Quản trị kinh doanh & quyết định quản trị kinh doanh

Lời nói đầu Có thể nói ra quyết định là sự lựa chọn một trong số các phương án hành động là cốt lõi của việ xây dựng kế hoạch. Không thể tồn tại một kế hoạch nếu một quyết định đó là những cam kết về những nguồn tài lực, phương hướng hoặc uy tín nhưng chưa được công bố. Các nhà quản lý đôi khi xem việc ra quyết định như là một công việc trung tâm của họ bởi vì họ phải thường xuyên lựa chọn phải làm cái gì? Ai làm cái đó? Khi nào, ở đâu? và thậm trí công việc đó được làm như thế nào? Tuy nhiên r

doc23 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1334 | Lượt tải: 1download
Tóm tắt tài liệu Quản trị kinh doanh & quyết định quản trị kinh doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
a quyết định chỉ là một bước trong việc lập kế hoạch, đôi khi nó được thực hiện một cách nhanh chóng, ít phải xuy nghĩ, hay đôi khi nó chỉ chi phối trong ít phút. Nó cũng là một bộ phận trong cuộc sống hàng ngày của mọi người. Một chương trình hành động ít khi được xem xét một cách độc lập, bởi vì rõ ràng là mọi quyết định đều phải ăn khớp với những kế hoạch khác. Có những vấn đề cụ thể được xem xét như những yêu cầu về nghiên cứu và phân tích một cách hệ thống hoá trước một quyết định được tập trung xem xét. Nhưng việc ra quyết định có hiệu quả đòi hỏi một sự lựa chọn phương hướng hành động hợp lý. Nhưng hợp lý cái gì? Khi nào thì đưa ra các quyết định một cách hợp lý? Chính bởi thế bài tiểu luận này nhằm đáp ứng được phần nào những yêu cầu nói trên. Tuy nhiên trong khuôn khổ có hạn, bài tiểu luận này chắc chắn sẽ không khỏi có những thiếu sót, mong thầy cô và các bạn đóng góp và sửa đổi để bài tiểu luận này được hoàn thịên hơn./ Phần I: TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ KINH DOANH VÀ QUYẾT ĐỊNH QUẢN TRỊ KINH DOANH I.Quản trị kinh doanh. Quản trị kinh doanh có thể hiểu: Quản trị kinh doanh là hoạt động liên tục, có tổ chức, có hướng đích của chủ thể Doanh nghiệp lên tập thể những người Lao động trong Doanh nghiệp, sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội nhằm đạt được mục tiêu đề ra của Doanh nghiệp theo đúng luật định và thông lệ của xã hội. II.Quyết định Quản trị kinh doanh. Khái niệm: Quyết định quản trị là hành vi sáng tạo của chủ doanh nghiệp (Giám đốc) nhằm định ra mục tiêu chương trình và tính chất hoạt động của doanh nghiệp, để giải quyết một vấn đề đã chín mùi trên cơ sở hiểu biết các quy luật vận động khách quan của hệ thống bị quản trị và việc phân tích các thông tin về hiện trạng của hệ thống. Từ khái niệm này có thể xác định nội dung của một quyết định là nhằm để trả lời được các câu hỏi sau đây: Phải làm gì? Làm như thế nào? Ai làm? Khi nào làm? Làm trong bao lâu? Làm ở đâu? Điều kiện vật chất để thực hiện là gì? Ai sẽ cản trở quyết định, mức độ và cách xử lý? Kết quả tối thiểu phải đạt là gì? Tổ chức kiểm tra và tổng kết báo cáo như thế nào? Hiệu quả của việc ra quyết định? Các loại quyết định. Có nhiều loại quyết định; theo cách phản ứng của người ra quyết định, thì quyết định có hai loại quyết định cơ bản: Những quyết định trực giác và những quyết định có lý giải. Các quyết định trực giác là các quyết định xuất phát từ trực giác của con người. Người ra quyết định không cần phải tới lý trí hay sự phân tích can thiệp vào. Đôi khi các quyết định này được căn cứ vào các quyết định trước đó , nghĩa là chúng làm lại điều mà người ta đã làm trước đây trong những trường hợp tương tự, việc ra quyết định trực giác khá dễ dàng, nhưng nó dễ phạm sai lầm vì các quyết định trực giác thường giữ chân ta lại trong quá khứ và cung cấp cho chúng ta ít khả năng đề ra được cái mới hay cải tiến những phương pháp hiện có. Các quyết định