Quản trị nội bộ tại Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương

LỜI NÓI ĐẦU Trong nền kinh tế thị trường hiện nay các giao dịch kinh tế diễn ra ngày càng sôi động trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, cùng với sự phát triển đó thì nhu cầu tất yếu là cần phải có một cơ sở pháp lý nhằm bảo đảm cho việc thực hiện các giao dịch này. Hợp đồng là một là một lựa chọn hàng đầu đối với các nhà đầu tư. Hiện nay, đa số các giao dịch đều được cụ thể hóa dưới hình thức hợp đồng, nó là căn cứ nhằm ràng buộc các bên vào những gì mà họ đã cam kết, để khi có tranh chấp xảy

doc93 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1186 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quản trị nội bộ tại Công ty cổ phần chứng khoán Châu Á Thái Bình Dương, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ra thì đó là một trong các căn cứ quan trọng để xác định trách nhiệm của các bên. Trong điều kiện nước ta mới gia nhập WTO, được hội nhập trong môi trường kinh tế cạnh tranh công bằng và lành mạnh, mà ở đó sự bảo hộ của nhà nước là gần như không tồn tại vì vậy các doanh nghiệp phải tự mình vận động để tồn tại và phát triển trong môi trường cạnh tranh khốc liệt như ngày nay. Chính vì vậy vấn đề pháp lí về hợp đồng được các bên đặc biệt chú ý, nhằm đảm bảo tính chặt chẽ về mặt nội dung và hình thức trong tất cả các giao dịch và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất. Hiện nay pháp luật về hợp đồng của nước ta đã hình thành và ngày càng hoàn thiện đồng thời cũng đang được điều chỉnh cho phù hợp với pháp luật hợp đồng của thế giới có như vậy mới bảo đảm khả năng hội nhập với nền kinh tế thế giới. Hiện nay các hợp đồng về mua bán hàng hóa, dịch vụ chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng số các loại hợp đồng mà các doanh nghiệp thực hiện, vì trên thực tế hiện nay thì nền kinh tế dịch vụ và mua bán hàng hóa mang lại một doanh thu khổng lồ cho nền kinh tế quốc dân các nước. Với một khối lượng hàng hóa dịch vụ khổng lồ lưu thông trên thị trường mà không có hợp đồng thì rất dễ gây ra sự hỗn loạn trong nền kinh tế. Trên thực tế thì vai trò của hợp đồng là không thể phủ nhận nhưng còn rất nhiều vấn đề cần nghiên cứu và hoàn thiện hành lang pháp lý. Trong công ty trách nhiệm hữu hạn Nhà nước một thành viên Thăng Long - GTC hàng năm đàm phán và kí kết một khối lượng hợp đồng tương đối lớn, đặc biệt là các hợp đồng mua bán hàng hóa, dịch vụ. Các hợp đồng này hàng năm đem lại cho công ty những khoản thu rất lớn vì đây là một công ty nhà nước mà hoạt động chủ yếu là dịch vụ. Trong đó các hợp đồng về dịch vụ du lịch chiếm tỷ trọng không nhỏ, gồm cả hợp đồng du lịch mang bản chất là dân sự và cả hợp đồng du lịch mang tính chất kinh doanh thương mại. Do hoạt động du lịch của Công ty TNNHH Nhà nước một thành viên Thăng Long GTC là tương đối rộng nên trong phạm vi hạn hẹp của bài báo cáo chuyên đề này tôi chỉ đề cập đến những hợp đồng dịch vụ du lịch mang bản chất là hợp đồng dân sự ( tức là những hợp đồng du lịch được ký kết giữa cá nhân khách du lịch ( người tiêu dùng dịch vụ du lịch) với một bên là đại diện Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC Trong giai đoạn thực tập chuyên đề này tôi xin đề cập đến “PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ DU LỊCH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG TẠI CÔNG TY TNHH NHÀ NƯỚC MỘT THÀNH VIÊN THĂNG LONG -GTC” Để bài viết được thành công tôi rất hi vọng nhận được sự giúp đỡ của cán bộ công ty và giáo viên hướng dẫn thực tập chuyên đề. Bài viết được chia làm 3 phần lớn là : Chương I. Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch. Chương II. Thực tiễn ký kết và thực hiện hợp đồng dịch vụ du lịch tại Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC. Chương III. Nhận xét và một số kiến nghị. CHƯƠNG I. PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ HỢP ĐỒNG. Hợp đồng là sự thỏa thuận ý chí giữa các cá nhân tổ chức có năng lực chủ thể để từ đó làm xuất hiện những quyền và nghĩa vụ nhất định. Như vậy hợp đồng là sự cụ thể hóa ý chí của các bên trong quan hệ giao dịch, và là căn cứ để từ đó làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ. 1. Vai trò của hợp đồng trong đời sống xã hội. Quan hệ trao đổi hàng hoá là quan hệ kinh tế giữa những người có hàng hoá được thiết lập trên cơ sở thống nhất ý chí của các bên mà hình thức thể hiện của nó là bản giao kèo. Bản giao kèo này là hợp đồng. Quan hệ trao đổi sản phẩm hàng hoá trở thành quan hệ pháp luật khi được pháp luật điều chỉnh và hợp đồng trở thành hình thức pháp lý của nó. Sự ra đời của hợp đồng là đòi hỏi khách quan của nền sản xuất hàng hoá. Đã có sản xuất hàng hoá tất yếu phải có hợp đồng để trao đổi sản phẩm hàng hoá. Sau đó cùng với sự phát triển của xã hội, hợp đồng phát triển cả ngoài phạm vi trao đổi hàng hoá. Người ta có thể thoả thuận thống nhất ý chí với nhau về việc làm một việc gì hoặc không làm một việc gì đó thì cũng là hợp đồng. Hợp đồng có vai trò quan trọng trong việc quản lý nền kinh tế quốc dân, là cơ sở xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế, xác lập mối quan hệ hợp tác giữa các bên ký kết hợp đồng. Để tồn tại và phát triển, mỗi cá nhân cũng như tổ chức phải tham gia nhiều quan hệ xã hội khác nhau. Trong đó việc các bên thiết lập với nhau quan hệ, để qua đó chuyển giao cho nhau lợi ích vật chất nhằm đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, tiêu dùng, đóng vai trò quan trọng, là một tất yếu đối với đời sống xã hội. Tuy nhiên việc chuyển giao các lợi ích vật chất đó không phải tự nhiên hình thành bởi tài sản ( vốn là hiện thân của lợi ích vật chất) không thể tự tìm đến nhau để thiết lập các quan hệ. Các quan hệ tài sản chỉ được hình thành từ những hành vi có ý chí của chủ thể. Mác nói rằng “ Tự chúng hàng hoá không thể đi đến thị trường và trao đổi với nhau được. Muốn cho những vật đó trao đổi được với nhau, thì những người giữ chúng phải đối xử với nhau như những người mà ý chí nằm trong hiện vật đó” Trong nền kinh tế thị trường, hợp đồng kinh tế là sự thoả thuận của các chủ thể kinh doanh theo nguyên tắc tự do, tự nguyện, bình đẳng. Nhà nước chỉ có thể áp dụng pháp luật để tác động vào các quan hệ hợp đồng để đảm bảo lợi ích chính đáng của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó và lợi ích chính dáng của các chủ thể tham gia quan hệ hợp đồng đó và lợi ích của toàn xã hội. Hợp đồng là công cụ, là cơ sở để xây dựng và thực hiện kế hoạch của chính các chủ thể kinh doanh, làm cho các kế hoạch sản xuất kinh doanh chỉ có thể được thực hiện nếu người sản xuất mua được nguyên vật liệu và kí được hợp đồng tiêu thụ sản phẩm của mình. Đồng thời hợp đồng cũng được cụ thể hoá, chi tiết hoá kế hoạch sản xuất mua bán, giá cả, thời gian giao hàng… Như vậy nhu cầu sản xuất kinh doanh là do người sản xuất kinh doanh quyết định và thỏa thuận với khách hàng nhằm đạt được mục tiêu kinh doanh và thu lợi nhuận. Thông qua việc đàm phán kí kết hợp đồng, người sản xuất có thể nắm bắt được nhu cầu của thị trường về sản phẩm của mình và kiểm tra tính hiện thực của kế hoạch sản xuất kinh doanh có phù hợp với nhu cầu thị trường hay qua quá trình kí kết hợp đồng các doanh nghiệp chủ động cân nhắc tính toán chênh lệch giữa chi phí và hiệu quả kinh tế của phương án kinh doanh. Thông qua hợp đồng kinh tế mà Nhà nước thực hiện vai trò điều tiết các quan hệ kinh tế, xã hội, hướng các quan hệ phát triển trong trật tự pháp luật. Khi hợp đồng được kí kết đúng pháp luật thì đó là căn cứ pháp lý để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia ký kết và làm cơ sở để cơ quan tài phán giải quyết khi có tranh chấp. 2. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với quan hệ hợp đồng. Pháp luật đề cao nguyên tắc tự do kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế thị trường. Nguyên tắc này được Hiến pháp thừa nhận. Tại Điều 15 hiến pháp 1992 nêu rõ: Nhà nước thực hiện nhất quán chính sách phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Cơ cấu kinh tế nhiều thành phần với các hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh đa dạng dựa trên chế độ sở hữu toàn dân, sở hữu tập thể, sở hữu tư nhân, trong đó sở hữu toàn dân và sở hữu tập thể là nền tảng. Tại Điều 57 Hiến pháp 1992 thừa nhận quyền tự do kinh doanh của mọi công dân: “Công dân có quyền tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật”. Như vậy mọi cá nhân tổ chức khi có đủ tư cách chủ thể đều có quyền tham gia giao kết bất kỳ hợp đồng dân sự nào, nếu họ muốn mà không ai có quyền ngăn cản. Nhưng bên cạnh việc chú ý đến quyền lợi của mình, các chủ thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội Như vậy tự do kinh doanh không có nghĩa là muốn làm gì thì làm mà nó phải đảm bảo sự tuân thủ pháp luật. Mọi thành phần kinh tế trong xã hội đều bình đẳng trước pháp luật, chịu sự quản lý của Nhà nước. Mặc dù, mọi chủ thể trong nền kinh tế khi có đủ năng lực pháp luật và năng lực hành vi( khi thoả mãn những điều kiện do pháp luật quy định) theo quy định của pháp luật thì đều có quyền tham gia giao kết hợp đồng kinh tế nhằm mục đích nhất định mà không ai có quyền ngăn cản. Bằng ý chí tự do của mình, các chủ thể có quyền giao kết những hợp đồng đã được pháp luật quy định cụ thể cũng như những hợp đồng khác mà pháp luật chưa có quy định. Khi tham gia vào quá trình ký kết hợp đồng các chủ thể được tự do thể hiện ý chí của mình, tự do đưa vào hợp đồng những nội dung , điều khoản có lợi nhất cho mình để đảm bảo khả năng thực hiện hợp đồng và giành được ưu thế khi có tranh chấp xảy ra. Hơn nữa tại Điều 50 Bộ luật dân sự 2005 cũng đã ghi nhận quyền tự do kinh doanh: “Quyền tự do kinh doanh của cá nhân được tôn trọng và được pháp luật bảo vệ. Cá nhân có quyền lựa chọn lĩnh vực, hình thức, ngành nghề kinh doanh, lập doanh nghiệp, tự do giao kết hợp đồng, thuê lao động và các quyền khác phù hợp với quy định của pháp luật” Trong quá trình giao kết hợp đồng, để bảo vệ quyền lợi của mình các bên có thể đưa vào hợp đồng những điều khoản nội dung trái pháp luật xâm hại đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác, lợi ích công cộng và lợi ích của toàn xã toàn xã hội. