Quản lý tiền cho vay của Ngân hàng thương Mại

LờI NóI ĐầU Trong công cuộc đổi mới hiện nay, trên đất nước ta đang diễn ra sôi động quá trình phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước theo định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa. Điều đó đòi hỏi phải nghiên cứu một cách có hệ thống nhiều lĩnh vực hoạt động kinh tế thuộc cơ chế mới, trong đó một lĩnh vực có vị trí hết sức quan trọng đó là lĩnh vực tiền tệ-ngân hàng. Bởi vì tiền tệ-ngân hàng là hệ thống thần kinh của nền kinh tế. Nó có va

doc35 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1320 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quản lý tiền cho vay của Ngân hàng thương Mại, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i trò rất to lớn trong việc thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Kinh nghiệm phát triển kinh tế của các nước đã chỉ ra rằng, mỗi bước thăng trầm của nền kinh tế đều có nguyên nhân sâu xa gắn liền với chính sách tiền tệ và hoạt động của ngân hàng. Mặt khác, trong nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước mọi vận hành kinh tế đều được tiền tệ hoá. Do vậy, bất kỳ một quá trình sản xuất kinh doanh nào dù ở bất kỳ cấp độ nào: gia đình, doanh nghiệp, quốc gia luôn cần một lượng vốn nhất định dưới dạng tiền tệ. Ngân hàng là một trong những tổ chức cung cấp vốn quan trọng nhất cho phần lớn các hoạt động sản xuất của nền kinh tế, ngân hàng thực hiện việc chu chuyển vốn từ nơi thừa đến nơi thiếu. Sau khi xác định được vốn dự trữ bắt buộc theo định mức và vốn tiền gửi có thể sử dụng để kinh doanh. Ngân hàng tìm những khách hàng có tín nhiệm, có thể đầu tư vốn an toàn. thu hồi vốn đúng hạn, tăng được tốc độ quay vòng vốn tín dụng, thu được nhiều lợi nhuận nhằm nâng cao hiệu qủa sử dụng vốn. Nhưng để thực hiện việc cho vay này đúng theo mong muốn thì đòi hỏi ngân hàng phải thực hiện đúng nguyên tắc quản lý tiền cho vay, phải am hiểu khách hàng thị trường và những chính sách, quy đinh của nhà nước về tiền tệ và tín dụng. Là một nhà hoạt đọng trong lĩnh vực ngân hàng trong tương lai để có kiến thức phục vụ cho việc kinh doanh trong lĩnh vực ngân hàng ngày càng tốt hơn, đem lại lợi ích cho bản thâm và xã hội em đã tiến hành nghiên cứu một số vấn đề quản lý tiền cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt nam hiện nay. Đây là một trong số những lĩnh vực được các nhà ngân hàng quan tâm để tăng cường hoạt động có lợi. NộI DUNG CHƯƠNG I: CƠ Sở Lý LUậN CủA VIệC QUảN Lý TIềN CHO VAY I.1. Tín dụng là gì ? Theo các nhà kinh tế học người Pháp: tín dụng là sự trao đổi một tài hoá hiện tại để lấy một tài hoá trong tương lai. Tín dụng là việc dịch chuyển vốn tạm thời từ nơi thừa sang nơi thiếu. Theo Việt Nam: tín dụng là sự vay mượn lẫn nhau giữa nguyên tắc hoàn trả kèm theo lợi tức . I.2. Bản chất của tín dụng Tín dụng là một phạm trù của nền kinh tế hàng hóa. Cần xem xét nội dung của phạm trù này để hiểu bản chất của nó. Tín dụng là mối quan hệ kinh tế giữa các doanh nghiệp. Vì vậy để hiểu được bản chất của tín dụng, phải xuất phát từ quá trình hoạt động của các doanh nghiệp. Mỗi loại hình doanh nghiệp khác nhau sẽ có quá trình luôn chuyển vốn khác nhau.Hơn nữa ngay trong bản thân doanh nghiệp quả trình luôn chuyển các loại vốn cũng khác nhau. Nên đối với một doanh nghiệp xẩy ra sự không trùng khớp giữa nhu càu về vốn và vôn tự có,coi như tư có: hoặc là doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn hoặc là đang tự thừa vốn. Nếu doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn thì doanh nghiệp sẽ có nhu cầu huy động thêm vốn để tiếp tục quá trình sản xuất kinh doanh. Nếu doanh nghiệp đang tạm thời thừa vốn thì doanh nghiệp có nhu cầu cho vay lấy lãi. Mặc dù doanh nghiệp luân tìm cách sử dụng tối đa vốn tự có và coi như tự có, song nếu khả năng thu hồi vốn thấp,hoặc lãi cho vay thấp không bù đáp nổi rủi ro có thể doanh nghiệp cũng không cho vay.Nếu chúng ta xem xét nhiều doanh nghiệp trong cùng một thời gian sẽ thấy có doanh nghiệp đang tạm thời thiếu vốn có nhu cầu đi vay và có doanh nghiệp đang tạm thời thừa vốn có nhu cầu cho vay. Hiện tượng kinh tế trên làm nảy sinh một số mối quan hệ kinh tế mà nội dung của nó là vốn được dịch chuyển tạm thời từ nơi thừa sang nơi thiếu với điều kiện hoàn trả vốn và lãi tiền vay. Từ nội dung của quan hệ tín dụng ta thấy, thực chất của tín dụng là quan hệ kinh tế nhằm bổ sung vốn tạm thời thiếu hụt của các doanh nghiệp. Một nhu cầu vốn thường xuyên lớn hơn vốn tự có và coi như tự có không thể được hình thành thông qua quan hệ tín dụng. Mặt khác tín dụng là quan hệ kinh tế nhằm giải quyết cả hai loại nhu cầu của các doanh nghiệp. Do đó về bản chất nó là quan hệ bình đẳng hai bên cùng có lợi, và mang tính thoả thuận rất lớn. I.3. Chức năng của tín dụng. Huy động và phân phối vốn tạm thời nhàn rỗi trên nguyên tắc hoàn trả. Đây là chức nâng chủ yếu của tín dụng phản ánh bản chất cuả tín dụng. Chức năng này của tín dụng được thể hiện thông qua các nghiệp vụ cơ bản sau: huy động vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội, dân cư thông qua các hình thức góp vốn, huy động tiếp kiệm, phát hành trái phiếu. Cho vay đối với các doanh nghiệp, cá nhân nhằm phục vụ sản xuất kinh doanh và tiêu dùng dưới hình thức cho vay bằng tiền hoặc bằng hàng hoá. Kiểm soát các hoạt động kinh tế: Tín dụng là quan hệ kinh tế được hình thành trên cơ sở rất nhiều quan hệ kinh tế khác. Bản thân quan hệ tín dụng cũng lại bao hàm nhiều mối quan hệ như: Quan hệ vay, quan hệ về dư nợ. Do đó quan hệ tín dụng bao hàm cả khả năng kiểm soát các loại hoạt đọng kinh tế của các doanh nghiệp. Để hình thành được quan hệ tín dụng, người cho vay phải biết và kiểm soát hoạt động của người đi vay như tình vốn liếng mặt hàng sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ nói riêng và tình hình tài chính nói chung, quan hệ với các chủ nợ khác…Các trục trặc trong quan hệ tín dụng như vay không trả được hoặc trả khong đúng hạn phản ánh những trục trặc trong quá trình sản xuất kinh doanh như khâu tiêu thụ hàng hoá, không có lãi, bị phá sản… I.4. Vai trò của tín dụng Là một mối quan hệ kinh tế, tín dung có những tác động nhất định đối với các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên vai trò của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào nhận thức và vận dụng quan hệ tín dụng vào xây dựng và quản lý kinh tế của con người. Trước hết tín dụng là công cụ tích tụ và tập trung vốn rất quan trọn. Thông qua tín dụng: Các doanh nghiệp nhận khối lượng vốn bổ sung rất lớn từ đó tăng quy mô sản xuất, tăng năng suất lao động, đổi mới thiết bị, áp dụng tiến bộ kỹ thuật. Tín dụng tâp trung các khoản tín dụng nhỏ, lẻ tẻ thành các khoản vốn lớn, tạo khả năng đầu tư vào các công trình lớn, hiệu quả cao. Tóm lại, thông qua quá trính tích tụ và tập trung vốn, tín dụng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển. Sau nữa tín dụng là công cụ bình quân hoá tỉ suất lợi nhuận. Tín dụng giúp các nhà doanh nghiệp đầu tư vào các ngành có tỉ suất lợi nhuận cao, kích thích khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuyển hướng sản xuất kinh doanh.Tín dụng trở thành công cụ làm cho kinh tế nói chung và các doanh nghiệp nói riêng trở nên năng động,mềm dẻo, linh hoạt. Bên cạnh đó, tín dụng là công cụ tăng vòng quay của vốn và tiết kiệm tiền mặt trong lưu thông. Chúng ta đã xem xét vai trò của tín dụng trên những phương diện tích cực. Điều cần lưu ý là những vai trò trên sẽ còn tích cực, thậm sẽ là tiêu cực dưới nhận thức và vận dụng sai lệch của con người. I.5. Tín dụng ngân hàng. Là một hình thức tín dụng quan trọng. Có thể nói mối quan hệ tín dụng giữa ngân hàng với các doanh nghiệp là quan hệ tín dụng chủ yếu, cung cấp phần lớn nhu cầu tín dụng cho các doanh nghiệp. Với công nghệ ngân hàng hiện nay, tín dụng ngân hàng càng trở