lý giải. Các quyết định này dựa trên sự phân tích và sự nghiên cứu có hệ thống một số vấn đề. Các sự việc được nêu ra, các giải pháp khác nhau được đen so sánh, và người ta sẽ đi đến quyết định hoàn hảo nhất, dựa theo tất cả các yếu tố liên quan tới nó. Đây là các quyết định rất cần thiết trong tất cả các trường hợp có thể xảy ra, vì nó buộc ta phải vận dụng tất cả các khả năng tâm trí để lựa chọn. Nó làm nổi lên các trạng thái sáng tạo về việc giải quyết các vấn đề và cho phép ta cân nhắc các vấn đề với một phương pháp xuy nghĩ lô-gíc, nhờ đó mà giảm bớt được các nhầm lẫn. Phần II: NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ Yêu cầu đối với các quyết định quản lý: Tính khách quan và khoa học: Dựa trên cơ sở phân tích tình hình mọi mặt, bằng kiến thức và kinh nghiệm để xử lý các thông tin, đề ra giải pháp sát đúng; tránh chủ quan tuỳ tiện và đơn giản theo cảm tính. Bảo đảm các nguồn lực để cấp dưới thực hiện. Các quyết định là cơ sở quan trọng bảo đảm cho tính hiện thực và hiệu quả của việc thực hiện chúng, cho nên nó không được chủ quan tuỳ tiện thoát ly thực tế. Vì quyết định là sản phẩm chủ quan sáng tạo của con người do đó đảm bảo tính khách quan không phải là việc đơn giản, nhất là trong những trường hợp việc thực hiện các quyết định có liên quan đến lợi ích của người đưa ra quyết định. Tính khoa học của các quyết định là sự thể hiện của những cơ sở căn cứ, thông tin, nhận thức, kinh nghiệm của nhà quản trị trong việc xử lý, giải quyết những tình huống cụ thể xuất hiện đòi hỏi có sự can thiệp bằng các quyết định của họ, nó phải tuân thủ đòi hỏi của các quy luật khách quan. Có định hướng: Thực hiện ý đồ chiến lược của doanh nghiệp, quy tụ mọi nguồn lực hướng vào mục tiêu cần đạt tới; làm cho người thực hiện thấy rõ công việc phải làm. Một quyết định quản trị bao giờ cũng phải nhằm vào các đối tượng nhất định, có mục dích, mục tiêu, tiêu chuẩn xác định. Việc định hướng quyết định nhằm để người thực hiện thấy được phương hướng công việc cần làm, các mục tiêu phải đạt. Điều này đặc biệt quan trọng đối với các quyết định có tính lựa chọn mà người thực hiện được phép linh hoạt hơn, sáng tạo hơn trong quá trình thực hiện quyết định. Tính hệ thống: Xem xét mọi yếu tố trong qua trình kinh doanh, liên kết được hoạt động của các bộ phận trong hoạt động tổng thể; tránh phiến diện và các mâu thuẫn giữa các quyết định đơn nhất. Yêu cầu của tính hệ thống đối với các quyết định trong quản lý kinh doanh đòi hỏi mỗi quyết định đưa ra phải nhằm đạt được một nhiệm vụ nhất định, nằm trong một tổng thể các quyết định đã có và sẽ nhằm đạt được mục đích chung. Tính tối ưu: Khẳng định phương án tốt nhất trong các phương án được đưa ra xem xét, cân nhắc với đầy đủ căn cứ. Trước mỗi vấn đề đặt ra cho doanh nghiệp thường có thể xây dựng được nhiều phương án khác nhau cùng nhằm đạt tới mục tiêu. Yêu cầu phải bảo đảm tính tối ưu có nghĩa là quyết định sẽ đưa ra để thực hiện phải là quyết định có phương án tốt hơn những phương án quyết định khác và trong trường hợp có thể được thì nó phải là phương án quyết định tốt nhất. Tính cô đọng dễ hiểu: Dù được biểu hiện dưới hình thức nào các quyết định đều phải ngắn gon, dễ hiểu, để một mặt tiết kiệm được thông tin tiện lợi cho việc bảo mật và di chuyển, mặt khác làm cho chúng đỡ phức tạp làm cho người thực hiện có thể hiểu sai lệch về mục tiêu, phương tiện và cách thức thực hiện. Tính pháp lý: Quyết định phải tạo được sự ràng buộc trách nhiệm mang tính bắt buộc (có thưởng phạt nghiêm minh), đúng thể chế hiện hành. Đòi hỏi các quyết định đưa ra phải hợp pháp và các cấp thực hiện phải thực hiện nghiêm chỉnh. Tính có độ đa dạng hợp lý: Trong nhiều trường hợp các quyết định có thể phải