷ đồng nhưng đến năm 2007 đã tăng lên 3.101 tỷ đồng nghĩa là tăng 325 tỷ đồng (tăng 12% so với năm ngoái). Một điểm dễ dàng nhận ra đó là cho vay bằng Việt Nam đồng có xu hướng giảm di so với việc cho vay bằng ngoại tệ, năm 2006 cho vay bằng ngoại tệ chiếm 31% so với tổng số nhưng đến năm 2007 chiếm gần 40%. Trên đây mới là phần tổng quát về hoạt động cho vay, để hiểu rõ và cụ thể hơn nữa về hoạt động tín dụng này ta có thể xem kết cấu dư nợ tín dụng. Có thể xác định theo nhiều cách nhiều loại, qua mỗi dạng đó ta có thể hiểu rõ hơn nữa tình hình tại Sở hiện nay. Bảng 92: Kết cấu dư nợ tín dụng theo kỳ hạn Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Cho vay ngắn hạn 987 895 1.008 Cho vay trung và dài hạn 1.801 1.881 2.093 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2005, 2006, 2007) Qua bảng phân tích về kết cầu dư nợ tín dụng theo kỳ hạn ta có thể thấy rõ được Sở chú trọng trong cho vay trung và dài hạn. Trong năm 2006 cho vay ngắn hạn có xu hướng giảm nhưng đến năm 2007 đã tăng trở lại nhưng vẫn chiếm tỷ trọng ít trong dư nợ tín dụng đó là chiếm 33% trong khi đó cho vay trung và dài hạn chiếm 67%. Bảng 10: Kết cấu dư nợ tín dụng theo thành phần kinh tế Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Kinh tế quốc doanh 2.066 2.081 2.341 Kinh tế ngoài quốc doanh 722 695 760 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2005, 2006, 2007) Còn khi xét về kết cấu dư nợ tín dụng theo thành phần kinh tế ta có thể dễ dàng nhận ra khách hàng vay vốn chủ yếu của Sở đó là khu vực kinh tế quốc doanh, chưa chú trọng khu vực ngoài quốc doanh. Qua bảng trên ta có thể thấy hoạt động cho vay ở khu vực này không đa dạng qua các năm, tương đối ổn định. So với khu vực này thì kinh tế quốc doanh có phần đa dạng và nhộn nhịp hơn. Trong năm 2007 cho vay trong khu vực quốc doanh là 2.341 tỷ đồng chiếm 75% dư nợ tín dụng trong khi đó khu vực kinh tế quốc doanh chỉ chiếm có 25%. Hoạt động tín dụng của Sở giao dịch I đã có sự chuyển biến tích cực về chất, mức độ tăng trưởng tín dụng phù hợp với khả năng quản lý và giám sát, cho vay thận trọng, không chạy theo số lượng mà hướng tới một cơ cấu tín dụng cân đối, hợp lý, chủ động rút dần dư nợ đối với doanh nghiệp yếu kém. Kết quả đó không những thể hiện ý thức chấp hành của Sở giao dịch I đối với chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ tín dụng của NHCTVN mà còn thể hiện sự nỗ lực rất lớn của đội ngũ CBTD trong việc tiếp thị tìm kiếm khách hàng mới. Trong năm qua đã có hơn 200 khách hàng doanh nghiệp thuộc ngành hàng liên quan đến quan hệ tiền gửi và vay vốn tại chi nhánh. Vốn tín dụng đã được đầu tư hiệu quả vào các doanh nghiệp, kinh doanh các ngành hàng lương thực thực phẩm, dược phẩm, hoá chất, ngành công nghệ truyền hình, bưu chính viễn thông, điện lực và dịch vụ giao thông vận tải. Cơ cấu khách hàng cũng từng bước được thay đổi, khách hàng là doanh nghiệp nhỏ và vừa, khách hàng tư nhân tăng lên rõ rệt, làm cho cơ cấu tín dụng bền vững hơn, phù hợp với chiến lược phát triển của NHCTVN.Chất lượng tín dụng đã được nâng lên rõ rệt, các khoản cho vay được thẩm định chặt chẽ, nợ quá hạn giảm cả về tỷ trọng và số tuyệt đối. 2.1.3.3 Hoạt động khác Năm 2007, thực hiện chỉ đạo của NHCTVN, Sở giao dịch I tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động như về loại hình dịch vụ ngân hàngNH triển khai rộng rãi các phương thức cung ứng dịch vụ tại chỗ cho khách hàng với chất lượng đảm bảo như giao/ nhận