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay yếu tố thoả thuận trong giao kết hợp đồng ngày càng được đề cao. Tất cả các hợp đồng đều là sự thoả thuận. Tuy nhiên không thể suy luận ngược lại là mọi thoả thuận đều là hợp đồng. Những thoả thuận được coi là hợp đồng nếu nó phù hợp với ý chí của các bên, tức là sự ưng thuận đích thực của các bên. Hợp đồng phải là giao dịch hợp pháp, do vậy sự ưng thuận ở đây phải hợp lẽ công bằng, hợp đạo đức và pháp luật. Các hợp đồng được giao kết dưới tác động của sự lừa dối, cưỡng bức hoặc mua chuộc không có sự ưng thuận đích thực, tức là có sự vô hiệu của hợp đồng. Như vậy, một sự thoả thuận không thể hiện ý chí đích thực của các bên thì không phát sinh quyền và nghiã vụ pháp lý của các bên. Vì vậy, Nhà nước buộc các bên khi tiến hành giao kết hợp đồng phải tôn trọng đạo đức xã hội, pháp luật , trật tự xã hội, trật tự công cộng. Để hạn chế sự tự do thái quá của các chủ thể khi tham gia vào quá trình giao kết thực hiện hợp đồng thì cần thiết phải có sự điều chỉnh của pháp luật trong quan hệ hợp đồng. Vì sự tự do nào cũng phải nằm trong khuôn khổ nhất định. Pháp luật là sự cụ thể hoá ý chí của Nhà nước. Bên cạnh chú ý đến quyền lợi của mình, các chủ thể phải hướng tới việc bảo đảm quyền lợi của những người khác cũng như lợi ích của toàn xã hội. Vì vậy, tự do của mỗi chủ thể phải “ không trái pháp luật và đạo đức xã hội”. Nằm trong mối quan hệ tương ứng giữa quyền và nghĩa vụ, mỗi chủ thể vừa “có quyền tự do giao kết hợp đồng” vừa có nghĩa vụ tôn trọng pháp luật và đạo đức xã hội. Lợi ích cộng đồng (được quy định bằng pháp luật) và đạo đức xã hội được coi là “sự giới hạn” ý chí tự do của mỗi chủ thể trong việc giao kết hợp đồng. Trong xã hội xã hội chủ nghĩa, tính cộng đồng và đạo đức xã hội không cho phép tất cả các cá nhân được tự do ý chí tuyệt đối để biến các hợp đồng thành phương tiện bóc lột. Vì vậy, để bảo đảm cho một nền kinh tế phát triển bền vững, ổn định và đặc biệt là hiện nay khi nước ta đã ra nhập WTO thì cần phải có một hành lang pháp lý thông thoáng và đủ mạnh để làm kim chỉ nam cho việc giao kết và thực hiện hợp đồng nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng cho cả doanh nghiệp trong và ngoài nước nhưng đồng thời cũng ngăn chặn được các hành vi lợi dụng sức mạnh của doanh nghiệp nước ngoài nhằm chèn ép các doanh nghiệp trong nước. Hiện nay, hầu hết các quan hệ kinh tế đều được thực hiện thông qua hợp đồng nên việc ban hành pháp luật về hợp đồng là hết sức cần thiết trong giai đoạn hiện nay nhằm đáp ứng các yêu cầu khách quan của nền sản xuất hàng hoá, vì khi nền kinh tế sản xuất hàng hoá phát triển thì nhu cầu trao đổi hàng hoá giữa các tổ chức sản xuất, kinh doanh với nhau ngày càng gia tăng. Điều này không tránh khỏi việc cần phải có hình thức, biện pháp để ghi nhận, bảo vệ quyền lợi của các bên tham gia vào việc trao đổi những hàng hoá đó. Chính vì vậy việc ban hành pháp luật về hợp đồng trong đó nêu rõ những thoả thuận của các bên phải thực hiện và việc giải quyết nếu có những hành vi vi phạm các thoả thuận đó. 3. Nguyên tắc điều chỉnh bằng pháp luật đối với hợp đồng. Trong quan hệ hợp đồng, khi giao kết các bên tham gia có vai trò quan trọng trong việc xác định xem hợp đồng đó áp dụng luật nào để điều chỉnh. Nguyên tắc điều chỉnh đối với các quan hệ hợp đồng có thể do các bên tự thoả thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Khi tham gia vào quan hệ hợp đồng các bên chủ thể đều có vị trí ngang hàng nhau không bên nào được đe dọa bên nào nhằm mục đích cưỡng chế bên kia giao kết thực hiện hợp đồng . Vì vậy trong quá trình đàm phán để đi đến ký kết hợp đồng các bên phải đảm bảo nguyên tắc tự nguyện bình đẳng, hợp tác đôi bên cùng có lợi, Tuy nhiên tự do giao kết hợp đồng không được trái pháp luật và đạo đức xã hội. Đối với hợp đồng thì căn cứ để ràng buộc các bên là những gì các bên đã cam kết, và các văn bản pháp luật có liên quan. Việc lựa chọn văn bản pháp luật nào để điều chỉnh quan hệ hợp đồng phải căn cứ vào sự lựa chọn và tính chất của hợp đồng đó. Ngoài việc áp dụng luật chung là Bộ Luật dân sự thì đối với từng loại hợp đồng cụ thể còn có những văn bản luật chuyên ngành điều chỉnh.Vì vậy đối với từng loại hợp đồng nguyên tắc áp dụng pháp luật theo thứ tự ưu tiên như sau: Nếu có luật chuyên ngành điều chỉnh thì áp dụng luật chuyên ngành, nếu luật chuyên ngành và các lĩnh vực pháp luật khác có quy định mâu thuẫn thì áp dụng luật chuyên ngành, nếu luật chuyên ngành không có quy định thì áp dụng luật dân sự. Trong trường hợp có điều ước quốc tế mà Việt Nam đã là thành viên có quy định áp dụng điều ước quốc tế thì áp dụng điều ước quốc tế đó, mặc dù nó trái với pháp luật trong nước. Ngoài ra các bên có thể áp dụng các tập quán và các quy định tương tự của pháp luật nếu pháp lụât không có quy định và các bên không có thỏa thuận (Điều 3 Luật dân sự). Trong phạm vi Chuyên đề tốt nghiệp này tôi chỉ đế cập đến mảng hợp đồng dịch vụ du lịch với tư cách là một hợp đồng dân sự nên pháp luật áp dụng cho hợp đồng dịch vụ du lịch là Bộ luật dân sự 2005, ngoài ra hoạt động du lịch còn chịu sự điều chỉnh của Luật du lịch 2005. Nếu có những hoạt động du lịch nào mà Bộ lụât dân sự 2005 không quy định hoặc quy định trái với văn bản của chuyên ngành du lịch thì áp dụng Luật du lịch 2005, Ngoài ra hoạt động du lịch còn liên quan đến hoạt đồng xuất nhập cảnh của người và hành lý nên hợp đồng dịch vụ du lịch còn chịu sự điều chỉnh của Pháp lệnh xuất nhập cảnh năm 2000. II. QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG DỊCH VỤ. 1. Khái niệm và phân loại hợp đồng dịch vụ. 1.1. Khái niệm về hợp đồng a) Hợp đồng dịch vụ với tư cách là một hợp đồng dân sự Hợp đồng ra đời từ nhu cầu thực tế của hoạt động sản xuất kinh doanh và lưu thông hàng hoá, nó có vai trò vô cùng quan trọng đối với nền kinh tế quốc dân . Hợp đồng bảo đảm cho việc duy trì một nền kinh tế thị trường vận hành đúng quy luật. Trong nền kinh tế hàng - tiền thì mọi thoả thuận giữa các bên trong quan hệ kinh tế đều phải hết sức rõ ràng và minh bạch có như vậy mới bảo đảm cho việc thực hiện hợp đồng và là căn cứ cho việc xác định trách nhiệm của các bên khi xảy ra tranh chấp liên quan đến hợp đồng. Từ vai trò quan trọng đó của hợp đồng thì ở mọi Nhà nước đều có những quy định về hợp đồng nhằm đảm bảo tính thống nhất trong việc áp dụng , tránh tình trạng các bên tuỳ tiện đưa vào hợp đồng những nội dung vi phạm pháp luật và trái với nguyên tắc hoạt động của Nhà nước. Theo quy định của bộ luật dân sự năm 2005, tại điều 388 hợp đồng được hiểu như sau: “ Hợp đồng dân sự là sự thoả thuận giữa các bên về viêc xác lập, thay đổi chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự” Hợp đồng dân sự là một loại hợp đồng nói chung và được hiểu theo nghĩa rộng. Hợp đồng là sự thoả thuận giữa các bên, tức là sự thống nhất về mặt ý chí của các chủ thể khi tham gia giao kết hợp đồng. Nếu chỉ có một bên thể hiện ý chí của mình mà không được bên kia chấp nhận cũng không thể hình thành mối quan hệ hợp đồng để qua đó thực hiện việc chuyển giao tài sản hoặc làm một công việc đối với nhau được. Vì vậy, chỉ khi nào có sự thể hiện và thống nhất ý chí giữa các bên, thì quan hệ trao đổi lợi ích vật chất mới được hình thành. Quan hệ đó được gọi là quan hệ hợp đồng dân sự. Như vậy cơ sở đầu tiên để hình thành một hợp đồng dân sự là việc thoả thuận bằng ý chí tự nguyện của các bên. Tuy nhiên hợp đồng đó chỉ có hiệu lực pháp luật ( tức là được pháp luật bảo vệ ) khi ý chí của các bên phù hợp với ý chí của Nhà nước. Các bên được tự do thoả thuận để thiết lập hợp đồng, nhưng sự tự do đó được đặt trong giới hạn bởi lợi ích của người khác, lợi ích chung của xã hội và lợi ích công cộng. Khái niệm hợp đồng dân sự cần phải được xem xét ở nhiều khía cạnh khác nhau.Theo phương diện khách quan, thì hợp đồng dân sự là do các quy định của Nhà nước ban hành nhằm điều chỉnh các quan hệ xã hội phát sinh trong quá trình dịch chuyển các lợi ích vật chất giữa các chủ thể với nhau. Theo phương diện chủ quan, hợp đồng dân sự là một giao dịch dân sự mà trong đó các bên tự trao đổi ý chí với nhau nhằm đi đến sự thoả thuận để cùng nhau làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ nhất định. Như vậy hợp đồng dân sự không chỉ là sự thoả thuận để một bên chuyển giao tài sản, thực hiện một công việc cho bên kia mà có thể còn là sự thoả thuận để thay đổi chấm dứt các nghĩ vụ đó. Hợp đồng dân sự và pháp luật về hợp đồng dân sự là hai khái niệm không đồng nhất với nhau. Hợp đồng dân sự theo nghĩa chủ quan là một quan hệ được hình thành từ sự thoả thuận của các bên để thoả mãn nhu cầu trao đổi trong giao lưu dân sự. Còn pháp luật về hợp đồng dân sự là sự thừa nhận, là yêu cầu của nhà nước đối với giao lưu dân sự đó. * Đặc điểm của hợp đồng dân sự. - Chủ thể của hợp đồng dân sự: Chủ thể tham gia vào hợp đồng dân sự là những người tham gia vào quan hệ đó. Vì hợp đồng dân sự chính là sự cụ thể hóa của các quan hệ pháp luật dân sự. Nên chủ thể của hợp đồng dân sự là chủ thể của quan hệ pháp luật dân sự. Như vậy chủ thể của hợp đồng dân sự gồm cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác và Nhà nước cũng là một chủ thể của quan hệ hợp đồng dân sự . Tuy nhiên khi tham gia vào quan hệ hợp đồng dân sự các chủ thể này độc lập với nhau về tổ chức và tài sản. Để tham gia vào quan hệ dân sự cụ thể thì các chủ thể phải có tư cách chủ thể theo quy định của pháp luật. - Mục đích của hợp đồng dân sự: Là cái mà các bên khi tham gia quan hệ hợp đồng nhằm hướng tới. Trong hợp đồng dân sự thì mục đích của các chủ thể khi giao kết hợp đồng là phục vụ nhu cầu tiêu dùng sinh hoạt hàng ngày. - Hình thức của hợp đồng dân sự: Theo điều 401 Bô luật dân sự 2005 đã nêu rõ: Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thể. Trong trường hợp pháp luật quy định hợp đồng phải được giao kết dưới hình thức cụ thể thì các bên phải tuân theo hình thức đó. b) Hợp đồng thương mại Ở nước ta hiện nay, cùng với sự phát triển chung của xã hội, các thành phần kinh tế ngày càng đa dạng và phong phú làm cho các quan hệ kinh tế cũng thay đổi theo. Hợp đồng kinh tế trở thành phương tiện phục vụ cho mục đích sản xuất kinh doanh trên nguyên tắc các chủ thể tự nguyện, bình đẳng với nhằm mục đích sinh lợi. Tại khoản 1 Điều 3 Luật thương mại 2005 quy định về những hoạt động nào là hoạt động thương mại như sau “ Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, xúc tiến thương mại nhằm mục đích sinh lợi”. Nếu cho rằng hợp đồng thương mại là hợp đồng trong hoạt động thương mại thì ta có thể đưa ra khái niệm hợp đồng thương mại như sau: Hợp đồng thương mại là sự thoả thuận giữa các thương nhân hoặc một bên là thương nhân để thực hiện các hoạt động thương mại. * Đặc điểm của hợp đồng thương mại: Hợp đồng thương mại về bản chất giống như các loại hợp đồng khác đó là sự thoả thuận giữa các bên giao kết hợp đồng. Tuy nhiên, hợp đồng thương mại có những đặc trưng riêng sau đây: Chủ thể của hợp đồng thương mại là thương nhân hoặc một bên là thương nhân. Theo khoản 1, Điều 6 Luật thương mại 2005 thì “thương nhân là tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh”. Thương nhân có quyền hoạt động thương mại trong các ngành nghề, tại các địa bàn, dưới các hình thức và phương thức mà pháp luật không cấm. Mục đích của hoạt động thương mại. Vì hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lời, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Do đó, mục đích của hợp đồng thương mại là lợi nhuận. Hình thức của hợp đồng thương mại. Vì trong Luật thương mại không có điều khoản cụ thể quy định về hợp đồng thương mại nên cũng không có điều khoản nào quy định về hình thức của hợp đồng thương mại. Tuy nhiên, theo quy định tại Điều 24, 74 Luật thương mại 2005 quy định về hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá và hình thức hợp đồng dịch vụ là bằng lời nói, văn bản, hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Do đó, hình thức của hợp đồng thương mại là bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể . Điều 24. Hình thức hợp đồng mua bán hàng hoá. + Hợp đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. + Đối với hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo quy định đó Điều 74. Hình thức hợp đồng dịch vụ. + Hợp đồng dịch vụ được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. + Đối với hợp đồng dịch vụ mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo quy định đó. + Nội dung hợp đồng thương mại là quyền và nghĩa vụ cụ thể mà các bên đã thoả thuận trong từng hợp đồng cụ thể khi tiến hành các hoạt động thương mại. *. Sự phân biệt giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại theo pháp luật hiện hành **. Sự giống nhau giữa hai loại hợp đồng này: Hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại đều là sự thoả thuận giữa các chủ thể nhằm xác lập thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ trong những quan hệ xã hội cụ thể. Giữa các loại hợp đồng này có những