điều chỉnh trong quá trình thực hiện. Những quyết định quá cứng nhắc, sẽ khó thực hiện và khi biến động của môi trường sẽ khó điều chỉnh được. Tính cụ thể về thời gian thực hiện: Các quyết định phải mang tính cô đọng và dễ hiểu với người thực hiện, quy định về thời gian rõ ràng. Trong mỗi quyết định cần bảo đảm những quy định về mặt thời gian triển khai, thực hiện và hoàn thành để cấp thực hiện không được kéo dài thời gian thực hiện. Để thực hiện những yêu cầu đối với các quyết định, phải bảo đảm các yêu cầu sau: I.Các nguyên tắc cơ bản khi ra quyết định. Nguyên tắc về định nghĩa. Người ta chỉ đạt được một quyết định lô-gíc khi vấn đề đã được định nghĩa rồi. Muốn giải quyết có hiệu lực vấn đề, đầu tiên phải hiểu rõ vấn đề đó. Thời gian dùng để tìm ra giải pháp cho một vấn đề là vô ích, bởi vì con người hay tự thoả mãn trong việc xử lý các diễn biến của nó mà quên không bàn tới nội dung sâu sắc của nó. Nguyên tắc về sự xác minh đầy đủ. Một quyết định lô-gíc phải được bảo vệ bằng các lý do xác minh đúng đắn. Tất cả mọi quyết định lô-gíc phải được dựa trên những cơ sở vững chắc. Người ta phải bảo vệ được những quyết định đã đề ra bằng cả một tổng thể những sự việc hiển nhiênvà có thể kiểm tra lại để chứng tỏ quyết định đó là hợp lý và lô-gíc. Mà một người khác nếu quan sát tình hình dưới góc độ đó và trong hoàn cảnh đó, thì dù họ có thể có những ý kiến bất đồng hay những kiến nghị và lợi ích khác thì họ cũng buộc phải đi tới cùng kết luận đó. Nguyên tắc về sự thống nhất. Thực tế thường xảy ra tình trạng cùng một sự việc, có thể có nhiều quan điểm nhiều cách nhìn nhận khác nhau tuỳ thuộc vào người quan sát và không gian, thời gian diễn ra sự việc đó Ví dụ: cạnh tranh dưới thời cơ chế quản lý bao cấp của các nước XHCN bị coi là một hiện tượng xấu, thì ngày nay tất cả các nước thực hành nền kinh tế thị trường đều coi là một hiện tương tất yếu và lành mạnh. Cho nên ta cần phải xác định một cáhc rõ ràng những sự việc và để làm việc đó, cần phải chắc rằng ta đã nghĩ tới những sự khác nhau có thể có do các sự thay đổi về địa điểm hay thời đại gây ra. II.Các bước đưa ra quyết định: Quá trình đề ra quyết định bao gồm các bước sau: 1-Sơ bộ đề ra nhiệm vụ: Quá trình quyết định nhiệm vụ phải bắt đầu từ việc đề ra nhiệm vụ, nhưng không phải bao giờ cũng đề ra ngay được nhiệm vụ một cách chính xác. Tuỳ theo mức độ nghiên cứu những vấn đề mới xuất hiện, giải quyết những vấn đề này có ảnh hưởng nhiều hay ít đến kết quả của quyết định. Vì thế trong quá trình đề ra quyết định, phải làm rõ thêm nhiệm vụ đã đề ra và đôi khi phải thay đổi nhiệm vụ. Khi đề ra nhiệm vụ, nếu tương tự như những nhiệm vụ đã được quyết định trước đây, có thể sử dụng kinh nghiệm đã có và đạt ngay được mức độ chính xác cao. Khi quyết định những nhiệm vụ có nội dung mới ở bước đầu phải sơ bộ đề ra nhiệm vụ và làm rõ dần nó trong quá trình quyết định nhiệm vụ. Muốn đề ra nhiệm vụ, trước hết cần phải xác định: Vì sao phải đề ra nhiệm vụ, nhiệm vụ đó thuộc loại nào, tính cấp bách của nó. Tình huống nào trong sản xuất có liên quan đến nhiệm vụ đề ra, những nhân tố làm ảnh hưởng đến nhiệm vụ. Khối lượng thông tin cần thiết đã có để đề ra nhiệm vụ, cách thu thập những thông tin còn thiếu. 