chứng từ và thu/ chi tiền tại đơn vị, dịch vụ internet banking…, tiếp tục đẩy mạnh phát triển dịch vụ thẻ, Sở giao dịch I đã ký hợp đồng với nhiều đơn vị để lắp máy ATM và có thêm nhiều đơn vị chấp nhận thẻ tín dụng Quốc tế, phát hành được gần 5000 thẻ, nâng tổng số thẻ đã phát hành lên tới hơn 20000 thẻ, thực hiện trả lương theo thẻ cho hơn 40 doanh nghiệp, góp phần tăng nguồn thu phí dịch vụ cho ngân hàngNH. Về hoạt động tài trợ thương mại thì năm 2007, hoạt động kinh doanh ngoaị tệ và thanh toán quốc tế có nhiều thuận lợi, cả nguồn vốn huy động ngoại tệ và tổng dư nợ ngoại tệ đều tăng lên so với năm 2006. Các hoạt động khác của NH đều đạt được những kết quả tốt đẹp như hoạt động thông tin - điện toán đã đảm bảo chương trình hiện đại hoá công nghệ ngân hàngNH thực hiện tốt, đã triển khai các phần mềm quản lý, cập nhật các chương trình kịp thời, khắc phục kịp thời các sự cố, đảm bảo đường mạng nội bộ thông suốt, phục vụ hoạt động giao dịch trôi chảy. Hoặc hoạt động kiểm tra, kiểm soát thì thực hiện kiểm tra đột xuất và toàn diện các quỹ tiết kiệm 2 lần/ năm. Qua kiểm tra phát hiện những thiếu sót, kịp thời đôn đốc chỉnh sửa, nên các mặt hoạt động đều đảm bảo đúng quy trình nghiệp vụ theo chế độ quy định. Năm 2007 Sở tiến hành nhiều hoạt động để giải quyết và nâng cao hơn nữa nghiệp vụ chuyên môn của cán bộ công nhân viên theo quy định của Nhà nước và của Tổng giám đốc NHCT VN. Nâng cao phong cách giao dịch với khách hàng. 2.2 THỰC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI SỞ GIAO DỊCH I NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG VIỆT NAM. 2.2.1 Một số quy định chung đối với hoạt động tín dụng SGD I là hội sở thuộc NHCTVN, là đơn vị với nguồn vốn huy động lớn nhất trong toàn hệ thống nên hoạt động cho vay được áp dụng theo những văn bản quy định của NHNNVN và được cụ thể hóa trong quy chế. Dưới đây bao gồm một số quy định chung đối vơi hoạt động cho vay tại SGD I: 2.2.1.1 Quy trình cho vay Bước 1: Hướng dẫn khách hàng về các điều kiện tín dụng và lập hồ sơ vay vốn. Khi khách hàng có nhu cầu vay vốn thì CBTD tại phòng khách hàng phải hướng dẫn cụ thể và đầy đủ về các điều kiện vay vốn tại SGD I. Khi họ đã chấp thuận thì hướng dẫn khách hàng lập hồ sơ vay vốn và các giầy tờ cần thiết. Bước 2: Điều tra, thu thập những thông tin về khách hàng và nghiên cứu phương án vay vốn của khách hàng. Bước 3: Phân tích, thẩm định khách hàng và phương án vay vốn. CBTD của SGD I thẩm định về tổng quát về khách hàng như: năng lực pháp lý, uy tín và khả năng tài chính. Đánh giá kiểm tra kế hoạch sản xuất kinh doanh, thu nhập, chi phí, tài sản đảm bảo, khả năng trả nợ của khách hàng. Hồ sơ vay vốn của khách hàng phải đầy đủ, hợp lệ, hợp pháp theo quy định. Để tránh trường hợp khi xảy ra tranh chấp, tố tụng thì đảm bảo an toàn pháp lý cho NH. Thời gian thẩm định một món vay thông thường không quá 15 ngày làm việc. Bước 4: Quyết định cho vay. Sau khi đã xem xét đầy đủ thủ tục giấy tờ người có thẩm quyền và trách nhiệm sẽ quyết định có nên cho vay hay không? Và phải chịu toàn bộ trách nhiệm với quyết định của mình đưa ra. Bước 5: Kiểm tra và hoàn chỉnh hồ sơ cho vay và thế chấp, cầm cố và bảo lãnh. Bước 6: Giải ngân cho khách hàng. Bước 7: Giám sát khách hàng sử dụng vốn vay có đúng như những thỏa thuận đã ghi trong hợp đồng không và theo dõi rủi ro. Bước 8: Thu hồi nợ và gia hạn nợ. Để đảm bảo an toàn cho NH thì ngay khi khách hàng có nguồn thu, họ phải tiến hành thu nợ ngay không để khách hàng sử dụng vào mục đích khác. Đối với những khoản nợ có vấn đề, khi khách hàng đề nghị gia hạn nợ, CBTD của Sở phải tiến hành thẩm định kiểm tra thưcj thế, lập tờ trình cho cấp trên quyết định. Các khoản nợ không gia hạn được phải thu hồi cả gốc và lãi bằng các biện pháp có thể thực hiện. Bước 9: Xử lý rủi ro Căn cứ vào chế độ văn bản pháp lý quy định lập đầy đủ hồ sơ pháp lý để giải quyết, CBTD phải xử lý rủi ro đối với những món nợ đã dùng mọi biện pháp không thu hồi được nợ. Bước 10: Thanh lý hợp đồng vay vốn. Sau khi thu nợ gốc, lãi và xử lý các khoản nợ không thể thu hồi thì việc thanh lý hợp đồng vay vốn là việc đối chiếu, tất toán các khoản cho vay của khách hàng, và chuyển hồ sơ vào kho lưu trữ. 2.2.1.2 Nguyên tắc cho vay Khách hàng vay vốn của SGD I NHCTVN phải tuân theo các nguyên tắc sau: Phải sự dụng vốn vay theo đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Phải hoàn trả nợ gốc và lãi tiền vay đúng hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng. Việc đảm bảo tiền vay thực hiện theo quy định của Chính Phủ và của Thống đốc NH Nhà nước Việt Nam, các văn bản chỉ đạo của NHCTVN. 2.2.1.3 Điều kiện vay vốn Khi khách hàng có đủ các điều kiện, NH sẽ xem xét cho vay: Có đủ năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm dân sự theo quy định của pháp luật Có khả năng tài chính đảm bảo nợ vay trong thời hạn cam kết và có số vốn tự có nhất định sẽ tham gia vào sản xuất kinh doanh, dịch vụ đời sống theo quy của NH Công thương trong cho vay ngắn, trung và dài hạn. Có mục đích sử dụng vốn hợp pháp. Có dự án đầu tư hoặc ơhương án sản xuất kinh doanh khả thi kèm theo phương án trả nợ khả thi. 2.2.1.4 Đối tượng cho vay Giá trị vật tư, hàng hóa, máy móc thiết bị bao gồm thuế giá trị gia tăng nằm trong tổng giá trị lô hàng và các khoản chi phí thực hiện dự án đầu tư; phương án sản xuất kinh doanh, dịch vụ hoặc dự án đầu tư. Số tiền thuế xuất khẩu, nhập khẩu khách hàng phải nộp để làm thủ tục xuất nhập khẩu, mà giá trị lô hàng đó SGD I NHCT có tham gia cho vay. NH không cho vay các đối tượng sau: Số tiền thếu phải nộp trừ số tiền thuế xuất nhập khẩu theo quy định trên. Số tiền để trả gốc và lãi vay cho các tổ chức tín dụng khác. Số tiền lãi vay trả cho chính SGD I NHCTVN trừ trường hợp cho vay số tiền lãi theo quy định trên. 2.2.2 Thực trạng rủi ro tín dụng tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam Dư nợ quá hạn của năm 2007 đã giảm rõ rệt, hầu như trong năm 2007 dư nợ quá hạn bằng không hoặc không đáng kể. Nhưng nhìn chung tình hình dư nợ quá hạn của Sở là rất nhỏ, qua đó ta có thể thấy tuy hoạt động cho vay chiếm chủ yếu nhưng những rủi ro tín dụng có thể xảy ra là rất ít. Bảng 11: Thực trạng rủi ro tín dụng thể hiện qua chỉ tiêu dư nợ quá hạn. Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Tổng dư nợ 2.788 2.776 3.101 Dư nợ quá hạn 7,2 1,5 0 Giảm nợ quá hạn so với năm trước 9,4 5,7 1,5 Phần trăm giảm nợ quá hạn so với năm trước 56,6% 79,2% 100% (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của năm 2005, 2006, 2007) Ta có thể thấy số nợ quá hạn tại Sở giao dịch I Ngân hàng Công thương Việt Nam đã giảm rõ rệt. Như năm 2005 nợ quá hạn là 7,2 tỷ đồng nhưng sang năm 2006 đã giảm rõ rệt xuống còn 1,5 tỷ đồng đã giảm 79,2% so với năm 2005. Đến năm 2007 số nợ quá hạn tại Sở gần như là không có. Qua đó ta có thể thấy được những nỗ lực cố gắng của CBTD ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33045.doc