điểm chung sau đây: - Sự thoả thuận thể hiện ý chí của các bên. Đương nhiên tự do hợp đồng không phải là tự do tuyệt đối. Nhà nước buộc các bên giao kết hợp đồng phải tôn trọng pháp luật, đạo đức và trật tự xã hội, trật tự công cộng. Nhà nước có thể can thiệp vào quá trình ký kết hợp đồng và giới hạn quyền tự do giao kết hợp đồng của các bên - Đối tượng của hợp đồng. Sự thống nhất ý chí của các bên phải nhằm vào một đối tượng cụ thể. Mọi hợp đồng phải có đối tượng xác định rõ rệt và hợp pháp, và khi đó hợp đồng mới có hiệu lực pháp luật. Nếu đối tượng của hợp đồng là bất hợp pháp thì hợp đồng bị coi là vô hiệu. Sau khi hợp đồng được xác lập với đầy đủ các yếu tố thì hợp đồng có hiệu lực ràng buộc như pháp luật. Các bên buộc phải thực hiện các cam kết trong hợp đồng, mọi sự vi phạm sẽ dẫn đến trách nhiệm về mặt tài sản mà bên vi phạm phải gánh chịu. Hợp đồng được xác lập hợp pháp có hiệu lực ràng buộc với cả cơ quan tổ chức được giao thẩm quyền giải quyết tranh chấp hợp đồng. Khi giải quyết tranh chấp hợp đồng, xử lý hành vi vi phạm, Toà án hoặc trọng tài phải căn cứ vào các quy định, các điều khoản mà các bên đã thoả thuận trong hợp đồng để ra bản án hoặc quyết định công bằng đúng đắn. **. Sự khác nhau giữa hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại. Ở nước ta sự phân biệt hai quan hệ xã hội là quan hệ kinh tế và quan hệ dân sự; hai loại quan hệ hợp đồng là hợp đồng kinh tế và hợp đồng dân sự và hai hệ thống pháp luật về hợp đồng kinh tế và pháp luật về hợp đồng dân sự không phải tự nhiên mà có, đó là hệ quả tất yếu của một loạt yếu tố tồn tại khách quan trong xã hội như sau: Bảng 1. So sánh hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại Tiêu chí so sánh Hợp đồng dân sự (Bộ luật dân sự) Hợp đồng thương mại ( Luật thương mại) Chủ thể Pháp nhân, cá nhân , hộ gia đình , tổ hợp tác Thương nhân hoặc một bên là thương nhân( có đủ điều kiện, kinh doanh thương mại một cách độc lập thường xuyên) Hình thức của hợp đồng Bằng văn bản lời nói hoặc hành vi cụ thể Bằng văn bản hoặc lời nói Mục đích Về cơ bản có mục đích sinh hoạt tiêu dùng Kinh doanh( một bên) Đối tượng Quan hệ tài sản , quan hệ nhân thân ( có hoặc không có liên quan đến tài sản) ; hàng hoá tiền tệ Quan hệ tài sản; dịch vụ trên thương trường . 14 loại hành vi thương mại hàng hoá tiền tệ. Như vậy, trên thực tế hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế nó có tính đối xứng. Điều này thể hiện ở chỗ. Một hợp đồng nào đó cũng đều được ký kết trong lĩnh vực sản xuất lưu thông hàng hoá, cung cấp dịch vụ nếu không được coi là hợp đồng dân sự thì đương nhiên là hợp đồng kinh tế, giữa chúng không có một khái niệm, một loại hợp đồng trung gian nào khác. Một đặc điểm khác của hợp đồng kinh tế là tính tồn tại rộng khắp của nó. Điều này thể hiện ở chỗ nó là hình thức pháp lý không chỉ của một nhóm quan hệ xã hội phát sinh trong một lĩnh vực nhỏ hẹp nào mà nó xuất hiện trong nhiều mối quan hệ xã hội nhằm tìm kiếm lợi nhuận của con người. Có thể nói hợp đồng dân sự và hợp đồng kinh tế là một cặp song sinh mà trong nhiều trường hợp ta không thể phân biệt được chúng * Quan hệ giữa Bộ luật dân sự và Luật thương mại trong quan hệ hợp đồng. Giữa Bộ luật dân sự và Luật thương mại có quan hệ tương tác và quan hệ phái sinh. Những vấn đề cơ bản về hợp đồng đều được nêu trong Bộ luật dân sự 2005. Còn hợp đồng trong Luật thương mại 2005 đó là sự cụ thể hóa những quy định mang tính hướng dẫn mà Bộ luật dân sự quy định. Luật thương mại phát triển từ Luật dân sự trong các giao lưu trong lĩnh vực dân sự phát triển và được coi là lĩnh vực thương mại. Khi điều chỉnh các quan hệ thương mại nhưng không có quy phạm pháp luật trực tiếp điều chỉnh thì sẽ áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự 2005 để điều chỉnh các quan hệ đó. c). Hợp đồng dịch vụ. c1. Vai trò của ngành dịch vụ trong xã hội. Ngày nay, dịch vụ đã trở thành một ngành kinh tế có vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, ở nước tiên tiến tỷ trọng của dịch vụ chiếm trong GDP là 70% - 75%, ở Việt Nam tỷ lệ này là 40% Nghị quyết Đại hội Đảng cộng sản Việt Nam lần thứ 9 đã chỉ rõ: “Toàn bộ các giá trị dịch vụ tính theo giá trị gia tăng đạt nhịp độ tăng trưởng bình quân 7 -8% / năm và đến năm 2010 chiếm 42 – 43% GDP, 26 – 27% số lao động”. Mạng lưới dịch vụ hình thành từ nông thôn đến thành thị và ngày càng phát triển mạnh mẽ để phục vụ nhu cầu của nhân dân. Điều đó chứng tỏ nền kinh tế đang trên đà phát triển và nhu cầu khách quan hình thành các loại hình dịch vụ. Chính vì dịch vụ có vai trò quan trọng như vậy cho nên việc nghiên cứu các khái niệm về dịch vụ có ý nghĩa đặc biệt đối với việc nghiên cứu các khái niệm về dịch vụ du lịch và hợp đồng dịch vụ du lịch. c 2. Khái niệm dịch vụ và hợp đồng dịch vụ. * Dịch vụ. Có rất nhiều khái niệm khác nhau về dịch vụ. Trong nền kinh tế thị trường dịch vụ được coi là mọi thứ có giá trị, khác với hàng hoá vật chất, mà một người hoặc một tổ chức cung cấp cho một người hoặc một tổ chức khác để đổi lấy một cái gì đó. Khái niệm này chỉ ra các tương tác của con người hoặc một tổ chức khác trong quá trình hình thành dịch vụ. Khái niệm này cũng thể hiện quan điểm hướng tới khách hàng vì giá trị của dịch vụ do khách hàng quyết định. Trong lý luận Marketing, Dịch vụ được coi như là một hoạt động của chủ thể này cung cấp cho chủ thể kia, chúng có tính vô hình và không làm thay đổi quyền sở hữu. Dịch vụ có thể được tiến hành nhưng không nhất thiết phải gắn liền với quan hệ vật chất.( Nguồn Giáo trình kinh tế du lịch của Trường ĐHKTQD trang 217) Một khái niệm dịch vụ hiện được sử dụng rộng rãi là khái niệm dịch vụ theo định nghĩa của ISO 9004: 1991 “Dịch vụ là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa người cung cấp và khách hàng, cũng như nhờ các hoạt động của người cung cấp để đáp ứng nhu cầu của người tiêu dung”( Nguồn Giáo trình Kinh tế du lịch của trường ĐHKTQD trang 278). ►Như vậy, Dịch vụ là kết quả của những hoạt động không thể hiện bằng sản phẩm vật chất, nhưng bằng tính hữu ích của chúng và có giá trị kinh tế. * Hợp đồng dịch vụ. ● Khái niệm hợp đồng dịch vụ. Trong BLDS 2005, hợp đồng dịch vụ là một hợp đồng có những đặc điểm riêng. Các quy phạm của hợp đồng dịch vụ điều chỉnh các loại dịch vụ cụ thể như: Dịch vụ sửa chữa tài sản,dịch vụ pháp lý, dịch vụ cung cấp thông tin thương mại, dịch vụ quảng cáo… Đối tượng của hợp đồng dịch vụ là công việc cụ thể. Người cung ứng dịch vụ bằng công sức, trí tuệ của mình để hoàn thành công việc đã nhận. Tuy nhiên, người cung ứng dịch vụ có thể sử dụng người cộng sự giúp việc cho mình và phải chịu trách nhiệm về những việc xảy ra do lỗi của người cộng sự. Tuy vậy, bên cung ứng dịch vụ không được giao cho người khác làm thay công việc nếu không có sự đồng ý của bên thuê dịch vụ. Khi thoả thuận về việc thực hiện công việc dịch vụ phải đưa ra các yêu cầu của mình về chất lượng kỹ thuật các thông số khác… Từ đó các bên có cơ sở thoả thuận các điều kiện cung ứng dịch vụ. Theo Điều 518 BLDS 2005 quy định: “Hợp đồng dịch vụ là sự thoả thuận giữa các bên, theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên thuê dịch vụ, còn bên thuê dịch vụ phải trả tiền công cho bên cung ứng dịch vụ” ● Đặc điểm của hợp đồng dịch vụ. Từ định nghĩa trên ta có thể thấy hợp đồng dịch vụ có những đặc điểm sau đây: Bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện các hành vi pháp lý nhất định và giao kết quả cho bên thuê dịch vụ. Tức là bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện các nghĩa vụ mà được bên thuê dịch vụ yêu cầu nhưng phải đảm bảo đúng quy định của pháp luật, và khi thực hiện xong thì phải thông báo cho bên thuê dịch vụ đến nhận hoặc giao trực tiếp cho bên thuê dịch vụ. Hợp đồng dịch vụ là hợp đồng có đền bù. Bên thuê dịch vụ phải trả tiền công cho bên cung ứng dịch vụ, khi bên cung ứng dịch vụ đã thực hiện công việc và mang lại kết quả như đã thoả thuận. Hợp đồng dịch vụ là hợp đồng song vụ: Cả bên cung ứng dịch vụ và bên thuê dịch vụ đều có nghĩa vụ đối với nhau. Bên cung ứng dịch vụ phải thực hiện hành vi pháp lý theo yêu cầu của bên._. thuê dịch vụ, bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ tiếp nhận kết quả công việc và trả tiền công cho bên cung ứng dịch vụ. ● Đối tượng của hợp đồng dịch vụ. Đối tượng của hợp đồng dịch vụ là công việc có thể thực hiện được. Tức là công việc ấy phải có thực, không bị pháp luật cấm, không trái đạo đức xã hội (Điều 519 BLDS 2005 ). 1.2. Phân loại hợp đồng. Hợp đồng được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau. Vì vậy, để phân loại hợp đồng thì ta cần phải căn cứ theo các tiêu chí đó để đảm bảo tính khách quan và phù hợp với điều kiện thực tế đối với mỗi quốc gia. Ở nước ta thì quan niệm về hợp đồng được thể hiện trong Bộ luật dân sự và luật thương mại có sự khác biệt do tính chất của quan hệ dân sự và quan hệ thương mại là khác nhau. a) Hợp đồng dân sự. Hợp đồng dân sự là bản giao kèo để ghi nhận những quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên. Trong sự đa dạng của các hợp đồng dân sự, có thể dựa vào các dấu hiệu đặc trưng để phân chúng thành từng nhóm khác nhau. * Nếu dựa vào hình thức của hợp đồng, thì hợp đồng dân sự được phân thành hợp đồng miệng, hợp đồng văn bản, hợp đồng có công chứng chứng nhận, hợp đồng mẫu… * Nếu dựa vào mối liên hệ về quyền và nghĩa vụ dân sự giữa các bên, thì hợp đồng được phân làm hai loại là hợp đồng song vụ và hợp đồng đơn vụ: - Hợp đồng song vụ: Là hợp đồng mà các bên chủ thể đều có nghĩa vụ. Hay nói cách khác, mỗi một bên chủ thể của hợp đống song vụ là người vừa có quyền lại vừa có nghĩa vụ dân sự. Trong loại hợp đồng này thì quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng là đối lập nhau. - Hợp đồng đơn vụ: là hợp đồng mà trong đó một bên chỉ có nghĩa vụ mà không có quyền gì đối với bên kia và bên kia là người có quyền và không phải thực hiện một nghĩa vụ nào. * Nếu dựa vào sự phụ thuộc lẫn nhau về hiệu lực giữa các hợp đồng thì hợp đồng được phân làm hai loại theo khoản 3 Điều 406 BLDS 2005 thì hợp đồng gồm : - Hợp đồng chính: là hợp đồng mà hiệu lực không phụ thuộc vào hợp đồng khác. Vì vậy các hợp đồng chính khi đã tuân thủ đầy đủ các điều kiện mà pháp luật quy định thì đương nhiên phát sinh hiệu lực và có hiệu lực bắt buộc đối với các bên từ thời điểm giao kết - Hợp đồng phụ: là hợp đồng mà hiệu lực phụ thuộc vào hợp đồng chính( khoản 4 Điều 406 BLDS). * Nếu dựa vào tính chất có đi có lại về các lơị ích của các chủ thể , hợp đồng dân sự được phân thành: - Hợp đồng có đền bù: là loại hợp đồng mà trong đó mỗi chủ thể sau khi đã thực hiện cho bên kia một lợi ích sẽ nhận được từ bên kia một lợi ích tương ứng. - Hợp đồng không có đền bù: là hợp đồng mà trong đó một bên nhận được từ bên kia một lợi ích nhưng không phải giao lại một lợi ích nào. * Nếu dựa vào thời điểm phát sinh hiệu lực thì hợp đồng dân sự được phân thành: - Hợp đồng ưng thuận: là hợp đồng mà theo quy định của pháp luật, quyền và nghĩa vụ của các bên phát sinh ngay sau khi các bên thoả thuận với nhau xong về nội dung chủ yếu của hợp đồng. - Hợp đồng thực tế: là những hợp đồng mà sau khi thoả thuận, hiệu lực của nó chỉ phát sinh tại thời điểm khi các bên đã chuyển giao cho nhau đối tượng của hợp đồng. Tóm lại. Việc phân chia hợp đồng dân sự thành các loại nói trên vừa dựa vào sự quy định của BLDS, vừa dựa trên phương diện lý luận. Qua đó, nhằm xác định được những đặc điểm chung và riêng của từng nhóm hợp đồng, góp phần nâng cao hiệu quả trong quá trình điều chỉnh các quan hệ hợp đồng dân sự. b) Hợp đồng thương mại. Ở