2- Chọn tiêu chuẩn đánh giá phương án: Muốn so sánh các phương án một cách khách quan để lựa chọ phương án tốt nhất cũng như thấy rõ khả năng thực hiện mục đích đề ra cần phải có tiêu chuẩn đánh giá có hiệu quả. Tiêu chuẩn đánh giá có hiệu quả phải thể hiện được bằng số lượng, cố gắng phản ánh đầy đủ nhất những kết quả dự tính sẽ đạt được, phải cụ thể, dễ hiểu, đơn giản. Thường các tiêu chuẩn được chọn từ các chỉ tiêu: chi phí nhỏ nhất, năng xuất cao nhất, sử dụng thiết bị nhiều nhất, sử dụng vốn sản xuất tốt nhất v v…..tuỳ theo mục đích chính của nhiệm vụ đựơc đề ra. Việc chọn các tiêu chuẩn dánh giá hiệu quả là quá trình quan trọng và phức tạp. Nếu không chú ý đến điều này, khi đề ra nhiệm vụ dễ nêu ra những mục đích chung chung, do đó dễn đến những khó khăn lớn khi chọn quyết định. 3- Thu thập thông tin để làm rõ nhiệm vụ đề ra: Chỉ có thể giải quyết đúng đắn một vấn đề nào đó khi có thông tin đầy đủ và chính xác. Lượng thông tin cần thiết phụ thuộc vào tính phức tạp của nhiệm vụ được xét và phụ thuộc vào trình độ thành thạo, kinh nghiệm của người ra quyết định. Người lãnh đạo lành nghề có kinh nghiệm khi giải quyết những vấn đề thường gặp, có thể bổ xung những thông tin đã nhận được, xuất phát từ kinh nghiệm của mình trong các trường hợp tương tự. Nhưng cần thiết phải thu thập mọi thông tin, nếu điều kiện cho phép, về tình huống nhất định vấn đề một cách cân nhắc, phải có biện pháp bổ sung tin. Đôi khi cần giải quyết những vấn đề cấp bách và quan trọng, người lãnh đạo có thể trực tiếp tìm hiểu tình hình tại chỗ. Công việc này thường không tốn nhiều thời gian mà lại giúp người lãnh đạo có thông tin cần thiết, đầy đủ và chính xác nhất. Không phải mọi thông tin thu lượm được, luôn luôn chính xác đầy đủ. Trong một số trường hợp, thông tin bị sai lệch một cách có ý thức do xuất phát từ các lợi ích cục bộ, hoặc phải truyền đạt qua nhiều cấp bậc. Nhưng thông tin bị bóp méo một cách vô ý thức vì cùng một hiện tượng những người khác nhau có thể có những ý kiến chủ quan khác nhau hoặc trong cạnh tranh nhiều thông tin giả (nhiễu) được các đối thủ ném ra để đánh lạc hướng đối phương vv…Cho nên, người lãnh đạo phải chú ý tất cả những điều đó khi đánh giá các nguồn thông tin. 4- Chính thức đề ra nhiệm vụ: Bước này có ý nghĩa rất quan trọng khi đề ra quyết định đúng đắn. Chỉ có thể chính thức đề ra nhiệm vụ khi xử lý các thông tin thu được do kết quả nghiên cứu về tính chất của nhiệm vụ, tính cấp bách của việc giải quyết nhiệm vụ đó, tình huống phát sinh, việc xác định mục đích và tiêu chuẩn đánh giá hiệu quả. 5- Dự kiến các phương án tổng thể: Nếu những phương án quyết định sơ bộ trình bày dưới dạng kiến nghị. Những phương án sơ bộ này thường xuất hiện ngay ở các bước đề ra nhiệm vụ. Cần xem xét kỹ lưỡng mọi phương án quyết định có thể có. Trước hết, nên sử dụng kinh nghiệm đã có khi giải quyết những vấn đề tương tự. Nếu như kinh nghiệm đó là kinh nghiệm tốt và những phương án riêng biệt đã cho những kết quả tốt thì nên đưa những phương án đó vào trong số các phương án quyết định. Tuy nhiên, không nên dừng lại ở đó mà nên tìm các phương án giải quyết nhiệm vụ có hiệu quả hơn. Có thể dùng phương pháp lập luận lô-gic và trực giác của người lãnh đạo để lựa chọ phương án. Cần xác định xem xây dựng phương án nào thì có lợi, còn phương án nào khó thực hiện do nguyên nhân nào đó. Để lựa chọn lần cuối chỉ nên để lại những phương án quyết định thiết thực nhất, bởi vì số lượng các phương án càng nhiều thì càng khó phân tích, đánh giá hiệu quả của chúng. 6- Xây dựng mô hình toán học: Các phương án của những quyết định phức tạp dược nghiên cứu bằng mô hình toán học. Mô hình phản ánh hoặc tái tạo đối tượng, thay thế đối tượng để sau khi nghiên cứu mô hình thu được những thông tin về đối tượng đó. Mô hình của đối tượng đơn giản hơn và chỉ phản ánh những mặt cơ bản để đạt mục tiêu. Các mô hình cho phép nghiên cứu các phương án quyết định với hao phí về sức lực, phương tiện và thời gian ít nhất. Nhờ mô hình và máy vi tính người ta xác định hiệu quả các phương án theo tiêu chuẩn đánh giá đã chọn. Trên cơ sở đó, có thể lựa chọn được phương án quyết định tối ưu. 7- Đề ra quyết định: Sau khi đánh giá những kết quả dự