Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Thành đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội

Tài liệu Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Thành đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội: LỜI MỞ ĐẦU Ngân hàng ra đời và phát triển gắn liền với sự ra đời và phát triển của nền kinh tế hàng hóa để giải quyết nhu cầu phân phối vốn, nhu cầu thanh toán,… phục vụ cho sự phát triển và mở rộng sản xuất kinh doanh của các tổ chức kinh tế, cá nhân với đặc thù kinh doanh trên lĩnh vực tiền tệ. Vì vậy mà hoạt động kinh doanh của ngân hàng là hoạt động tiềm ẩn nhiều rủi ro nhất, điều đó đòi hỏi hệ thống các NHTM phải có những cải cách mạnh mẽ để nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng. Rủ... Ebook Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Thành đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội

doc104 trang | Chia sẻ: huyen82 | Lượt xem: 1324 | Lượt tải: 0download
Tóm tắt tài liệu Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của chi nhánh Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Thành đối với các Doanh nghiệp vừa và nhỏ tại Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i ro là một điều rất phổ biến và gần như mang tính tất yếu đối với mọi hiện tượng cả trong tự nhiên lẫn trong đời sống kinh tế, xã hội của con người. Vì vậy việc chấp nhận và đối đầu với rủi ro là một điều tất yếu, không thể tránh khỏi, nhưng vấn đề đặt ra ở đây không phải có hay không có rủi ro mà ở chỗ phải phòng ngừa để giảm thiểu rủi ro ở mức chấp nhận được. Thực tiễn hoạt động kinh doanh của các NHTM cho thấy rủi ro đối với NHTM trong điều kiện kinh tế thị trường gồm nhiều loại rủi ro như rủi ro tín dụng, rủi ro thanh khoản, rủi ro lãi suất, rủi ro hối đoái… trong đó rủi ro tín dụng chiếm tỷ trọng lớn nhất và quan trọng nhất vì nó liên quan đến các loại rủi ro khác. Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam chi nhánh Hà Thành cung cấp các sản phẩm tín dụng phục vụ cho các ngành nghề nên việc xử lý rủi ro và đề ra những biện pháp phòng ngừa RRTD luôn là mục tiêu quan trọng hàng đầu của chi nhánh nhằm vừa đảm bảo an toàn nguồn vốn, có lãi, vừa tạo điều kiện thúc đẩy kinh tế phát triển. Bên cạnh đó, chi nhánh Hà Thành nhận thức được tầm quan trọng trong việc mở rộng quan hệ tín dụng đối với các DNVVN nên chi nhánh thường xuyên chú trọng cho vay đối với đối tượng khách hàng này. Ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà Nước, các DNVVN đang trở thành lực lượng kinh tế đặc biệt quan trọng trong việc thúc đẩy quá trình CNH – HĐH đất nước. Trong cuộc gặp gỡ các doanh nghiệp ngày 14/09/2001 tại Hà Nội, Thủ tướng Phan Văn Khải đã nhấn mạnh: “Cần thấy rằng DNVVN là loại hình rất phù hợp để phát huy mọi tiềm năng cho việc phát triển kinh tế, kể cả ở những nước phát triển. Đối với nước ta, phát triển thật nhiều DNVVN lại càng phù hợp với bước đầu thực hiện CNH – HĐH đất nước. Vì vậy phải quan tâm và tạo mọi điều kiện cho DNVVN phát triển. Đây là một quan điểm hoàn toàn đúng đắn, phù hợp với thực tế điều kiện kinh tế nước ta”. Chính vì đường lối đổi mới của Đảng và Nhà Nước nên chi nhánh Hà Thành đã tạo mọi điều kiện cho các loại hình doanh nghiệp phát triển nói chung và các DNVVN nói riêng. Tuy nhiên, các DNVVN có tính ổn định trong sản xuất không cao, không có định hướng lâu dài trong hoạt động kinh doanh, vì vậy việc quản lý rủi ro tín dụng của chi nhánh đối với DNVVN là rất quan trọng. Đây cũng chính là lý do em lựa chọn đề tài: “Quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của chi nhánh NHĐT&PT Hà Thành đối với các DNVVN trên địa bàn thành phố Hà Nội” làm chuyên đề thực tập tốt nghiệp của mình với mong muốn đóng góp chút công sức trong việc quản lý để hạn chế rủi ro tín dụng của chi nhánh. Ngoài phần mở đầu và kết luận, kết cấu của chuyên đề tốt nghiệp gồm ba chương : - Chương I : Những vấn đề cơ bản về rủi ro tín dụng và quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của NHTM đối với các DNVVN. - Chuơng II : Thực trạng quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của chi nhánh NHĐT&PT Hà Thành đối với các DNVVN trên địa bàn thành phố Hà Nội qua 3 năm 2005 – 2007. - Chương III : Giải pháp hoàn thiện quản trị RRTD trong hoạt động cho vay của chi nhánh Hà Thành đối với các DNVVN trên địa bàn thành phố Hà Nội. Phạm vi đề tài: chủ yếu là tìm hiểu tình hình, kinh nghiệm thực tế, thực trạng còn tồn tại trong công tác quản lý RRTD của chi nhánh trong hoạt động cho vay đối với các DNVVN trên địa bàn Hà Nội. Từ thực tế đó em xin nêu ra một vài ý kiến đóng góp nhằm hạn chế và phòng ngừa rủi ro tín dụng tại chi nhánh Hà Thành nói riêng và các NHTM nói chung. Hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này, em xin bày tỏ lòng cảm ơn chân thành tới thầy giáo PGS.TS Hoàng Minh Đường đã tận tình chỉ bảo cho em trong suốt quá trình thực hiện chuyên đề; gửi lời cảm ơn tới các anh chị phòng quản lý tín dụng của chi nhánh Hà Thành đã tạo điều kiện và hướng dẫn em trong thời gian thực tập tại phòng. Em cũng xin gửi lời cảm ơn tới các thầy cô giáo trong khoa Thương Mại - Truờng Đại học Kinh tế quốc dân đã dạy dỗ và giúp đỡ em trong những năm học vừa qua. Chương I NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ RỦI RO TÍN DỤNG VÀ QUẢN TRỊ RỦI RO TÍN DỤNG TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY TẠI NHTM ĐỐI VỚI CÁC DNVVN. 1.1. Khái quát về tín dụng ngân hàng. 1.1.1. Khái niệm, đặc điểm tín dụng ngân hàng : 1.1.1.1. Khái niệm tín dụng ngân hàng: Tín dụng, theo tiếng Latinh gọi là creditium, tiếng anh gọi là credit, có nghĩa là tin tưởng và tín nhiệm. Theo ngôn ngữ dân gian Việt Nam thì tín dụng có nghĩa là sự vay mượn. Tín dụng tồn tại song song và phát triển cùng với nền sản xuất hàng hóa. Các chủ thể tham gia vào tín dụng ngân hàng rất phong phú và đa dạng với một bên là ngân hàng, một bên là các tổ chức kinh tế, cá nhân, hợp tác xã, các quan hệ tín dụng giữa các chủ thể tín dụng được thực hiện trên cơ sở tự nguyện, bình đẳng và có lợi cho hai bên, thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Đó là quan hệ chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ ngân hàng cho khách hàng trong một thời hạn nhất định với một khoản chi phí nhất định. Sự tin tưởng đóng vai trò quan trọng đến sự tồn tại và phát triển của quan hệ tín dụng ngân hàng. Yêu cầu đảm bảo cho mỗi khoản tín dụng ngân hàng là điều kiện bắt buộc, nó được cán bộ ngân hàng thực hiện ngay từ trước khi cho vay thông qua đánh giá, thẩm định tính khả thi của dự án xin vay, cho đến yêu cầu thế chấp, cầm cố, bảo lãnh khi vay và theo dõi, đánh giá hiệu quả sử dụng vốn vay. 1.1.1.2. Nội dung của tín dụng ngân hàng: Tín dụng ngân hàng chứa đựng ba nội dung cơ bản sau: - Có sự chuyển nhượng quyền sử dụng vốn từ người sở hữu sang cho người sử dụng. - Sự chuyển nhượng này có thời hạn hay mang tính tạm thời. - Sự chuyển nhượng này có kèm theo chi phí. 1.1.2. Vai trò của tín dụng ngân hàng : Sự vận động của tín dụng có những tác động nhất định đối với các hoạt động kinh tế. Tuy nhiên, vai trò của tín dụng phụ thuộc chủ yếu vào nhận thức và vận dụng của con người vào thực tiễn quản lý kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường, tín dụng có các vai trò như sau: - Tín dụng là công cụ tích tụ, tập trung và tài trợ vốn cho các ngành kinh tế, góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh phát triển, là cầu nối giữa tiết kiệm và đầu tư, giữa giao lưu vốn trong nước và ngoài nước. Tín dụng tham gia thu hút vốn tiền tệ tạm thời chưa sử dụng nằm rải rác phân tán trong dân chúng, trong các tổ chức kinh tế và vốn nước ngoài để tập trung hình thành nguồn vốn cho vay. Để đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh, các doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế có thể huy động từ nhiều nguồn vốn khác nhau nhưng nguồn vốn tài trợ của tín dụng là đặc biệt quan trọng. Nhờ nguồn vốn của tín dụng, các doanh nghiệp không những đảm bảo quá trình sản xuất diễn ra bình thường mà còn mở rộng được sản xuất, cải tiến kỹ thuật, áp dụng kỹ thuật mới, đảm bảo thắng lợi trong công cuộc cạnh tranh hiện nay. Quá trình tích tụ và tập trung vốn tín dụng tạo ra động lực to lớn thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, giúp các doanh nghiệp đầu tư vào các ngành có tỷ suất lợi nhuận cao, kích thích khả năng cạnh tranh giữa các doanh nghiệp, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp chuyển hướng sản xuất kinh doanh. Bên cạnh đó, trong điều kiện nguồn thu ngân sách Nhà Nước có hạn, bằng công cụ tín dụng Nhà Nước có thể huy động mọi nguồn vốn để tập trung đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho nền kinh tế như đường sá, cầu cống, bến cảng, sân bay, điện nước… những công trình đòi hỏi vốn lớn, thời gian thu hồi vốn dài. - Tín dụng là công cụ tài trợ cho các ngành kinh tế kém phát triển, các ngành kinh tế mũi nhọn trong chiến lược phát triển kinh tế của đất nước.Hiện nay, sự phát triển của các ngành kinh tế trong cơ chế thị trường là không đồng đều, các doanh nghiệp thường tập trung dồn vào những ngành có điều kiện thuận lợi, có lợi nhuận cao, ít rủi ro. Bên cạnh đó, chiến lược phát triển kinh tế đòi hỏi phải có sự cân đối hài hòa giữa các ngành kinh tế, đòi hỏi phải có những ngành kinh tế mũi nhọn để tạo động lực phát triển và lôi cuốn các ngành kinh tế khác. Mâu thuẫn đó đòi hỏi Nhà Nước phải sử dụng công cụ tín dụng để tài trợ cho những ngành kinh tế yếu kém, đồng thời khuyến khích phát triển nguồn lực cho những ngành kinh tế mũi nhọn. - Tín dụng là công cụ góp phần ổn định tiền tệ, ổn định giá cả và kiềm chế lạm phát. Thông qua tín dụng, bằng các biện pháp huy động vốn và cho vay, thực hiện nghiệp vụ điều hòa vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, tín dụng đã góp phần làm cho tốc độ luân chuyển hàng hóa và tiền vốn tăng lên. Các hoạt động tín dụng phát triển còn tạo điều kiện mở rộng công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường phát triển như hiện nay, hệ thống ngân hàng phát triển mạnh mẽ với công nghệ tiên tiến thì đại bộ phận chu chuyển tiền tệ trong xã hội được thực hiện bằng phương thức thanh toán không dùng tiền mặt thông qua hệ thống ngân hàng. Điều này cho phép tiết giảm sử dụng tiền mặt, tiết kiệm được chi phí lưu thông xã hội và thúc đẩy tốc độ luân chuyển vốn. - Tín dụng là một trong những phương tiện nối liền kinh tế quốc gia với nền kinh tế của cộng đồng thế giới, góp phần phát triển quan hệ kinh tế đối ngoại trên thị trường tài chính tiền tệ quốc tế. Tham gia vào mối quan hệ tín dụng gồm có Chính phủ các nước với nhau, các Chính phủ với các tổ chức tiền tệ thế giới và các tổ chức kinh tế với nhau. Đặc biệt trong bối cảnh nền kinh tế thế giới đang trong tiến trình hội nhập cao, mỗi quốc gia đã trở thành một bộ phận của thị trường thế giới, các nước đều thực hiện chính sách kinh tế mở thì tín dụng ngày càng trở nên cần thiết. Tín dụng quốc tế đã tạo điều kiện cho quá trình chuyển giao công nghệ giữa các nước thực hiện nhanh hơn, góp phần giúp các nước chậm phát triển trong một thời gian ngắn có thể có được một nền sản xuất với kỹ thuật công nghệ cao mà các nước phát triển trước đây phải mất hàng trăm năm mới có được. 1.1.3. Nguyên tắc tín dụng ngân hàng : - Nguyên tắc 1: Vốn vay phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi đầy đủ, đúng hạn như đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng. Đây là nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động cho vay của ngân hàng. Điều này xuất phát từ tính chất tạm thời nhàn rỗi của nguồn vốn mà ngân hàng