nước ta hiện nay, cùng với tiến trình hội nhập vào đời sống thương mại quốc tế, khái niệm thương mại hàng hoá được đề cập trong khoa học pháp lý cũng như luật thực định nhưng đến nay vẫn chưa có cách hiểu thống nhất về khái niệm này. Để tiếp cận nghiên cứu, trong nhiều trường hợp, người ta có thể định nghĩa thương mại hàng hoá bằng việc phân biệt thương maị hàng hoá với thương mại dịch vụ. Tuy nhiên, khái niệm dịch vụ và thương maị dịch vụ có nội hàm rất trừu tượng và cho đến nay vẫn chưa có cách hiểu nhất quán trên cả bình diện quốc gia và quốc tế. Hiệp định chung về dịch vụ của WTO cũng chỉ đưa ra khái niệm dịch vụ bằng cách liệt kê nhưng không giới hạn dịch vụ thành 12 ngành lớn và 155 phân ngành khác nhau. Từ góc độ pháp lý, căn cứ cơ bản để phân biệt thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ chính là đối tượng của các giao dịch thương mại này. Nếu như, đối tượng của giao dịch thương mại dịch vụ là các sản phẩm vô hình ( dịch vụ) thì trong giao dịch thương mại hàng hoá đối tượng của giao dịch là hàng hoá ( các sản phẩm hữu hình ). Quá trình sản xuất và tiêu dùng hàng hoá thường được tách biệt với nhau, trong khi quá trình tạo ra và tiêu dùng dịch vụ thường đi liền với nhau. Tuy vậy về bản chất cung ứng dịch vụ cũng có tính chất của giao dịch mua bán( mua bán dịch vụ). Theo Luật thương mại 2005 cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại theo đó một bên ( gọi là bên cung ứng dịch vụ) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và có quyền nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và có quyền sử dụng dịch vụ theo thoả thuận. Vì vậy, việc phân loại hợp đồng thương mại cũng phải dựa trên sự khác biệt đó giữa thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ Theo quy định tại điều 24 và 74 Luật thương mại thì hợp đồng thương mại có 2 loại là: hợp đồng mua bán hàng hoá và hợp đồng dịch vụ. một phần sau vì đây là nội dung chủ yếu của đề tài nghiên cứu. c) Hợp đồng dịch vụ trong lĩnh vực thương mại Trong luật thương mại 2005 không đưa ra khái niệm hợp đồng cung ứng dịch vụ mà chỉ đưa ra các hoạt động cung ứng dịch vụ thương mại cụ thể. Theo nghĩa thông thường dịch vụ được hiểu là việc thực hiện những công việc cụ thể mà pháp luật không cấm và được trả thù lao nhằm đáp ứng nhu cầu của người sử dụng dịch vụ. Như vậy, dịch vụ thương mại là những dịch vụ phục vụ cho hoạt động thương mại. Trên cơ sở đó ta có thể định nghĩa hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại là những hợp đồng cung ứng dịch vụ phục vụ cho hoạt động thương mại nhằm đáp ứng nhu cầu của người sử dụng dịch vụ và người sử dụng dịch vụ phải trả thù lao cho người cung ứng dịch vụ. * Các dịch vụ thương mại theo Luật thương mại 2005 + Khuyến mại quảng cáo thương mại. + Trưng bày giói thiệu hàng hoá. + Triển lãm + Hội chợ. + Đại diện. + Môi giới . + Uỷ thác mua bán hàng hoá . + Đại lý thương mại. + Gia công thương mại. + Đấu giá hàng hoá. + Dịch vụ giám định. + Dịch vụ logistics. +Cho thuê hàng hoá. + Nhượng quyền thương mai. * Các loại hợp đồng dịch vụ thương mại. Trong thực tế hợp đồng cung ứng dịch vụ rất phong phú và đa dạng nhằm phục vụ cho hoạt động thương mại. Trong luật thương mại 2005 đề cập đến các hợp đồng cung ứng dịch vụ thương mại sau đây: - Hợp đồng dịch vụ quảng cáo thương mại. - Hợp đồng dịch vụ trưng bày giới thiệu hàng hoá, dịch vụ. - Hợp đồng dịch vụ hội chợ, triển lãm thương mại. - Hợp đồng dịch vụ đại diện cho thương nhân. - Hợp đồng dịch vụ môi giới thương mại. - Hợp đồng uỷ thác. - Hợp đồng đại lý. - Hợp đồng gia công. - Hợp đồng dịch vụ tổ chức đấu giá hàng hoá. - Hợp đồng đấu thầu hàng hoá, dịch vụ. - Hợp đồng dịch vụ logistics. - Hợp đồng dịch vụ quá cảnh. - Hợp đồng dịch vụ giám định hàng hoá. - Hợp đồng dịch vụ cho thuê hàng hoá. - Hợp đồng nhượng quyền thương mại. 2. Hình thức của hợp đồng: Những điều khoản mà các bên đã cam kết thoả thuận phải được thể hiện ra ngoài bằng một hình thức nhất định. Hay nói cách khác. Hình thức của hợp đồng là phương tiện để ghi nhận nội dung mà các chủ thể đã xác định.Tuỳ theo nội dung, tính chất của từng hợp đồng cũng như độ tin cậy lẫn nhau mà các bên có thể lựa chọn hình thức hợp đồng nhất định phù hợp với từng trường hợp cụ thể. a) Hợp đồng dân sự. Tại Điều 401 Bộ luật dân sự quy định: Hợp đồng dân sự có thể được giao kết bằng lời nói, bằng văn bản hoặc hành vi cụ thể, khi pháp luật không quy định đối với loại hợp đồng đó phải được giao kết bằng một hình thức nhất định. Trong trường hợp pháp luật có quy định hợp đồng phải được thể hiện bằng văn bản có công chứng hoặc chứng thực, phải đăng ký hoặc xin phép thì phải tuân theo các quy định đó. Hợp đồng không bị vô hiệu trong trường hợp có vi phạm về hình thức, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. Như vậy, hình thức của hợp đồng dân sự khá đa dạng tạo điều kiện cho các chủ thể ký kết thuận lợi. Đối với những hợp đồng dân sự mà pháp luật đã quy định buộc phải giao kế theo hình thức nhất định, thì các bên phải tuân theo hình thức đó. Ngoài ra đối với những hợp đồng khác các bên có thể chọn một trong các hình thức sau đây để giao kết: - Hình thức miệng ( bằng lời nói). Thông qua hình thức này, các bên giao kết hợp đồng chỉ cần thoả thuận miệng với nhau về nội dung cơ bản của hợp đồng hoặc mặc nhiên thực hiện những hành vi nhất định đối với nhau. Hình thức này thường áp dụng trong những trường hợp các bên đã có độ tin tưởng lẫn nhau hoặc đối với những trường hợp mà ngay sau khi giao kết sẽ được thực hiện và chấm dứt. - Hình thức viết ( bằng văn bản). Nhằm nâng cao độ xác thực về những nội dung đã cam kết, các bên có thể ghi nhận nội dung giao kết hợp đồng bằng một văn bản. Trong văn bản đó, các bên phải ghi đầy đủ những nội dung cơ bản của hợp đồng và cùng ký tên xác nhận vào văn bản. Khi có tranh chấp xảy ra hợp đồng được giao kết bằng hình thức văn bản tạo ra chứng cứ pháp lý chắc chắn hơn so với hình thức miệng. Nên đối với những hợp đồng mà việc thực hiện không cùng lúc với việc giao kết thì các bên thường sử dụng hình thức này . Thông thường hợp đồng được thành lập thành nhiều bản và mỗi bên giữ một bản coi như đã có trong tay một bằng chứng chứng minh quyền dân sự của mình. - Hình thức có chứng nhận chứng thực. Đối với những hợp đồng có tính chất phức tạp, dễ xảy ra tranh chấp và đối tượng của nó là những loại tài sản mà Nhà nước cần phải quản lý, kiểm soát khi chúng cần được dịch chuyển từ chủ thể này sang chủ thể khác thì các bên phải lập văn bản có chứng nhận của công chứng Nhà nước, chứng thực của Uỷ ban nhân dân có thẩm quyền. Hợp đồng được lập ra dưới hình thức này có giá trị chứng thực cao nhất. Nên những hợp đồng mà Nhà nước không yêu cầu phải lập theo hình thức này nhưng để quyền lợi của mình được bảo đảm, các bên vẫn có thể chọn hình thức này để giao kết hợp đồng. b) Hợp đồng thương mại. * Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá: Vì Luật dân sự là Luật chung có tính chất hướng dẫn chỉ đạo cho các luật khác ra đời. Nội dung của nó có tính chất chung nhất vì vậy nếu có những nội dung mà các văn bản pháp luật khác không quy định thì sẽ áp dụng các quy định của Bộ luật dân sự. Hình thức của hợp đồng mua bán hàng hoá có tính chất thương mại thì ngoài việc phải tuân theo quy định về hình thức của hợp đồng dân sự còn phải đáp ứng các yêu cầu về hình thức mà Luật thương mại quy định . Điều 24 Luật thương mại 2005 quy định : “ Hợp đồng mua bán hàng hoá được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc dược xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại hợp đồng mua bán hàng hoá mà pháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì phải tuân theo quy định đó” Hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế là một ví dụ về trường hợp bắt buộc hình thức của hợp đồng mua bán phải bằng văn bản. Theo quy định của Luật thương mại, hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải được thể hiện dưới hình thức văn bản hoặc hình thức pháp lý có giá trị tương đương. Theo khoản 15 Điều 3 Luật thương mại 2005 thì : các hình thức có giá trị tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu, và hình thức khác theo quy định của pháp luật. * Hình thức của hợp đồng dịch vụ thương mại. Hợp đồng dịch vụ cũng là một loại hợp đồng vì vậy về cơ bản hình thức của nó cũng giống như những hợp đồng thông thường. Tức là, hợp đồng dịch vụ cũng được thể hiện dưới hình thức văn bản, lời nói hoặc hình thức khác do pháp luật quy định và có thể là do các bên trong quan hệ hợp đồng tự thoả thuận với nhau nhưng phải đảm bảo tính hợp pháp. 3. Nội dung của hợp đồng. Nội dung của hợp đồng là các điều khoản do các bên thoả thuận, thể hiện quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ hợp đồng. Nội dung của hợp đồng càng chi tiết cụ thể bao nhiêu thì càng có lợi cho việc thực hiện hợp đồng bấy nhiêu. Như vậy, nội dung của hợp đồng nó thể hiện ý chí của các bên trong quá trình thương lượng. Yêu cầu đặt ra là nội dung của hợp đồng phải hợp pháp, có khả năng thực hiện, các điều khoản phải rõ ràng cụ thể, ý chí của các bên không được mập mờ và mâu thuẫn a). Nội dung của hợp đồng dân sự. Bộ luật dân sự 2005 là luật chung, nên các quy định của nó về nội dung của hợp đồng là những quy định mang tính chất mở, và dùng làm định hướng cho các lĩnh vực luật chuyên ngành. Tại Điều 402 BLDS 2005 quy định nội dung của hợp đồng như sau: “ Tuỳ theo từng loại hợp đồng, các bên có thể thoả thuận về những nội dung sau: Đối tượng của hợp đồng là tài sản phải giao, công việc phải làm hoặc không được làm. Số lượng, chất lượng. Giá phương thức thanh toán. Thời hạn, địa điểm, Phương thức thực hiện hợp đồng. Quyền, nghĩa vụ của các bên. Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng. Phạt vi phạm hợp đồng. Các nội dung khác. b). Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dịch vụ. *. Bên thuê dịch vụ. Bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ trả tiền thù lao về kết quả công việc mà bên cung ứng dịch vụ đã hoàn thành. Nếu đối tượng của hợp đồng dịch vụ yêu cầu phải có thông tin từ bên thuê dịch vụ, thì bên thuê phải cung cấp tài liệu, thông tin đầy đủ cho bên cung ứng dịch vụ ( dịch vụ pháp lý). Đối với những loại dịch vụ yêu cầu phải có phương tiện để thực hiện, bên thuê phải cung cấp phương tiện đó. (Điều 520 BLDS 2005). Trong quá trình thực hiện dịch vụ nếu có những sai sót từ bên cung ứng dịch vụ, bên thuê dịch vụ có quyền sửa chữa những sai sót đó. Nếu sai sót nghiêm trọng đòi hỏi phải chi phí thêm, bên thuê dịch vụ có quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bên thuê dịch vụ có quyền hủy hợp đồng nếu bên cung ứng dịch vụ hoàn thành kết quả không như thỏa thuận. Hoặc hoàn thành công việc không đúng thời gian mà công việc không còn ý nghĩa đối với bên thuê dịch vụ và yêu cầu bên cung ứng dịch vụ bồi thường thiệt hại nếu có. (Điều 521 BLDS 2005). Yêu cầu bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc theo đúng chất lượng, số lượng, địa điểm và các thỏa thuận khác. Nếu bên cung ứng dịch vụ vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ thì bên thuê dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng và yêu cầu bồi thường thiệt hại. Bên thuê dịch vụ có nghĩa vụ trả tiền công cho bên cung ứng dịch vụ như đã thỏa thuận. *. Bên cung ứng dịch vụ. Bên cung ứng dịch vụ có thể là cá nhân tổ chức dùng công sức của mình để hoàn thành, thực hiện công việc do bên thuê dịch vụ chỉ định. Trong thời gian thực hiện hợp đồng phải tự mình tổ chức thực hiện công việc. Khi hết hạn của hợp đồng phải giao lại kết quả của công việc mà mình đã