tính của quyết định và lựa chọn được phương án tốt nhất, chủ doanh nghiệp phải trực tiếp đề ra quyết định và chịu trách nhiệm trực tiếp về quyết định đó 8-Truyền đạt quyết định đến người thi hành và lập kế hoạch tổ chức: - Trước hết, quyết định phải được thực hiện dưới hình thức mệnh lệnh hay chỉ thị có hiệu lực hành chính, chuyển xuống cấp dưới. - Giải thích cho những người thực hiện về tầm quan trọng của quyết định (lợi ích sẽ đạt được hoặc hậu quả nếu không chấp hành tốt). + Vạch ra chương trình, kế hoạch tổ chức thực hiện, định rõ giới hạn hiệu lực của quyết định và trình tự tiến hành, phân công rõ ai làm, thời gian bắt đầu và kết thúc, thực hiện bằng phương tiện gì….. + Chỉ đạo thực hiện kế hoạch sâu sát, cụ thể và linh hoạt. Đặc biệt chú ý việc bố trí cán bọ đủ số lượng cần thiết và đúng khả năng; giao rõ trách nhiệm và quyền hạn. + Kiểm tra tình hình thực hiện để kịp thời phát hiện những sai sót và kịp thời đề ra biện pháp xử lý khắc phục. Kiểm tra sẽ nâng cao trách nhiệm của người thi hành, động viên và thúc đẩy tiến trình thực hiện quyết định. Kiểm tra việc thực hiện quyết định: Kiểm tra tình hình thực hiện quyết định có vai trò quan trọng vì nó có hai ảnh hưởng tới thực tiễn kinh tế. Thứ nhất, kiểm tra tác động tới hành vi của con người, nâng cao trách nhiệm của họ và động viên họ thực hiện chính xác những hoạt động đã nằm trong kế hoạch: thứ hai, việc tiến hành kiểm tra liên tục thúc đẩy sự thực hiện kịp thời và có trình tự các nhiệm vụ đã đặt ra. Như vậy, tổ chức tốt việc kiểm tra sẽ đem lại cho quá trình thực hiện quyết định sự linh hoat cần thiết; nếu không xã hội sẽ chịu những thiệt hại lớn. Những thiệt hại đó bao gồm những sự trì trệ, sai hỏng vv..xảy ra do các quyết định không được hoàn thành đúng thời hạn hoặc do kỷ luật lao động bị vi phạm. Từ đó, người ta thấy rõ mục đích của việc kiểm tra không chỉ là để kịp thời phát hiện những chỗ sai lệch với chương trình đã định, mà còn để kịp thời đề ra những biện pháp khắc phục những lệch lạc đã thấy, hoặc tốt hơn là nhằm ngăn ngừa việc xảy ra những lệch lạc, tận dụng những thời cơ có lợi. Việc kiểm tra được tổ chức tốt sẽ là một sự liên hệ ngược có hiệu lực tốt, nếu không sẽ không giải quyết kịp thời các vấn đề đang xuất hiện, không khắc phục được những khâu yếu vv….và quá trình quản trị khó tiến hành một cách bình thường. Điều chỉnh quyết định: Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự cần thiết phải điều chỉnh quyết định trong quá trình thực hiện chúng. Các nguyên nhân đó thường là: Tổ chức không tốt việc thực hiện quyết định. Có những sự thay đổi đột ngột do nguyên nhân bên ngoài gây ra. Có sai lầm nghiêm trọng trong bản thân quyết định và một số nguyên nhân khác. Không nên do dự trong việc điều chỉnh quyết định khi một tình huống đã hình thành làm cho một quyết định trước đây đã mất hiệu lực, không còn là một nhân tố tổ chức mà trái lại trên một chừng mực nào đó đang trở thành một nhân tố phá hoại. Đối với các quyết định được đề ra trong điều kiện bất định, cần dự kiến trước những sửa đổi trong quá trình thực hiện chúng. Những điều kiện bất định thể hiện ở chỗ thông tin không đầy đủ, khiến cho tầm dự đoán bị thu hẹp đáng kể, nhưng nhiệm vụ lại yêu cầu phải đề ra quyết định không chờ đợi đến khi hoàn toàn hiểu rõ tình hình. Trong điều kiện như vậy, khi đề ra quyết định, chủ doanh nghiệp đã xuất phát từ chỗ là khi tình huống đã lộ rõ hoàn toàn hay khi tích luỹ được kinh nghiệm cần thiết thì quyết định được sửa đổi. Sự điều chỉnh quyết định không nhất thiết là do xuất hiện tình huống bất lợi. Chẳng hạn, trong quá trình thực hiện có thể phát hiện ra những khả năng mới mà trước đó chưa dự kiến được, đem lại kết quả cao hơn kết quả dự định, vì