sử dụng cho vay là vốn huy động từ khách hàng gửi tiền, vì vậy sau khi cho vay trong một thời hạn nhất định, khách hàng vay tiền phải hoàn trả lại ngân hàng để ngân hàng hoàn trả lại cho khách hàng gửi tiền. Bên cạnh đó, bản chất của quan hệ tín dụng là quan hệ chuyển nhượng tạm thời quyền sử dụng vốn vay nên sau một thời gian nhất định vốn vay phải được hoàn trả cả gốc lẫn lãi. - Nguyên tắc 2: Tiền vay phải được sử dụng đúng mục đích. Khi khách hàng vay tiền thì phải sử dụng vốn vay đúng mục đích đã thỏa thuận trong hợp đồng. Việc sử dụng vốn vay vào mục đích gì là do hai bên ngân hàng và khách hàng thỏa thuận và ghi trong hợp đồng tín dụng. Đảm bảo sử dụng vốn vay đúng mục đích thỏa thuận nhằm đảm bảo hiệu quả sử dụng vốn vay và khả năng thu hồi nợ vay sau này. Do vậy, về phía ngân hàng cần chú ý tìm hiểu rõ mục đích vay vốn của khách hàng, đồng thời phải kiểm tra và giám sát xem khách hàng có sử dụng vốn vay đúng như mục đích đã cam kết trong hợp đồng tín dụng hay không. Điều này rất quan trọng vì việc sử dụng vốn vay đúng mục đích hay không có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng thu hồi nợ sau này của ngân hàng. Về phía khách hàng, việc sử dụng vốn vay đúng mục đích góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay, đồng thời giúp doanh nghiệp đảm bảo khả năng hoàn trả nợ cho ngân hàng. Từ đó nâng cao được uy tín của khách hàng đối với ngân hàng và củng cố được quan hệ vay vốn giữa khách hàng và ngân hàng sau này. 1.1.4. Phân loại tín dụng ngân hàng : Tín dụng ngân hàng được phân loại theo từng nhóm dựa trên một số tiêu thức nhất định như: thời hạn cho vay, mục đích cho vay, mức độ tín nhiệm với khách hàng, phương pháp hoàn trả, xuất xứ của tín dụng. 1.1.4.1. Căn cứ thời hạn tín dụng: Theo quy định của NHNNVN thì các loại cho vay theo thời hạn tín dụng bao gồm: - Cho vay ngắn hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay đến 12 tháng, được sử dụng để bù đắp sự thiếu hụt vốn lưu động của các doanh nghiệp và các nhu cầu chi tiêu ngắn hạn của cá nhân. - Cho vay trung hạn: là các khoản vay có thời hạn trên 12 tháng đến 5 năm. Tín dụng trung hạn chủ yếu được sử dụng để mua sắm tài sản cố định, cải tiến hoặc đổi mới các thiết bị công nghệ, máy móc, mở rộng sản xuất kinh doanh, xây dựng các dự án mới có quy mô nhỏ và thời gian thu hồi vốn nhanh. - Cho vay dài hạn: là các khoản vay có thời hạn cho vay từ trên 5 năm và thời hạn tối đa có thể lên đến 20-30 năm. Loại tín dụng này được sử dụng để thực hiện quá trình tái sản xuất theo chiều rộng hoặc chiều sâu, kết quả làm tăng mức sản xuất và của cải xã hội. 1.1.4.2. Căn cứ vào mục đích tín dụng: - Cho vay phục vụ sản xuất kinh doanh công thương nghiệp: loại cho vay này cung cấp cho các doanh nghiệp thương mại và công nghiệp nguồn vốn để bổ sung vốn lưu động. - Cho vay sản xuất nông nghiệp: là loại cho vay để trang trải các chi phí sản xuất như phân bón, thuốc trừ sâu, giống cây trồng, lao động… - Cho vay tiêu dùng cá nhân: là loại cho vay đáp ứng nhu cầu tiêu dùng, các chi phí của đời sống thường nhật chủ yếu qua thẻ tín dụng. - Cho vay mua bán bất động sản: là loại cho vay liên quan đến mua sắm và xây dựng bất động sản như nhà ở, đất đai… - Cho vay các định chế tài chính: bao gồm cấp tín dụng cho các ngân hàng, công ty cho thuê tài chính, công ty bảo hiểm, quỹ tín dụng và các định chế tài chính khác. - Cho thuê: cho thuê của các định chế tài chính bao gồm hai loại là cho thuê vận hành và cho thuê tài chính. Tài sản cho thuê bao gồm bất động sản và động sản, trong đó chủ yếu là máy móc, thiết bị. 1.1.4.3. Căn cứ vào mức độ tín nhiệm của khách hàng: - Cho vay không có bảo đảm: là loại cho vay mà uy tín của người đi vay được đặt lên hàng đầu, người đi vay không cần có tài sản thế chấp, cầm cố hay có sự bảo lãnh của người thứ ba. Theo hình thức này, ngân hàng chỉ dựa vào mức độ uy tín của bản thân khách hàng vay vốn để quyết định cho vay hay không. - Cho vay có bảo đảm: là loại cho vay mà người đi vay phải có tài sản thế chấp, cầm cố hoặc có sự bảo lãnh của người thứ ba. Đây là loại hình tín dụng áp dụng với những khách hàng không có độ uy tín cao với ngân hàng nên vay vốn cần có sự đảm bảo. 1.1.4.4. Căn cứ vào phương thức cho vay: - Cho vay theo món vay: nghĩa là mỗi lần vay vốn thì khách hàng và NHTM thực hiện thủ tục vay vốn cần thiết và ký kết hợp đồng tín dụng. Nếu trong một quý khách hàng có bao nhiêu món vay thì khách hàng phải làm bấy nhiêu hồ sơ xin vay. - Cho vay theo hạn mức tín dụng: Ngân hàng và khách hàng xác định và thỏa thuận một hạn mức tín dụng duy trì trong một thời hạn nhất định hoặc theo chu kỳ sản xuất kinh doanh. Loại cho vay này thường áp dụng với những khách hàng vay có nhu cần vay vốn thường xuyên. - Cho vay theo hạn mức thấu chi: là việc cho vay mà tổ chức kinh doanh thỏa thuận cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng, phù hợp với các quy định của Chính phủ và NHNNVN về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. 1.1.4.5. Căn cứ vào phương thức hoàn trả nợ vay: - Cho vay có thời hạn: là loại cho vay thanh toán một lần theo như thời hạn đã thỏa thuận trong hợp đồng tín dụng, bao gồm ba hình thức: Cho vay chỉ có một kỳ hạn trả nợ: là loại cho vay mà khách hàng vay phải thanh toán một lần khi đáo hạn. Cho vay có nhiều kỳ hạn trả nợ (còn gọi là cho vay trả góp): là loại cho vay mà khách hàng vay phải hoàn trả cả gốc lẫn lãi theo định kỳ. Cho vay trả nợ nhiều lần nhưng không có kỳ hạn nợ cụ thể, việc trả nợ phụ thuộc vào khả năng tài chính của người đi vay hoặc áp dụng theo kỹ thuật thấu chi. - Cho vay không có thời hạn cụ thể: Đối với loại cho vay này thì ngân hàng có thể yêu cầu hoặc người đi vay tự nguyện trả góp bất cứ lúc nào, nhưng phải báo trước một thời gian hợp lý, thời gian này có thể được thỏa thuận trong hợp đồng. 1.2. Rủi ro tín dụng và nội dung quản trị rủi ro tín dụng trong hoạt động cho vay của ngân hàng : 1.2.1. Khái niệm rủi ro tín dụng : Rủi ro (credit risk) là loại rủi ro phát sinh do khách hàng nợ không còn khả năng chi trả. RRTD phát sinh trong trường hợp ngân hàng không thu hồi được đầy đủ cả tiền gốc và tiền lãi của các khoản vay, hoặc là việc thanh toán nợ gốc và lãi vay không đúng kỳ hạn. RRTD không chỉ giới hạn ở hoạt động cho vay mà còn bao gồm nhiều hoạt động mang tính chất tín dụng khác của ngân hàng như: bảo lãnh, cam kết, chấp thuận tài trợ thương mại, cho vay ở thị trường liên ngân hàng, tín dụng thuê mua, đồng tài trợ… 1.2.2. Tác động của rủi ro tín dụng: - Đối với nền kinh tế: Hoạt động ngân hàng liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp, các ngành và các cá nhân, vì vậy khi một ngân hàng gặp phải rủi ro tín dụng hay bị phá sản thì người gửi tiền ở các ngân hàng khác sẽ hoang mang, lo sợ và ồ ạt kéo đến các ngân hàng để rút tiền. Điều này sẽ làm cho toàn bộ hệ thống ngân hàng rơi vào trạng thái khủng hoảng. Ngân hàng phá sản sẽ gây ảnh hưởng đến tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, không có tiền trả lương dẫn đến đời sống công nhân gặp khó khăn. Hơn nữa, sự hoảng loạn của các ngân hàng ảnh hưởng rất lớn đến toàn bộ nền kinh tế, nó sẽ làm cho nền kinh tế bị suy thoái, giá cả tăng cao, sức mua giảm, tình trạng thất nghiệp gia tăng mạnh, xã hội rơi vào trạng thái mất ổn định. Bên cạnh đó, hiện nay nền kinh tế của mỗi quốc gia đều phụ thuộc vào nền kinh tế khu vực và thế giới, vì vậy RRTD cũng ảnh hưởng đến nền kinh tế thế giới. Ví dụ thực tế là cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á (1997) và gần đây là cuộc khủng hoảng tài chính Nam Mỹ (2001-2002) đã làm rung chuyển toàn cầu. Mặt khác, mối liên hệ về tiền tệ, đầu tư giữa các quốc gia phát triển rất nhanh nên RRTD tại một nước sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế các nước có liên quan. - Đối với ngân hàng: Khi gặp RRTD, ngân hàng không thu được vốn tín dụng đã cấp và lãi cho vay, nhưng ngân hàng phải trả vốn và lãi cho khoản tiền huy động khi đến hạn, điều này làm cho ngân hàng mất cân đối trong việc thu chi. Khi không thu được nợ thì vòng quay vốn tín dụng giảm làm ngân hàng kinh doanh không hiệu quả. Khi gặp phải rủi ro tín dụng, ngân hàng thường rơi vào tình trạng mất khả năng thanh toán, làm mất lòng tin người gửi tiền, ảnh hưởng đến uy tín của ngân hàng. Trong tình trạng đó, ngân hàng sẽ không đủ tiền trả lương cho nhân viên vì thế những người có năng lực sẽ thuyên chuyển công tác, ngân hàng sẽ gặp khó khăn chồng chất. RRTD ở mỗi ngân hàng xảy ra ở những mức độ khác nhau. Mức độ nhẹ nhất là khi ngân hàng không thu hồi được lãi cho vay, nặng nhất là khi ngân hàng không thu được vốn và lãi, nợ thất thu với tỷ lệ cao dẫn đến ngân hàng bị thua lỗ và mất vốn. Nếu tình trạng này kéo dài và ngân hàng không khắc phục được thì sẽ dẫn đến phá sản, gây hậu quả nghiêm trọng cho nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng. Chính vì vậy, các nhà quản trị ngân hàng phải hết sức thận trọng và có những biện pháp thích hợp nhằm giảm thiểu rủi ro trong hoạt động cho vay. Khi xảy ra rủi ro tín dụng thì có thể sẽ kéo theo hàng loạt rủi ro khác. Ví dụ, khi xảy ra RRTD thì ngân hàng sẽ thiếu tiền chi trả cho khách hàng dẫn đến cả rủi ro về thanh khoản, lợi nhuận ngân hàng giảm thấp và tùy theo mức độ nặng hay nhẹ mà ngân hàng sẽ bị ảnh hưởng nhiều hay ít. Mặt khác, khi khả năng thanh khoản của ngân hàng có biểu hiện không tốt sẽ ảnh hưởng đến tâm lý khách hàng, có thể dẫn đến hiện tượng rút tiền hàng loạt. Hậu quả là xuất hiện tình trạng không có sự ăn khớp giữa lượng vốn huy động với lượng vốn cho vay và đây chính là một trong những nguyên nhân làm xuất hiện rủi ro lãi suất. Như vậy, có thể thấy rằng RRTD là loại rủi ro phổ biến và có ảnh hưởng lớn nhất, gây ra tổn thất nhiều nhất cho hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 1.2.3. Chỉ tiêu đánh giá RRTD : Hiện nay, để đo lường RRTD các ngân hàng thường sử dụng bốn chỉ tiêu sau đây: - Tỷ số giữa giá trị các khoản nợ quá hạn so với tổng dư nợ cho vay. - Tỷ số giữa các khoản nợ xóa ròng so với tổng cho vay (khoản nợ xóa ròng là khoản cho vay được ngân hàng tuyên bố là không còn giá trị và được xóa khỏi danh sách). - Tỷ số giữa phân bổ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm so với tổng cho vay hay với tổng vốn chủ sở hữu. - Tỷ số giữa dự phòng tổn thất tín dụng so với tổng cho vay và cho thuê hay với tổng vốn chủ sở hữu. Chỉ tiêu nợ quá hạn so với tổng dư nợ cho vay biểu hiện chất lượng tín dụng. Theo quy định của NHNN hiện nay, các ngân hàng mà có chỉ tiêu này trên 7% thì xem là ngân hàng yếu kém. Nếu ngân hàng luôn duy trì chỉ số này ở mức dưới 5% thì ngân hàng đó sẽ được đánh giá là ngân hàng có nghiệp vụ tín dụng tốt và chất lượng cho vay cao. Khi hai chỉ tiêu đầu tăng thì RRTD của ngân hàng tăng lên, lúc đó ngân hàng sẽ ở bên bờ vực phá sản. Hai chỉ tiêu cuối nói lên sự chuẩn bị trước của ngân hàng cho các khoản tổn thất tín dụng thông qua việc trích lập quỹ dự phòng tổn thất tín dụng hàng năm từ thu nhập hiện tại. 1.2.4. Dấu hiệu nhận biết RRTD : Nhận diện RRTD là khâu rất quan trọng quyết định đến hiệu quả kinh doanh của ngân hàng, qua đó các chuyên viên xử lý rủi ro sẽ đề xuất những giải pháp tối ưu để ngăn ngừa và xử lý các tín dụng có rủi ro. Sau khi khoản vay phát sinh và được phân loại, các cán bộ tín dụng luôn phải theo dõi, giám sát khoản vay để nhận diện rủi ro thông qua các dấu hiệu cảnh báo sau: 1.2.4.1. Nhóm các dấu hiệu phát sinh rủi ro từ phía khách hàng: Ø Đối với mối quan hệ giữa ngân hàng và khách hàng thì có nhóm các dấu hiệu cụ thể sau đây: - Khi ngân hàng yêu cầu gửi các báo cáo tài