thực hiện cho bên thuê dịch vụ. Bên cung ứng dịch vụ có quyền bên thuê dịch vụ phải cung cấp thông tin, tài liệu và phương tiện. Được thay đổi điều kiện dịch vụ vì lợi ích của bên thuê dịch vụ, mà không nhất thiết phải chờ ý kiến của bên thuê dịch vụ, nhưng phải báo cáo ngay cho bên thuê dịch vụ. Yêu cầu bên thuê dịch vụ trả tiền công. Sau khi hoàn thành công việc đúng kỳ hạn mà bên thuê dịch vụ không nhận kết quả của công việc, nếu xảy ra rủi ro, bên cung ứng dịch vụ không chịu trách nhiệm về những thiệt hại cho bên thuê dịch vụ (Điều 523 BLDS). Trong thời gian thực hiện dịch vụ, bên cung ứng dịch vụ có thể thay đổi những điều kiện dịch vụ, nếu việc thay đổi đó không làm phương hại đến lợi ích của bên thuê dịch vụ. Trong quy trình thực hiện nghĩa vụ, bên cung ứng dịch vụ phải tự mình chuẩn bị phương tiện. kỹ thuật và tổ chức thực hiện công việc mà mình đã nhận. Do vậy, điều kiện của dịch vụ có thể thay đổi cho phù hợp với khả năng của bên cung ứng dịch vụ. Khoản 2 Điều 523 BLDS 2005 “Được thay đổi điều kiện dịch vụ vì lợi ích của bên thuê dịch vụ, mà không nhất thiết phải chờ ý kiến của bên thuê dịch vụ, nếu việc chờ ý kiến sẽ gây thiệt hại cho bên thuê dịch vụ, nhưng phải thông báo ngay cho bên thuê dịch vụ” Trong tình trạng bình thường, bên cung ứng dịch vụ không có quyền thay đổi điều kiện của dịch vụ, nếu việc thay đổi đó không mang lại lợi ích cho bên thuê dịch vụ. Trường hợp này cần phải thỏa thuận với bên thuê dịch vụ. Nhưng khi cung ứng dịch vụ nếu không thay đổi điều kiệnc của dịch vụ sẽ gây thiệt hại cho bên thuê dịch vụ, việc thay đổi này phải hoàn toàn xuất phát từ lợi ích của bên thuê dịch vụ. Trong trường hợp này bên cung ứng dịch vụ được phép thay đổi điều kiện dịch vụ và phải thông báo cho bên thuê dịch vụ. Khi thực hiện dịch vụ mà bên cung ứng dịch vụ biết được việc tiếp tục làm dịch vụ sẽ có hại cho bên thuê dịch vụ thì bên cung ứng dịch vụ có quyền đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng mặc dù bên thuê dịch vụ không đồng ý. Bên thuê dịch vụ có thể không thấy hoặc không lường trước hết được hậu quả xảy ra nếu tiếp tục thực hiện công việc. Bên cung ứng dịch vụ cần phải giải thích cho bên thuê dịch vụ sự cần thiết phải chấm dứt hợp đồng nếu không sẽ gây thiệt hại cho bên thuê dịch vụ. Trong trường hợp này bên thuê dịch vụ phải thanh toán chi phí cho bên cung ứng dịch vụ theo số lượng và chất lượng công việc mà họ đã làm. Khi hợp đồng thực hiện một công việc mà các bên không thỏa thuận về kết quả công việc đó và nếu hết hạn của hợp đồng mà công việc chưa hoàn thành thì về nguyên tắc hợp đồng chấm dứt và cần thanh lý hợp đồng. Nếu bên cung ứng dịch vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng cho đến khi hoàn thành mà bên thuê dịch vụ không có ý kiến gì về việc kéo dài thời gian đó thì hợp đồng khi đó được coi là kéo dài thời hạn. Trong trường hợp này bên thuê dịch vụ phải thanh toán tiền công của thời gian đã kéo dài sau khi hết hạn hợp đồng (Điều 526 BLDS 2005). Trong tất cả các điều khoản nói trên, có những điều khoản mà ở hợp đồng này không cần thoả thuận nhưng ở một hợp đồng khác các bên lại buộc phải thoả thuận thì hợp đồng mới được coi là giao kết. Mặt khác ngoài nội dung cụ thể các bên còn phải thoả thuận để xác định với nhau thêm một số nội dung khác. Vì vậy, có thể phân chia các điều khoản trong nội dung của hợp đồng thành 3 loại như sau: * Điều khoản cơ bản: Các điều khoản cơ bản xác định nội dung cơ bản của hợp đồng. Đó là những điều khoản không thể thiếu được đối với từng loại hợp đồng. Nếu không thể thoả thuận được những điều khoản đó thì hợp đồng không thể giao kết được. Điều khoản cơ bản có thể do tính chất của hợp đồng quyết định hoặc do pháp luật quyết định. Có những điều khoản đương nhiên là điều khoản cơ bản vì nếu không thoả thuận tới nó sẽ không hình thành hợp đồng. Chẳng hạn, điều khoản về đối tượng luôn là điều khoản cơ bản trong hợp đồng mua bán tài sản. Nhưng có những điều khoản mà vốn dĩ không phải là điều khoản cơ bản nhưng các bên thấy cần thiết phải thoả thuận được điều khoản đó mới giao kết hợp đồng, thì những điều khoản đó cũng là những điều khoản cơ bản của hợp đồng. * Điều khoản thông thường: Là những điều khoản được pháp luật quy định trước. Nếu khi giao kết hợp đồng các bên không thoả thuận những điều khoản này, thì vẫn coi như hai bên đã mặc nhiên thoả thuận và được thực hiện như pháp luật đã quy định. Khác với điều khoản cơ bản, các điều khoản thông thường không làm ảnh hưởng đến quá trình giao kết hợp đồng. Để giảm bớt sự phức tạp trong giao kết hợp đồng thì các bên có thể không đưa các nội dung đó vào hợp đồng nhưng vẫn thực hiện các nội dung đó trên thực tế. * Điều khoản tuỳ nghi: Ngoài những điều khoản phải thoả thuận vì tính chất của hợp đồng và những điều khoản mà pháp luật đã quy định trước, khi giao kết hợp đồng các bên có thể thoả thuận để xác định thêm một số điều khoản khác nhằm làm cho nội dung của hợp đồng được cụ thể thuận lợi cho các bên trong quá trình thực hiện. Điều khoản tuỳ nghi là những điều khoản mà các bên tham gia giao kết hợp đồng tự ý lựa chọn và thoả thuận với nhau để xác định quyền và nghĩa vụ dân sự của các bên. Thông qua điều khoản tuỳ nghi bên có nghĩa vụ được phép lựa chọn một trong các cách thức nhất định để thực hiện hợp đồng sao cho thuận lợi mà vẫn đảm bảo được yêu cầu của bên kia. ►Như vậy, một điều khoản trong nội dung của hợp đồng có thể là điều khoản cơ bản, có thể là điều khoản thông thường hoặc điều khoản tuỳ nghi. b) Nội dung của hợp đồng thương mại . Hợp đồng thương mại là một dạng cụ thể của hợp đồng nói chung, nên về cơ bản nội dung của hợp đồng thương mại cũng giống như hợp đồng thông thường đã nêu ở trên. Nhưng do có tính chất thương mại nên loại hợp đồng này cũng có một số đặc tính riêng của nó để phân biệt với các loại hợp đồng khác. Viêc pháp luật quy định nội dung của hợp đồng mua bán có ý nghĩa hướng các bên tập trung vào việc thoả thuận những nội dung quan trọng của hợp đồng, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện hợp đồng phòng ngừa những tranh chấp xảy ra trong quá trình thực hiện hợp đồng. Luật thương mại 2005 không quy định bắt buộc các bên phải thoả thuận những nội dung cụ thể nào trong hợp đồng mua bán hàng hoá. Mặc dù nội dung của hợp đồng mua bán hàng hoá có thể xác định được dựa trên những quy định mang tính khuyến nghị định hướng của Điều 402 BLDS 2005, thói quen và tập quán thương mại nhưng trong điều kiện hạn chế thì điều này tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến những rủi ro pháp lý, những tranh chấp trong hoạt động mua bán hàng hoá. Xuất phát từ tính chất của hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại, có thể thấy những điều khoản quan trọng của hợp đồng mua bán hàng hoá bao gồm: đối tượng, chất lượng, giá cả, phương thức thanh toán, thời hạn và địa điểm giao nhận hàng. Ngoài ra cần lưu ý, trong quan hệ mua bán hàng hoá, các bên không chỉ bị ràng buộc bởi các điều khoản đã thoả thuận với nhau mà còn chịu sự ràng buộc bởi những quy định của pháp luật * Đối với hợp đồng dịch vụ. Do tính chất của hợp đồng dịch vụ là một loại hoạt động thương mại liên quan đến việc mua bán các loại hàng hoá vô hình 4. Chủ thể của hợp đồng Chủ thể của hợp đồng là những người tham gia vào quan hệ hợp đồng, thể hiện ý chí trong quá trình ký kết thực hiện hợp đồng. Trong quan hệ dân sự và quan hệ kinh doanh thương mại thì chủ thể có sự khác nhau do tính chất của hai quan hệ này có sự khác nhau. a). Chủ thể trong hợp đồng thương mại . Hợp đồng mua bán hàng hoá được thiết lập chủ yếu giữa các chủ thể là thương nhân. Theo quy định của Luật thương mại 2005 thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Thương nhân là chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá có thể là thương nhân Việt Nam, hoặc thương nhân nước ngoài ( trong hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế). Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức cá nhân không phải là thương nhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá. Hoạt động của bên chủ thể không phải là thương nhân và không nhằm mục đích lợi nhuận trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá phải tuân theo Luật thương mại khi chủ thể này lựa chọn áp dụng Luật thương mại 2005 phù hợp với học thuyết pháp lý về áp dụng pháp luật thương mại đối với các giao dịch hỗn hợp. b) Chủ thể của hợp đồng dân sự. Chủ thể của hợp đồng dân sự có thể là bất cứ ai trong việc xác lập các quan hệ hợp đồng nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt tiêu dung. Theo BLDS thì chủ thể của quan hệ hợp đồng bao gồm cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình ,tổ hợp tác. Các chủ thể trong hợp đồng dân sự tham gia giao kết hợp đồng nhằm mục đích sinh hoạt tiêu dung đáp ứng nhu cầu bản thân Vì mục đích của hợp đồng dân sự là như vậy nên phạm vi chủ thể của hợp đồng này là rất rộng bao gồm đại bộ phận cộng đồng dân cư trong đời sống sinh hoạt xã hội. 5. Đặc thù của hợp đồng dịch vụ du lịch Theo khoản 1 Điều 4 Luật du lịch 2005: “ Du lịch là hoạt động có liên quan đến chuyến đi của con người ngoài nơi cư trú của mình nhằm đáp ứng nhu cầu tham quan, tìm hiểu, giải trí, nghỉ dưỡng, trong một khoảng thời gian nhất định”. Theo định nghĩa đó thì hợp đồng du lịch là một loại hợp đồng được giao kết nhằm đáp ứng các nhu cầu đó của khách du lịch ( là người đi du lịch hoặc kết hợp đi du lịch, trừ trường hợp đi học, làm việc hoặc hành nghề để nhận thu nhập ở nơi đến) Du lịch là ngành kinh tế dịch vụ. Sản phẩm của ngành du lịch chủ yếu là dịch vụ, không tồn tại dưới dạng vật thể, không lưu kho lưu bãi, không chuyển quyền sở hữu khi sử dụng. Do vậy nó cũng mang đặc trưng chung của dịch vụ. Chính vì thế, trên cơ sở những khái niệm chung về dịch vụ, chúng ta có thể đưa ra khái niệm dịch vụ du lịch như sau: Dịch vụ du lịch là kết quả mang lại nhờ các hoạt động tương tác giữa những tổ chức cung ứng dịch vụ và khách du lịch và thong qua các hoạt động tương tác đó để đáp ứng nhu cầu của khách du lịch và mang lại lợi ích cho tổ chức cung ứng dịch vụ du lịch. Theo khoa học pháp lý, Tại khoản 11 Điều 4 Luật du lịch 2005: “ Dịch vụ du lịch được hiểu là việc cung cấp các dịch vụ về lữ hành, vận chuyển, lưu trú, ăn uống, vui chơi, giải trí, thông tin hướng dẫn và những dịch vụ khác nhằm đáp ứng nhu cầu của khách du lịch”. Như vậy, hợp đồng du lịch chủ yếu đáp ứng những nhu cầu tiêu dung của khách du lịch, người tiêu dung dịch vụ cá nhân khi sử dụng dịch vụ du lịch do các hãng lữ hành cung cấp không nhằm mục đích lợi nhuận mà chủ yếu để thoả mãn nhu cầu sinh hoạt của bản thân, nên thực chất hợp đồng du lịch mang yếu tố dân sự nhiều hơn đối với khách du lịch, còn đối với nhà cung cấp dịch vụ thì thông qua việc đáp ứng nhu cầu của khách du lịch để thu được lợi nhuận, nên mục đích thương mại là rất rõ ràng. Do có sự xung đột về mục đích giữa người tiêu dung dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ như vậy nên việc áp dụng pháp luật đôi khi cũng gặp những vấn đề khó khăn. Còn đối với người sử dụng dịch vụ du lịch là một pháp nhân, mua chương trình lữ hành cho cán bộ nhân viên Công ty mình thì đó lại là nhằm mục đích thương mại, vì đó là chính sách hoạt động của Công ty, và cũng là chiến lược nhằm nâng cao năng suất lao động cho cán bộ nhân viên Công ty mình. Nếu khách du lịch sử dụng dịch vụ du lịch nhằm mục đích tiêu dùng thì khi giao kết hợp đồng luật áp dụng sẽ là Luật dân sự hiện hành, nhưng nếu bên cung ứng dịch vụ và bên tiêu dung dịch vụ thống nhất là áp dụng luật thương mại thì trong trường