thành một hình thức tín dụng chủ yếu không những ở trong nước mà còn trên trường quốc tế. I.5.1.Bản chất của tín dụng ngân hàng Tín dụng ngân hàng cũng mang bản chất chung của quan hệ tín dụng. Đó là quan hệ vay mượn có hoàn trả vốn và lãi sau một thời gian nhất định, là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn, là quan hệ bình đẳng và cả hai bên cùng có lợi. Đặc biệt tín dụng ngân hàng là mối quan hệ vay mượn giữa ngân hang và tất cã các doanh nghiệp, các cá nhân khác. Mối quan hệ tín dụng này không phải là mối quan hệ dịch chuyển vốn trực tiếp từ nơi thừa sang nơi thiếu mà thông qua cơ quan trung gian là các ngân hàng. I.5.2. Chức năng của tín dụng ngân hàng. Tín dụng ngân hàng thực hiện chức năng huy động và cho vay vốn tiền tệ trên nguyên tắc hoàn trả. Đối với tín dụng ngân hàng , chức năng này bao gồm hai nghiệp vụ được tách hẳn ra :Huy động vốn tạm thời nhàn rỗi và cho vay đối với những nhu cầu đang thiếu tạm thời. Đó là điểm mà nhiều loại hình tín dụng khác không có. Kiểm soát các hoạt động kinh tế khả năng kiểm soát các hoạt động kinh tế của tín dụng ngân hàng là rộng lớn hơn các hình thức tín dụng khác. Bởi vì bên cạnh quan hệ tín dụng với các doanh nghiệp và cá nhân, ngan hàng còn có quan hệ tiền tệ, thanh toán…với họ. Các mối quan hệ này bổ xung cho nhau, tạo điều kiện cho ngân hàng kiểm soát các doanh nghiệp dễ dàng hơn trong quan hệ tín dụng so với các doanh nghiệp khác. Chẳng hạn, trước khi cho một doanh nghiệp vay,ngân hàng có thể biết tương đối chính xác tình hình tài chính của doanh nghiệp đó I.6.Nghiệp vụ cho vay của ngân hàng Thương mại. Đối với một ngân hàng sau khi huy động được nguồn vốn thì tiến hành kinh doanh trên nguồn vốn đó. Ngân hàng Thương mại thực hiện nhiệm vụ cho vay đối với nền kinh tế đáp ứng nhu cầu vốn cho các thanhf viên của nền kinh tế. Cho vay là hoạt động kinh doanh chủ chốt để tạo ra lợi nhuận. Chỉ có lãi suất thu được từ cho vay mới bù nổi các chi phí tiền gửi, chi phí dự trữ, chi phí kinh doanh và quản lý, chi phí vốn trôi nổi, chi phí thuế và cả chi phí rủi ro đầu tư. CHƯƠNG II: NHữNG NGHUYÊN TắC QUảN Lý TIềN CHO VAY. II.1. Những thông tin cần nắm được trước khi quyết định cho vay. Trước khi quyết định làm bất cứ việc gì, phải nắm bắt đầy đủ những thông tin chính xác có liên quan đến việc đó thì mới tránh được những thiệt hại do sai lầm thiếu thông tin gây ra. Trong việc cho khách hàng vay vốn, nếu ngân hàng không có đủ những thông tin cần thiết về người đi vay thì rất dễ dàng bị thiệt hại do không đòi được nợ hoặc nợ quá hạn tăng lên. Ngân hàng thương mại kinh doanh trên địa bàn nào trước hết đòi hỏi phải am hiểu tường tận địa bàn đó như: tình hình kinh tế, xã hội, lịch sử, đất đai, hạb tầng tầng cơ sở, tài nguyên, dân cư, vốn liếng, của cải, bất động sản, tài sản lưu động, các quan hệ giao lưu kinh tế, tài chính đối với cấp trên, với địa bàn khác… bằng các số liệu thống kê cụ thể, chính xác do ngân hàng tự điều tra, sưu tầm có thể tin cậy được. Nền kinh tế thị trường vận động, biến đổi không ngừng nên hàng ngày phải theo dõi kịp thời diễn biến của các thị trường hàng hoá, thị trường tiền tệ, thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, sản lượng các sản phẩm chủ yếu của các nghành kinh tế, các chính sách kinh tế tài chính, đầu tư, xuất nhập khẩu, tỉ giả hối đoái, lãi suất, thuế, các đạo luật mới ban hành, những bíên động về giá hàng xuất nhập khẩu, giá vàng, giá ngoại tệ mạnh, giá nội tệ, những biến động về đầu tư trong nước, từ nước ngoài vào, thu chi ngân sách, những biến động có liên quan trực tiếp đến những người gửi tiền và vay tiền ngân hàn… để dự kiến các giải pháp đối phó hay chuẩn đối phó trong thời gian tới. Có những thông tin kinh tế chung là điều cần thiết không thể thiếu được, nhưng như vậy vẫn chưa đủ, còn phải có thông tin nhiều mặt về đối tượng đến vay vốn. Phải tiếp cận đến nơi đến chốn quá trình sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phải đánh giá được trình độ quản lý kinh doanh của chủ doanh nghiệp, vì trình độ kinh doanh nghiệp càng kém thì khả năng rủi ro mất vốn của ngân hàng khi cho vay càng lớn. II.2. Những điều kiện cho vay và những đảm bảo cho khoản vay. Ngân hàng chỉ cho khách hàng vay vốn khi đã có đủ cơ sở để tin tưởng khách hàng sẽ trả nợ đúng hạn đủ vốn và lãi. Chỉ khi nào khách hàng có đủ điều kiện để ngân hàng tin tưởng, thì lúc ấy mới có quan hệ tín dụng. Luật ngân hàng qui định: Các doanh nghiệp,tổ chức,cá nhân muốn vay tiền ngân hàng phải có đủ các điều kiện sau:phải có đơn xin vay, được ngân hàng kiểm tra khả năng vay nơ và khả năng trả nợ, người đi vay kí hợp đồng tin dụng với ngân hàng, người đi vay kí hơp đồng đảm bảo tín đụng với ngân hàng. Để đảm bảo trong hoạt động vay vốn của ngân hàng nhà nước ta có những quy định chặt chẽ việc cho vay phải có: Bảo lãnh : bảo lãnh là hành động cam kết trả nợ ngân hàng bằng giấy tờ hợp pháp của người nhận bảo lãnh cho người đi vay khi khoản nợ đã đến hạn mà người đi vay không có khả năng trả nợ. Trong giấy bảo lãnh phải ghi rõ tên người mắc nợ và số tền nhận bảo lãnh , như vậy có nghĩa là người bảo lãnh chỉ hạn chế việc bảo lãnh của mình trong phạm vi số tiền nợ mà người đi vay đã thừa nhận . Cầm cố giấy tờ có giá, hàng hoá và tài sản khác:để được vay vốn, người đi vay phải cầm cố cho ngân hàng tài sản của mình như giấy tờ có giá, hàng hoá, vàng, đá quý… Nhà nước ta quy định giá trị khoản vay không được vượt quá 70% giá trị tài sản cầm cố hoặc thế chấp, ngân hàng Nhà Nước ban hành quyết định 217 về “giao tài sản” là việc bên cầm cố phải đưa tài sản cho ngân hàng, hoặc bên thứ 3 nắm giữ trong suốt thời gian hợp đồng. Và quy định bên bảo lãnh phải lập một danh mục tài sản dùng vào việc bảo lãnh và số tiền cho vay tối đa không vượt quá 70% giá trị tài sản dùng vào việc bảo lãnh. Cầm cố bất động sản : bất động được cầm cố như nhà ở, đất đai, ruộng rẫy, sau khi làm thủ tục càm cố người đi vay mới nhận được tiền vay. Người đi vay phải trả nợ đúng hạn theo hợp đồng tín dụng, không được đem bất động sản đã cầm cố cho ngân hàng này tiếp tục cầm cố cho ngân hàng khác để đượcvay thêm tiền ở ngân hàng khác. Cần chú ý thường xuyên đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng, nếu khả năng này không có thì có nghĩa là người vay đã mất khả năng thanh toán hoặc đã vỡ nợ. Cho nên, sau khi đã bỏ vốn ra cho các công ty vay, việc kiểm tra sử dụng vốn vay, kiểm tra khả năng toán, trả nợ đối với ngân hàng không lúc nào được lơ là, mà phải tiến hành thường xuyên, liên tục. II.3. Vấn đề quản lý tiền cho vay có hiệu quả Sự lựa chọn đối nghịch trong thị trường cho vay nảy sinh bởi vì những người rất kém tín nhiệm lại là những người thường xếp hàng để vay tiền, những người vay tiền với những dự án đầu tư rất rủi ro có nhiều cái để được lợi nếu các dự án của họ được thành công và như vậy họ là nhữnh người khao khát nhận món vay nhất. Mặt khác, rủi ro đạo đức nảy sinh trong các thị trường vay nợ bởi vì những người vay tiền có ý muốn thực hiện những hoạt động không đáng mong muốn theo quan điểm của người cho vay, khi những người vay đã có món tiền vay, họ dễ có thể đàu tư vào những dự án có rủi ro cao. Để có lợi nhuận, các ngân hàng phải vượt qua những vấn đề lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức này, những vấn đề khiến cho sự vỡ nợ có thể xảy ra. Sự cố gắng của các ngân hàng để giải quyết các vấn đề này giúp ta giải thích những nguyên tắc quản lý các món tiền cho vay sau đây. II.3.1. Sàng lọc và giám sát. Lựa chọn đối nghịch trong các thị trường cho vay đòi hỏi rằng các ngân hàng phải lọc những người mạo hiểm vay tín dụng có tiển vọng tốt ra khỏi những người mạo hiểm vay tín dụng có triển vọng xấu, nhờ vậy các món tiền cho vay sẽ có lợi cho ngân hàng đó. Nhằm thực hiện việc sàng lọc một cách có hiệu quả, các ngân hàng phải tập hợp thông tin tin