chính thì phía khách hàng chậm trễ, lấy lý do trì hoãn mà không có sự giải thích thuyết phục. - Khách hàng có dấu hiệu không thực hiện đầy đủ các quy định, vi phạm pháp luật trong quá trình quan hệ tín dụng. - Có những yêu cầu về gia hạn, điều chỉnh kỳ hạn nợ nhiều lần mà không nêu rõ lý do hoặc lý do thiếu căn cứ thuyết phục. - Thanh toán các khoản nợ gốc không đầy đủ, đúng hạn. - Có dấu hiệu sử dụng nhiều tài khoản tài trợ ngắn hạn cho các hoạt động đầu tư dài hạn. - Chấp nhận sử dụng các nguồn vốn với giá cao và với mọi điều kiện. - Khách hàng trông chờ vào nguồn thu bất thường để trả nợ mà không phải từ hoạt động sản xuất kinh doanh chính hoặc từ hoạt động mà họ đã đề xuất trong phương án vay vốn, ví dụ bán máy nhà xưởng hay máy móc thiết bị. - Có thái độ trì hoãn hoặc gây trở ngại đối với ngân hàng trong quá trình kiểm tra theo định kỳ hoặc đột xuất về tình hình sử dụng vốn vay, tình hình tài chính, hoạt động sản xuất kinh doanh mà không có sự giải thích minh bạch, thuyết phục. - Khách hàng chậm thanh toán các khoản lãi khi đến hạn. - Mức vay thường xuyên gia tăng, yêu cầu về các khoản vay vượt quá nhu cầu dự kiến. - Khi khách hàng có dấu hiệu tìm kiếm sự tài trợ nguồn vốn lưu động từ nhiều nguồn khác, đặc biệt từ đối thủ cạnh tranh của ngân hàng. - Không có các báo cáo hay dự đoán về lưu chuyển tiền tệ. - Tài sản đảm bảo không đủ tiêu chuẩn, giá trị tài sản bị giảm sút đi so với định giá khi cho vay. Hay có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê, bán hoặc trao đổi, hoặc không còn tồn tại. - Xuất hiện nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả hoặc khách hàng không muốn trả nợ. Ø Nhóm các dấu hiệu liên quan đến phương pháp quản lý, tình hình tài chính và hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng: Nhóm dấu hiệu này có tác động trực tiếp tới chất lượng của khoản tín dụng nhưng với tốc độ chậm hơn. Các dấu hiệu này xuất phát từ chính hoạt động kinh doanh của khách hàng, vì vậy nếu các cán bộ tín dụng của ngân hàng mà không có sự quản lý, giám sát chặt chẽ thì sẽ khó có thể nhận diện được các dấu hiệu rủi ro này. Một số biểu hiện cụ thể như sau: - Thay đổi thường xuyên cơ cấu tổ chức của ban điều hành. - Xuất hiện dấu hiệu hội chứng sản phẩm đẹp, nghĩa là mải mê theo đuổi một sản phẩm hoàn toàn không thích hợp về mặt thời gian và năng lực hiện tại mà không chú ý đến các yếu tố khác. - Xuất hiện những mâu thuẫn trong quá trình quản trị điều hành, có sự tranh chấp trong quản lý. - Xuất hiện hội chứng hợp đồng lớn, sẵn sàng ký kết hợp đồng giá trị lớn với bạn hàng có tên tuổi mặc dù lợi nhuận thu về không cao mà bỏ qua hợp đồng có giá trị nhỏ nhưng có khả năng thu được tỷ suất lợi nhuận cao. - Có những thay đổi bất thường trong cơ cấu vốn, tỷ lệ thanh khoản hay mức độ hoạt động của khách hàng. - Có chênh lệch lớn giữa doanh thu hay dòng tiền thực tế so với mức dự kiến khi khách hàng đề nghị cấp tín dụng. - Ngày càng xuất hiện nhiều khoản chi phí bất hợp lý như sự gia tăng đột biến trong chi phí tiếp khách, chi phí quảng cáo, tập trung quá mức chi phí cho thiết bị, văn phòng hiện đại để gây ấn tượng. - Khó khăn trong phát triển sản phẩm, dịch vụ mới. - Vì áp lực nội bộ dẫn tới tung ra thị trường các sản phẩm dịch vụ quá sớm khi chưa hội đủ các điều kiện chín muồi hoặc đặt ra các hạn mức thời gian kinh doanh, doanh số không thực tế, tạo mong đợi trên thị trường không đúng lúc. - Đối với khách hàng là tư nhân cá thể thì có dấu hiệu người vay bị bệnh kéo dài hoặc chết. - Thiên tai, hỏa hoạn, dịch bệnh xẩy ra. 1.2.4.2. Nhóm dấu hiệu xuất phát từ chính sách tín dụng của ngân hàng: - Cán bộ tín dụng đưa ra sự đánh giá và phân loại không chính xác về mức độ rủi ro của khách hàng. Khi đánh giá năng lực tài chính của khách hàng, không nên chỉ dựa vào các thông tin “tĩnh” từ phía khách hàng cung cấp mà bỏ qua thông tin “động” hay những thông tin nhạy cảm từ phía thị trường. - Hồ sơ tín dụng không đầy đủ hoặc thiếu sự tuân thủ các quy định hiện hành về phê duyệt tín dụng. - Chính sách tín dụng quá cứng nhắc hoặc lỏng lẻo, tạo kẽ hở cho khách hàng lợi dụng. - Đồng ý cấp tín dụng mà thiếu sự chắc chắn trong cam kết và tính bảo đảm của khách hàng về vấn đề duy trì một khoản tiền gửi lớn hay các lợi ích do khách hàng đem lại từ khoản tín dụng được cấp. - Tốc độ tăng trưởng tín dụng quá nhanh, vượt quá khả năng và năng lực kiểm soát cũng như nguồn vốn của ngân hàng. - Soạn thảo các điều kiện trong hợp đồng tín dụng không rõ ràng, mạch lạc, không xác định rõ lịch hoàn trả đối với từng khoản vay, cố ý thỏa hiệp các nguyên tắc tín dụng với khách hàng mặc dù biết có tiềm ẩn rủi ro. - Chấp nhận cung cấp tín dụng với khối lượng lớn cho các khách hàng không thuộc phân đoạn thị trường tối ưu của ngân hàng. - Bị cuốn vào khuynh hướng cạnh tranh thái quá như: giảm thấp lãi suất cho vay, phí dịch vụ hay thực hiện thực hiện chiến lược “giữ chân” khách hàng bằng các khoản tín dụng mới để họ không quan hệ với các tổ chức tín dụng khác mặc dù biết rõ các khoản tín dụng đã cấp tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao. 1.2.5. Nguyên nhân của RRTD : 1.2.5.1. Nguyên nhân khách quan: a) Rủi ro do môi trường kinh tế không ổn định: Ø Thứ nhất, do sự biến động quá nhanh và không thể dự đoán trước được của thị trường thế giới. Nền kinh tế Việt Nam vẫn còn lệ thuộc quá nhiều vào sản xuất nông nghiệp và công nghiệp phục vụ cho nông nghiệp (nuôi trồng, chế biến thực phẩm và nguyên liệu), dầu thô, may gia công,… vốn rất nhạy cảm với rủi ro thời tiết và giá cả thế giới nên dễ bị tổn thương khi thị trường thế giới biến động xấu. Vấn đề xuất khẩu và nhập khẩu trong những năm gần đây cũng gặp không ít khó khăn. Một số doanh nghiệp sản xuất kinh doanh phải ngừng hoạt động trong một thời gian dài do chi phí giá thành tăng rất cao trong khi không tiêu thụ được sản phẩm. Điều này gây tổn thất nặng nề cho các doanh nghiệp, và cũng dẫn đến tình trạng doanh nghiệp không trả được nợ cho ngân hàng, làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Ø Thứ hai, do sự tấn công của hàng nhập lậu: Nước Việt Nam trải dài với hàng trăm km biên giới trên bộ và trên biển, giao thông thuận lợi cho hoạt động xuất nhập khẩu của nước ta. Nhưng bên cạnh đó hàng nhập lậu cũng tràn lan tại các thành phố lớn khiến cho các doanh nghiệp trong nước phải điêu đứng và các ngân hàng cho các doanh nghiệp này vay vốn cũng rơi vào tình trạng khó khăn. Ø Thứ ba, rủi ro từ quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế: Hiện nay, sự phát triển của thế giới diễn ra song song với quá trình tự do hóa tài chính, hội nhập quốc tế, điều này tất yếu sẽ tạo ra một môi trường cạnh tranh gay gắt khiến hầu hết các doanh nghiệp – là những khách hàng thường xuyên của ngân hàng phải đối mặt với nguy cơ thua lỗ và có thể bị đào thải bất cứ lúc nào. Không chỉ các doanh nghiệp cạnh tranh gay gắt với nhau, bản thân sự cạnh tranh của các NHTM trong nước và quốc tế trong môi trường hội nhập kinh tế cũng khiến cho các ngân hàng trong nước với hệ thống quản lý lỏng lẻo, yếu kém gặp phải nguy cơ rủi ro nợ xấu tăng lên, vì hầu hết các khách hàng có tiềm lực tài chính lớn sẽ bị các ngân hàng nước ngoài thu hút. Ø Thứ tư, do thiếu sự quy hoạch, phân bổ đầu tư một cách hợp lý đã dẫn đến khủng hoảng thừa về đầu tư một số ngành. Trong nền kinh tế thị trường luôn diễn ra sự cạnh tranh, vì thế mà các nhà kinh doanh luôn tìm kiếm ngành nào có lợi nhất để đầu tư và sẽ rời bỏ những ngành không đem lại lợi nhuận cho họ. Ở Việt Nam thời gian qua, sự cạnh tranh đã phát triển một cách tự phát, hoàn toàn không có sự qui hoạch hợp lý, không có sự phân công lao động, chuyên môn hóa lao động. Các hiệp hội nghề nghiệp và Nhà Nước cũng tỏ ra bất lực trước tình hình này, dẫn đến sự khủng hoảng thừa, lãng phí tài nguyên quốc gia. b) Rủi ro do môi trường pháp lý chưa thuận lợi: Ø Nguyên nhân đầu tiên phải kể đến là do sự kém hiệu quả của cơ quan pháp luật cấp địa phương. Những năm gần đây, Quốc hội, Ủy ban thường vụ Quốc hội, Chính phủ, NHNNVN và các cơ quan liên quan đã ban hành nhiều luật, văn bản dưới luật hướng dẫn thi hành luật liên quan đến hoạt động tín dụng ngân hàng. Tuy luật và các văn bản đã được chuyển xuống các ngân hàng, nhưng việc triển khai vào hoạt động ngân hàng thì diễn ra hết sức chậm chạp và còn gặp phải nhiều vướng mắc bất cập như một số văn bản về việc cưỡng chế thu hồi nợ. Những văn bản này đều có quy định: “Trong những trường hợp khách hàng không trả được nợ, NHTM có quyền xử lý tài sản đảm bảo nợ vay”. Trên thực tế, các NHTM không thể thực hiện được điều này vì ngân hàng là một tổ chức kinh tế, không phải là một cơ quan ._.quyền lực Nhà Nước, vì thế ngân hàng không có chức năng cưỡng chế buộc khách hàng bàn giao tài sản đảm bảo cho ngân hàng để xử lý hoặc chuyển tài sản đảm bảo nợ vay để tòa án xử lý thông qua con đường tố tụng. Vì vậy mà ngân hàng không thể giải quyết được nợ tồn đọng, tài sản tồn đọng. Ø Nguyên nhân thứ hai là do sự thanh tra, kiểm tra, giám sát chưa hiệu quả của NHNN. Hiện nay, nội dung và phương pháp thanh tra, giám sát ngân hàng còn lạc hậu, chậm đổi mới. Thanh tra tại chỗ vẫn là phương pháp chủ yếu, khả năng kiểm soát toàn bộ thị trường tiền tệ và giám sát rủi ro còn yếu kém. Năng lực cán bộ thanh tra, giám sát chưa đáp ứng được yêu cầu, thậm chí một số nghiệp vụ kinh doanh và công nghệ mới thanh tra ngân hàng còn chưa theo kịp, vai trò kiểm toán chưa được phát huy và hệ thống thông tin chưa được tổ chức một cách hữu hiệu. Thanh tra ngân hàng còn hoạt động một cách thụ động theo kiểu xử lý vụ việc đã phát sinh chứ ít có khả năng ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro hay vi phạm. Mô hình tổ chức của thanh tra ngân hàng còn nhiều bất cập, do vậy có những sai phạm của NHTM không được thanh tra NHNN cảnh báo để có biện pháp ngăn chặn từ đầu, đến khi xảy ra hậu quả nặng nề thì mới can thiệp. Trên thực tế đã có hàng loạt sai phạm về cho vay, bảo lãnh tín dụng ở một số NHTM dẫn đến những rủi ro rất lớn, có nguy cơ đe dọa sự an toàn của cả hệ thống mà đáng lẽ ra đã có thể được ngăn chặn ngay từ đầu nếu bộ máy thanh tra phát hiện và đề ra cách xử lý sớm hơn. Ø Nguyên nhân thứ ba là do hệ thống thông tin quản lý còn bất cập. Ở Việt Nam, trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng CIC của NHNN đã đạt được kết quả bước đầu rất đáng khích lệ trong việc cung cấp thông tin kịp thời về tình hình hoạt động tín dụng. Tuy nhiên, trung tâm này cung cấp thông tin còn đơn điệu, thiếu cập nhật, vì vậy đây chưa phải là cơ quan định mức tín nhiệm doanh nghiệp một cách độc lập và hiệu quả. Đây cũng là một thách thức cho hệ thống ngân hàng trong việc mở rộng và kiểm soát tín dụng cho nền kinh tế trong điều kiện thiếu một hệ thống thông tin tương xứng. Nếu các ngân hàng cố gắng chạy theo thành tích, mở rộng tín dụng trong điều kiện môi trường thông tin không cân xứng thì sẽ gia tăng nguy cơ nợ xấu cho ngân hàng. 1.2.5.2. Nguyên nhân chủ quan : a) Rủi ro từ phía khách hàng vay : Ø Thứ nhất, do khách hàng vay sử dụng vốn sai mục đích và không có thiện chí trong việc trả nợ vay. Thông thường các doanh nghiệp khi vay vốn ngân hàng đều phải có các phương án kinh doanh cụ thể, khả thi. Ngân hàng sẽ xét duyệt sau đó quyết định có cho doanh nghiệp vay vốn hay không và nếu cho vay thì tối đa là bao nhiêu. Trên thực tế, số lượng các doanh nghiệp sử dụng vốn sai mục đích, cố ý lừa đảo ngân hàng để chiếm đoạt tài sản không nhiều. Tuy nhiên những vụ việc phát sinh lại hết sức nặng nề, liên quan đến uy tín của các cán bộ, làm ảnh hưởng xấu đến các doanh nghiệp khác, gây thiệt hại lớn