hợp đó Luật thương mại sẽ được dung làm căn cứ pháp lý khi giao kết hợp đồng ( theo Điều 1 Luật thương mại 2005). a). Đặc điểm của dịch vụ du lịch: Cũng như dịch vụ nói chung, dịch vụ du lịch có những đặc trưng sau: * Tính phi vật chất. Đây là tính chất quan trọng nhất của sản xuất dịch vụ du lịch. Tính phi vật chất đã làm cho du khách không thể nhìn thấy hay thử nghiệm sản phẩm từ trước. Cho nên đối với du khách thì dịch vụ du lịch là trừu tượng khi mà họ chưa một lần tiêu thụ nó. Dịch vụ luôn đồng hành với những sản phẩm vật chất nhưng dịch vụ mãi mãi tồn tại tính phi vật chất của mình. Du khách rất khó đánh giá dịch vụ. Từ những nguyên nhân nêu trên, nhà cung ứng dịch vụ du lịch cần phải cung cấp đủ thông tin và thông tin cần phải được nhấn mạnh tính lợi ích của dịch vụ chứ không chỉ đơn thuần mô tả quá trình dịch vụ, qua đó làm cho du khách phải quyết định mua dịch vụ của mình. * Tính không chuyển đổi quyền sở hữu dịch vụ. Khi mua hàng hoá, người mua có quyền được sở hữu đối với hàng hoá và sau đó có thể sử dụng như thế nào, nhưng đối với dịch vụ khi được thực hiện thì không có quyền sở hữu nào được chuỷen từ người bán sang người mua. Người mua chỉ là đang mua quyền đối với tiến trình dịch vụ. Chẳng hạn, khi đi du lịch, khách du kịch được chuyên chở, được ở khách sạn, được sử dụng bãi biển nhưng trên thực tế họ không có quyền sở hữu đối với chúng. * Tính không thể di chuyển của dịch vụ du lịch. Vì các cơ sở du lịch vừa là nơi sản xuất, vừa là nơi cung ứng dịch vụ du lịch thuộc loại không thể di chuyển được, khách muốn tiêu dung dịch vụ thì phải đến cơ sở du lịch. Do đó, để nâng cao chất lượng dịch vụ và đem lại hiệu quả kinh doanh khi xây dựng các điểm du lịch cần chọn địa điểm thoả mãn các điều kiện tự nhiên: Địa hình, địa chất, thuỷ văn, khí tượng, tài nguyên, môi trường sinh thái và điều kiện xã hội, dân số dân sinh, phong tục tập quán, chính sách kinh tế, khả năng cung cấp lao động, cơ sở hạ tầng. Đặc điểm này của họat động du lịch đòi hỏi các cơ sở du lịch tiến hành các hoạt động xúc tiến, quảng bá mạnh mẽ để kéo được du khách đến các địa điểm du lịch. * Tính thời vụ của dịch vụ du lịch Dịch vụ có tính đặc trưng là tính thời vụ, có những mùa mà du khách rất đông nhưng cũng có những thời điểm do yếu tố thời tiết mà hoạt động này kém sôi động hơn. * Tính chọn gói của dịch vụ du lịch. Dịch vụ du lịch thường là dịch vụ chọn gói bao gồm dịch vụ cơ bản, dịch vụ bổ sung, dịch vụ đặc trưng. Dịch vụ cơ bản là dịch vụ chính mà nhà cung cấp du lịch cung cấp cho khách hàng nhằm thoả mãn nhu cầu cơ bản không thể thiếu được đối với du khách như vận chuyển, nhà hàng…. Dịch vụ bổ sung: là những dịch vụ phụ cung cấp cho khách hàng nhằm thoả mãn những nhu cầu không bắt buộc dịch vụ cơ bản nhưng phải có trong hành trình của du khách. * Dịch vụ đặc trưng: là những dịch vụ thoả mãn nhu cầu đặc trưng của du khách như tham quan, tìm hiểu vui chơi giả trí. Việc thoả mãn nhu cầu này cũng chính là nguyên nhân cũng chính là mục đích của chuyến du lịch. * Tính không đồng nhất dịch vụ du lịch. Do khách hàng muốn được chăm sóc như những người riêng biệt nên dịch vụ du lịch thường bị cá nhân hoá và không đồng nhất. * Sự khác nhau giữa thương mại hàng hoá và thương mại dịch vụ: Thương mại hàng hoá có thể gọi là thương mại liên quan đến sản phẩm vật chất, còn thương mại dịch vụ là một sản phẩm phi vật chất. Sự khác nhau giữa hai loại hình này được thể hiện như sau. Bảng 2. So sánh hoạt động dịch vụ và hoạt động kinh doanh vật chất Sản phẩm vật chất Dịch vụ Sản phẩm cụ thể Phi vật chất hay vô hình Quyền sở hữu được chuyển giao khi mua bán Không có sự thay đổi về sở hữu Được trưng bày trước khi mua bán Thông thường không được trưng bày hoặc trưng bán nhưng không có hiệu quả trước khi mua bán Có thể được cất giữ lưu kho Không cất giữ hay lưu kho được Sản xuất được tạo ra trước khi tiêu dùng Sản xuất và tiêu dung được tién hành đồng thời cùng một thời gian Có thể được bán ._.ước ngoài, thuê phương tiện vận chuyển, … nên không thể rút lại hợp đồng được. Vì vậy sau đấy hành khách không sử dụng dịch vụ thì vẫn phải trả tiền. Sau 10 ngày khi Công ty Thăng Long thực hiện xong chương trình tham quan, khảo sát mà bên sử dụng dịch vụ không có ý kíên chính thức bằng văn bản thì hợp đồng này được xem như đã được cả hai bên đồng ý thanh lý và bên Công ty Thăng Long sẽ xuất hoá đơn cho bên tiêu dùng dịch vụ. Hình thức bán hàng qua điện thoại. Hai bên cam kết thực hiện đúng các điều khoản trong hợp đồng. Khi thực hiện nếu có vấn đề gì nảy sinh, hai bên sẽ cùng nhau thương lượng giải quyết. Trường hợp không thồng nhất được sẽ cùng nhất trí đưa ra toà án kinh tế thành phố Hà Nội để giải quyết, chi phí cho Toà án sẽ do bên thua kiện thanh toán. g). Điều khoản về bảo hiểm . Khi kinh doanh lữ hành thì Công ty lữ hành phải mua bảo hiểm du lịch cho hành khách để đảm bảo an toàn cho chuyến đi, vì trong hành trình khách du lịch có thể gặp phải những nguy hiểm nên để nâng cao chất lượng phục vụ cũng như để trang trải một phần chi phí khi có sự cố xảy ra đối với hành khách thì Công ty lữ hành phải có nghĩ vụ mua Bảo hiểm du lịch cho đoàn du khách. Công ty sử dụng dịch vụ bảo hiểm của Tổng Công ty cổ phần Bảo Minh. Thời hạn bảo hiểm là thời hạn của chuyến hành trình và việc bảo hiểm này diễn ra trên toàn chuyến đi ( bao gồm từ địa điểm khởi hành cho đến khi về đích). Số tiền bảo hiểm là 20 triệu đồng/ người/ vụ. Phí bảo hiểm là2.500 đồng/người/ngày, đây là mức phí bảo hiểm tương đối thấp so với chi phí toàn bộ chuyến đi nên nó rất hấp dẫn khách du lịch đến với Công ty, vì mức phí bảo hiểm thấp trong khi số tiền bảo hiểm lại lớn nên đó là yếu tố tạo ra tính cạnh tranh lớn trong lĩnh vực du lịch. h). Trách nhiệm do vi phạm hợp đồng và phạt hợp đồng. Đây là một điều khoản cơ bản trong nội dung của hợp đồng, nó là một sự bảo đảm cho các bên bắt buộc phải thực hiện đúng hợp đồng như đã giao kết nếu không sẽ phải chịu các trách nhiệm vật chất tương ứng do vi phạm hợp đồng. Các bên tự ràng buộc mình bằng những trách nhiệm phải chịu khi không thực hiện , thực hiện không đúng không đầy đủ các cam kểt như trong hợp đồng. Trong hợp đồng mà Công ty Thăng Long GTC ký kết với khách du lịch thì điều khoản phạt hợp đồng được quy định rất rõ ràng. Mức phạt hợp đồng cao nhất mà bên Công ty du lịch cam kết trả cho khách du lịch là 50% tổng giá trị hợp đồng khi không thực hiện chuyến đi dúng hẹn và đến cùng cho hành khách. Còn về phía khách du lịch thì mức đền bù hợp đồng cao nhất là 100% kinh phí chuyến đi cho phía Công ty du lịch khi không thực hiện chuyến đi nhưng thông báo cho Công ty du lịch Thăng Long biết hoặc thông báo như nhưng quá chậm ( sau 04 ngày trớc khi đoàn khởi hành) làm cho Công ty du lịch bị thiệt hại lớn vì đã chuẩn bị hoàn tất cho chuyến đi. Như vậy sự chênh lệch về mức phạt hợp đồng nay giữa bên cung ứng dịch vụ du lịch và bên tiêu dùng dịch vụ là không công bằng vì mức trách nhiệm giữa hai bên là không tương ứng, không đảm bảo sự công bằng và bình đẳng trong quan hệ hợp đồng mà bộ luật dân sự, hiến pháp cùng nhiều văn bản khác có quy định. i). Thủ tục xuất nhập cảnh cho hành khách đi du lịch nước ngoài: Đây là thủ tục có tính bắt buộc khi công dân một nước muốn quá cảnh qua lãnh thổ nước khác. Thủ tục xuất nhập cảnh thì do hành khách thực hiện tại cửa khẩu biên giới, nếu có sự không hợp lệ trong các giấy tờ thì hành khách phải tự chịu trách nhiệm, vì họ có tư cách cá nhân nên phải tự chịu trách nhiệm về tính hợp pháp của bản thân. Khi xuất cảnh khách du lịch phải có viza hợp pháp cùng các giấy tờ khác là yêu cầu bắt buộc khi xuất cảnh Ngoài các nội dung chính trong hợp đồng chính như đã nêu trên thì phía Công ty du lịch có thể ký thêm các hợp đồng phụ cho khách du lịch khi họ có nhu cầu và phía Công ty có khả năng đáp ứng: như các dịch vụ phục vụ riêng cho khách hàng hoặc chất lượng phục vụ cao hơn so với các hành khách khác trong hợp đồng. Nếu Công ty du lịch không đáp ứng được theo yêu cầu mà hành khách đề ra thì hợp đòng phụ đó vô hiệu nhưng không kéo theo sự vô hiệu của hợp đồng chính kia. Sau khi các bên đã đồng ý các nội dung trong hợp đồng thì khách du lịch hoặc đại diện cho khách du lịch, và bên Công ty du lịch cùng ký vào nội dung của hợp đồng. Sau đó bản hợp đồng đợc phô tô làm 06 bản có giá trị pháp lý như nhau, mỗi bên giữ 03 bản để cùng thực hiện. j.Bản chất thương mại của hợp đồng du lịch mà Công ty Thăng Long đã ký kết Các hợp đồng du lịch mà Công ty ký kết đa số là các hợp đồng dân sự, tuy nhiên trong quá trình ký kết thực hiện hợp đồng Công ty còn ký kết các hợp đồng du lịch mang bản chất là các hợp đồng thương mại. Cụ thể như khi Công ty cử đại diện của mình ký hợp đòng du lịch với đại diện của một pháp nhân khác về việc tổ chức chuyến tham quan du lịch cho nhân viên của mình thì về bản chất đó là hợp đồng thương mại và nó chịu sự điều chỉnh của Luật thương mại 2005. Trong trường hợp đó không chỉ có bên Công ty Thăng Long mới nhằm mục đích lợi nhuận mà cả phía Công ty tiêu dùng dịnh vụ du lịch cũng nhằm mục đích lợi nhuận và hợp đồng mà họ mua của Công ty Thăng Long loại dịch vụ du lịch đó cũng nhằm mục đích nâng cao hiệu quả hoạt động của Công ty mình. Khi đó bản chất thương mại của hợp đồng là rất rõ ràng. Trong nhiều trường hợp Công ty Thăng Long ký hợp đồng trực tiếp với khách hàng nhưng lại không phải là người trược tiếp cung cấp các dịch vụ cho hành khách mà lại thông qua một hợp đồng với chủ thể khác để họ làm dịch vụ du lịch cho hành khách thì đó cũng là hợp đồng dịch vụ du lịch nhưng lại là hợp đồng được giao kết gián tiếp vì không có bên nào là người tiêu dùng dịch vụ mà khi đó xuất hiện một người thứ ba là người trực tiếp cung cấp dịch vụ.Trường hợp này Công ty Thăng Long phải ký một hợp đồng phụ với chủ thể thứ ba kia để họ thực hiện những nghĩa vụ mà Công ty đã cam kết thực hiện cho hành khách của mình. Sự vô hiệu của hợp đồng phụ này không dẫn đến sự vô hiệu của hợp đồng chính mà Công ty Thăng Long đã ký với khách hàng ►Trên đây là toàn bộ nội dung của hợp đồng mà Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC ký kết với khách du lịch. CHƯƠNG III NHẬN XÉT, KIẾN NGHỊ VỀ THỰC TIỄN ÁP DUNG PHÁP LUẬT VÀ KÝ KẾT HỢP ĐỒNG TẠI CÔNG TY TNHH NHÀ NƯỚC THĂNG LONG GTC 1. Nhận xét. Do đây là một Công ty dịch vụ Nhà nước chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ du lịch nên việc ký kết hợp đồng của Công ty với khách du lịch tương đối đơn giản, chưa có tranh chấp lớn nào xảy ra trong suốt quá trình hoạt động của mình. Công ty tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về hợp đồng dịch vụ, ngoài ra còn đáp ứng đầy đủ các quy định của Luật du lịch 2005 vì đây là lĩnh vực luật chuyên nghành. Hoạt động lữ hành của Công ty liên quan đến việc đưa hành khách ra nước ngoài nên trong hợp đồng còn phải tuân theo các quy định của pháp luật về xuất nhập cảnh. Đa số các hợp đồng du lịch mà Công ty ký kết đều là những hợp đồng được soạn thỏa theo mẫu đã có sẵn nên nó tạo ra sự thuận loịư rất lớn cho quá trình đàm phán ký kết hợp đồng, tiết kiệm được thời gian và chi phí , đơn giản hóa được thủ tục giao kết. Trong quá trình ký kết hợp đồng Công ty đã triệt để tuân thủ cá quy định của pháp luật về hợp đồng về cả hình thức và nội dung, người tham gia ký kết là người có đủ thẩm quyền được Công ty ủy quyền tham gia ký kết Mặc dù hợp đồng du lịch của Công ty còn rất đơn giản nhưng nó lại có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện hợp đồng một cách có tổ chức và triệt để. Từ đó nâng cao hiệu quả áp dụng và thực hiện hợp đồng đã ký kết được hiệu