cậy về những người vay tiền có triển vọng. Sàng lọc một cách có hiệu quả và tập hợp thông tin, tạo ra một nguyên tắc quan trọng của việc quản lý món tiền cho vay. Khi một người đến vay ngân hàng, ngân hàng nắm bắt thông tin về người này và tiến hành phân tích xem người này có phải là người mạo hiểm và tín dụng có triển vọng tốt đến mức nào, nó dự báo liêuj người đó có khó khăn khi tanh toán món tiền vay hay không. Việc giám sát va cưỡng chế thi hành những qui định hạn chế. Một khi một món tiền cho vay được thực hiện, người vay có ý muốn tiến hành những hoạt động rủi ro để món vay này có thể ít có khả năng thanh toán. Để giảm bớt tính chất có thể như vậy của rủi ro đạo đức, các ngân hàng phải theo nguyên tắc quản lý tiền vay bằng cách giám sát những hoạt động của người vay để xem liệu họ có tuân theo những quy định hay không và cưỡng chế thi hành những quy định nếu họ không tuân theo. II.3.2. Quan hệ khách hàng lâu dài và quy tắc tín dụng Một cách nữa để các ngân hàng thu được thông tin về những người vay tiền của họ là nhờ quan hệ khách hàng lâu dài-một nguyên lý quan trọng khác của việc quản lý ngân hàng. Quan hệ khách hàng lâu dài giúp cho các ngân hàng có thể đối phó với những sự bất ngờ rủi ro đạo đức mà ngay cả ngân hàng cũng không lườn trước được ở lúc ban đầu. Mối quan hệ khách hàng lâu dài dễ dàng cho việc tập hợp thông tin. Ngoài ra, các điều khoản trong thoả ước về mức tín dụng này đòi hỏi hãng đó cung cấp thường xuyên cho ngân hàng này những thông tin về tình hình thu nhập, tài sản có và tài sản nợ, về các hoạt động kinh doanh…một thoả ước về mức tín dụng là một phương pháp rất hữu hiệu để giảm chi phí cho việc sàng lọc và tạp hợp thông tin của ngân hàng . II.3.3.Vật thế chấp và số dư bù. Những bắt buộc về vật thế chấp đối với tiền cho vay là những công cụ quan trọng để quản lý ngân hàng. Vật thế chấp là vật sở hữu được hứa cho người cho vay nếu người vay vỡ nợ. Một dạng riêng của vật thế chấp bắt buộc khi ngân hàng cho vay thương mại gọi là số dư bù. Một hãng khi nhận đựơc tiền vay phải giữ một số vốn tối thiểu bắt buộc trong một tài khoản séc ở ngân hàng cho nó vay. Ngoài việc có tác dụng như vật thế chấp, các số dư bù giúp tăng được khả năng món tiền cho vay sẽ được hoàn trả. Số dư bù đóng vai trò này giúp ngân hàng giám sát người vay đó và ngăn ngừa rủi ro đạo đức. Bất kỳ thay đổi quan trọng nào trong các thủ tục thanh toán của người vay đều là một tín hiệu báo cho ngân hàng rằng phải tiến hành điều tra. Những số dư bù giúp cho ngân hàng dễ giám sát những người vay tiền một cách hiệu quả hơn và là một công cụ quảm lý quan trọng. II.3.4.Hạn chế tín dụng Một phương pháp khác để giúp những ngân hàng thành đạt đối phó với lựa chọn đối nghịch và rủi ro đạo đức là việc hạn chế tín dụng. Những ngân hàng từ chối cho vay mặc dù những người vay sẵn lòng thanh toán lãi suất đã được công bố thậm chí một lãi suất cao hơn. Việc hạn chế tín dụng có hai dạng: Dạng thứ nhất diễn ra khi một ngân hàng từ chối một món cho vay với số lượng bất kỳ nào đối với người vay, ngay cả khi người vay sẵn lòng thanh toán một lãi suất cao hơn. Dạng thứ hai diễn ra khi một ngân hàng sẵn lòng cho vay nhưng hạn chế mức vay đó dưới mức mà người vay này muốn. Để đề phòng rủi ro đạo đức các ngân hàng thường thực hiện dạng hạn chế tín dụng thứ hai vì món tiền vay được càng lớn thì người vay càng có nhiều ý muốn thực hiện những hoạt động khiến ít có thể thanh toán được món vay đó. Chương III: Thực trạng việc cho vay của các ngân hàng thương mại ở Việt Nam hiện nay. III.1.Quy chế cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng. Quy chế này được ban hành kèm theo quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN nfgày 30/9/1998 của Thống Đốc Ngân hàng Nhà nước quy định về việc cho vay bằng đồng Việt Nam và ngoại tệ của tổ chức tín dụng đối với khách hàng nhằm đáp ứng nhu cầu vốn cho sản xuất và kinh doanh, dịch vụ, đầu tư