cho ngân hàng. Ø Thứ hai, nguyên nhân là do khả năng quản lý kinh doanh của doanh nghiệp còn hạn chế. Các doanh nghiệp vay tiền ngân hàng với mục đích chung là để mở rộng qui mô kinh doanh. Tuy nhiên, đa số các doanh nghiệp lại chủ yếu tập trung vốn đầu tư vào cơ sở vật chất chứ ít có doanh nghiệp nào mạnh dạn đổi mới cung cách quản lý, đầu tư cho bộ máy giám sát kinh doanh, tài chính, kế toán theo đúng chuẩn mực. Khi đó, quy mô kinh doanh quá lớn so với tư duy quản lý, điều này dẫn đến sự phá sản của các phương án kinh doanh đầy khả thi mà lẽ ra nó phải thành công trên thực tế. Ø Thứ ba, do tình hình tài chính của doanh nghiệp vẫn còn yếu kém và thiếu minh bạch. Trên thực tế, các doanh nghiệp lập sổ sách kế toán để ngân hàng xét duyệt cho vay vốn nhiều khi chỉ mang tính chất hình thức hơn là thực chất. Khi các cán bộ ngân hàng lập các bảng phân tích tài chính của doanh nghiệp dựa trên số liệu do các doanh nghiệp cấp thường thiếu tính thực tế và xác thực. Đây cũng là lý do vì sao ngân hàng vẫn luôn xem nặng phần tài sản thế chấp như là một chỗ dựa cuối cùng để phòng chống rủi ro tín dụng. Cho nên trách nhiệm của các cán bộ thẩm định tín dụng là khá nặng nề, chỉ một chút sai sót có thể gây thiệt hại cho ngân hàng. b) Rủi ro do các nguyên nhân từ phía ngân hàng cho vay: Ø Nguyên nhân thứ nhất là do sự lỏng lẻo trong công tác kiểm tra nội bộ các ngân hàng. Việc kiểm tra nội bộ được thực hiện thường xuyên cùng với công việc kinh doanh của ngân hàng. Công việc này có ưu điểm hơn thanh tra NHNN vì sự nhanh chóng, kịp thời giải quyết vấn đề ngay khi vừa phát sinh. Tuy vậy, trong thời gian trước đây, công việc kiểm tra nội bộ của các ngân hàng hầu như chỉ tồn tại trên hình thức, vì vậy mà công tác phòng ngừa rủi ro vẫn chưa thực sự đạt hiệu quả. Ø Nguyên nhân thứ hai là do sự bố trí các cán bộ tín dụng thiếu đạo đức nhưng giỏi về trình độ chuyên môn nghiệp vụ. Đạo đức cán bộ là một trong những yếu tố rất quan trọng trong việc hạn chế rủi ro tín dụng. Trong thời gian vừa qua đã xảy ra một số vụ án kinh tế lớn đều có sự tiếp tay của các cán bộ ngân hàng cùng với khách hàng vay lập hồ sơ giả vay, hoặc nâng giá tài sản thế chấp, cầm cố lên cao so với thực tế để rút tiền của ngân hàng. Như vậy, đạo đức của các cán bộ tín dụng rất quan trọng vì họ là những người trực tiếp tiếp xúc với khách hàng và tư vấn cho khách hàng về các thủ tục cần thiết. Do vậy, một cán bộ có đạo đức tốt nhưng kém về năng lực có thể bồi dưỡng thêm, nhưng một cán bộ tha hóa về đạo đức mà lại giỏi nghiệp vụ thì thật nguy hiểm khi được bố trí vào công tác tín dụng. Ø Nguyên nhân thứ ba là do ngân hàng thiếu sự giám sát và quản lý sau khi cho vay. Việc theo dõi nợ vay là một trong những trách nhiệm quan trọng nhất của cán bộ tín dụng nói riêng và của ngân hàng nói chung. Hiện nay, các ngân hàng thường tập trung nhiều công sức cho việc thẩm định trước khi cho vay mà lơi lỏng quá trình kiểm tra, giám sát đồng vốn sau khi cho vay. Công việc theo dõi hoạt động của khách hàng vay nhằm tuân thủ các điều khoản đề ra trong hợp đồng tín dụng giữa khách hàng và ngân hàng, đồng thời tìm ra những cơ hội mới để phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng Trên thực tế, trong thời gian qua các ngân hàng chưa thực hiện tốt công tác này là do yếu tố tâm lý ngại gây phiền hà cho khách hàng vay, thêm nữa là do hệ thống thông tin quản lý phục vụ kinh doanh tại các doanh nghiệp quá lạc hậu, không cung cấp được kịp thời và đầy đủ các thông tin mà NHTM yêu cầu. Ø Nguyên nhân thứ tư là do sự hợp tác giữa các NHTM quá lỏng lẻo, vai trò của trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng CIC chưa thực sự hiệu quả. Thực chất kinh doanh ngân hàng là một nghề đặc biệt huy động vốn để cho vay, do vậy vấn đề rủi ro trong hoạt động tín dụng là không thể tránh khỏi. Các ngân hàng cần phải hợp tác chặt chẽ với nhau nhằm hạn chế rủi ro từ phía khách hàng khi khách hàng này vay tiền tại nhiều ngân hàng cùng một lúc. Khả năng trả nợ của mỗi khách hàng là một con số cụ thể, có giới hạn tối đa của nó. Nếu do sự thiếu trao đổi thông tin mà dẫn đến việc nhiều ngân hàng cùng cho một khách hàng vay đến mức vượt quá giới hạn tối đa này thì rủi ro chia đều cho tất cả chứ không chừa một ngân hàng nào. Hiện nay, sự cạnh tranh giữa các NHTM diễn ra rất gay gắt, vì vậy vai trò của CIC là rất quan trọng trong việc cung cấp thông tin kịp thời, chính xác cho các ngân hàng để họ có thể đưa ra quyết định cho vay hợp lý, đúng đắn. Tuy nhiên việc này vẫn rất khó khăn vì ngân hàng dữ liệu của CIC chưa đầy đủ thông tin và còn quá đơn điệu, chưa được cập nhật và xử lý kịp thời. 1.2.6. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng đối với ngân hàng : 1.2.6.1. Những giai doạn trong quy trình cấp tín dụng có thể xảy ra rủi ro: Trên thực tế, RRTD có thể xảy ra ở tất cả các giai đoạn trong quy trình cấp tín dụng, cụ thể là: - Đơn đề nghị vay vốn: Dễ xảy ra rủi ro ngay từ bước đầu này nếu đơn đề nghị của khách hàng vay vốn không đầy đủ, không hợp lệ mà lại được xét duyệt. - Xét duyệt cho vay: Trong quá trình xét duyệt không phát hiện ra được các vấn đề không tốt để đảm bảo “khách hàng vay được tin cậy” và “khoản vay tốt”. Đây là giai đoạn quan trọng nhất. - Quản lý khoản vay: Giai đoạn này xảy ra rủi ro nguyên nhân chủ yếu do trình độ và đạo đức của cán bộ ngân hàng. Có thể họ không thực hiện nhiệm vụ giám sát khoản vay, hoặc có giám sát nhưng không phát hiện “vấn đề” hoặc có phát hiện “vấn đề” nhưng không phản ứng kịp thời. - Giải ngân: Giai đoạn này xảy ra rủi ro là do ngân hàng thực hiện quá trình giải ngân khi không đầy đủ hồ sơ hoặc không theo lịch, không đúng mức tiền được rút từng lần. - Thu lãi, thu nợ: Rủi ro xảy ra ở giai đoạn này là do cán bộ ngân hàng không phát hiện việc trả lãi, trả nợ chậm trễ hoặc không đủ theo kỳ hạn đã cam kết từ phía khách hàng vay. 1.2.6.2. Quản lý rủi ro tín dụng – Theo Basel I: Theo BASEL I - Ủy ban về giám sát nghiệp vụ ngân hàng, thì quản lý rủi ro tín dụng dựa trên bốn chuẩn mực sau: Chuẩn mực 7: Tiêu chuẩn cấp tín dụng và quy trình giám sát tín dụng. Một phần công việc thiết yếu của hệ thống thanh tra là đánh giá chính sách, thông lệ và quy trình liên quan đến việc cấp tín dụng, thực hiện đầu tư cũng như công tác quản lý tín dụng và danh mục đầu tư hiện tại. Chức năng tín dụng và đầu tư ở các ngân hàng là khách quan và dựa trên các nguyên tắc lành mạnh. Duy trì chính sách cho vay, mục đích vay và thủ tục cho vay thận trọng với các văn bản cho vay hợp lý là cần thiết đối với quản lý chức năng cho vay của ngân hàng. Ngân hàng cần phải có một quá trình giám sát quan hệ tín dụng hiện tại của khách hàng. Cơ sở dữ liệu là nhân tố quan trọng của hệ thống thông tin quản lý, cần phải được chi tiết danh mục cho vay. Chuẩn mực 8: Đánh giá chất lượng tài sản và dự phòng rủi ro mất vốn tín dụng. Ngân hàng phải thiết lập và duy trì các chính sách, thói quen và thủ tục phù hợp với việc đánh giá chất lượng tài sản, dự phòng rủi ro mất vốn tín dụng. Ngân hàng phải xây dựng một quy trình quan sát các khoản nợ có vấn đề và chọn lọc các món nợ quá hạn. Khi thực hiện bảo lãnh hoặc nhận vật thế chấp, ngân hàng phải có phương pháp đánh giá uy tín của người bảo lãnh và định giá vật thế chấp. Khi có các khoản nợ có vấn đề thì ngân hàng tăng cường hoạt động cho vay trên cơ sở đảm bảo cấp tín dụng và sức mạnh tài chính tổng thể. Chuẩn mực 9: Sự tập trung rủi ro và các rủi ro lớn. Ngân hàng phải có hệ thống thông tin quản lý cho phép xác định những điểm đáng chú ý trong danh mục đầu tư và phải thiết lập giới hạn an toàn để hạn chế xu hướng ngân hàng tập trung vào các khách hàng đơn lẻ hoặc các nhóm khách hàng có quan hệ. Chuẩn mực 10: Cho vay khách hàng có mối quan hệ. Để ngăn ngừa sự lạm dụng phát sinh từ việc cho vay khách hàng có mối quan hệ, quan hệ vay vốn phải dựa trên nguyên tắc “trong tầm kiểm soát”, như vậy, việc mở rộng tín dụng được giám sát một cách có hiệu quả, kiểm soát và giảm thiểu rủi ro. Giao dịch cho vay khách hàng có mối quan hệ thường gây ra những rủi ro đặc biệt cho ngân hàng, vì thế nên có sự chấp thuận của Hội đồng quản trị. 1.2.6.3. Nội dung quản trị rủi ro tín dụng: Ø Quá trình phê duyệt tín dụng: - Thiết lập một chính sách về hạn mức tín dụng tổng hợp cho các khách hàng có liên quan, đó là việc duy trì thông tin về khách hàng có liên quan trong hệ thống thông tin khách hàng. - Thiết kế lại hệ thống xếp hạng khách hàng gồm các loại khách hàng khác nhau như doanh nghiệp, cá nhân và các tổ chức hành chính. - Thường xuyên theo dõi và xem xét các hoạt động thực tế của khách hàng và tính hợp lý của tín dụng đã cấp hoặc hạn mức tín dụng đầy đủ trước khi đáo nợ hoặc gia hạn một khoản vay. - Thường xuyên so sánh điểm xếp hạng với các tần số vỡ nợ để xác định tính đúng đắn của hệ thống xếp hạng. Ø Giám sát và kiểm tra tín dụng: - Thiết lập phương pháp phân loại và lập dự phòng nợ khó đòi thỏa mãn các yêu cầu nhưng có tính đến chất lượng các khoản vay cũng như thời gian quá hạn. - Đưa ra các thủ tục và chính sách bằng văn bản về giám sát tín dụng bao gồm báo cáo việc đến thăm khách hàng, xem xét đánh giá tín dụng, phân tích các báo cáo tài chính của khách hàng và điều chỉnh việc phân loại khoản vay. - Đảm bảo rằng các cán bộ cấp cao thường xuyên xem xét đánh giá tín dụng và đưa ra các chính sách, thủ tục điều chỉnh hạn mức tín dụng cho khách hàng. - Phân tách hoàn toàn chức năng tín dụng và kế toán ở cấp chi nhánh. Ø Giám sát rủi ro tín dụng: - Thiết lập một hệ thống thông tin quản lý cho phép việc báo cáo thường xuyên, đầy đủ danh mục các khoản vay ở các cấp khác nhau của ngân hàng để có thể dễ dàng phát hiện các rủi ro tiềm tàng và xu hướng hoạt động của các khoản vay. - Phát triển hệ thống tính toán RRTD và sử dụng chúng để đặt ra giới hạn rủi ro cho các lĩnh vực khác nhau của danh mục cho vay, có tính đến mức rủi ro chung có thể chấp nhận được và mục tiêu lợi nhuận. 1.3. Khái quát về doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế: 1.3.1. Khái niệm DNVVN: Ngày nay, ở hầu hết các quốc gia trên thế giới, kể cả các nước phát triển đều thấy rõ vai trò và vị trí của các DNVVN trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội của mình. Tuy nhiên, chưa có một khái niệm thống nhất cho các nước để xác định DNVVN. Một doanh nghiệp được xem là vừa và nhỏ ở một quốc gia này lại có thể xem là doanh nghiệp lớn hoặc quá nhỏ ở một quốc gia khác. Thậm chí, trong bản thân mỗi quốc gia, tùy vào mục đích mà người ta có thể sử dụng các tiêu chí khác nhau để phân loại doanh nghiệp. Điều này đã và đang gây khó khăn trong hoạch định và triển khai các chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, chiến lược khuyến khích và hỗ trợ các DNVVN. Tuy nhiên, DNVVN là một phạm trù không chỉ phản ánh quy mô của doanh nghiệp mà còn bao hàm cả nội dung tổng thể về kinh tế, tổ chức sản xuất, tổ chức quản lý, tiến bộ khoa học công nghệ, lĩnh vực, ngành nghề hoạt động. Theo số liệu thống kê của một viện nghiên cứu ở Mỹ, hiện nay trên thế giới có trên 40 định nghĩa khác nhau về DNVVN. Sau đây là một số định nghĩa đặc trưng: Nhật Bản - đại diện cho các nước phát triển định nghĩa: DNVVN là doanh nghiệp có từ 300 công nhân trở xuống và vốn dưới 10 triệu Yên đối với các ngành chế biến khoáng sản, công nghiệp xây dựng, giao thông, chế tạo; có từ 100 công nhân trở xuống và vốn dưới 30 triệu Yên đối với các ngành kinh doanh buôn bán; có từ 50 công nhân trở xuống và vốn dưới 10 triệu Yên đối với ngành kinh doanh dịch vụ bán lẻ. Doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có từ 20 công nhân trở xuống đối với các ngành chế biến và từ 5 công nhân trở xuống đối với ngành dịch vụ thương mại. Thái Lan - đại diện cho nhóm các nước NICs Châu Á, định nghĩa: doanh nghiệp nhỏ là doanh nghiệp có từ 50 công nhân trở xuống, doanh nghiệp vừa là doanh nghiệp có từ 50 đến 200 công nhân. Việt Nam – theo nghị định 90/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 23/11/2001 về “Trợ giúp các doanh nghiệp vừa và nhỏ” thì các DNVVN được hiểu là: “DNVVN là cơ sở sản xuất kinh doanh độc lập, đã đăng ký kinh doanh theo pháp luật hiện hành, có vốn đăng ký kinh doanh không quá 10 tỷ hoặc số lao động trung bình hàng năm không quá 300 người”. 