thế cần có những sửa đôỉ quyết định. Chủ doanh nghiệp cần có bản lĩnh, đôi khi phải khắc phục cả sự phản đối trực tiếp để điều chỉnh quyết định, tránh để tình trạng quyết định quá ư vô lý gây nên tâm trạng chán trường cho những người thi hành. Mặt khác, cần chú ý rằng: Những sửa đổi nhỏ không căn bản sẽ tạo nên các sáo trộn về mặt tổ chức, gây nên sự mất tin tưởng ở tính ổn định của nhiệm vụ và dẫn đến những thiệt hại lớn hơn so với việc không sửa đổi. 11-Tổng kết việc thực hiện quyết định. Cần nhìn lại từng bước đã qua, phân tích các thành tựu, ưu điểm cũng như sai lầm, thiếu sót; từ đó rút ra được các nguyên nhân để làm bài học kinh nghiệm cho chu trình sau. Sẽ không có nhiều ý nghĩa nếu chỉ chú trọng mục đích động viên tinh thần; điều quan trọng hơn là qua tổng kết, mỗi người quản lý (hoặc thừa hành) thấy được mình đã làm như thế nào, hiệu quả đến mức nào, có những tiềm năng gì chưa được khai thác, phát huy…… Phần III: ỨNG DỤNG THỰC TIỄN TRONG DOANH NGHIỆP I.Đánh giá tầm quan trọng của một quyết định đối với doanh nghiệp. Vì các nhà quản lý không chỉ ra các quyết định chính xác mà còn phải làm cho chúng có tính kinh tế đến mức cần thiết có thể được, và vì họ phải thường xuyên đề ra quyết định, cho nên những chỉ dẫn về tầm quan trọng tương đối của các quyết định là rất bổ ích. Những quyết định không quan trọng không cần thông qua khâu nghiên cứu và phân tích, thậm trí có thể uỷ thác an toàn mà không gây nguy hiểm cho các cá nhân người quản lý chịu trách nhiệm. Tầm quan trọng của một quyết định còn phụ thuộc vào phạm vi trách nhiệm, cho nên về mặt thực hành một quyết định có thể rất quan trọng đối với một trưởng phòng. Phạm vi hay độ dài ràng buộc. Nếu một quyết định ràng buộc một doanh nghiệp vào một khoản chi phí rất lớn, hoặc vào một chương trình nhân sự quan trọng, như trương trình đánh giá và đào tạo cán bộ quản lý, hoặc nếu như một cam kết chỉ có thể hoàn thành qua một thời gian dài….thì nên có sự quan tâm thích đáng của một cấp quản lý cao hơn. Sự linh hoạt của một kế hoạch. Một kế hoạch có thể dễ dàng thay đổi, trong các kế hoạch này, chứa đựng khả năng thuận lợi cho sự thay đổi phương hướng trong tương lai. Rõ ràng là các quyết định liên quan đến chương trình hành động không có tính linh hoạt cần phải được xem xét trước so với các quyết định mà ta có thể thay đổi một các dễ dàng. Độ chắc chắn của các mục tiêu và tiền đề. Nếu như mục tiêu hay tiền đề đủ chắc chắn, thì một quyết định dựa trên chung sẽ ít khó khăn, ít đòi hỏi tính xét đoán và phân tích hơn so với những nơi mà chúng có độ bất định cao. Khả năng lược hoá biến số. Ở những nơi mà ta có thể đo lường một cách chính xác các mục tiêu, các lượng vào, các ràng buộc và các biến số, thì tầm quan trọng của các quyết định có xu hướng kém hơn ở nơi khó đo lường chúng. Chẳng hạn như đầu vào xác định trong một phân xưởng máy công cụ, thì tầm quan trọng của quyết định có xu hướng kém hơn so với những nơi mà ở đó đầu vào (như định giá sản phẩm tiêu dùng mới, hoặc quyết định về kiểu cách sản phẩm) khó xác định hơn nếu các yếu tố khác tương tự như nhau. Yếu tố con người. Ở đâu có sự tác động của quyết định vào con người càng lớn, thì tầm quan trọng của quyết định càng cao. Không một ai khi đưa ra một quyết định có ảnh hưởng đến những người khác lại có thể bỏ qua sự cần thiết để cho họ chấp nhận quyết định. · Trong thực tế, tất cả các nhà quản lý cho dù hoạt động trong một doanh nghiệp Nhà nước, hay liên doanh…đều phải xét tới mức độ ảnh hưởng của môi trường bên ngoài tác động đến doanh nghiệp trước khi họ đi đến một quyết định cụ thể cho doanh nghiệp mình.Trong khi họ có thể thay đổi chút ít hoặc không thể thay đổi các lực lượng này, thì họ không có sự lựa chọ mà phải phản ứng với chúng. Họ phải xác định, ước lượng và phản ứng đối với các lực lượng ở bên ngoài cơ sở, mà chúng có thể ảnh hưởng tới quyết định của doanh nghiệp. Những ảnh hưởng sau: Về mặt kinh tế: vốn cơ bản, nguồn lao động, các mức giá, năng xuất, chính sách tài chính và thuế của Nhà nước, khách hàng. Ảnh hưởng về mặt khoa học công nghệ, về mặt xã hội, về mặt chính trị pháp luật. · Thực tế như tại Công ty Unilever Việt Nam, được các giới chuyên môn nhận định rằng; nguyên nhân thành công của Unilever Việt Nam chính là họ quyết định đề ra chiến lược kinh doanh thích ứng với điều kiện của Việt Nam. Bởi vì Unilever rất chú trọng tìm hiểu, lắng nghe để nắm bắt nhu cầu thị trường, thị hiếu người tiêu dùng địa phuơng và địa phương hoá trong các hoạt đông sản xuất kinh doanh. Một trong những phương trâm nhằm quyết định hoạt động của Công ty là “Tư duy theo kiểu người Việt Nam”, tìm hiểu phong tục, tập quán, thói quen, nhu cầu của người dân Việt Nam, từ đó đề những quyết định chiến lược nghiên cứu phát triển phù hợp nhất: Về sản phẩm: Công ty kết hợp sáng tạo giữa công nghệ quốc tế và hương liệu truyền thống trong dầu gội Sunsilk bồ kết. Về dịch vụ: Công ty có hệ thống phân phối bán hàng rộng khắp, phục vụ tốt không chỉ ở Thành phố, huyện thị mà còn ở vùng xa, đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng một cách nhanh chóng và tin cậy. Về con người: Công ty đầu tư rất lớn lĩnh vực y tế, giáo dục, xoá đói giảm nghèo và phòng chống thiên tai. II.Trở ngại của doanh nghiệp đối với quyết định. Một vấn đề đã chín mùi và đã được đặt ra, song quyết định có đưa nó ra thực hiện hay không còn phụ thuộc vào động cơ và bản lĩnh của một giám đốc. Một quyết định đúng hay sai đều phụ thuộc rất lớn vào động cơ của người định ra nó. Những động cơ có ảnh hưởng trực tiếp đến việc ra quyết định của giám đốc đó là: Lợi ích kinh tế (bao gồm lợi ích cá nhân, lợi ích doanh nghiệp và lợi ích của xã hội), các ràng buộc vĩ mô và uy tín trách nhiệm của giám đốc. Ngoài việc phụ thuộc vào động cơ, quyết định còn phụ thuộc vào bản lĩnh của giám đốc, tức là người giám đốc có dám chấp nhận rủi ro để vượt qua mọi trở ngại trong khi ra quyết định hay không. Các trở ngại thường xảy ra là sự thiếu chuẩn xác, thiếu đồng bộ hoặc bất hợp lý của hệ thống luật pháp Nhà nước, mâu thuẫn giữa tham vọng và khả năng có hạn, cuối cùng là sự biến động hàng ngày của thị trường. Bên cạnh đó, trong quá trình hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp vẫn còn có những khó khăn và vướng mắc cần được tháo gỡ. Như các doanh nghiệp có hiện tượng lợi dụng sơ hở của các quyết định chính sách quản lý hiện nay để làm việc vi phạm trái với các quyết định như: mua bán hoá đơn, sử dụng hoá đơn giả, kê khai không vốn đăng ký kinh doanh, gian lận thương mại thông qua giá nhằm mục đích chốn thuế. Ngoài ra nhiều quyết định không được xem xét và phân tích kỹ càng đã được đưa ra thực hiện, đã gây không ít những khó khăn cho các doanh nghiệp, đã làm chơ cơ cấu bộ máy tổ chức lủng củng, không đồng bộ, dẫn đến sự thiếu đồng bộ giữa các bộ phận trong một doanh nghiệp, làm giảm năng xuât lao động…và thiệt thòi nhất vẫn là người lao động. Để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình, các doanh nghiệp cần tiến hành nhanh hơn các đối thủ cạnh tranh đang hoạt đông rất năng động và biết rất rõ về mình. Cụ thể, các doanh nghiệp cần ý thức rằng bán hàng khó hơn sản xuất rất nhiều. Doanh nghiệp phải xem xét kỹ lưỡng khi quyết định nghiên cứu thị trường, đàm phán với khách hàng để sản xuất, tránh tình trạng sản xuất tràn lan rồi không biết bán cho ai. Khi làm ăn với nước ngoài, đăng ký thương hiệu và tôn trọng sở hữu trí tuệ là diều kiện không thể thiếu của