quả, nhanh chóng hơn, tạo ra sự chủ động trong quá trình đàm phán, thoả thuận với khách du lịch. Chính vì nội dung không quá phức tạp, và giá trị hợp đồng không quá lớn, nên hầu như không có tranh chấp nào lớn xảy ra, nếu có tranh chấp thì cũng rất dễ giả quyết và mức độ bồi thường không quá lớn. Đa số các tranh chấp được giải quyết thông qua con đường hoà giải, tự thoả thuận mà không phải đưa ra toà án để giải quyết. Thủ tục đàm phán ký kết hợp đồng du lịch của Công ty cũng rất thuận lợi cho hai bên, nên có tính cạnh tranh lớn trong giai đoạn mà nước ta đã ra nhập WTO. Sự tự do ý chí của các bên được đề cao. Tuy nhiên vẫn còn những mặt tồn tại trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng du lịch của Công ty. Công ty vẫn đưa vào hợp đồng những điều khoản có lợi cho mình hơn và gây ra sự không công bằng trong việc xác định trách nhiệm của cả hai bên khi có sự vi phạm hợp đồng xảy ra. Trong giai đoạn đầu của quá trình chuyển đổi và đang tiến tới cổ phần hoá nên tuy là một doanh nghiệp Nhà nước nhưng Công ty Thăng Long cũng rất tự chủ trọng hoạt động kinh doanh du lịch của mình. Không còn hoạt động theo kế hoạch của Nhà nước giao cho, mà tự tìm kiếm thị trường, hầu như không nằm trong sự bao cấp từ phía Nhà nước. Vì vây, số lượng hợp đồng du lịch nói riêng cũng như các đơn đặt hàng dịch vụ khác không ngừng tăng lên làm cho doanh thu của Công ty có sự tăng trưởng đáng kể. Từ 150 hợp đồng du lịch nước ngoài, 200 hợp đồng du lịch trong nước năm 2005 với giá trị đạt 30 tỷ đồng. Đến năm 2006 số lượng hợp đồng này đã có sự tăng lên đáng kể cả về số lượng và giá trị của hợp đồng: 150 hợp đồng du lịch nước ngoài, 300 hợp đồng du lịch trong nước, với tổng trị giá các hợp đồng là trên 50 tỷ đồng. Qua quá trình thực tập và nghiên cứu hoạt động của Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC thì tôi thấy hoạt động kinh doanh dịch vụ của Công ty ngày càng đa dạng và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng doanh thu của Công ty. Đặc biệt là các hợp đồng du lịch được ký kết không ngừng gia tăng. Ngoài những thành quả mà Công ty đã đạt được thì Công ty cũng gặp phải những vấn đề khó khăn mang tính chủ quan như; Trước đây Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC là một Công ty Nhà nước và mới được chuyển đổi mô hình quản láiang Công ty TNHH Nhà nước một thành viên cách đây 2 năm trong đó Nhà nước vẫn nắm đa số vốn chủ sở hữu.Tuy cơ chế quản lý có những thay đối nhưng về cơ bản mọi hoạt động vẫn còn mang tính quan liêu bao cấp, xa dời thực tiễn kinh tế thị trường, có tính ỷ lại cao trong hoạt động của mình dựa dẫm vào Nhà nước. Chưa có tính độc lập tự chịu trách nhiệm. Chua chủ động sáng tạo trong việc tìm kiếm thị trường du lịch cũng như những thị trường khác để đầu tư mà ỷ lại vào kế hoạch của nhà nước hoặc những thị trường mà trước đó Nhà nước đã xây dựng được. Năng lực chuyên môn của cán bộ chưa cao, thiếu am hiểu về pháp luật và thị trường nên không taọ được động lực phát triển cho Công ty. Những người nắm chức vụ cao đa số là những người đã nhiều tuổi nên thiếu sự nhạy bén đối với thị trường nên không dám mạnh dạn đầu tư nhằm tìm kiếm thị trường mới, nên vấn đề đặt ra là phải đào tạo đội ngũ cán bộ mới có trình độ chuyên môn ngiệp vụ cao . 2. Kiến nghị. 2.1 Một số kiến nghị cho việc phát triển nghành du lịch của Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC. Sự hài lòng của du khách là nhân tố kích cầu du lịch qua trọng nhất trong lĩnh vực du lịch. Chỉ khi hài lòng với những dịch vụ được cung cấp thì người tiêu dùng mới có nhu cầu sử dụng lại dịch vụ ấy. Vì vậy để thu hút được khách du lịch đến Công ty của mình. Để làm được điều đó Công ty phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ phục vụ du khách. Mức độ hài lòng của du khách là dấu hiệu cơ bản cho thấy sự thoả mãn nhu cầu của họ. Đây đồng thời là lý do để họ quay trở lại sử dụng dịch vụ của Công ty và quảng bá, giới thiệu về sản phẩm du lịch của Công ty. Muốn đo lường được sự hài lòng của du khách, cần tiếp cận họ bằng những phương pháp tâm lý, tìm hiểu nguyện vọng và sở thích của họ từ đó nghiên cứu về mức độ hài lòng. Vì sự hài lòng của du khách là thước đo cho chất lượng sản phẩm du lịch. Chất lượng dịch vụ và sự hài lòng của du khách có quan hệ tỷ lệ thuận với nhau. Chất lượng dịch vụ càng cao càng đáp ứng tốt nhu cầu của du khách nên mức độ hài lòng của du khách càng cao. Bảng 5. Mối quan hệ giữa tỷ lệ du khách hài lòng và chất lượng dịch vụ: Tỷ lệ du khách hài lòng( % ) Chất lượng dịch vụ Dưới 65 Kém 65- 69 Trung bình 70 – 79 Khá 80 – 85 Tốt Trên 85% Tuyệt vời Đối với Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC thì mức độ hài lòng của du khách còn chưa cao, chỉ đạt từ 70- 79% nên chưa đủ hấp dẫn để thu hút du khách trở lại( theo tài liệu cung cấp của phòng kinh doanh du lịch). a). Nguyên nhân chưa hài lòng của du khách. *. Chương trình du lịch chưa hấp dẫn: - Việc xây dựng chương trình du lịch của Công ty Thăng Long còn rất đơn giản chưa độc đáo để thu hút khách du lịch. Đa số Công ty chỉ tìm kiếm các di tích, danh lam thắng cảnh có sẵn, rồi sâu chuỗi chúng lại, kết hợp với các cơ sở lưu trú là thành một tuyến du lịch. Với những chuyến du lịch như vậy, du khách chỉ là những người thụ động tham quan ngắm cảnh chứ không có hoạt động gì hấp dẫn để khách du lịch tham gia. - Do công tác tổ chức chưa cụ thể, chưa có sự kết hợp với các Công ty lữ hành khác nên có nhiều tour du lịch của Công ty bị chồng chéo với tour của Công ty khác gây quá tải chồng chéo trong các địa điểm du lịch. - Vẫn còn hiện tượng hướng dẫn viên dồn các hoạt động trong ngày theo kiểu “làm khoán cho xong”. Tại một số tour hướng dẫn viên tự ý thay đổi “ lịch trình” cho tiện và tiết kiệm. *. Chất lượng các danh lam thắng cảnh chưa cao. - Các danh lam thắng cảnh này bị khai thác quá mức nhưng lại không được tôn tao thường xuyên nên đang bị xuống cấp trầm trọng, gây mất mỹ quan - Môi trường xã hội tại các địa điểm du lịch còn gặp nhiều bất cập, xuất hiện những dịch vụ ăn theo, Công ty du lịch cấu kết với địa phương có danh lam thắng cảnh để lừa du khách. - Điều kiện vệ sinh môi trường tại địa điểm du lịch không được bảo đảm. - Trong các chuyến du lịch hoạt đồng giải trí còn hạn chế về số lượng, nghèo nàn về chất lượng, đơn điệu về hình thức, không tạo được sự hấp dẫn đối với du khách chính vì vậy số lượng hợp đồng được ký kết tăng chưa cao sau mỗi năm. Còn rất nhiều thời gian trống gây cảm giác nhàm chán cho du khách. Các chương trình du lịch của Công ty lữ hành Thăng Long mới chỉ quan tâm đến hoạt động ban ngày, và chủ yếu là các cuộc tham gía thụ động ít có hoạt động cho du khách tham gia một cách chủ động. Điều này tạo nên sự buồn tẻ cho du khách nhất là du khách phương Tây có nhiều thói quen giải trí về đêm. - Chính sách giá cả cũng là một vấn đề lớn gây ra sự băn khoăn cho khách du lịch. Vì giá vé cho du khách nước ngoài cao hơn vượt trội so với khách du lịch trong nước. Tạo ra sự phân biệt đối xử trong chương trình du lịch của Công ty đối với từng đối tượng du khách. - Trình độ quản lý và năng lực của hướng dẫn viên còn chưa đồng đều, tạo ra sự kém hấp dẫn trong nhiều chuyến đi. Sự yếu kém thể hiện ở các lĩnh vực như: + Thiếu kiến thức cơ bản về kinh tế thị trường. + Thiếu công cụ phân tích hữu hiệu về quản lý kinh tế và quản trị kinh doanh. + Thiếu ý thức tự vươn lên nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ b). Biện pháp khắc phục. Để khắc phục được những mặt hạn chế nói trên Công ty TNHH Nhà nước Thăng Long GTC cấn đưa ra những giải pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng để làm xuất hiện những nhu cầu mới, làm gia tăng nhu cầu còn thấp, và làm tăng cao hơn nữa nhu cầu vốn đã tăng cao của du khách. Muốn kích thích nhu cầu của du khách chúng ta trước hết cần phải tìm hiểu xu hướng vận động của nhu cầu đó như sau: Để giải quyết vấn đề nhân lực Công ty cần có chính sách hậu đãi tương xứng để thu hút nhân tài trong quản lý cũng như đội ngũ nhân viên. Thường xuyên bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại đội ngũ nhân lực về du lịch để nâng cao nhận thức cho họ trong công tác phục vụ du khách. Cần đào tạo cả đội ngũ cán bộ cả ở trong và ngoài nước Tăng cường công tác tuyên truyền quảng bá sản phẩm du lịch của Công ty nhằm thu hút khách trong và ngoài nước. Nghiên cứu tâm lý, thị hiếu, tập quán thói quen tiêu dùng dịch vụ du lịch của từng đối tượng khách hàng để đưa ra những sản phẩm phù hợp Thiết lập các đại diện du lịch ở nhiều tỉnh thành phố lớn để mở rộng thị trường du lịch. Tạo nhu cầu mới cho khách hàng tiềm năng. Đáp ứng nhu cầu của du khách hiện tại là phát triển du lịch trong hiện tại. Tạo nhu cầu thị trường mới cho du khách tiềm năng là mở đường cho du khách phát triển trong tương lai. Nếu không thực hiện được điều này thì Công ty sẽ luôn bị động chạy theo nhu cầu của du khách mà không có sự chuẩn bị chu đáo như dự báo nhu cấu, lập kế hoạch đáp ứng chúng một cách khoa học. Để tạo ra thị trường khách hàng tiềm năng Công ty phải sáng tạo và đổi mới sản phẩm du lịch, nâng cao sức hấp dẫn của những sản phẩm du lịch hiện có, đưa ra các chương trình khuyến mại hấp dẫn vào các dịp lễ hội. Quảng bá sản phẩm du lịch thông qua sách báo, tờ dơi, mạng Internet… Xây dựng các chương trình du lịch mang màu sắc đặc trưng cho Công ty mình. Thông qua các sự kiện du lịch Công ty cũng có thể quảng bá sản phẩm du lịch của mình rất hiệu quả. Trong quá trình ký kết thực hiện hợp đồng cần phải có những điều khoản phạt hợp đồng cao để tránh tình trạng bên cung ứng dịch vụ tùy tiện thay đổi chương trình du lịch mà không thông báo trước với khách hàng, cũng như khách hàng tự động hủy bỏ hợp đồng gây thiệt hại về kinh tế và uy tín cho nhà cung cấp dịch vụ. Trong trường hợp công ty tổ chứ các chuyến du lịch nước ngoài, khi du khách gặp khó khăn trong các thủ tục xuất nhập cảnh tại cửa khẩu biên giới thì phía Công ty du lịch lại không có sự can thiệp kịp thời mà để cho hành khách tự giải quyết nên sẽ gây tâm lý lo ngại cho khách du lịch khi du lịch nước ngoài. Nên các hướng dẫn viên du lịch cần phải được trang bị những kiến thức về thủ tục hướng dẫn khách hàng làm thủ tục xuất nhập cảnh một cách nhanh chóng nhất và can thiệp kịp thời khi có những tình huống khó khăn xảy ra nhằm tạo tâm lý an toàn cho hành khách trong chuyến đi đồng thời thu hút được khách du lịch . Để hợp những đồng đã được ký kết được thực hiện một cách đầy đủ thì cần phải có những sự phối hợp nhịp nhàng giữa các bộ phận trong Công ty như: bộ phận vận tải, bộ phận lo thủ tục hậu cần, … , nhằm đảm bảo cho chuyến đi được an toàn hiệu quả đúng lịch trình. Do trong quá trình ký kết, đàm phán soạn thảo hợp đồng du lịch thì Công ty đã soạn thảo mẫu hợp đồng trước dành cho mọi đối tượng du khách mà không tính đến có những hợp đồng có những đặc thù riêng nên nó tạo ra sự cứng nhắc trong việc đàm phán các điều khoản có tính chất đặc trưng cho từng đối tượng khách hàng. Vì vậy cần thiết phải có những điều khoản bổ sung vào nội dung của hợp đồng để hợp đồng được rõ ràng tránh nhầm lẫn trong khâu thực hiện hợp đồng. Do Công ty thường ít quan tâm đến vấn đề thẩm quyền ký kết hợp đồng vì nhiều khi tham gia ký kết hợp đồng các bên đã quen nhau và phía Công ty tin tưởng rằng họ đang đàm phán với những người có đủ thẩm quuyền ký kết hợp đồng. Nhiều khi các bên còn không đặt vấn đề tìm hiểu thẩm quyền ký kết của đối tác. Chính vì vậy mà đôi khi hợp đồng tuy đã được ký kết nhưng sau đó lại vô hiệu do người ký không có đủ thẩm quyền ký kết, hoặc khi nảy sinh tranh chấp thì một bên