1.3.2. Đặc điểm của DNVVN: Là một doanh nghiệp với quy mô nhỏ và vừa nên bên cạnh những đặc điểm cơ bản của một doanh nghiệp thông thường, DNVVN còn một số đặc điểm sau: Ø Đây là loại hình doanh nghiệp có thể được tạo lập dễ dàng. Để thành lập loại hình doanh nghiệp này chỉ cần một số vốn đầu tư ban đầu tương đối ít, với một mặt bằng sản xuất hàng hóa nhỏ, quy mô nhà xưởng không lớn nên doanh nghiệp có thể giảm được chi phí cố định, tận dụng được lao động thay thế cho vốn với giá công lao động thấp, hơn nữa khả năng thu hồi vốn của loại hình doanh nghiệp này khá nhanh, tăng tốc độ vòng quay vốn để đầu tư vào các công nghệ tiên tiến hơn, hiện đại hơn, bước đầu đã mang lại hiệu quả kinh tế cho cả doanh nghiệp lẫn ngân hàng. Ø Mô hình quản lý gọn nhẹ, có mối quan hệ nội bộ dễ điều chỉnh. Các DNVVN có tính linh hoạt cao, có khả năng quan tâm trực tiếp tới thị trường và người tiêu thụ nên dễ dàng tìm kiếm và đáp ứng các nhu cầu, thị hiếu trong thị trường chuyên môn hóa. Đồng thời, mô hình quản lý gọn nhẹ, ít trung gian đầu mối thì sẽ giúp doanh nghiệp tiết kiệm thời gian, chi phí, tận dụng được các cơ hội kinh doanh. Mặt khác, khi gặp những biến cố của môi trường kinh doanh, loại hình doanh nghiệp này dễ xoay chuyển bằng cách chuyển đổi hoặc thu hẹp quy mô sản xuất của mình vì vậy mà tổn thất giảm đi rất nhiều. Ø DNVVN hoạt động đa dạng, phong phú trong mọi lĩnh vực, mọi thành phần kinh tế. Không chỉ thuận lợi trong việc tạo lập và dễ thích nghi mà DNVVN còn có thể phát triển rộng khắp các vùng của đất nước, tham gia vào nhiều ngành, nhiều nghề, nhiều lĩnh vực và tồn tại như một bộ phận không thể thiếu được của nền kinh tế, tạo ra những sản phẩm phù hợp với những nhu cầu ở những vùng mang tính chất nội bộ, cần số lượng sản phẩm ít. Ø Năng lực tài chính của DNVVN rất hạn chế. Trước hết là do nguồn vốn tự có thấp dẫn đến khả năng vay vốn ngân hàng cũng như huy động vốn trên thị trường bị hạn chế, những khoản tiền dự định vay của DNVVN thường gặp khó khăn vì thiếu tài sản thế chấp. Bên cạnh đó, khả năng tích lũy vốn của DNVVN cũng thấp nên nguồn vốn bổ sung cho sản xuất kinh doanh bị giới hạn, khiến cho khả năng thu lợi nhuận không đạt tối đa ngay cả khi có cơ hội để kinh doanh. Ø Khả năng cạnh tranh tiếp cận thị trường còn yếu kém. Bên cạnh khó khăn về máy móc, trang thiết bị, doanh nghiệp còn bị bất lợi trong việc tiêu thụ sản phẩm và khả năng thu hút các nhà quản lý tài năng. Do nguồn tài chính hạn hẹp, các DNVVN khó có khả năng thực hiện một chiến lược Marketing đầy đủ nên khả năng tiếp cận thị trường của DNVVN còn hạn chế, đây là yếu tố tiềm ẩn gây nhiều rủi ro cho ngân hàng khi cho vay. Ø Tính ổn định trong sản xuất kinh doanh không cao. DNVVN không thuộc diện kinh doanh những mặt hàng mang tính chất độc quyền nên tính ổn định trong sản xuất kinh doanh là không cao. Hầu hết các DNVVN không có định hướng lâu dài trong kinh doanh mà thường xuyên thay đổi ngành nghề, cơ cấu mặt hàng, đa dạng về chủng loại hàng hóa dịch vụ nhưng không lớn về số lượng. 1.3.3. Vai trò của DNVVN trong nền kinh tế: Ngày nay, DNVVN ngày càng được coi trọng không chỉ ở những quốc gia có nền kinh tế đang phát triển mà ngay cả các nước có nền kinh tế phát triển bậc nhất như Nhật Bản, Đức… cũng rất quan tâm đến vấn đề phát triển DNVVN. Tại các nước Châu Á, DNVVN có vai trò tích cực trong việc chống đỡ các tiêu cực của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ, góp phần đáng kể vào ổn định kinh doanh trong vùng, từng bước khôi phục lại nền kinh tế trong vùng. Tại các nước chậm phát triển, các DNVVN đóng vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo, tạo công ăn việc làm cho người dân, và giải quyết các vấn đề xã hội khác. Ở Việt Nam, trong một thời gian dài trước đây chúng ta chỉ chú trọng đến việc phát triển đa dạng các thành phần kinh tế mũi nhọn, chưa chú trọng đến việc phát triển đa dạng các thành phần kinh tế nên các DNVVN chưa có điều kiện để phát triển. Đến nay, với đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà Nước đã thực sự tạo dựng một hành lang pháp lý cho các thành phần kinh tế phát triển, trong đó có các DNVVN. Đất nước ta chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh, xuất phát điểm từ một nền kinh tế rất thấp nên việc phát triển các DNVVN là phù hợp nhất để tích lũy vốn cho quá trình công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước. Vai trò của các DNVVN được thể hiện ở một số khía cạnh sau đây: Ø DNVVN đóng góp cho nền kinh tế một khối lượng lớn hàng hóa và dịch vụ, chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc nội, góp phần tăng trưởng nền kinh tế quốc gia. Sự phát triển đa dạng về ngành nghề, quy mô, hình thức tổ chức kinh doanh của các DNVVN đã góp phần to lớn trong việc bù đắp những thiếu hụt của khu vực kinh tế quốc doanh, tạo điều kiện thu hút nguồn vốn nước ngoài, cải thiện cán cân thanh toán, tăng thu ngân sách. Đặc biệt, nó đã khơi dậy tiềm năng sáng tạo của nhân dân trong việc phát triển sản xuất nhằm tạo ra sức mạnh cho nền kinh tế, tăng thu nhập và cải thiện mức sống của dân cư. Các DNVVN đóng góp rất lớn vào sự gia tăng thu nhập quốc dân do có điều kiện khai thác các tiềm năng phong phú trong dân cư đặc biệt là các làng nghề truyền thống bình quân khoảng trên dưới 50% GDP của mỗi nước. Ở Việt Nam, các DNVVN đóng góp khoảng 34 - 35% GDP. Ø DNVVN tạo sự cạnh tranh lành mạnh, là động lực để phát triển nền kinh tế. Trong nền kinh tế thị trường hiện nay thì tự do cạnh tranh là con đường tốt nhất để phát huy tiềm lực. Trong mỗi quốc gia, các doanh nghiệp lớn thường cần những thị trường lớn, đòi hỏi phải có sự bảo hộ của Chính phủ và phải có sự độc quyền. Còn các DNVVN thì tình trạng độc quyền không xảy ra, họ sẵn sàng chấp nhận tự do cạnh tranh. So với các doanh nghiệp lớn thì các DNVVN có tính tự chủ cao độ, họ sẵn sàng khai thác các cơ hội trong kinh doanh để phát triển mà không ngại rủi ro. Loại hình DNVVN có điều kiện thuận lợi trong việc tập trung vốn tiếp nhận đầu tư nước ngoài để hình thành các doanh nghiệp lớn cho các ngành then chốt. Sự phát triển của các ngành có hàm lượng kỹ thuật cao không chỉ cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ cạnh tranh dễ dàng mà còn cho phép chúng chiếm ưu thế trong một số ngành sản xuất. Ø DNVVN góp phần quan trọng trong việc tạo lập sự phát triển cân bằng và chuyển dịch cơ cấu theo vùng, lãnh thổ, sử dụng hiệu quả các nguồn lực tại chỗ. Tại nhiều quốc gia trên thế giới, tính phổ biến của các doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ rất có lợi trong việc tuyển dụng công nhân tại địa phương, tận dụng nguồn tài nguyên và tư liệu sản xuất sẵn có tại địa phương đó. Lợi nhuận của DNVVN góp phần tái sản xuất đầu tư cho địa phương, do đó hiệu quả kinh tế của các DNVVN cũng chính là hiệu quả về ổn định và phát triển kinh tế ở địa phương. Cho đến nay, quy trình đô thị hóa và việc phân bố đồng đều các khu vực dân cư, các khu vực kinh tế ở các nước ASEAN và NICs phát triển rất nhanh theo đà tăng trưởng của nền kinh tế. Sự phát triển nhanh chóng và phân bố rộng rãi khắp các vùng miền của DNVVN đã có vai trò to lớn trong việc phát triển công bằng giữa thành thị và nông thôn. Ø DNVVN góp phần quan trọng trong việc thu hút vốn đầu tư trong dân cư và sử dụng tối đa nguồn vốn địa phương. Các DNVVN có khả năng khai thác phát huy các nguồn lực và tiềm năng tại chỗ của các địa phương, các nguồn tài chính trong dân. Với quy mô nhỏ bé, các DNVVN có thể thành lập ngay tại địa phương tận dụng được những lợi thế sẵn có, giảm chi phí sản xuất. Hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNVVN thu hút được khá nhiều nguồn vốn trong dân, tăng tích lũy nội bộ cho nền kinh tế. Ø DNVVN góp phần tăng nguồn hàng xuất khẩu và tăng nguồn vốn cho ngân sách Nhà Nước. Ngày nay, mối quan hệ giao lưu hợp tác kinh tế, văn hóa giữa các nước ngày càng phát triển rộng rãi, điều đó đã làm cho các sản phẩm truyền thống trở thành một nguồn xuất khẩu rất quan trọng. Do đó, việc phát triển DNVVN đã tạo khả năng thúc đẩy, khai thác tiềm năng của các ngành nghề truyền thống ở các địa phương nhằm góp phần vào sự phát triển chung của nền kinh tế. Bên cạnh đó, cùng với sự phát triển của sản xuất kinh doanh là sự gia tăng khả năng cung ứng các sản phẩm dịch vụ cho xã hội. Trong những năm qua, do có sự quan tâm, tạo điều kiện của Chính Phủ đã khuyến khích tính sáng tạo của các thành phần kinh tế cùng phát triển. Mặc dù giá trị đóng góp vào ngân sách Nhà Nước của các DNVVN không lớn nhưng điều đó đã dần khẳng định vai trò của các DNVVN trong sự phát triển chung của toàn xã hội. Ø DNVVN tạo điều kiện thu hút lao động, giải quyết công ăn việc làm, góp phần giảm tỷ lệ thất nghiệp trong xã hội và phân phối thu nhập trong nước. DNVVN tham gia giải quyết một số lượng lớn công ăn việc làm, nâng cao mức thu nhập cho người dân, góp phần xóa đói giảm nghèo. Mặc dù số lượng các DNVVN không nhiều nhưng chiếm tỷ lệ cao trong tổng số các doanh nghiệp nên thu hút được số lượng lớn lao động của toàn xã hội. Các DNVVN đem lại cơ hội việc làm cho những người thất nghiệp, những người sống ở nông thôn, cũng như lao động từ các doanh nghiệp Nhà Nước giải thể, cổ phần hóa. Ø DNVVN hỗ trợ đắc lực cho doanh nghiệp lớn, là cơ sở để hình thành những doanh nghiệp, những tập đoàn kinh tế lớn mạnh trong quá trình phát triển kinh tế thị trường. Sự xuất hiện của các DNVVN đã tập trung vào “thị trường ngách” đã hỗ trợ cho các doanh nghiệp lớn trong việc tiếp cận thị trường, cân đối cung cầu và lưu thông hàng hóa cho xã hội. Mặt khác, các DNVVN là doanh nghiệp vệ tinh, cung cấp đầu vào cho các doanh nghiệp lớn và đóng vai trò mạng lưới cung cấp, phân phối sản phẩm, nhằm giảm những tác động tiêu cực của sự biến động của thị trường đến các doanh nghiệp lớn. Sự phát triển các DNVVN hạn chế làm sự độc quyền của các tập đoàn lớn duy trì sự cạnh tranh lành mạnh trong nền kinh tế. Ø DNVVN phát triển tạo ra thị trường rộng lớn cho hoạt động của các ngân hàng góp phần ổn định, lưu thông tiền tệ. Trong xu thế hội nhập và mở cửa thị trường của các nước trên thế giới, sự phát triển nhanh cả về số lượng và chất lượng của các DNVVN như một tất yếu khách quan. Hiện nay, đa số các DNVVN là các công ty tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, đa số đều mở tài khoản tiền gửi tại các hệ thống NHTM để thuận tiện trong quá trình thanh toán. Như vậy, sự phát triển sản xuất, củng cố lưu thông tiền tệ nhằm ổn định sức mua của đồng tiền là điều kiện tiên quyết để thu hút lượng tiền nhàn rỗi vào ngân hàng, là cơ sở để kiềm chế lạm phát. Khi DNVVN phát triển sẽ khiến cho mối quan hệ giữa cung cầu hàng hóa - dịch vụ ổn định, góp phần ổn định tiền tệ quốc gia. Ø DNVVN góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa - hiện đại hóa, đảm bảo sự năng động cho nền kinh tế. Với quy mô nhỏ, lượng vốn đầu tư không lớn giúp cho các DNVVN thích ứng nhanh chóng với thị trường, dễ dàng chuyển hướng trong kinh doanh, sản