phát triển và đời sống. Cụ thể: quy chế quy định về: quyền tự chủ trong cho vay của các tổ chức tín dụng, nguyên tắc vay vốn, điều kiện vay vốn, loại cho vay, đối tượng cho vay, thời hạn cho vay, lãi suất cho vay, mức cho vay, trả nợ gốc và lãi. Điều 14: Quy định về hồ sơ vay vốn. Khi có nhu cầu vay vốn, khách hàng gửi cho tổ chức tín dụng những giấy tờ sau: Giấy đề nghị vay vốn. Giấy đề nghị vay vốn phải có nội dung cơ bản như: tên, địa chỉ khách hàng vay vốn, số tiền cần vay, mục đích vay vốn, các cam kết và sử dụng tiền vay, trả nợ, trả lãi và các cam kết khác. Tổ chức tín dụng quy định cụ thể các loại tài liệu khách hàng cần phải gửi phù hợp với đặc điểm cụ thể của từng loại khách hàng. Điều 15: Thẩm định và quyết định cho vay. Tổ chức tín dụng xây dựng quy định trình xét duyệt cho vay theo nguyên tắc bảo đảm tính độc lập và phân định rõ ràng trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm liên đới giữa khâu thẩm định và quyết định cho vay. Tổ chức tín dụng kiểm tra các tài liệu khách hàng gửi đến, đồng thời tiến hành thẩm định tính khả thi, hiệu quả của dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh và khả năng hoàn trả nợ vay. Trong thời gian không quá mười ngày làm việc đối với cho vay ngắn hạn và không quá 45 ngày làm việc đối với cho vay trung, dài hạn kể từ khi tổ chức tín dụng nhận được đầy đủ hồ sơ vay vốn hợp lệ và thông tin cần thiết của khách hàng theo yêu cầu của tổ chức vay đối với khách hàng. Trong trường hợp quy định không cho vay, tổ chức tín dụng phải thông báo cho khách hàng bằng văn bản, trong đó nêu rõ căn cứ từ chối cho vay. Điều 16: Phương thức cho vay. Tổ chức tín dụng thoả thuận với khách hàng về phương thức cho vay phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn vay và khả năng kiểm tra, giám sát việc khách hàng sử dụng vốn vay theo một trong các phương thức cho vay sau: Cho vay từng lần: Mỗi lần vay vốn khách hàng và tổ chức tín dụng làm thủ tục vay vốn cần thiết và ký hợp đồng tín dụng. Cho vay theo hạn mức tín dụng: Tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong thời gian nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Cho vay vốn: Một nhóm tổ chức tín dụng cùng cho vay đối với một dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn của khách hàng: trong đó, có một tổ chức tín dụng làm đầu mối dàn xếp, phối hợp với các tổ chức tín dụng khác. Việc cho vay hợp vốn thức hiện theo quy định của quy chế này và quy chế đồng tài trợ của các tổ chức tín dụng do Thông Đốc Ngân hàng Nhà nước ban hành. Cho vay trả góp: Khi vay vốn, tổ chức tín dụng và khách hàng xác định và thoả thuận số lãi tiền vay phải trả cộng với số nợ gốc được chia ra trả nợ theo nhiều kỳ hạn trong thời hạn cho vay, tài sản mua bằng vốn vay chỉ thuộc sở hữu của bên vay khi trả nợ đủ gốc và lãi. Cho vay theo hạn mức tín dụng dự phòng: Tổ chức tín dụng cam kết đảm bảo sẵn sàng cho khách hàng vay vốn trong phạm vi hạn mức tín dụng nhất định. Tổ chức tín dụng và khách hàng thoả thuận thời hạn hiệu lực của hạn mức tín dụng dự phòng, mức phí trả cho mức hạn mức tín dụng dự phòng. Cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng: Tổ chức tín dụng chấp thuận cho khách hàng được sử dụng số vốn vay trong phạm vi hạn mức tín dụng để thanh toán tiền mua hàng hoá, dịch vụ và rút tiền tự động hoặc diểm ứng tiền mặt là đại lý của tổ chức tín dụng. Khi cho vay phát hành và sử dụng thẻ tín dụng, tổ chức tín dụng và khách hàng phải tuân theo các quy định của chính phủ và ngân hàng Nhà nước về phát hành và sử dụng thẻ tín dụng. Điều 18: Hợp đồng tín dụng. Sau khi quyết định cho vay, tổ chức tín dụng và khách hàng ký kết hợp đồng tín dụng. Hợp đồng tín dụng phải có nội dung về điều kiện vay, mục đích sử dụng tiền vay, cách thức giải ngân và sử dụng vốn vay, số tiền vay, lãi suất, thời hạn vay, phương thức và kỳ trả nợ, hình thức bảo đảm tiền vay, giá trị tài sản đảm bảo, biện pháp