viện cớ người ký kết hợp đồng là không có đủ thẩm quyền để tránh được những khoản bồi thường thiệt hại đáng kể do vi phạm hợp đồng, Vì lý do đó để tránh được những thiệt hại không đáng có có thể xảy ra thì trong quá trình ký kết hợp đồng các bên phải tìm hiểu rõ thẩm quyền ký kết của bên kia. Khi ký kết hợp đồng dịch vụ du lịch đại diện phái Công ty luôn là giám đốc. Còn bên đối tác thì đôi khi lại rất khó xác định người đại diện đó là đại diện theo ủy quyền hay đại diện theo pháp luật. Nếu họ là dại diện đương nhiên thì không đáng lo ngại nhưng nhiều khi đó lại là đại diện theo ủy quyền và họ thường giao kết hợp đồng ngòai phạm vi ủy quyền nên khi có tranh chấp xảy ra thì phía Công ty lại không phải là người chịu trách nhiệm với phần hợp đồng đã được giao kết ngoài phạm vi ủy quyền, nên phái Công ty du lịch mà muốn đòi bồi thường thì chỉ được đòi người đã giao kết hợp đồng với mình, như vậy sẽ gặp rất nhiều khó khăn vì họ có thể bỏ trốn, hoặc không có khả năng thanh toán. Trong hợp đồng còn có những điều khoản quá chung chung trong việc đáp ứng yêu cầu chất lượng dịch vụ của du khách chẳng hạn như việc xác định thể nào là tiêu chuẩn khách sạn 2 sao, 3 sao… Công ty cũng chưa có sự giải thích cụ thể nên khách hàng không biết là mình có được hưởng những dịch vụ tương ứng với số tiền mà mình bỏ ra hay không. Chính vì vậy trong hợp đồng cần phải có những điều khoản rõ ràng hơn về tiêu chuẩn chất lượng phục vụ du khách. Hợp đồng đa số được thanh toán bằng tiền mặt nên gây thất thoát rất nhiều cho ngân sách của Công ty và cũng tạo điều kiện cho những người đại diện tham gia ký kết hợp đồng mắc ngoặc với nhau để tham ô công quỹ của Công ty mình. Để khấưc phục tình trạng trên thì biện pháp an toàn nhất là hợp đồng nên đưa vào đó điều khoản về thanh toán là phải thanh toán bằng chuyển khoản, qua đó cũng nhằm ổn định tình hình thị trường tiền tệ đang trong giai đoạn lạm phát quá cao do lượng tiền mặt lưu thông quá lớn trong nền kinh tế. 2.2. Một số kiến nghị đối với cơ quan ban hành pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch. Do tính chất đặc thù của hợp đồng dịch vụ du lịch như đã nói trong phần đầu. Hiện nay hành lang pháp lý đối với hợp đồng dịch vụ nói chung và hợp đồng dịch vụ du lịch nói riêng còn thiếu và yếu về nhiều mặt. Đa số các quy định về hợp đồng dịch vụ đều là những quy định chiếu theo Bộ luật dân sự 2005 mà chưa có những quy định cụ thể. Trong Bộ luật dân sự 2005 tuy đã có những quy định về hợp đồng dịch vụ nhưng đối với ngành dịch vụ đặc thù như dịch vụ du lịch thì còn chưa có quy định cụ thể mà. Nên vấn đề đặt ra là cần phải hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng dịch vụ nói chung và hợp đồng dịch vụ du lịch nói riêng để tạo ra cơ sở pháp lý cho việc giao kết thực hiện hợp đồng cho các bên trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng. Hiện nay Pháp lệnh về hợp đồng kinh tế tuy đã hết hiệu lực nhưng nó vẫn có ảnh hưởng rất lớn đối với tâm lý của các bên trong quá trình ký kết hợp đồng vì từ trước tới giờ họ vẫn có thói quen áp dụng pháp lệnh hợp đồng kinh tế để giải quyết các quan hệ hợp đồng. Cùng với sự ra đời của Bộ luật dân sự 2005 góp phần hoàn thiện đáng kể pháp luật về hợp đồng, đồng thời chính thức chấm dứt hiệu lực của pháp lệnh hợp đồng kinh tế. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của ngành du lịch thì Nhà nước cũng đưa ra một số chính sách vĩ mô nhằm phát triển ngành du lịch trong nước, thu hút được du khách nước ngoài, đồng thời tăng thu ngân sách trong ngành kinh tế du lịch.Vấn đề đặt ra hiện nay là : a). Kiện toàn và đổi mới tổ chức, cơ chế quản lý. Để thực hiện thành công chiến lược phát triển du lịch giai đoạn 2001-2010 cần kiện toàn bộ máy và cơ chế quản lý tương ứng chức năng nhiệm vụ một số ngành kinh tế mũi nhọn và yêu cầu của sự phát triển trong xu thế hội nhập quốc tế. Đổi mới phương pháp quản lý tạo điều kiện cho kinh doanh du lịch phát triển theo pháp luật. Các nhiệm vụ chủ yếu đặt ra như: - Kiện toàn quản lý nhà nước về dịch vụ. - Sắp xếp các doanh nghiệp nhà nước, hình thành các Công ty hoặc tổng Công ty mạnh, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong hoạt động du lịch. Đa dạng hóa sở hữu. Thành lập hiệp hội du lịch Việt Nam. - Gắn mô hình đổi mới quản lý với tính hiệu quả, đồng bộ và bảo đảm ổn định, anh ninh, an toàn trong hoạt động của ngành và với nhiệm vụ bảo đảm an ninh quốc gia trật tự an toàn xã hội. - Từng bước hoàn thiện pháp luật về du lịch. - Đẩy mạnh cải cách hành chính, phân cấp và đơn giản hóa các thủ tục liên quan đến khách du lịch và doanh nghiệp kinh doanh du lịch. b). Tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách. * Chính sách tài chính. Có chính sách ưu tiên thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu đối với các sản phẩm cho dịch vụ du lịch mà trong nước chưa sản xuất được. Xây dựng các vùng trọng điểm du lịch * Chính sách đầu tư. Đầu tư hợp lý phát triển hạ tầng tại các vùng du lịch trọng điểm, cũng như các địa điểm du lịch quốc gia. từng bước có chính sách thuận lợi cho việc đầu tư vốn của các doanh nghiệp du lịch. * Chính sách xuất nhập cảnh hải quan. Đơn giản hóa thủ tục xuất nhập cảnh, quá cảnh đối với người và hành lý của khách du lịch phù hợp với pháp luật trong nước và thông lệ quốc tế. * Hoàn thiện hệ thống pháp luật về hợp đồng dịch vụ và hợp đồng dịch vụ du lịch nói riêng. Hiện nay hành lang pháp lý cho hoạt động du lịch còn chưa được đầy đủ rõ ràng, vì vậy vấn đề đặt ra đối với cơ quan ban hành pháp luật là phải không ngừng hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật nhàm điều chỉnh các quan hệ hợp đồng vè du lịch. Hiện nay, trong giai đoạn hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu và rộng thì hợp đồng có vai trò càng quan trọng hơn trong bất cứ giao dịch kinh tế nào, nên Nhà nước cần phải có những văn bản để quy định mang tính hướng dẫn cho hành vi của các chủ thể trong quá trình đàm phán ký kết hợp đồng. Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch cần phải nêu rõ đối tượng của hợp đồng, mục đích mà các bên tham gia muốn hướng tới. Các bên có thể cùng nhằm mục đích lợi nhuận, hoặc chỉ có một bên nhằm mục đích lợi nhuận còn bên kia là muốn thỏa mãn nhu cầu sinh hoạt. Tùy vào mục đích của các chủ thể mà lựa chọn áp dụng pháp luật sao cho phù hợp Quy định đầy đủ về chủ thể ký kết hợp đồng, để tránh tình trạng người tham gia ký kết hợp đồng lại không có đủ thẩm quyền ký kết, nên nếu người ký hợp đồng là người đại diện theo uỷ quyền thì phải có giấy ủy quyền có giấy xác nhận. Hình thức của hợp đồng cũng phải được pháp luật quy định cụ thể, để tránh tình trạng các bên tùy tiện trong việc giao kết và Nhà nước khó kiểm soát, gây ra tình trạng hỗn loạn trong nền kinh tế vì có quá nhiều các giao dịch ngầm. Các văn bản pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch cũng phải giải thích rõ thế nào là đại diện hợp pháp, đại diện theo ủy quyền, đai diện đương nhiên, để hạn chế sự mập mờ của các chủ thể khi giao kết hợp đồng và ký hợp đồng vượt ra ngoài phạm vi thẩm quyền. Quy định các trường hợp hợp đồng bị tuyên bố vô hiệu và các điều khoản bồi thường hợp đồng, nhằm tránh tình trạng các bên vi phạm hợp đồng mà không có lý do chính đáng. Quy định rõ quyền, nghĩa vụ và trách nhiệm của người ủy quyền và người được ủy quyền. Hiện nay pháp luật còn quy định rất sơ sài về vấn đề này “Có thể ủy quyền bằng văn bản cho người khác ký hợp đồng kinh tế… người được ủy quyền chỉ được ký kết hợp đồng trong phạm vi ủy quyền và không được ủy quyền. Giai đoạn hiện nay cần phải xây dựng nội dung hợp đồng dịch vụ nói chung và hợp đồng dịch vụ du lịch nói riêng đầy đủ chặt chẽ hơn. Cơ quan ban hành pháp luật cần phải đưa vào hợp đồng những nội dung chủ yếu và bắt buộc các bên phải thảo thuận đưa vào nội dung hợp đồng. Khi soạn thảo nội dung hợp đồng cần phải đưa vào đó những nội dung về giá cả hợp đồng, chất lượng phục vụ, bảo hiểm hành khách, phạt hợp đồng, cùng những điều khoản về trường hợp bất khả kháng… ►Như vậy để cho việc giáo kết hợp đồng dịch vụ du lịch được đơn giản và bảo đảm được quyền và lợi ích hợp pháp của các bên, lợi ích Nhà nước, và lợi ích của toàn xã hội thì hành lang pháp lý về hợp đồng dịch vụ du lịch cần phải hết sức rõ ràng cụ thể nhưng vẫn phải đảm bảo hướng mở để cho các bên tự do thể hiện ý chí đồng thời đưa vào hợp đồng những nội dung đặc thù cho từng loại đối tượng khách hàng. Pháp luật về hợp đồng dịch vụ du lịch ngoài việc không được trái với đường lối chính sách của Nhà nước còn phải phù hợp với thông lệ quốc tế vì hiện nay nước ta đã hội nhập WTO, các quan hệ giao lưu kinh tế ngày càng được mở rộng. 2.3. Một số kiến nghị với các ngành chức năng. Đối với các ngành chức năng hoạt động trong lĩnh vực du lịch thì cơ quan quản lý chủ yếu là Tổng cục du lịch Việt Nam, cần phải có những chiến lược cụ thể để phát triển ngành du lịch trong nước. Hoàn thiện các văn bản pháp lý để điều chỉnh việc ký kết hợp đồng du lịch. Đầu tư kinh phí nhăn\mf phát triển các khu du lịch tạo điều kiện cho các Công ty lữ hành hoạt động hiệu quả. Tổng cục du lịch cần đệ trình Chính phủ các dự thảo văn bản nhằm phát triển ngành của mình và thông qua các kỳ họp Quốc hội thảo luận thông qua. Hoàn thiện hơn các quy định của pháp luật về du lịch bằng cách cụ thể hóa các văn bản đã có để đưa vào thực tế các chủ thể của hợp đồng du lịch đơn giản trong việc áp dụng. KẾT LUẬN Qua quá trình nghiên cứu thực tập tại Công ty TNHH Nhà nước nột thành viên Thăng Long - GTC, tôi nhận thấy hoạt động ký kết thực hiện hợp đồng dịch vụ du lịch của công ty về cơ bản tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về hợp đồng dịch vụ. Hầu như không cho tranh chấp xảy ra. Hoạt động du lịch của công ty ngày càng phát triển, số lượng hợp đồng ký kết ngày càng tăng. Tuy nhiên trong giai đoạn hội nhập hiện nay để có thể cạnh tranh với các doanh nghiệp lữ hành trong và ngoài nước công ty cần phải không ngừng hoàn thiện cơ cấu quản lý cũng như có những chính sách nhằm thu hút khách du lịch. Trên đây là toàn bộ những tìm hiểu và nghiên cứu của tôi về hoạt động ký kết hợp đồng dịch vụ du lịch của Công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thăng Long - GTC. Do thời gian thực tập và nghiên cứu còn ít nên bài viết của tôi còn nhiều khiếm khuyết, rất mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bộ luật Dân sự 2005 2. Luật Thương mại 2005 3. Luật Du lịch 2005 4. Giáo trình Kinh tế du lịch - Đại học Kinh tế Quốc dân 5. Giáo trình Luật Dân sự I + II - Đại học Luật 6. Giáo trình Luật Thương mại I + II - Đại học Luật 7. Giáo trình Pháp luật kinh tế - Đại học Kinh tế Quốc dân 8. Giáo trình Nhu cầu của khách trong quá trình du lịch - Đại học Kinh tế Quốc dân 9. Giáo trình Luật Kinh tế Việt Nam - 10. Báo cáo kết quả kinh doanh của công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thăng Long - GTC 11. Lịch sử hình thành phát triển công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thăng Long - GTC 12. Tài liệu của Phòng du lịch công ty TNHH Nhà nước một thành viên Thăng Long - GTC MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG BIỂU Bảng 1. So sánh hợp đồng dân sự và hợp đồng thương mại 14 Bảng 2. So sánh hoạt động dịch vụ và hoạt động kinh doanh vật chất 36 Bảng 3 . Báo cáo kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh năm 2005-2006. 47 Bảng 4. Thu nhập bình quân của lao động trong công ty 49 Bảng 5. Mối quan hệ giữa tỷ lệ du khách hài lòng và chất lượng dịch vụ: 78 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc7499.doc
Tài liệu liên quan