xuất kinh doanh những mặt hàng mà thị trường cần và có để đem lại nhiều lợi nhuận cho bản thân doanh nghiệp và cho sự phát triển của nền kinh tế. Việc phát triển các DNVVN tạo ra sự chuyển biến quan trọng trong cơ cấu kinh tế, từ một nền nông nghiệp sản xuất nhỏ đi lên cơ khí hóa, công nghiệp hóa với trình độ cao. Ø DNVVN góp phần dân chủ hóa nền kinh tế. Các DNVVN chiếm tỷ trọng lớn và đóng vai trò quan trọng trong việc tập trung lực lượng kinh tế, lực lượng lao động. Sự phát triển không ngừng của các DNVVN góp phần phân phối theo chiều hướng tương đối công bằng, mặt khác huy động được nguồn lực lao động lớn trong xã hội vào hoạt động sản xuất theo quy trình phân công lao động xã hội. Hiện nay, ở Việt Nam số lượng các DNVVN chiếm 95% trên tổng số các doanh nghiệp, vì thế tốc độ tăng trưởng và phát triển của các DNVVN quyết định mức tăng trưởng GDP của đất nước. Sự nghiệp công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế có thành công được hay không phụ thuộc rất nhiều vào các DNVVN. Chương II PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG QUẢN TRỊ RRTD TRONG HOẠT ĐỘNG CHO VAY CỦA CHI NHÁNH NHĐT&PT HÀ THÀNH ĐỐI VỚI CÁC DNVVN TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI QUA 3 NĂM 2005-2007 2.1 Khái quát về NHĐT&PTVN và chi nhánh Hà Thành : 2.1.1. Khái quát về NHĐT&PTVN : Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam có tên tiếng Anh là: Bank for Investment and Development of VietNam; tên viết tắt là BIDV; tên giao dịch quốc tế là Vietinde; có trụ sở chính tại Tháp 2, tòa nhà Vincom, 191 Bà Triệu. NHĐT&PTVN được thành lập và phát triển theo từng giai đoạn sau đây: - Thời kỳ từ năm 1957-1980: Ngày 26/04/1957, Ngân hàng Kiến Thiết Việt Nam (trực thuộc Bộ Tài Chính) - tiền thân của NHĐT&PTVN - được thành lập theo quyết định 177/TTG ngày 26/04/1957 của Thủ tướng Chính Phủ. Quy mô ban đầu gồm 8 chi nhánh, 200 cán bộ. Nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng Kiến Thiết là thực hiện cấp phát, quản lý vốn kiến thiết cơ bản từ nguồn vốn ngân sách cho tất cả lĩnh vực kinh tế, xã hội. - Thời kỳ 1981-1989: Ngày 24/06/1981, Ngân hàng Kiến Thiết Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam trực thuộc Ngân hàng Nhà Nước Việt Nam theo quyết định số 259-CP của Hội đồng Chính Phủ. Nhiệm vụ chủ yếu của Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng cấp phát, cho vay và quản lý vốn đầu tư xây dựng cơ bản tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế thuộc kế hoạch Nhà Nước. - Thời kỳ 1990 đến nay: Ÿ Thời kỳ từ 1990-1994: Ngày 14/11/1990, Ngân hàng Đầu tư và Xây dựng Việt Nam được đổi tên thành Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam theo quyết định số 401-CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng. Đây là thời kỳ thực hiện đường lối đổi mới của Đảng và Nhà Nước, chuyển đổi từ cơ chế tập trung bao cấp sang cơ chế thị trường có sự quản lý Nhà Nước. Do vậy, nhiệm vụ của BIDV được thay đổi cơ bản: Tiếp tục nhận vốn ngân sách để cho vay các dự án thuộc chỉ tiêu kế hoạch Nhà Nước; Huy động các nguồn vốn trung dài hạn để cho vay đầu tư phát triển; Kinh doanh tiền tệ tín dụng và dịch vụ ngân hàng chủ yếu trong lĩnh vực xây lắp phục vụ đầu tư phát triển. Ÿ Từ 1/1/1995: Đây là mốc đánh dấu sự chuyển đổi cơ bản của BIDV: Được phép kinh doanh đa năng tổng hợp như một ngân hàng thương mại, phục vụ chủ yếu cho đầu tư phát triển của đất nước. Ÿ Thời kỳ 1996 đến nay: Được ghi nhận là thời kỳ “chuyển mình, đổi mới, lớn lên cùng đất nước”, chuẩn bị nền móng vững chắc và tạo đà cho sự “cất cánh” của BIDV. NHĐT&PTVN là một trong bốn NHTM Nhà Nước lớn nhất ở Việt Nam được hình thành sớm nhất và lâu đời nhất, là doanh nghiệp Nhà Nước hạng đặc biệt, được tổ chức hoạt động theo mô hình tổng công ty Nhà Nước. Tính đến ngày 31/12/2007, tổng tài sản của NHĐT&PTVN đạt 204.000 tỷ đồng. Hiện nay, mô hình tổ chức của NHĐT&PTVN gồm 5 khối: Khối Ngân hàng thương mại Quốc doanh, khối công ty, khối các đơn vị sự nghiệp, khối liên doanh, khối đầu tư. Bên cạnh việc hoạt động đầy đủ các chức năng của một NHTM được phép kinh doanh đa năng tổng hợp về tiền tệ, tín dụng, dịch vụ ngân hàng và phi ngân hàng, làm ngân hàng đại lý, phục vụ các dự án từ nguồn vốn, các tổ chức kinh tế, tài chính tiền tệ trong và ngoài nước, NHĐT&PTVN luôn khẳng định là ngân hàng chủ lực phục vụ đầu tư và phát triển, huy động vốn cho vay dài hạn, trung hạn, ngắn._.g gồm các loại thu nợ, lãi ngoại bảng) tỷ VNĐ 207.6 253.27 2 Dư nợ tín dụng cuối kỳ (tính vào chỉ tiêu giới hạn tín dụng) tỷ VNĐ 1,447.8 2,500 3 Tỷ lệ nợ xấu (theo Điều 7 - QĐ 493) % 2.4 2 4 Tỷ trọng dư nợ tín dụng bán lẻ trong tổng dư nợ % 8.7 25 5 Thu dịch vụ ròng tỷ VNĐ 18.2 33.8 6 Doanh thu khai thác phí bảo hiểm tỷ VNĐ 1.2 2.3 II Chỉ tiêu quản lý - Chỉ đạo điều hành 7 Trích DPRR trong năm tỷ VNĐ 78.8 22 Trong đó: Trả nợ nguồn vay quỹ DPRR HSC tỷ VNĐ 54 8 Tỷ lệ giảm dư lãi treo so với cuối năm trước % 5.99 -52 Dư lãi treo cuối kỳ tỷ VNĐ 2.8 9 Tỷ lệ dư nợ trung dài hạn/Tổng dư nợ % 15.5 22 10 Tỷ lệ dư nợ ngoài quốc doanh/Tổng dư nợ % 84.8 85 11 Tỷ lệ dư nợ có tài sản đảm bảo/Tổng dư nợ % 85.8 70 12 Dư nợ tín dụng bình quân tỷ VNĐ 1,203 1,500 13 Định biên lao động Người 170 200 14 Chênh lệch thu chi thực bình quân đầu người tỷ VNĐ 0.88 0.83 (Nguồn: Kế hoạch năm 2008 – Chi nhánh NHĐT&PT Hà Thành) 3.1.3. Kế hoạch năm 2008 của phòng Quản lý tín dụng: - Tiếp tục phối hợp với phòng tín dụng, phòng tài chính kế toán thực hiện phân loại nợ tại chi nhánh theo điều 7 quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của ngân hàng Nhà Nước Việt Nam. - Là đầu mối thực hiện các báo cáo, điện báo tín dụng theo chế độ báo cáo theo quyết định 477, báo cáo định kỳ và các báo cáo đột xuất khác về tình hình hoạt động tín dụng, tình hình nợ quá hạn, nợ xấu của chi nhánh gửi các cơ quan quản lý kịp thời. - Thường xuyên nghiên cứu tình hình nợ xấu của chi nhánh phối hợp với phòng tín dụng để nắm rõ tình hình, báo cáo ban giám đốc, đề xuất các biện pháp xử lý kịp thời. Giám sát, đánh giá chất lượng tín dụng, quản lý các khoản nợ xấu tại chi nhánh, trực tiếp giám sát, đôn đốc đến từng cán bộ tín dụng nhằm tận thu nợ xấu bằng biện pháp thu nợ, hạn chế nợ quá hạn, nợ xấu mới phát sinh, đầu mối đề xuất rủi ro đối với những khách hàng quá hạn đã lâu. - Trong thời gian tới, để phù hợp hơn với tình hình thực tế hoạt động tín dụng của hệ thống, NHĐT&PTVN có dự kiến ban hành mới sửa đổi quyết định 9838/QĐ-PC về phân cấp ủy quyền trong hoạt động tín dụng. Phòng sẽ chủ động trao đổi với Ban pháp chế, nhanh chóng xem xét, nghiên cứu khi quyết định được ban hành để có đề xuất với Ban giám đốc về việc phân cấp ủy quyền trong hoạt động tín dụng của chi nhánh, nhằm mục tiêu tăng trưởng, hiệu quả song vẫn đảm bảo an toàn trong hoạt động tín dụng. - Tăng cường theo dõi giám sát tình hình thực hiện các chỉ tiêu giới hạn tín dụng mà Trung Ương giao cho chi nhánh đảm bảo hoạt động tín dụng tại chi nhánh tuân thủ nghiêm chỉnh các quy định và chỉ tiêu kế hoạch đặt ra. - Thành viên, thư ký cho Hội đồng tín dụng, tham gia ý kiến và lập biên bản họp hội đồng tín dụng, tham gia công tác trong các ban, hội đồng của chi nhánh. - Phối hợp với các đơn vị có liên quan trong chi nhánh giám sát việc thực hiện hạn mức và việc chấp hành chính sách, quy chế, quy trình tín dụng và các quy định, chính sách liên quan đến hoạt động tín dụng. - Phát huy tốt vai trò thành viên Tổ định giá tài sản đảm bảo. 3.2. Giải pháp hoàn thiện quản trị rủi ro tín dụng tại chi nhánh Hà Thành: 3.2.1. Tăng cường công tác quản lý cán bộ và đào tạo, nâng cao chất lưọng cán bộ tín dụng: Công tác quản lý cán bộ là việc tổ chức, sắp xếp người lao động vào những công việc phù hợp với năng lực và sở trường của họ, đồng thời đánh giá việc thực hiện công việc một cách công bằng gắn với hình thức khen thưởng kịp thời, hợp lý nhằm phát huy tối đa năng lực của cán bộ nhân viên. Công tác quản lý cán bộ là một công việc rất khó khăn, phức tạp đòi hỏi người quản lý phải có trình độ và có nghệ thuật quản lý. Tuy nhiên, nếu công việc quản lý thực hiện tốt sẽ mang lại hiệu quả rất cao, người quản lý luôn phải nhớ một điều: “Người lao động làm việc không phải tất cả chỉ vì tiền lương mà còn vì sự yêu thích công việc, vì muốn được khẳng định mình”. Muốn làm tốt công tác quản lý, ngoài trình độ, nghệ thuật, kinh nghiệm quản lý, nhà quản lý phải xây dựng được chương trình đánh giá thực hiện công việc một cách công bằng gắn với chế độ khen thưởng kịp thời và hợp lý nhằm tạo ra sự khách quan trong đánh giá thực hiện công việc của cán bộ nhân viên. Mặt khác, việc phát triển và đào tạo nguồn nhân lực phải luôn được ngân hàng chú trọng và quan tâm hàng đầu. Ngân hàng cần có những chính sách tập huấn, đào tạo cán bộ tín dụng, nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ. Đồng thời sắp xếp vị trí công việc phù hợp với khả năng của cán bộ để họ phát huy tối đa năng lực của mình. Ngoài nghiệp vụ chuyên môn thì yếu tố đạo đức nghề nghiệp cũng ảnh hưởng không nhỏ đến RRTD. Vì vậy, để hạn chế rủi ro có thể xảy ra và không lường trước được thì ngân hàng phải thực hiện các biện pháp gắn trách nhiệm với quyền lợi của cán bộ tín dụng. Bên cạnh đó, có thể kiểm tra đột xuất, bất ngờ để có thể phát hiện ra những hành vi bất thường của cán bộ tín dụng trong công việc, cũng như trong sinh hoạt, giao tiếp với khách hàng. Ngân hàng cũng cần có những chế độ thưởng phạt hợp lý đối với cán bộ ngân hàng nhằm khuyến khích họ nâng cao ý thức trách nhiệm với công việc và răn đe những hành vi sai trái gây tổn thất cho ngân hàng. Công việc quản lý nhân lực và đào tạo cán bộ là công việc đòi hỏi phải làm một cách thường xuyên và lâu dài. Chất lượng và đạo đức của cán bộ ngân hàng là yếu tố tiên quyết trong sự phát triển hoạt động kinh doanh của ngân hàng. 3.2.2. Thực hiện đầy đủ quy trình cấp tín dụng: Để giảm thiểu RRTD, ngân hàng cần phải tuân thủ một cách nghiêm túc các bước trong quy trình cấp tín dụng. Ø Bước 1: Lập hồ sơ đề nghị cấp tín dụng. Đây là bước căn bản đầu tiên và quan trọng của quy trình cấp tín dụng, vì nó là khâu thu thập thông tin làm cơ sở để thực hiện các khâu sau đó. Ngân hàng cần phải yêu cầu khách hàng vay vốn lập và nộp cho ngân hàng các loại giấy tờ sau: Giấy đề nghị vay vốn. Giấy tờ chứng minh tư cách pháp nhân của khách hàng (giấy phép thành lập, quyết định bổ nhiệm giám đốc, điều lệ hoạt động). Phương án sản xuất kinh doanh và kế hoạch trả nợ. Bản báo cáo tài chính của thời kỳ gần nhất. Các giấy tờ có liên quan đến tài sản thế chấp, cầm cố hoặc bảo lãnh nợ vay. Các giấy tờ có liên quan khác tùy thuộc vào từng khách hàng. Từ những giấy tờ đó, ngân hàng cần tổng hợp thành những thông tin sau: Thông tin về năng lực pháp lý và năng lực hành vi của khách hàng, thông tin về khả năng sử dụng và hoàn trả vốn của khách hàng, thông tin về đảm bảo tín dụng. Ø Bước 2: Phân tích tín dụng. Đây là khâu rất quan trọng đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có trình độ và đạo đức tín dụng. Nhiệm vụ trong khâu này là phân tích khả năng hiện tại và tiềm tàng của khách hàng về sử dụng vốn tín dụng, khả năng hoàn trả và khả năng thu hồi vốn vay cả gốc và lãi. Mục tiêu quan trọng trong phân tích tín dụng là tìm kiếm những tình huống có thể dẫn tới rủi ro cho ngân hàng, tiên lượng khả năng kiểm soát các loại rủi ro đó và dự kiến các biện pháp phòng ngừa và hạn chế thiệt hại có thể xảy ra. Ngoài ra, phân tích tín dụng còn quan tâm đến việc kiểm tra tính chân thực của hồ sơ vay vốn mà khách hàng cung cấp, từ đó đánh giá về khả năng trả nợ của khách hàng. ØBước 3: Quyết định và ký hợp đồng tín dụng. Quyết định tín dụng nghĩa là sau khi phân tích tín dụng thì ngân hàng sẽ quyết định đồng ý cho vay hoặc từ chối đối với bộ hồ sơ vay vốn của khách hàng. Đây là khâu quan trọng nhất và cũng khó khăn nhất trong quy trình cấp tín dụng của ngân hàng. Trong khâu này, ngân hàng rất dễ mắc phải hai sai lầm, đó là: Quyết định chấp thuận cho vay đối với khách hàng không tốt. Từ chối cho vay đối với khách hàng tốt. Cả hai loại sai lầm này đều dẫn đến thiệt hại nghiêm trọng cho ngân hàng. Nếu rơi vào sai lầm thứ nhất ngân hàng sẽ thiệt hại do nợ quá hạn hoặc nợ không thể thu hồi, thiệt hại về tài chính. Đối với loại sai lầm thứ hai thì ngân hàng sẽ bị thiệt hại về uy tín và mất cơ hội cho vay đối với khách hàng tiềm năng. Do đó, trong khâu quyết định quan trọng này, nhiệm vụ của các cán bộ và hội đồng tín dụng là rất quan trọng. Thông tin cần thu thập đầy đủ, chính xác và những người ra quyết định phải là những cán bộ có năng lực phân tích và phán quyết, quan trọng hơn hết là phải có tư cách phẩm chất tốt. Ø Bước 4: Giải ngân. Đây là khâu tiếp theo sau khi hợp đồng tín dụng được ký kết. Nguyên tắc giải ngân là luôn luôn gắn liền vận động tiền tệ với vận động hàng hóa hoặc dịch vụ đối ứng nhằm đảm bảo khả năng thu hồi nợ sau này. Tuy nhiên, quá trình này cũng cần phải tuân thủ nguyên tắc đảm bảo thuận lợi tránh gây phiền hà cho khách hàng. Giải ngân là khâu cũng khá quan trọng vì nó góp phần phát hiện và chấn chỉnh kịp thời nếu có sai sót ở các khâu trước. Ø Bước 5: Giám sát tín dụng. Khâu này nhằm mục đích bảo đảm cho tiền vay được sử dụng đúng mục đích mà khách hàng đã cam kết, kiểm soát RRTD, phát hiện và chấn chỉnh kịp thời những sai phạm có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ sau này. Trong quá trình này, chi nhánh phải không ngừng thu thập thêm thông tin về khách hàng để đưa ra những phán quyết kịp thời và đúng đắn. Nếu thấy khách hàng có bất cứ sai phạm hay có dấu hiệu lừa đảo gì thì ngân hàng cần có biện pháp xử lý ngay như: ngừng giải ngân, thu hồi nợ trước, yêu cầu khách hàng bổ sung tài sản thế chấp, giảm số tiền cho vay… Các phương pháp giám sát tín dụng bao gồm: Giám sát hoạt động tài khoản của khách hàng tại ngân hàng. Phân tích các báo cáo tài chính của khách hàng theo định kỳ. Giám sát khách hàng thông qua việc trả lãi định kỳ. Viếng thăm và kiểm soát địa điểm hoạt động sản xuất kinh doanh hoặc nơi cư ngụ của khách hàng đứng tên vay vốn. Kiểm tra các hình thức bảo đảm tiền vay. Giám sát hoạt động khách hàng thông qua mối quan hệ với khách hàng khác. Giám sát khách hàng thông qua những thông tin thu thập khác. Ø Bước 6: Thanh lý hợp đồng tín dụng. Đây là khâu kết thúc của quá trình tín dụng, có thể xảy ra do khách hàng vi phạm hợp đồng hoặc do khoản vay đã hết hạn. Khâu này bao gồm ba công việc cần xử lý: - Thu nợ: Ngân hàng tiến hành thu nợ khách hàng theo đúng những điều khoản đã cam kết trong hợp đồng. Tùy theo tính chất của khoản vay và tình hình tài chính của khách hàng, hai bên có thể lựa chọn một trong những hình thức thu nợ sau: Thu nợ gốc và lãi một lần khi đáo hạn. Thu nợ gốc một lần khi đáo hạn và thu lãi theo định kỳ. Thu nợ gốc và lãi theo nhiều kỳ hạn. - Tái xét hợp đồng tín dụng: Thực chất của công việc này là tiến hành phân tích tín dụng trong điều kiện khoản tín dụng được cấp nhằm mục tiêu đánh giá chất lượng tín dụng, phát hiện rủi ro để có hướng xử lý kịp thời. - Thanh lý hợp đồng tín dụng: Nếu thời hạn của hợp đồng tín dụng đã hết và khách hàng đã hoàn tất các nghĩa vụ trả nợ cả gốc và lãi thì ngân hàng và khách hàng làm thủ tục thanh lý hợp đồng tín dụng, đây là trường hợp tiến hành thanh lý hợp đồng tín dụng mặc nhiên. Trong trường hợp ngân hàng giám sát và phát hiện thấy khách hàng vi phạm những cam kết ghi trong hợp đồng tín dụng nghiêm trọng có thể ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ sau này ngân hàng có thể đề nghị và tiến hành thanh lý hợp đồng tín dụng bắt buộc. 3.2.3. Tăng cường và nâng cao hiệu quả công tác giám sát tín dụng: v Trước hết, thông tin tín dụng là cơ sở rất quan trọng để ngân hàng ra các quyết định cho vay chính xác, là yếu tố đầu tiên mang tính quyết định tới chất lượng tín dụng. Việc nắm bắt kịp thời thông tin cần thiết trên thị trường, về những dự báo và định hướng phát triển của các ngành trong tương lai là một trong những yếu tố quan trọng giúp ngân hàng đầu tư có hiệu quả, từ đó mang lại lợi nhuận cao nhất. Các thông tin tín dụng cần đáp ứng được nhu cầu cập nhật nhanh, chính xác và tiện lợi. Ngân hàng cần phải hoàn thiện chiến lược thông tin nghiên cứu khảo sát thị trường bởi thông tin chính xác là mấu chốt cực kỳ quan trọng trong thời đại bùng nổ thông tin hiện nay. Việc này đòi hỏi ngân hàng phải thiết lập hệ thống thông tin từ khâu tổ chức, vận hành, kiểm soát và đánh giá từng khâu: - Thu thập thông tin qua hồ sơ xin vay, các báo cáo tài chính, thông qua bán hàng, hệ thống thông tin tín dụng CIC…Đồng thời cũng cần thu thập thông tin từ các ngân hàng khác là đối thủ cạnh tranh. - Phân tích và xử lý thông tin: Đòi hỏi các cán bộ tín dụng phải có năng lực để sàng lọc và xử lý thông tin sao cho đạt hiệu quả nhất. - Quyết định lựa chọn nhóm khách hàng mà mình phục vụ trên thị trường và thu thập đầy đủ thông tin về nhóm khách hàng đó. - Chủ động đưa ra những quyết định phù hợp, linh hoạt với những thông tin cập nhật từng ngày. - Đánh giá từ đó rút ra kinh nghiệm, bổ sung thông tin trong quản lý. v Nâng cao hiệu quả giám sát tín dụng: Công tác giám sát tín dụng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc ngăn ngừa và kịp thời phát hiện các sai phạm trong công tác tín dụng để có những biện pháp chấn chỉnh kịp thời. Mặt khác, thông qua nó ngân hàng có điều kiện đánh giá lại một cách liên tục, hiệu quả của các khoản vay, đánh giá khả năng trả nợ và việc tuân thủ các cam kết của khách hàng. Điều này sẽ góp phần hạn chế RRTD cho ngân hàng. Hiện nay, các khoản nợ xấu của ngân hàng hầu hết là do khách hàng cố tình lừa đảo ngân hàng, vì vậy công việc giám sát tín dụng chặt chẽ sẽ giúp ngân hàng ngăn chặn được các ý đồ sử dụng tiền vay không đúng mục đích của khách hàng. Các hoạt động tín dụng ngày càng được chú trọng nhằm phát hiện sớm các dấu hiệu rủi ro cũng như sai sót trong quá trình cho vay để có biện pháp xử lý kịp thời, tránh việc gây ra những hậu quả đáng tiếc xảy ra. 3.2.4. Xử lý các khoản nợ xấu, nợ tồn đọng tại chi nhánh: Hiện nay các ngân hàng có cuộc ganh đua giành thị phần bằng hoạt động mở rộng tín dụng, tuy nhiên hoạt động này cũng tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, và khi rủi ro xảy ra thì ngân hàng phải đối mặt với các khoản nợ quá hạn, nợ xấu. Khi có nợ quá hạn các cán bộ chi nhánh ngân hàng cần tìm hiểu rõ nguyên nhân gây ra khoản nợ quá hạn này, từ đó đề xuất biện pháp khắc phục làm giảm thiểu thiệt hại cho ngân hàng. Nếu xảy ra nợ quá hạn nhưng đối với những khách hàng có thiện chí trả thì ngân hàng nên hỗ trợ khách hàng về thời hạn để khách hàng có thể chi trả hết nợ. Trong quá trình giám sát tín dụng mà ngân hàng phát hiện thấy khách hàng có dấu hiệu lừa đảo hoặc sử dụng vốn sai mục đích thì ngân hàng cần ngừng giải ngân và tìm cách thu hồi vốn ngay lập tức. Đối với các khoản nợ tồn đọng ngân hàng cần tìm biện pháp giải quyết như thu nợ trực tiếp từ khách hàng, từ hoạt động bán và khai thác tài sản đảm bảo; Xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro; Xử lý bằng nguồn tái cấp vốn của Chính Phủ. 3.2.5. Xây dựng các chính sách ưu đãi cụ thể: Chi nhánh nên xây dựng các chính sách ưu đãi cụ thể về lãi suất tiền vay, lãi suất tiền gửi, tỷ giá ngoại tệ và phí đối với các khách hàng thuộc nhóm khách hàng rất tốt và tốt, có hoạt động dịch vụ trọn gói tại ngân hàng. Với các chính sách này chi nhánh sẽ tạo uy tín với những khách hàng quen thuộc, có thể xây dựng mối quan hệ dài lâu với các khách hàng truyền thống này. Mặt khác, chi nhánh cũng sẽ xây dựng được hình ảnh đối với những khách hàng mới và có tiềm năng, khuyến khích họ sử dụng các dịch vụ của ngân hàng. 3.2.6. Xây dựng hệ thống phân loại và xếp hạng khách hàng tự động: Hiện nay, tại chi nhánh cán bộ tín dụng vẫn phải chấm điểm tín dụng và xếp hạng khách hàng bằng tay. Cách làm này có rất nhiều nhược điểm như mất thời gian, dễ sai sót, nhầm lẫn do khối lượng chỉ tiêu lớn và kết quả rất dễ bị chi phối bởi ý kiến chủ quan của cán bộ tín dụng. Vì vậy để giảm thiểu những yếu tố có thể dẫn đến sai sót trong điểm số tín dụng và xếp hạng khách hàng thì ngân hàng cần xây dựng phần mềm chấm điểm và xếp loại. Tuy nhiên, theo từng thời kỳ hệ thống chấm điểm tự động đó phải được điều chỉnh để phù hợp với thay đổi của nền kinh tế thị trường. Ngân hàng cần dự báo trước biến động của thị trường để xếp hạng và đánh giá lại mức độ rủi ro của khách hàng, từ đó ngân hàng sẽ có mức trích lập dự phòng hợp lý. Ngoài ra, ngân hàng nên kiểm tra định kỳ để phân loại khách hàng, loại dần những khách hàng làm ăn không hiệu quả và thu hút những khách hàng tiềm năng để đầu tư. Như vậy, với hệ thống phân loại và xếp hạng khách hàng tự động ngân hàng có thể giảm được thời gian ra quyết định cấp tín dụng, có thể mở rộng được tín dụng mà vẫn đảm bảo hạn chế những rủi ro xảy ra. 3.2.7. Phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro tín dụng: Việc phân loại nợ theo từng nhóm rất quan trọng để ngân hàng có thể trích lập quỹ dự phòng rủi ro một cách hợp lý. Đặc biệt, ngân hàng cần chú ý đến nợ nhóm 5 là nhóm cần trích dự phòng rủi ro 100%. Tỷ lệ trích lập quỹ dự phòng phụ thuộc vào quá trình phân loại nợ của ngân hàng. Phân loại nợ được thực hiện theo hai phương pháp là phương pháp định lượng và phương pháp định tính. Ø Theo điều 6, quyết định 493, phân loại nợ theo phương pháp “định lượng” được chia thành 5 nhóm: Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ trong hạn được đánh giá có khả năng thu hồi đủ gốc và lãi đúng hạn và các khoản nợ có thể phát sinh trong tương lai như các khoản bảo lãnh, cam kết cho vay, chấp nhận thanh toán. Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ quá hạn dưới 90 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ. Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày. Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày, và nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày. Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ quá hạn trên 360 ngày, nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ trên 180 ngày và nợ khoanh chờ Chính phủ xử lý. Ø Theo điều 7, quyết định 493, phân loại nợ theo phương pháp “định tính” cũng phân thành 5 nhóm như “định lượng”, tuy nhiên phương pháp này không nhất thiết căn cứ vào số ngày quá hạn chưa thanh toán nợ mà căn cứ trên hệ thống xếp hạng tín dụng nội bộ và chính sách dự phòng rủi ro của tổ chức tín dụng được NHNN chấp thuận: Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi đúng hạn. Nhóm 2: Nợ cần chú ý, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ gốc và lãi nhưng có dấu hiệu khách hàng suy giảm khả năng trả nợ. Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn, bao gồm nợ được đánh giá là không có khả năng thu hồi gốc và lãi khi đến hạn. Nhóm 4: Nợ nghi ngờ, bao gồm nợ được đánh giá là có khả năng tổn thất cao. Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn, bao gồm nợ được đánh giá là không còn khả năng thu hồi, mất vốn. Cho dù phân loại theo phương pháp nào, tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm nợ như sau: Bảng 2.18: Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng Nhóm nợ Tỷ lệ trích dự phòng rủi ro Nợ nhóm 1 0% Nợ nhóm 2 5% Nợ nhóm 3 20% Nợ nhóm 4 50% Nợ nhóm 5 100% 3.2.8. Thực hiện các hình thức bảo đảm tín dụng: Bảo đảm tín dụng hay còn gọi là bảo đảm tiền vay là việc tổ chức tín dụng áp dụng các biện pháp nhằm phòng ngừa rủi ro, tạo cơ sở kinh tế và pháp lý để thu hồi được các khoản nợ đã vay cho khách hàng vay. Để đảm bảo tiền vay thực sự có hiệu quả đòi hỏi : Giá trị bảo đảm phải lớn hơn nghĩa vụ được bảo đảm. Tài sản dùng làm đảm bảo nợ vay phải có giá trị và có thị trường tiêu thụ. Có đầy đủ cơ sở pháp lý để người cho vay có quyền xử lý tài sản dùng làm bảo đảm tiền vay. Bảo đảm tín dụng có thể được thực hiện bằng nhiều cách bao gồm bảo đảm bằng tài sản thế chấp (như thế chấp bất động sản, thế chấp giá trị quyền sử dụng đất), bảo đảm bằng tài sản cầm cố, bảo đảm bằng tài sản hình thành từ vốn vay, bảo đảm bằng hình thức bảo lãnh của bên thứ 3. Ngay sau khi cấp tín dụng cho khách hàng thì ngân hàng có thể bán bảo hiểm đối với khoản tín dụng đó cho các công ty bảo hiểm, ngân hàng sẽ mất một khoản phí cho công ty bảo hiểm, lợi nhuận sẽ bị giảm bớt nhưng bù lại rủi ro được san sẻ. Ngân hàng sẽ thu một khoản phí bảo hiểm của khách hàng và dùng khoản này để bù đắp rủi ro trong trường hợp khách hàng làm ăn thua lỗ và không có khả năng thanh toán nợ cho ngân hàng. Hình thức này không những có lợi cho ngân hàng mà còn có lợi cho cả khách hàng, vì khi họ làm ăn thua lỗ thì bảo hiểm ngân hàng sẽ bù đắp một phần hay toàn bộ khoản thiệt hại đó tùy thuộc vào mức phí đóng bảo hiểm của khách hàng. Kết luận: Mỗi giải pháp trên đây nếu được ngân hàng thực hiện tốt thì sẽ tạo điều kiện cho ngân hàng quản lý tốt về rủi ro tín dụng của ngân hàng. Tuy nhiên vấn đề đặt ra ở đây là ngân hàng phải làm thế nào để kết hợp hài hòa các giải pháp để xây dựng được một hệ thống quản lý rủi ro tín dụng phù hợp đối với từng thời kỳ, nhằm thúc đẩy sự phát triển của chi nhánh nói riêng và hệ thống ngân hàng nói chung. 3.3. Các điều kiện để thực hiện các giải pháp đề ra: 3.3.1. Đối với Ngân hàng Nhà Nước: Thứ nhất, NHNN cần thiếp lập trung tâm tư vấn định giá tài sản thế chấp. Hiện nay, thị trường bất động sản Việt Nam rất phát triển nhưng chưa có cơ chế một giá, vì thế nếu có trung tâm này hoạt động có thể giúp ngân hàng định giá bất động sản. Tuy giá trung tâm đưa ra có thể có tính pháp lý hoặc chỉ mang tính tham khảo nhưng đó vẫn là nơi để ngân hàng tham khảo khi cần thiết. Thứ hai, cần phát triển các nghiệp vụ về bảo hiểm tỷ giá hối đoái trong cho vay ngoại tệ. Sự biến động của tỷ giá hối đoái có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp có vay vốn bằng ngoại tệ, qua đó ảnh hưởng đến khả năng thu hồi nợ của ngân hàng dẫn đến rủi ro tín dụng tăng cao. Tuy ngân hàng và doanh nghiệp đều có ý thức về loại rủi ro này nhưng việc phòng chống, ngăn ngừa lại phụ thuộc nhiều vào việc phát triển nghiệp vụ bảo hiểm tỷ giá hối đoái. Thứ ba, cần có hệ thống phân tích, đánh giá, chấm điểm và xếp loại doanh nghiệp theo một chuẩn mực nhất định. Từ trước đến nay, việc đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp thường do chính các ngân hàng tự thực hiện và mỗi nơi thực hiện theo một kiểu khác nhau với những tiêu chí đánh giá khác nhau, vì thế sự thiếu thống nhất này dẫn đến sự khác nhau trong cách đánh giá rủi ro đối với mỗi doanh nghiệp, điều này sẽ ảnh hưởng không tốt đến quyết định cho vay của ngân hàng. Nếu có một hệ thống phân tích, xếp loại doanh nghiệp thống nhất sẽ giúp cho các ngân hàng có cùng phương pháp đánh giá rủi ro đối với khách hàng, giúp ngân hàng có cái nhìn chung khi tham gia các dự án đồng tài trợ. Thứ tư, cần nâng cao hơn nữa hoạt động của trung tâm thông tin tín dụng CIC. Hiện nay, trung tâm thông tin tín dụng là nơi cung cấp thông tin tín dụng chính thức cho các ngân hàng hiện nay, vì vậy để trung tâm này trở thành nơi tin cậy, cung cấp thông tin chính xác, đầy đủ và kịp thời cho các ngân hàng nhằm phục vụ công tác phòng ngừa và quản lý RRTD cần nâng cao hơn nữa chất lượng sản phẩm, đảm bảo kịp thời đưa ra những thông tin có ích cho các tổ chức tín dụng. Đồng thời, trung tâm cần có mối quan hệ thường xuyên với các cơ quan thông tin, cơ quan quản lý Nhà Nước, cơ quan pháp luật để làm phong phú thêm hệ thống thông tin hiện tại. Thứ năm, NHNN cần tăng cường công tác quản lý Nhà Nước về hoạt động tín dụng của các NHTM thông qua việc sử dụng hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra và các báo cáo giám sát từ xa để từ đó có thể phát hiện sớm những dấu hiệu, những sai phạm trong quy định về cho vay, giúp ngân hàng có thể ngăn ngừa, xử lý kịp thời, đảm bảo hoạt động tín dụng tăng trưởng bền vững. 3.3.2. Đối với NHĐT&PTVN - Hội sở chính: Thứ nhất, thực hiện công tác giao và điều hành kế hoạch kinh doanh của hệ thống và đối với khối chi nhánh cần khoa học và hợp lý hơn, tránh tình trạng điều hành cục bộ và xử lý phát sinh mang tính sự vụ, cần đảm bảo tính mục tiêu, chủ động kiểm soát được tình hình cũng như quá trình thực hiện các chỉ tiêu. Hai là, BIDV cần xây dựng cơ chế phân cấp, ủy quyền phù hợp để tạo thế chủ động cho chi nhánh, tránh tình trạng Hội sở chính là đơn vị giải quyết sự vụ cho chi nhánh, xây dựng mục tiêu kế hoạch dài hạn cho toàn hệ thống. Ba là, xây dựng cơ chế phối hợp chặt chẽ giữa các ban, phòng tại Hội sở chính với chi nhánh, cung cấp thông tin phục vụ quản trị điều hành, xây dựng mẫu biểu báo cáo thống nhất đối với các chi nhánh. Bốn là, trong lộ trình cổ phần hóa BIDV đang tới gần, NHĐT&PTVN cần tăng cường, tranh thủ cơ hội để đầu tư cơ sở vật chất cho các chi nhánh, tiếp tục quảng bá hình ảnh của BIDV đối với công chúng. Năm là, cần tiếp tục đào tạo và đào tạo lại cán bộ nhằm nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ để đáp ứng yêu cầu công tác ngân hàng trong giai đoạn mới. Đồng thời phải xây dựng chính sách thu hút nhân tài và giữ nguồn lực giỏi gắn bó, cống hiến cho sự phát triển của ngành, phải có chính sách thu nhập thỏa đáng đối với những đối tượng này. 3.3.3. Đối với chi nhánh NHĐT&PT Hà Thành: Thứ nhất, chi nhánh cần phải quán triệt tới người lao động về mục tiêu, định hướng của ngành, thực tế công tác này thực hiện tại các chi nhánh còn chưa đồng bộ. Thứ hai, cần tổ chức tập huấn, triển khai nghiên cứu đến từng cán bộ tác nghiệp thực hiện đúng các quy trình nghiệp vụ cũng như cập nhật văn bản chế độ mới. Cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát chặt chẽ, công tác kiểm tra hậu kiểm, công tác thẩm định, cho vay, đồng thời phải có cơ chế luân chuyển cán bộ, đặc biệt là cán bộ tại các phòng giao dịch, điểm giao dịch và quỹ tiết kiệm. Thứ ba, vì rủi ro trong đạo đức nghề nghiệp trong cơ chế thị trường là rất lớn nên chi nhánh cần thường xuyên giáo dục cán bộ thấy rõ hậu quả sự vi phạm pháp luật cũng như việc không chấp hành các quy trình nghiệp cụ của ngành. Thứ tư, chi nhánh cần tăng cường nguyên tắc phối kết hợp trong hệ thống, đặc biệt là đối với các chi nhánh hoạt động trên cùng địa bàn, các công ty trong hệ thống để giảm hiện tượng gây lãng phí nguồn lực toàn ngành. KẾT LUẬN Trong năm 2007, nền kinh tế nước ta đạt mức tăng trưởng cao nhất trong vòng mười năm qua (8.5%), đây cũng là năm thứ hai liên tiếp Việt Nam giữ vững vị trí thứ ba trong bảng xếp hạng các nước, khu vực có tiềm năng kinh doanh về trung hạn (3 năm), chỉ sau Trung Quốc và Ấn Độ. Trong đó phải kể đến sự đóng góp không nhỏ của khối các ngân hàng thương mại đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đây là thị trường khổng lồ và đầy tiềm năng vì thế ngân hàng phải có sự phân bổ nguồn vốn đúng với nhu cầu của họ. Tuy nhiên hoạt động cho vay đối với các DNVVN tiềm ẩn khá nhiều rủi ro, thực tế đó đòi hỏi hệ thống các NHTM phải có những cải cách mạnh mẽ để nâng cao năng lực quản trị rủi ro tín dụng. Các biện pháp phòng chống rủi ro có thể nằm trong tầm tay của các NHTM nhưng cũng có những biện pháp vượt ngoài khả năng của riêng từng ngân hàng. Trong phạm vi tầm tay của các ngân hàng, RRTD phụ thuộc vào năng lực của bộ phận tín dụng trong việc phát hiện và hạn chế rủi ro từ lúc xem xét quyết định cho vay cũng như trong suốt thời gian vay. Năng lực cấp tín dụng phụ thuộc vào chuyên môn của cán bộ tín dụng, nhân viên của họ và các nguồn lực về nhân sự cũng như về cơ sở vật chất. Vì vậy biện pháp phòng ngừa RRTD sâu sắc nhất vẫn là các biện pháp liên quan đến việc đào tạo, bố trí cán bộ và cơ chế kiểm tra, giám sát hành vi của cán bộ trong quá trình xử lý công việc. Thực hiện tốt các biện pháp này có thể cho rằng con đường quản lý RRTD của ngành ngân hàng đã đi được hơn một nửa. Song, trước sự đổi mới, sự biến đổi liên tục không ngừng của hệ thống luật pháp, kinh tế thì các NHTM Việt Nam nói chung và NHĐT&PTVN nói riêng đang phải đối mặt với không ít khó khăn, trở ngại trong công tác quản lý RRTD. Mặc dù các ngân hàng đã có nhiều biện pháp nhằm nâng cao hoạt động quản trị RRTD nhưng đây vẫn là mối đe dọa tới hoạt động của ngân hàng. Điều này đòi hỏi ngân hàng nói chung và chi nhánh Hà Thành nói riêng phải cố gắng hơn nữa trong việc phòng ngừa và hạn chế rủi ro, giải quyết những vướng mắc còn tồn đọng nhằm phát huy thế mạnh trong hoạt động tín dụng đối với DNVVN, đồng thời nâng cao hình ảnh, uy tín của ngân hàng. Hy vọng những ý kiến mà em nêu ra trong bản chuyên đề tốt nghiệp này sẽ góp phần nhỏ bé trong việc hạn chế RRTD trong hoạt động cho vay đối với các DNVVN của chi nhánh Hà Thành nói riêng và NHĐT&PTVN nói chung. Do còn hạn chế về thời gian nghiên cứu và kiến thức lý luận cũng như kinh nghiệm thực tiễn nên bài viết này không thể tránh khỏi những thiếu sót, vì thế em kính mong thầy cô và quý ngân hàng có những đóng góp để bài viết được hoàn thiện hơn. Một lần nữa, em xin gửi lời cảm ơn chân thành tới thầy giáo PGS.TS Hoàng Minh Đường và các anh chị phòng quản lý tín dụng của chi nhánh NHĐT&PT Hà Thành đã giúp đỡ em hoàn thành chuyên đề tốt nghiệp này. Em xin chân thành cảm ơn! Hà nội, tháng 4 năm 2008 Sinh viên Hoàng Hồng Hạnh MỤC LỤC DANH MỤC BẢNG Bảng 2.1: Tình hình huy động vốn không kỳ hạn và ngắn hạn trong 3 năm 2005-2007 50 Bảng 2.2: Tình hình huy động vốn trung dài hạn của chi nhánh Hà Thành qua 3 năm 2005-2007 51 Bảng 2.3: Tình hình dư nợ tín dụng tại chi nhánh Hà Thành qua 3 năm 2005-2007 52 Bảng 2.4: Tình hình cơ cấu tín dụng tại chi nhánh Hà Thành qua 3 năm 2005-2007 54 Bảng 2.5: Doanh thu từ các hoạt động khác của chi nhánh Hà Thành qua 3 năm 2005-2007 56 Bảng 2.6: Kết quả kinh doanh của chi nhánh giai đoạn 2005-2007 58 Bảng 2.7: Tình hình nợ quá hạn và rủi ro tín dụng tại chi nhánh 2005-2007 59 Bảng 2.8: Dư nợ tín dụng DNVVN theo thành phần kinh tế 61 Bảng 2.9: Dư nợ tín dụng DNVVN theo thời gian 62 Bảng 2.10: Tình hình nợ quá hạn của DNVVN tại chi nhánh Hà Thành 63 Bảng 2.11: Nợ quá hạn DNVVN theo kỳ hạn nợ 64 Bảng 2.12: Tình hình nợ quá hạn DNVVN theo thời gian 66 Bảng 2.13: Tình hình nợ quá hạn DNVVN theo tài sản đảm bảo 67 Bảng 2.14: Xếp hạng tín dụng doanh nghiệp 70 Bảng 2.15: Các yếu tố xem xét khi chấm điểm tín dụng của FICO 71 Bảng 2.16: Bảng chấm điểm tín dụng FICO 72 Bảng 2.17: Kế hoạch kinh doanh năm 2008 của chi nhánh Hà Thành 80 Bảng 2.18: Tỷ lệ trích lập dự phòng rủi ro tín dụng 91 DANH MỤC BIỂU Biểu 2.1: Cơ cấu dư nợ tín dụng tại chi nhánh qua 3 năm 2005-2007 53 Biểu 2.2: Cơ cấu tín dụng của chi nhánh Hà Thành qua 3 năm 2005-2007 55 Biểu 2.3: Cơ cấu dư nợ tín dụng DNVVN theo thành phần kinh tế 61 Biểu 2.4: Cơ cấu dư nợ tín dụng DNVVN theo thời gian 62 Biểu 2.5: Cơ cấu nợ quá hạn của DNVVN theo kỳ hạn nợ 65 ._.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc11490.doc
Tài liệu liên quan