xử lý tài sản làm đảm bảo, chuyển nhượng hoặc không chuyển nhượng hợp đồng tín dụng và những cam kết khác được các bên thoả thuận. Điều 22: Kiểm tra, giám sát vốn vay. Tổ chức tín dụng có thách nhiệm kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. Tổ chức tín dụng tiến hành kiểm tra, giám sát trước, trong và sau khi cho vayphù hộp với đặc điểm hoạt động của tổ chức tín dụng và đặc điểm kinh doanh và sử dụng vốn vay của khách hàng. Điều 25: Quyền và nghĩa vụ của khách hàng. Khách hàng vay có quyền: Từ chối yêu cầu của tổ chức tín dụng không đúng với thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Khiếu nại, khởi kiện việc vi phạm hợp đồng tín dụng theo quy định của pháp luật. Khách hàn có nghĩa vụ: Cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin, tài liệu liên quan đến việc vay vốn và chịu trách nghiệm về tính chính xác của các thông tin, tài liệu đã cung cấp. Sử dung tiền vay đúng mục đích và thức hiện đúng các nội dung khác đã thoả thuậ trong hợp đồng tín dụng. Trả nợ gốc và lãi tiền vay theo thoả thuận trong hợp đồng tín dụng. Chịu trách nhiệm trước pháp luật khi không thứ hiện đúng những thoả thuận về việc trả nợ vay và thức hiện các nghĩa vụ bảo đảm nợ vay đã cam kết trong hợp đồng tín dụng. Điều 26: Quyền và nghĩa vụ của tổ chức tín dụng. Tổ chức tín dụng có quyền: yêu cầu khách hàng cung cấp tài liệu chứng minh dự án đầu tư hoặc phương án sản xuất kinh doanh khả thi, khả năng tài chính của mình và của người bảo lãnh trước khi quyết định cho vay. Từ chối yêu cầu vay vốn của khách hàng nếu thấy không đủ điều kiện vay vốn, dự án vay vốn hoặc phương án vay vốn không có hiệu quả, không phù hợp với quy định của pháp luật hoặc tổ chức tín dụng không có đủ nguồn vốn để cho vay. Kiểm tra, giám sát quá trình vay vốn, sử dụng vốn vay và trả nợ của khách hàng. Cấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiện khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng. Khởi kiện khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng hoặc người bảo lãnh theo quy định của pháp luật. Khi đến hạn trả nợ, nếu các bên không có thoả thuận khác thì tổ chức tín dụng có quyền bán tài sản làm bảo đảm theo sự thoả thuận trong hợp đồng để thu hồi nợ theo quy định của pháp luật hoặc yêu cầu người bảo lãnh thức hiện nghĩa vụ bảo lãnh đối với trường hợp người khách hàng được bảo lãnh vay vốn. Miễn, giảm lãi tiền vay, gia hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn nợ, mua bán nợ theo quy định của ngân hàng Nhà nước và thức hiện việc đảo nợ, khoanh nợ, xoá nợ theo quy đinh của chính phủ. Tổ chức tín dụng có nghĩa vụ: thức hiệ đúng thoả thuân trong hợp đồng tín dụng. Lưu giữ hồ sơ tín dụng phù hợp với quy định của pháp luật. Ngoài ra quy chế còn quy định về cho vay bằng ngoại tệ, giới hạn cho vay, những trường hợp không cho vay được, hạn chế cho vay, ra hạn nợ, điều chỉnh kỳ hạn trả nợ, miễn, giảm lãi tiền vay, cho vay ưu đãi, cho vay đầu tư xây dựng theo kế hoạch Nhà nước. III.2. Các loại cho vay ngắn hạn về vốn lưu động. Về nguyên tắc, vốn tự có của doanh nghiệp lúc nào cũng phải thoả mãn được các nhu cầu ngắn hạn về vốn lưu động để đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động bình thường. Nhưng thực tế không phải lúc nào cũng diễn ra đúng như vậy, mà có lúc nhu cầu về vốn lưu động thấp hơn vốn lưu động tự có, ngược lại có lúc nhu cầu về vốn lưu động lại cao hơn vốn lưu động tự có khi đó doanh nghiệp phải xin vay vốn ngân hàng để bù đắp cho đủ nhu cầu vốn sản xuất kinh doanh bị thiếu hụt. Thường thì các doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất dài đều thiếu vốn lưu động, còn các doanh nghiệp có chu kỳ sản xuất ngắn ít khi thiếu vốn lưu động. Những doanh nghiệp có nhiều hàng tồn kho hoặc bị khách hàng chiếm dụngvốn, sẽ phải vay vốn ngân hàng nhiều hơn. Cho vay ngắn hạn về vốn lưu động của ngân hàng thương mại bao gồm: Cho vay hỗ trợ ngân quỹ: loại cho va0y