các doanh nghiệp. Bên cạnh đó doanh nghiệp cần tận dụng triệt để những lợi thế của mình để tập trung đầu tư vào nguồn nhân lực, mở rộng thị phần. Mặt khác khi quyết định một sản phẩm mới ra đời, muốn thâm nhập vào thị trường cần có nhiều thời gian và tiền bạc cho công việc tiếp thị, quảng cáo, đào tạo nhân viên cho lĩnh vực này cũng là một quyết định rất quan trọng để doanh nghiệp nâng cao năng lực cạnh tranh của mình. PHẦN iv: LỜI KẾT Qua sự phân tích trên, ta có thể thấy một quyết định có ý nghĩa như thế nào với một doanh nghiệp. Đây cũng là một yếu tố rất quan trọng trong công tác quản trị doanh nghiệp. Trong mọi trường hợp, không kể là quyết định có được thực hiện đầy đủ và đúng quyền hạn hay không, đều cần đúc kết các kết quả thực hiện quyết định. Qua việc đúc kết các kết quả, các tập thể biết được họ đã làm việc như thế nào, đạt kết quả ra sao, lao động của họ có tầm quan trọng cho xã hội như thế nào. Đó cũng là sự học tập thực tiễn ngay trên kinh nghiệm của mình, làm phong phú kho tàng kinh nghiệm quản lý, kiểm tra hiệu quả của cách đề ra và cách thực hiện quyết định quản lý.Trong quá trình chuẩn bị đưa ra quyết định, cần xem xét chu đáo, tất cả các giai đoạn công tác, phân tích rõ tất cả những thành công cũng như những sai lầm, thiếu sót, phát hiện những tiềm năng chưa được sử dụng. Hệ thống mọi chỉ tiêu và nhân tố của hoạt động kinh tế, mối liên hệ qua lại và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa chúng.Khi quyết định cần xây dụng kế hoạch, lựa chọn và kiểm tra những thông tin cần thiết, phân tích và so sánh các chỉ tiêu kinh tế- kỹ thuật, tìm ra nguyên nhân của thành công hoặc thất bại và đánh giá tổng hợp. TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình Tổ chức Quản lý – Trường Đại học QLKD Hà nội. Giáo trình Khoa học Quản lý - Trường Đại học QLKD Hà nội. Giáo trình Tổ chức Quản lý – Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Giáo trình Lý Thuyết Quản trị Kinh doanh - Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Những vấn đề cốt yếu của Quản lý –Nhà xuất bản KHKT. Báo Doanh Nghiệp tháng 5-2002 Lời nói đầu 1 Phần I: TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ KINH DOANH VÀ QUYẾT ĐỊNH QUẢN TRỊ KINH DOANH 2 I.Quản trị kinh doanh. 2 II.Quyết định Quản trị kinh doanh. 2 1. Khái niệm: 2 2. Các loại quyết định. 3 Phần II: NHỮNG YÊU CẦU ĐỐI VỚI CÁC QUYẾT ĐỊNH QUẢN LÝ 4 v Yêu cầu đối với các quyết định quản lý: 4 1- Tính khách quan và khoa học: 4 2- Có định hướng: 4 3- Tính hệ thống: 5 4- Tính tối ưu: 5 5- Tính cô đọng dễ hiểu: 5 6- Tính pháp lý: 6 7- Tính có độ đa dạng hợp lý: 6 8- Tính cụ thể về thời gian thực hiện: 6 I.Các nguyên tắc cơ bản khi ra quyết định. 6 b. Nguyên tắc về sự xác minh đầy đủ. 7 c. Nguyên tắc về sự thống nhất. 7 II.Các bước đưa ra quyết định: 8 1-Sơ bộ đề ra nhiệm vụ: 8 2- Chọn tiêu chuẩn đánh giá phương án: 8 3- Thu thập thông tin để làm rõ nhiệm vụ đề ra: 9 4- Chính thức đề ra nhiệm vụ: 10 5- Dự kiến các phương án tổng thể: 10 6- Xây dựng mô hình toán học: 11 7- Đề ra quyết định: 11 8-Truyền đạt quyết định đến người thi hành và lập kế hoạch tổ chức: 11 9- Kiểm tra việc thực hiện quyết định: 12 10- Điều chỉnh quyết định: 13 11-Tổng kết việc thực hiện quyết định. 14 Phần III: ỨNG DỤNG THỰC TIỄN TRONG DOANH NGHIỆP 15 I.Đánh giá tầm quan trọng của một quyết định đối với doanh nghiệp. 15 1- Phạm vi hay độ dài ràng buộc. 15 2- Sự linh hoạt của một kế hoạch. 15 3- Độ chắc chắn của các mục tiêu và tiền đề. 16 4- Khả năng lược hoá biến số. 16 5- Yếu tố con người. 16 II.Trở ngại của doanh nghiệp đối với quyết định. 18 PHẦN iv: LỜI KẾT 20 TÀI LIỆU THAM KHẢO 21 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docM0670.doc
Tài liệu liên quan