này được dùng để bù đắp số vốn tạm thời thiếu hụt trong một thời gian ngắn trong quỹ của doanh nghiệp. Do chưa đến hạn thu tiền bán hàng đã phải trả tiền mua nguyên vật liệu sản phẩm , trả lương cho công nhân, nộp thuế… nên doanh nghiệp có nhu cầu vay vốn trong vài ba ngày đẻ thực hiện những khoản chi trước mắt. Chiết khấu thương phiếu: Những người cung cấp hàng hoá, dịch vụ chấp nhận cho khách hàng không phải trả tiền ngay mà được trả chậm theo kỳ hạn, nhưng phải viết giấy nhận nợ do người bán lập ra. Những giấy tờ đó gọi là thương phiếu. Trong việc cho vay chiết khấu thương phiếu thường có hợp đòng tín dụng chiết khấu. Cơ sở đảm bảo cho tiền vay trong tín dụng chiết khấu thương phiếu là lượng hàng hoá mua chịu của người mua khong thể tránh khỏi trường hợp thương phiếu lập ra không có cơ sở vật tư hàng hoá bảo đảm. Tín dụng ứng trước: Tín dụng ứng trước là một thể thức cho vay được thực hiện trên cơ sở hợp đồng tín dụng, trong đó ngân hàng chấp nhận cho người vay sử dụng một mức cho vay trong mmọt thời gian nhất định. Có hai loại cho vay ứng trước là cho vay ứng trước có bảo đảm và cho vay ứng trước khong bảo đảm. Cho vay ứng trước có bảo đảm được thực hiện khi ngân hàng chưa thực sự tin tưởng vào khả năng kinh doanh và tình hình tài chính của người đi vay, nên đòi hỏi người đi vay phải có tài sản đảm bảo cho khoản vay để ngân hàng yên tâm đã có một nguồn khác trả nợ cho ngân hàng nếu khoản cho vay này khong thu hồi được khi đến hạn trả, thông thường có một số ứng trước có đảm bảo như: ứng trước có sự bảo lãnh của người thứ ba, ứng trước có đảm bảo bằng thế chấp bất động sản, ứng trước có đảm bảo bằng hàng hoá, ứng trước có đảm bảo bàng kim loại quý hoặc chứng khoán. Cho vay trước không bảo đảm, đây là loại tín dụng trung hạn và tín dụng tiêu dùng. III.3. Các loại cho vay trung hạn và dài hạn. Tín dụng trung hạn và dài hạn là loại tín dụng đầu tư bao gồm các khoản cho vay tài sản cố định. Những khoản vay có thời hạn từ một đến hai năm được coi là tín dụng trung hạn. Những khoản vay từ hai năm trở nên được coi là tín dụng trung dài hạn. Đối tượng cho vay của tín dụng trung, dài hạn là: chi phí mua đất, thuê đất, chi phí xây dựng cơ bản nông, lâm, ngư nghiệp, chi phí xây dựng nhà xưởng, kho tàng, chi phí mua sắm máy móc, thiết bị, phương tiện sản xuất, chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng, chi phí mua sắm phương tiện vận tải. Các khoản cho vay trung hạn và dài hạn của ngân hàng đều được hoàn trả bằng nguồn vốn tự tài trợ của doanh nghiệp vay vốn ngân hàng. Nguồn vốn tự tài trợ của doanh nghiệp trước hết là các khoản khấu hao sau đó là các khoản dự trữ, dự phòng, tích trữ lợi nhuận hàng năm của doanh nghiệp. III.3.1. Cho vay trung hạn. Thời hạn cho vay của cho vay trung hạn trong phạm vi từ hai đến bẩy năm. Khi quy định thời hạn này, người ta căn cứ vào thời hạn khấu hao của các tài sản cố định được dùng để đảm bảo cho khoản vay, đó là những máy móc,công cụ, thiết bị nhỏ mà thời hạn khấu hao của chúng chỉ trong phạm vi từhai đến bẩy năm. Ngân hàng quy định thời hạn của tín dụng trung hạn đến bẩy năm nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiẹep vay vốn có đủ khả năng trả nơj bằng nguồn vố tự tài trợ. Đây là loại tín dụng thích hợp với doanh nghiệp vừa và nhỏ nên được các doanh nghiệp này đem tài sản đến cầm cố ở ngân hàng ngày càng nhiều để vay trung hạn. III.3.2. Cho vay dài hạn. Tín dụng dài hạn là các khoản cho vay dài hạn của các ngân hàng có thời hạn từ bẩy năm trở nên. Trên lý thuyết, thời hạn của tín dụng dài hạn không có giới hạn cuối cùng nhưng hiện nay các ngân hàng thương mại chỉ cho vay với thời hạn từ 10 đến 15 năm. Thời hạn cụ thể của khoản cho vay dài hạn được xác định tuỳ theo thời hạn khấu hao của bất động sản thế chấp nhằm tài trợ cho các doanh nghiệp mua sắm máy móc, công cụ mới ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0808.doc
Tài liệu liên quan